lOMoARcPSD| 45740153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ
BỘ MÔN THẢO LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG
NỀN KINH TẾ TRI THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN SẼ CHUYỂN GIAO CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC.
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Thị Hương
Lớp học phần: 251_HCMI0121_05
Hà nội – 2025
lOMoARcPSD| 45740153
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
STT
Họ và tên
Mã sinh viên
Nhiệm vụ
23
Nguyễn Hoàng Giang
22D108022
Thuyết trình
24
Đặng Thanh Hà
23D107072
2.1
25
Đỗ Thu Hà
23D160169
1.1
26
Lê Ngọc Cẩm Hà
22D121033
Powerpoint
27
Nguyễn Hồng Hạnh
23D160014
2.2.3
28
Nguyễn Thị Hằng
23D160069
2.2.1
29
Đoàn Hữu Minh Hiểu
23D160274
1.2
30
Nguyễn Như Hiếu
23D160173
2.2.2
31
Nguyễn Hoàng Hiệp
23D160015
Kết luận+Word
32
Điêu Chính Hoàng
23D160071
2.3
33
Ngô Huy Hoàng
23D160175
2.2.4
34
Tống Ngọc Hoàng
(Nhóm trưởng)
23D160124
Thuyết Trình +Word + LMD
lOMoARcPSD| 45740153
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Hà Nội , ngày 23 tháng 09 năm 2025
BIÊN BẢN HỌP NHÓM THẢO LUẬN
Địa điểm : 20h tại zoom
Cuộc họp diễn ra với nội dung : Thành viên thảo luận cùng nhau với đề tài “NHẬN
DIỆN PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG NỀN KINH TẾ TRI
THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN SẼ CHUYỂN GIAO
CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC”.
Thành viên nhóm:
STT
Họ và tên
Nhiệm vụ
23
Nguyễn Hoàng Giang
Thuyết trình
24
Đặng Thanh Hà
2.1
25
Đỗ Thu Hà
1.1
26
Lê Ngọc Cẩm Hà
Powerpoint
27
Nguyễn Hồng Hạnh
2.2.3
lOMoARcPSD| 45740153
28
Nguyễn Thị Hằng
2.2.1
29
Đoàn Hữu Minh Hiểu
1.2
30
Nguyễn Như Hiếu
2.2.2
31
Nguyễn Hoàng Hiệp
Kết luận+Word
32
Điêu Chính Hoàng
2.3
33
Ngô Huy Hoàng
2.2.4
34
Tống Ngọc Hoàng
(Nhóm trưởng)
Thuyết Trình +Word +
LMD
Nội dung thảo luận:
- Nhóm trưởng thông báo đề tài thảo luận cho các thành viên trong nhóm
- Cả nhóm cùng xây dựng đề cương chi tiết cho bài thảo luận
- Thực hiện chia nhiệm vụ theo đề cương chi tiết theo chi đạo của nhôm trưởng
- Các thành viên nhận nhiệm vụ và thực hiện theo đúng hạn làm nhiệm vụ
Kết luận:
Các thành viên tham gia đầy đủ, đóng góp ý kiến tích cực, buổi họp thành công, đạt
được mục đích đã đề ra
lOMoARcPSD| 45740153
MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................7
CHƯƠNG 1: GIAI CẤP GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY...............................8
1.1. Giai cấp công nhân hiện nay.............................................................................8
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân hiện nay.......................................................8
1.1.2. Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX...................................8
1.1.3. Những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại (hiện nay)..9
1.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay.. 10
1.2.1. Nội dung kinh tế.........................................................................................11
1.2.2. Nội dung chính trị – xã hội.........................................................................11
1.2.3. Nội dung văn hóa – tư tưởng......................................................................12
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.........12
1.3.1. Nội dung kinh tế.........................................................................................13
1.3.2. Nội dung chính trị - xã hội.........................................................................13
1.3.3. Nội dung văn hoá, tư tưởng........................................................................14
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG
NỀN KINH TẾ TRI THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN SỄ CHUYỂN GIAO CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC..................................15
2.1. Nền kinh tế tri thức..........................................................................................15
2.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức..................................15
2.1.2. Những điểm tương đồng và khác biệt so với kinh tế truyền thống............15
2.1.3. Những tác động của kinh tế tri thức đối với vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân......................................................................................................................16
2.2. Nhận diện và phân tích luận điểm..................................................................17
2.2.1. Nhận diện luận điểm - Cơ sở hình thành luận điểm.................................17
2.2.2 Nội dung và ảnh hưởng luận điểm...........................................................19
2.2.3. Phê phán luận điểm....................................................................................21
2.2.4. Khẳng định vai trò không thể thay thế của giai cấp công nhân và mối
quan hệ với tầng lớp trí thức................................................................................24
2.3. Phương hướng và giải pháp để phát triển giai cấp công nhân và tầng lớp trí
thức trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội.............................................26
2.3.1. Phương hướng............................................................................................27
2.3.2. Giải pháp.....................................................................................................28
KẾT LUẬN................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................31
lOMoARcPSD| 45740153
LỜI CÁM ƠN
Quá trình thực hiện thảo luận nhóm là giai đoạn quan trọng nhất trong việc xây
dựng bài thảo luận mỗi nhóm . Thảo luận nhóm là tiền đề nhằm trang bị cho chúng em
những kỹ năng nghiên cứu, những kiến thức quý báu trước khi lập nghiệp.
Trước hết, chúng em xin chân thành cảm ơn Cô giao Phạm Thị Hương trong bộ
môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học đã tận tình chỉ dạy và trang bị cho chúng em những
kiến thức cần thiết trong suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường, làm nền tảng cho
chúng em . Đó là những góp ý hết sức quý báu không chỉ trong quá trình thực hiện
thảo luận này mà còn là hành trang tiếp bước cho chúng em trong quá trình học tập và
lập nghiệp sau này.
Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến toàn bộ các thanh viên lớp lắng nghe,
những người luôn sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ trong học tập và cuộc sống. Mong rằng,
chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với nhau.
lOMoARcPSD| 45740153
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, nền
kinh tế tri thức đang trthành xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Tri thức, khoa học
và công nghệ ngày càng giữ vai trò quyết định trong sự phát triển lực lượng sản xuất và
năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Chính thế, quan điểm cho rằng trong nền
kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dần được chuyển giao cho tầng
lớp trí thức – lực lượng được xem là trung tâm của sáng tạo và đổi mới. Tuy nhiên, đây
là một nhận định phiến diện sai lệch, bởi nó đã tuyệt đối hóa vai trò của tầng lớp trí
thức, đồng thời hạ thấp và phủ nhận vai trò không thể thay thế của giai cấp công nhân.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân vẫn giai cấp
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, lực lượng lãnh đạo cách mạng
giữ vai trò trung tâm trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội. Thực tiễn phát triển
của nền kinh tế tri thức càng chứng minh rằng, nếu không công nhân trực tiếp biến
tri thức và công nghệ thành sức mạnh sản xuất vật chất, thì trí thức dù sáng tạo đến đâu
cũng không thể hiện thực hóa thành thành tựu kinh tế hội cụ thể. Đồng thời, sự phát
triển của khoa học ng nghệ cũng đặt ra yêu cầu mới đối với giai cấp công nhân: phải
không ngừng trí thức hóa, nâng cao trình độ, kỹ năng bản lĩnh chính trị để tiếp tục
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
vậy, việc nhận diện pphán luận điểm sai lệch về sự “chuyển giao sứ
mệnh lịch sử từ công nhân sang trí thức” không chỉ có ý nghĩa lý luận trong việc bảo vệ
tính khoa học cách mạng của học thuyết Mác Lênin, còn có ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay. Đây cũng sở quan trọng để khẳng định mối quan hgắn bó, bổ sung
hỗ trợ lẫn nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức trong sự nghiệp y dựng
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
CHƯƠNG 1: GIAI CẤP GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY
1.1. Giai cấp công nhân hiện nay
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp công nhân là một tập đoàn
xã hội, hình thành phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại gắn liền với quá
trình sản xuất vật chất hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính hội
hoá ngày càng cao, họ người làm thuê do không liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động để sống bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản
của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định
chế độ bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản
trên toàn thế giới.
lOMoARcPSD| 45740153
1.1.2. Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang lực lượng sản xuất hàng đầu của hội
hiện đại. Họ chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính hội
hoá ngày càng cao. Việt Nam hiện nay, trong các khu công nghiệp lớn như Bắc Ninh,
Thái Nguyên, Bình Dương, hàng trăm nghìn công nhân làm việc trong các nhà máy sản
xuất linh kiện điện tử cho Samsung, Foxconn, Intel… Đây lực lượng trực tiếp vận
hành dây chuyền sản xuất, đóng góp phần lớn giá trị sản phẩm xuất khẩu. Vai trò này rất
giống công nhân thế kỷ XIX Anh trong các xưởng dệt Manchester hay công nhân
luyện thép Đức: họ chính là “chủ thể” vận hành các nhà máy, nhà xưởng trung tâm
của nền sản xuất công nghiệp. Mặc công nghệ, máy móc hiện đại hơn nhiều, nhưng
bản chất “lực lượng sản xuất chủ yếu” vẫn giữ nguyên.
Công nghiệp hoá vẫn là cơ sở khách quan để phát triển giai cấp công nhân về số
lượng chất lượng. Trung Quốc trong ba mươi năm qua thực hiện công nghiệp hóa
mạnh mẽ, tạo ra một tầng lớp công nhân công nghiệp khổng lồ lên đến hàng trăm triệu
người, làm việc trong các lĩnh vực từ sản xuất hàng tiêu dùng, lắp p điện tử cho đến
xây dựng sở hạ tầng. Quá trình này rất giống với châu Âu thế kỷ XIX, khi cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai đã đưa nông dân vào các thành phố, trở thành công
nhân trong các nhà máy dệt, luyện kim. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa thu
hút FDI cũng kéo hàng triệu lao động nông thôn trở thành công nhân trong các khu công
nghiệp – một xu hướng ổn định từ thế kỷ XIX đến nay.
các nước bản hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp sản bóc lột giá trị thặng
dư. Công nhân may mặc ở Bangladesh, Campuchia hay Việt Nam hiện nay thường nhận
mức ơng chỉ vài triệu đồng/tháng, trong khi sản phẩm họ làm ra được bán các thị
trường Mỹ, châu Âu với giá gấp nhiều lần. Điều kiện làm việc còn nhiều hạn chế: làm
tăng ca, áp lực năng suất cao, ít quyền thương lượng. Đây chính là hình thức bóc lột giá
trị thặng của bản điều Marx đã phân tích khi nói về giai cấp công nhân thế
kỷ XIX. Mặc luật lao động công đoàn hiện nay phát triển n, nhưng bản chất
“làm thuê – bị bóc lột” vẫn còn.
Xung đột về lợi ích giữa giai cấp công nhân giai cấp sản vẫn tồn tại
nguyên nhân của đấu tranh giai cấp trong hội hiện nay. Việt Nam năm 2022,
nhiều cuộc đình công tự phát của công nhân trong các khu công nghiệp tại TP. Hồ Chí
Minh và Đồng Nai đòi tăng lương cơ bản, tăng trợ cấp ăn ca do giá cả sinh hoạt tăng. Ở
Mỹ, năm 2023, công nhân ngành ô tô (UAW) đình công lớn nhất trong nhiều thập kỷ
đòi tăng lương, bảo vệ việc làm trước nguy cơ cắt giảm khi chuyển sang xe điện. Đây là
minh chứng rõ nét rằng xung đột lợi ích giữa giai cấp công nhân giai cấpsản vẫn
nguyên nhân của các phong trào đấu tranh, giống hệt các cuộc bãi công của công nhân
thế kỷ XIX ở Anh, Pháp, Đức.
Phong trào cộng sản và công nhân nhiều nước vẫn lực lượng đi đầu trong
các cuộc đấu tranh hòa bình, hợp tác; dân sinh, dân chủ, tiến bộ chủ nghĩa
hội. Công đoàn Pháp tổ chức hàng loạt cuộc biểu tình chống cải cách hưu trí năm 2023,
huy động hàng triệu người xuống đường. Mỹ Latinh, nhiều đảng lao động công
lOMoARcPSD| 45740153
đoàn đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc vận động đòi công bằng hội, bảo vệ môi
trường, dân chủ, hòa bình. Ở Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức
đại diện cho quyền lợi công nhân, tham gia vào các chương trình cải thiện phúc lợi
hội. Vai trò “đi đầu” này gợi nhớ phong trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế
thế kỷ XIX thời giai cấp công nhân châu Âu cũng đứng mũi chịu sào trong các
cuộc đấu tranh dân sinh, dân chủ.
Tóm lại, lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn mang giá trị khoa
học và cách mạng, ý nghĩa thực tiễn: chỉ đạo cuộc đấu tranh hiện nay của giai cấp công
nhân chống chủ nghĩa tư bản và chọn con đường xã hội chủ nghĩa
1.1.3. Những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại (hiện nay)
Một là, xu hướng “trí tuệ hoá” tăng nhanh. Gắn liền với: cách mạng khoa
họccông nghệ hiện đại, sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí
tuệ hoá. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực thường xuyên được đào tạo
lại, đáp ứng sự thay đổi của công nghệ trong nền sản xuất. khu ng nghệ cao Hoà
Lạc, Việt Nam, công nhân của các nhà máy sản xuất chip, linh kiện điện tử phải biết vận
hành robot công nghiệp, máy CNC, sử dụng phần mềm quản sản xuất, tiếng Anh kỹ
thuật… Họ thường được doanh nghiệp tổ chức huấn luyện định kỳ để cập nhật ng
nghệ mới. Điều này khác hẳn công nhân trong xưởng dệt Manchester hay luyện thép
Sheffield thế kỷ XIX, chỉ cần lao động thủ công biết vận hành một vài máy khí
đơn giản mà không cần đào tạo sâu về công nghệ.
Hai là, xu hướng “trung lưu hoá” gia tăng. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, chủ nghĩa tư
bản điều chỉnh về phương thức quản lý, các biện pháp điều hoà mẫu thuẫn hội.
Một bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng liệu sản xuất của hội
qua chế độ cổ phần hoá - trung lưu hoá. Khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất vẫn tồn tại thì những: thành qucủa khoa học - công nghệ, trình độ kinh tế tri
thức, điều chỉnh về thể chế quản kinh tế - hội… vẫn công cụ bóc lột giá trị thặng
dư. Công nhân các tập đoàn lớn như Viettel, PVN, EVN (Việt Nam) được mua cổ phần
ưu đãi, tham gia quỹ phúc lợi, lương phụ cấp cao hơn ng nhân phổ thông. Mỹ,
công nhân ngành ô thuộc nghiệp đoàn UAW nhận ơng trung bình 30-40 USD/giờ,
bảo hiểm y tế, quỹ hưu trí. Họ thuộc “tầng lớp lao động trung lưu”. Khác biệt hoàn
toàn với công nhân thế kỷ XIX thường làm việc 12–14 giờ/ngày, lương thấp, không bảo
hiểm, sống chật chội, không tài sản tích lũy.
Ba là, giai cấp công nhân hiện đại giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội một số quốc gia hội chủ nghĩa. Từ khi
nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đi - Nhà nước Xô viết, giai cấp công nhân và đội
tiền phong của mình đã trở thành giai cấp lãnh đạo giành chính quyềnxây dựng nhà
nước hội chủ nghĩa các quốc gia đi lên chủ nghĩa hội. Trong bối cảnh mới của
toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nhân hiện
đại tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cấu trong nền sản xuất hiện đại. Việt
Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân – lãnh đạo toàn
lOMoARcPSD| 45740153
bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nhân không chỉ là người lao động
còn tham gia trực tiếp vào hoạch định chính sách qua tổ chức công đoàn, Mặt trận T
quốc. Ở Cuba, công nhân và công đoàn có ghế trong Quốc hội, tham gia vào hoạch định
kinh tế hội. Đây điểm khác biệt căn bản so với công nhân thế kỷ XIX còn đang đấu
tranh đòi 8 giờ làm việc/ngày và quyền bầu cử.
Bốn là, công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi mạnh về cấu
trong nền sản xuất hiện đại. cấu hội, cơ cấu nghề nghiệp, cấu thu nhập giữa
các bộ phận công nhân rất khác nhau trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc
gia. Trung Quốc, lực lượng công nhân ng nghiệp dịch vụ hơn 400 triệu người,
gồm “cổ xanh” (lao động tay chân) và “cổ trắng” (lao động kỹ thuật cao). Ở Việt Nam,
năm 1990 có vài triệu công nhân, nay hơn 17 triệu, phân bổ trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao. Thu nhập dao động từ 67 triệu đồng/tháng (công
nhân may) tới vài chục triệu đồng/tháng (kỹ sư vận hành robot). Khác biệt với công
nhân thế kỷ XIX chủ yếu tập trung trong một số ngành truyền thống, ít phân hóa về kỹ
năng và thu nhập.
1.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động trong việc thủ tiêu chế độ bản chủ
nghĩa, xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công, đồng thời xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh ấy bắt nguồn từ địa vị kinh tế – xã hội khách
quan của giai cấp công nhân trong phương thức sản xuất hiện đại và từ vai trò chính trị
hội của họ trong tiến trình lịch sử. Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, ch
mạng khoa học công nghệ sự biến đổi sâu sắc của cấu giai cấptầng lớp hội,
nội dung của sứ mệnh ấy không mất đi tiếp tục tồn tại, phát triển với những đặc điểm
mới, thể hiện trên ba phương diện bản: kinh tế, chính trị hội văn hóa
tưởng.
1.2.1. Nội dung kinh tế
Trên lĩnh vực kinh tế, giai cấp công nhân trước hết lực lượng trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, giữ vai trò quyết định trong việc vận hành
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Giai cấp công nhân không chỉ là chủ thể sáng tạo
ra của cải vật chất mà còn tham gia ngày càng nhiều vào việc tạo ra các giá trị tinh thần
của xã hội. Trong tiến trình phát triển, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ, đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ, nội dung kinh tế của sứ
mệnh lịch sử giai cấp công nhân ngày càng mở rộng và mang tính chất mới.
Công nhân hiện đại không chỉ giới hạn lao động chân tay trong các ngành công
nghiệp truyền thống đã được “trí thức hóamức độ ngày càng cao. Họ nắm giữ,
vận hành làm chủ các máy móc, thiết bị, quy trình sản xuất tự động hóa, công nghệ
cao, đồng thời tham gia vào việc nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật và quản lý sản xuất. Nhờ
đó, giai cấp công nhân vẫn lực lượng trung tâm trong hệ thống sản xuất hội hiện
lOMoARcPSD| 45740153
đại, giữ vai trò quyết định trong việc thúc đẩy năng suất lao động xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất và cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiên tiến.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nội dung kinh tế của sứ mệnh
giai cấp công nhân còn thể hiện ở khả năng thích ứng với sự biến đổi của phương thức
sản xuất hình tổ chức lao động. Công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ
học vấn, kỹ năng nghề nghiệp ng lực tiếp thu khoa học công nghệ đđáp ứng
yêu cầu của nền sản xuất tri thức hóa, tự động hóa, toàn cầu hóa. Điều đó chứng tỏ rằng,
cho sự thay đổi về hình thức biểu hiện, thì giai cấp công nhân vẫn lực lượng giữ
vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế xã hội của thời đại ngày nay.
1.2.2. Nội dung chính trị – xã hội
Trên lĩnh vực chính trị hội, giai cấp công nhân tiếp tục lực ợng hội
quan trọng khả năng tổ chức, đoàn kết lãnh đạo quần chúng lao động trong cuộc
đấu tranh chống áp bức, bất công, nhằm bảo vệ quyền lợi của đa số nhân dân và hướng
tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, địa vị kinh
tế – xã hội quyết định rằng công nhân không chỉ là giai cấp sản xuất mà còn là giai cấp
có khả năng chính trị to lớn, bởi họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho lợi ích
của đại đa số nhân dân lao động.
Nội dung chính trị của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân ngày nay thể hiện
trước hết ở vai trò tổ chức và tập hợp lực lượng xã hội. Thông qua các tổ chức chính tr
hội của mình, đặc biệt các tổ chức ng đoàn, đảng công nhân, hiệp hội nghề
nghiệp, giai cấp ng nhân duy trì phát huy khả năng lãnh đạo đối với quần chúng
lao động. Trong điều kiện hội hiện đại, hình thức đấu tranh của công nhân đã sự
thay đổi: từ những phong trào đấu tranh trực diện trong quá khứ sang những phương
thức đa dạng hơn, gắn liền với chế tham gia quản hội, tham gia hoạch định
chính sách, và thực hiện quyền đại diện trong các thể chế chính trị – xã hội.
Bên cạnh đó, giai cấp công nhân còn là lực lượng trung tâm trong khối liên minh
giai cấp, đặc biệt liên minh ng nông trí thức. Đây một trong những nhân tố
quyết định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng bảo vệ chế độ hội mới. Sự
liên minh này bảo đảm cho giai cấp công nhân không chỉ đại diện cho lợi ích riêng của
mình, mà còn đại diện cho lợi ích chung của toàn thể nhân dân lao động. Như giáo trình
của các trường đã nhấn mạnh, sức mạnh chính trị – xã hội của giai cấp công nhân ngày
nay được củng cố thông qua sự mrộng liên minh giai cấp sự tham gia ngày càng
sâu rộng vào đời sống chính trị quốc gia cũng như đời sống chính trị quốc tế.
1.2.3. Nội dung văn hóa – tư tưởng
Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, giai cấp công nhân không chỉ là lực lượng sản
xuất của cải vật chất mà còn là chủ thể sáng tạo và truyền bá những giá trị văn hóa, tinh
thần của thời đại. Nội dung văn hóa – tư tưởng của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
thể hiện chỗ: công nhân là lực lượng xã hội gắn liền với hệ tưởng tiến bộ nhất – chủ
nghĩa Mác Lênin, thông qua chính đảng tiên phong của mình, họ trách nhiệm
truyền bá, củng cố và phát triển hệ tư tưởng ấy trong đời sống xã hội.
lOMoARcPSD| 45740153
Trong điều kiện hiện đại, khi các hệ tư tưởng giá trị văn hóa đa dạng, phức tạp
và có sự cạnh tranh gay gắt, thì vai trò văn hóa – tư tưởng của giai cấp công nhân càng
trở nên quan trọng. Giai cấp công nhân phải givững lập trường giai cấp, kiên định lý
tưởng hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái,
phản động, những yếu tố tưởng tiêu cực làm xói mòn niềm tin của nhân dân lao động.
Mặt khác, công nhân còn góp phần xây dựng những chuẩn mực văn hóa mới, lối
sống mới, kỷ luật lao động, tinh thần tập thể ý thức cộng đồng những giá trị nền
tảng cho xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự “trí thức hóa” của một bộ phận công nhân hiện đại
cũng khiến cho họ trở thành lực ợng quan trọng trong việc sáng tạo phổ biến tri
thức khoa học công nghệ, đưa những giá trị tinh thần tiến bộ thấm sâu vào đời sống
hội. Nhờ đó, giai cấp công nhân không chỉ hoàn thành vai trò sản xuất vật chất,
còn là lực lượng bảo đảm sự phát triển bền vững của nền văn hóa và hệ tư tưởng tiến bộ
của nhân loại.
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định vai trò của giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân ở nước ta: “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiên phong Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong snghiệp xây dựng chủ nghĩa hội, lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất ớc mục tiêu n
giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng”.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn đó, giai cấp công nhân Việt Nam phát huy vai
trò của một giai cấp tiên phong, phát huy vai trò của một giai cấp tiên phong, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng để
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể thuộc nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.3.1. Nội dung kinh tế
Giai cấp công nhân Việt Nam với số ợng đông đảo, cấu ngành nghề đa
dạng, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp ở mọi thành phần kinh
tế, với chất lượng ngày một nâng cao về kỹ thuật và công nghsẽ là nguồn nhân lực lao
động chủ yếu tham gia phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng hội chủ
nghĩa, lấy khoa học - công nghệ làm động lực quan trọng, quyết định tăng năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả.
Giai cấp công nhân phát huy vai tròtrách nhiệm của lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đây là vấn đề nổi bật nhất với
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực hiện
thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại nền công nghiệp hiện đại, định hướng hội chủ
nghĩa trong một, hai thập kỷ tới với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI. Đó trách nhiệm
của toàn Đảng toàn n giai cấp công nhân nòng cốt. Tham gia vào sự nghiệp
lOMoARcPSD| 45740153
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân điều kiện khách quan
thuận lợi để phát triển về cả số lượng và chất lượng, làm cho những phẩm chất của giai
cấp công nhân hiện đại được hình thành phát triển đầy đủ trong môi trường hội
hiện đại. Đó còn điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam khắc phục những nhược
điểm, hạn chế vốn có do hoàn cảnh lịch sử và nguồn gốc xã hội sinh ra.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế gắn liền
với việc phát huy vai trò của giai cấp công nhân, của công nghiệp, thực hiện khối liên
minh công-nông-trí thức để tạo ra động lực phát triển nông nghiệp- nông thônnông
dân ở nước ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế.
1.3.2. Nội dung chính trị - xã hội.
Cùng với nhiệm vụ giữ vững ng cường sự lãnh đạo của Đảng thì nhiệm vụ
“Giữ vững bản lĩnh giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, ơng mẫu của
cán bộ, đảng viên” “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ là những nội dung chủ yếu, nổi bật, thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
về phương diện chính trị-xã hội. Thực hiện trọng trách đó, đội ncán bộ, đảng viên
trong giai cấp công nhân phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố
phát triển sở chính trị-xã hội quan trọng của Đảng, đồng thời giai cấp công nhân
chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân.
1.3.3. Nội dung văn hoá, tư tưởng
Xây dựng phát triển nền n hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cách
mạng, tác phong công nghiệp, văn minh, hiện đại, xây dựng hgiá trị văn hóa con
người Việt Nam, hoàn thiện nhân cách. Giai cấp công nhân còn tham gia vào cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực tưởng luận để bảo vsự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin
và tưởng Hồ Chí Minh, chống lại những quan điểm sai trái, những sự xuyên tạc của
các thế lực thù địch, kiên định tưởng, mục tiêu con đường cách mạng độc lập
chủ nghĩa hội. Muốn thực hiện được, giai cấp công nhân Việt Nam phải thường xuyên
giáo dục cho các thế hệ công nhân và lao động trẻ ở nước ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh
chính trị, chủ nghĩa u nước chủ nghĩa quốc tế, củng cmối liên hệ mật thiết giữa
giai cấp công nhân với dân tộc, đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế.
lOMoARcPSD| 45740153
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG
NỀN KINH TẾ TRI THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN SỄ CHUYỂN GIAO CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC
2.1. Nền kinh tế tri thức
2.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức
a, Khái niệm
Kinh tế tri thức một trình độ phát triển mới của nền kinh tế, trong đó tri thức
trở thành nguồn lực trực tiếp, quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất, phân phối và
tiêu dùng. Khác với nền kinh tế công nghiệp dựa chủ yếu vào vốn, lao động cơ bắp
tài nguyên thiên nhiên, kinh tế tri thức coi tri thức, thông tin, công nghệ cao và kỹ năng
sáng tạo yếu tố quyết định năng suất, chất lượng sức cạnh tranh. b, Những đặc
trưng cơ bản của kinh tế tri thức
Thứ nhất, tri thức nguồn lực sản xuất bản: Được coi trọng ngang bằng, thậm
chí vượt lên so với vốn và lao động vật chất.
Thứ hai, công nghệ cao giữ vai trò trung tâm: Đặc biệt là công nghệ thông tin, tự
động hóa, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, vật liệu mới.
Thứ ba, đổi mới sáng tạo trở thành động lực chính: Khả năng tạo ra tri thức mới,
áp dụng và thương mại hóa tri thức quyết định sức phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, lao động trí tuệ chiếm ưu thế: Lực lượng lao động có trình độ học vấn, tay
nghề, kỹ ng công nghệ cao ngày càng gia tăng, trong khi lao động giản đơn giảm dần.
Thứ năm, toàn cầu hóa và kết nối tri thức: Nền kinh tế tri thức không hẹp trong
phạm vi quốc gia mang tính toàn cầu, gắn liền với mạng lưới sản xuất chuỗi giá
trị quốc tế.
2.1.2. Những điểm tương đồng và khác biệt so với kinh tế truyền thống
a, Tương đồng
- Đều hướng tới mục tiêu nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất, đáp ứng
nhu cầu xã hội.
- Đều đòi hỏi sự kết hợp giữa các yếu tố bản của qtrình sản xuất: liệu sản
xuất, sức lao động và tổ chức quản lý.
- Vẫn tồn tại những mối quan hệ hội giai cấp trong quá trình sản xuất, sự
biến đổi về hình thức.
- Đều phải cạnh tranh trên thị trường. b, Khác biệt
Nền kinh tế truyền thống
Nền kinh tế tri thức
Dựa vào tài nguyên thiên
Dựa vào tri thức, công nghệ, đổi mới
nhiên, đất đai, lao động thủ
công
sáng tạo
lOMoARcPSD| 45740153
Lao động phổ thông, vốn vật
chất (máy móc, nguyên liệu)
Nguồn nhân lực chất lượng cao, thông
tin, sáng chế
Chủ yếu là sản phẩm vật chất
(nông sản, hàng công nghiệp
nặng)
Sản phẩm hàm lượng tri thức cao
(phần mềm, dịch vụ số, R&D…)
Trình độ thấp
Trình độ cao
Tri thức có nhưng chưa phải
yếu tố quyết định, lao động cơ
bắp chiếm ưu thế
Tri thức là yếu tố quyết định, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Chủ yếu dựa vào sở hữu nhỏ,
sản xuất manh mún, năng suất
thấp
Phức tạp hơn, đòi hỏi quan hệ sản
xuất phù hợp hơn, sự xuất hiện của sở
hữu trí tuệ, giá trị gia tăng chủ yếu từ
sản phẩm vô hình (ý tưởng, phần
mềm, sáng chế…)
2.1.3. Những tác động của kinh tế tri thức đối với vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân
Sự hình thành phát triển của kinh tế tri thức đã tác động mạnh mẽ đến giai cấp
công nhân:
Khía cạnh
Tác động tích cực
Tác động tiêu cực
Về cơ cấu
- Lao động giản đơn giảm dần,
thay thế bằng công nhân kỹ thuật,
công nhân tri thức, công nhân công
nghệ cao.
- Cơ cấu đội ngũ công nhân
hợp lý hơn, chất lượng nguồn nhân
lực được nâng cao.
- Nguy cơ phân hóa giữa
công nhân tri thức và công nhân
truyền thống.
- Lao động giản đơn dễ bị
thay thế bởi máy móc, robot, AI
→ thất nghiệp, thu nhập giảm
Về vị trí
trong sản
xuất
- Công nhân trở thành chủ thể sáng
tạo, làm chủ công nghệ, tham gia cải
tiến quy trình sản xuất.
- Tự động hóa và số hóa làm
giảm vai trò trực tiếp của công
nhân trong nhiều khâu sản xuất.
lOMoARcPSD| 45740153
- Vai trò mở rộng từ “người vận
hành” sang “người sáng tạo”, góp
phần trực tiếp vào đổi mới.
- Công nhân thiếu kỹ năng số có
thể bị “gạt ra ngoài lề” của quá
trình sản xuất hiện đại.
Về quan
hệ với trí
thức
- Xuất hiện sự giao thoa mạnh
mẽ giữa công nhân và trí thức.
- Hình thành “công nhân trí
thức” – vừa có kỹ năng nghề, vừa có
tri thức khoa học.
- Quan hệ hợp tác, hỗ trợ nhau
trongsản xuất công nghệ cao.
- Nảy sinh sự cạnh tranh và
khoảng cách mới giữa công nhân
và trí thức.
- Công nhân trình độ thấp
có nguy cơ tụt hậu, bị coi là lực
lượng thứ yếu trong nền kinh tế
tri thức.
Về vai trò
lịch sử
- Công nhân vẫn giữ vị trí then
chốt vì là lực lượng trực tiếp tạo ra
của cải vật chất – nền tảng tồn tại
của xã hội.
- Là lực lượng nòng cốt trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
chuyển đổi số.
- Một số quan điểm cho rằng sứ
mệnh lịch sử của công nhân bị
“chuyển giao” cho trí thức. - Nếu
không tự nâng cao tri thức và
năng lực, công nhân có thể suy
giảm vai trò lãnh đạo.
2.2. Nhận diện và phân tích luận điểm
2.2.1. Nhận diện luận điểm - Cơ sở hình thành luận điểm
Quan điểm trong nền kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được chuyển giao cho tầng lớp trí thức” quan điểm bắt nguồn từ những biến đổi sâu
sắc của hội trong bối cảnh khoa học - công nghệ hiện đại, nhất cuộc cách mạng
khoa học lần thứ tư.
Về bối cảnh hội kinh tế: Thế giới hiện nay đang bước vào một giai đoạn phát
triển mới, nơi nền kinh tế tri thức dần trở thành xu thế tất yếu và đóng vai trò trung tâm
trong quá trình tăng trưởng. Nếu trong thời kỳ công nghiệp hóa, lao động chân tay
công nhân sản xuất lực ợng chủ đạo, thì trong hội tri thức ngày nay, chính tri
thức, sáng tạo và công nghệ mới là yếu tố then chốt tạo ra giá trị gia tăng. Những người
khả năng sáng tạo tri thức, phát minh công nghệ làm chủ thông tin – chủ yếu thuộc
tầng lớp trí thức, bao gồm: kỹ sư, giảng viên, nhà khoa học,... – đang trở thành lực lượng
chủ đạo trong sản xuất phát triển. Chính sự chuyển dịch này làm dấy lên quan điểm
cho rằng giai cấp ng nhân đang dần mờ nhạt, không còn nắm giữ vai trò trung tâm,
không được ưu tiên dẫn đến xu hướng giảm, tầng lớp trí thức đang dần thay thế giai
cấp công nhân để đảm nhận vai trò lãnh đạo sự tiến bộ xã hội. Quan điểm này phản ánh
phần nào thực tiễn mới, nơi sự tăng trưởng không còn phụ thuộc chủ yếu vào sức
lao động bắp dựa vào hàm lượng chất xám khả năng đổi mới ng tạo. Điều
này làm mờ ranh giới giữa công nhân trí thức, dẫn đến sự lẫn lộn về bản chất giai
lOMoARcPSD| 45740153
cấp. Từ đây xuất hiện quan điểm cho rằng, khi hình thức lao động thay đổi, thì sứ mệnh
lịch sử cũng có thể thay đổi theo, và được "chuyển giao" từ công nhân sang trí thức.
Về điều kiện chính trị - toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Cùng với sự phát triển
của kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thay
đổi sâu sắc trong cấu trúc giai cấp và quan hệ lao động trên toàn thế giới. Các quốc gia
ngày càng có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, chính trị và công nghệ, dẫn đến việc hình
thành một thị trường lao động toàn cầu cạnh tranh khốc liệt. Trong đó, lao động
trình độ cao, kỹ năng chuyên môn tốt - chủ yếu thuộc tầng lớp trí thức - khả năng
thích nghi khả năng cạnh tranh vượt trội. Ngược lại, lao động phổ thông, lao động
tay nghề thấp vốn bộ phận đông đảo trong giai cấp công nhân truyền thống đang
đối mặt với nguy bị thay thế, đào thải hoặc bị đẩy ra bên lề của tiến trình phát triển.
Tớc yêu cầu mới của thời đại, lực ợng lao động phải liên tục nâng cao trình độ để
thích ứng và thể thấy giai cấp công nhân ở thời điểm hiện tại đang phát triển về mọi
mặt, họ không n những người chỉ biết những công việc chân tay với trình độ học
vấn thấp mà là những công nhân trong các lĩnh vực công nghệ thông tin hay kỹ thuật số
đòi hỏi trình độ tri thức cao, họ có chuyên môn, kỹ năng vận hành máy móc hiện đại và
tiếp nhận công nghệ cao. Điều này khiến một bộ phận công nhân lầm tưởng rằng họ
không còn công nhân nữa trở thành lao động tri thức. Sự giao thoa giữa trí thức
và công nhân cũng góp phần củng cố thêm cho quan điểm về “sự chuyển giao sứ mệnh
lịch sử”.
Về điều kiện khoa học công nghệ: Một trong những động lực mạnh mẽ nhất
định hình nên quan điểm trên sự bùng ncủa cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư (4.0). Cuộc cách mạng này không chỉ làm thay đổi phương thức sản xuất mà còn làm
biến đổi sâu sắc cơ cấu lao động. Với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các công nghệ
như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, robot công nghiệp, Internet vạn vật dữ liệu lớn,
nhiều công việc thuộc lao động cơ giới hoặc lao động giản đơn đang dần được thay thế
bởi máy móc. Quá trình sản xuất ngày càng dựa vào hệ thống điều khiển tự động
phần mềm thông minh, đòi hỏi lực lượng lao động khả năng duy logic, lập trình,
phân tích xử thông tin. Chính điều này dẫn đến sự dịch chuyển từ lao động thủ
công sang lao động trí tuệ, từ sản xuất vật chất thuần túy sang phát triển sản phẩm
hàm ợng công nghệ cao. Trong bối cảnh đó, tầng lớp trí thức – đặc biệt những người
có chuyên môn sâu trong lĩnh vực khoa học công nghệ – nổi lên như một lực lượng
tiên phong trong sự nghiệp phát triển kinh tế cải tiến hội. Đây sthực tiễn
quan trọng khiến nhiều người tin rằng tthức mới người kế thừa sứ mệnh lịch sử
trong thời đại mới.
Trong thực tế xã hội phát triển, tầng lớp trí thức có nhiều đóng góp cho giáo dục,
khoa học, quản trị, phát triển công nghệ,... Họ thường được giao các nhiệm vụ quan
trọng như hoạch định chính sách, phân tích thị trường, xử dự án, số liệu,... lãnh đạo
các chương trình nghiên cứu và giữ vai trò quan trọng trong đổi mới sáng tạo. Điều này
càng làm gia tăng quan điểm cho rằng tầng lớp trí thức đã, đang, sẽ thay thế vai trò
lOMoARcPSD| 45740153
của giai cấp công nhân trong việc dẫn dắt sự phát triển của hội và trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, nhìn nhận như vậy phiến diện sai lệch, bởi nó chỉ dựa vào biểu
hiện bề ngoài của sự biến đổi hội, không đi sâu vào bản chất quan hệ sản xuất.
Theo chủ nghĩa Mác Lênin, giai cấp công nhân không chỉ lực lượng lao động đơn
thuần, mà lực lượng lợi ích gắn bó chặt chẽ với lợi ích chung của toàn hội. Họ
giai cấp duy nhất đủ điều kiện về vị trí trong quan hệ sản xuất tính tổ chức để
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hội chủ nghĩa. Việc đề cao trí thức xem nhẹ công
nhân là sự xét lại lý luận cách mạng, có thể làm suy yếu nền tảng giai cấp của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, gây lệch lạc trong đường lối phát triển và chính sách xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
2.2.2 Nội dung và ảnh hưởng luận điểm
a, Nội dung luận điểm
Thứ nhất là phủ nhận vai trò trung tâm của GCCN: luận điểm cho rằng sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân “chuyển giao” cho tầng lớp trí thức, tức đã gián tiếp
phủ nhận vai trò trung tâm, lãnh đạo và cách mạng của giai cấp công nhân trong xã hội
hiện đại. Quan điểm này đã khẳng định trong thời đại công nghệ mới, GCCN không còn
đủ trí và lực để lãnh đạo quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin, giai cấp công nhân là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến, khả năng nh đạo tổ chức hội mới. Tuy nhiên, luận điểm trên lại ngầm
cho rằng khi tri thức trở thành yếu tố sản xuất chủ yếu, thì vai trò cách mạng lãnh đạo
của công nhân cũng mất đi, họ không còn chủ thể trung tâm của lịch sử nữa. Như
vậy, chức năng lịch sử vốn gắn với sự phát triển xã hội – một chức năng mang tính bản
chất của giai cấp công nhân – đã bị phủ nhận.
Thứ hai, đề cao tuyệt đối vai trò của tầng lớp trí thức: Song song với việc phủ
nhận vai trò của công nhân, luận điểm còn đề cao tầng lớp trí thức một cách tuyệt đối,
xem họ lực lượng kế thừa toàn bộ vai trò lịch sử của ng nhân. Trong hội hiện
đại, không thể phủ nhận vai trò ngày càng quan trọng của trí thức trong việc sản xuất tri
thức, phát triển khoa học công nghệ và đóng góp vào sự phát triển chung. Tuy nhiên,
trí thức không phải một giai cấp thuần nhất về lập trường nhận thức. Nhiều trí thức
không đứng về phía nhân dân lao động, mà lại phục vụ cho lợi ích nhân hoặc tầng
lớp cầm quyền. Do đó, không thể mặc định rằng trí thức sẽ thay thế hoàn toàn công nhân
trong vai trò cách mạng hoặc lãnh đạo xã hội. Mặt khác, không phải mọi trí thức đều có
khả năng tổ chức sản xuất, quản hội hoặc gắn chặt chẽ với đời sống nhân dân
như giai cấp công nhân từng làm trong lịch sử.
Thứ ba, không xem xét đến sự chuyển biến của GCCN trong xã hội hiện đại: Một
điểm phiến diện trong luận điểm này là không xét đến sự vận động và phát triển nội tại
của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Giai cấp công nhân hiện nay không còn chỉ
những người lao động giản đơn, làm công việc chân tay trong nhà máy như thời kỳ
công nghiệp đầu tiên. Họ ngày càng được tri thức hóa, trình độ chuyên môn, kỹ năng
vận hành làm chủ máy móc, công nghệ hiện đại. Nhiều công nhân hiện đại kiến
lOMoARcPSD| 45740153
thức không thua kém trí thức, thậm chí trực tiếp tham gia vào quá trình nghiên cứu, cải
tiến kỹ thuật, đổi mới sản xuất. vậy, việc cho rằng công nhân đã “hết vai trò” trong
nền kinh tế tri thức là một nhận định phi thực tế và thiếu cơ sở khoa học.
Thứ tư, bỏ qua mối quan hệ biện chứng giữa công nhân trí thức: Luận điểm
trên còn mang tính chia cắt tuyệt đối hóa khi không thấy được mối quan hgắn
và bổ sung lẫn nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức. Trong nền kinh tế hiện
đại, sự phát triển của hội không thể chỉ dựa vào một lực lượng đơn lẻ, sự kết
hợp của nhiều giai tầng hội, trong đó công nhân trí thức đóng vai trò nền tảng.
Công nhân làm chủ quy trình sản xuất; trí thức nghiên cứu, sáng tạo hỗ trợ công nhân
nâng cao hiệu quả lao động. Hai lực lượng này không thể tách rời, mà phải phối hợp và
hỗ trợ nhau để thúc đẩy sự phát triển bền vững. Do đó, việc tách biệt vai trò và “chuyển
giao sứ mệnh” từ công nhân sang trí thức là cách nhìn thiếu biện chứng, dễ dẫn đến sai
lệch trong định hướng hội xây dựng lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp phát triển
đất nước.
Tóm lại, có thể thấy răng luận điểm: “ Trong nền kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử
của GCCN dần chuyển giao cho tầng lớp trí thức " một nhận định mang tính phiến
diện, cực đoan và không phản ánh đúng thực tiễn xã hội hiện đại. Trong điều kiện mới,
vai trò của giai cấp công nhân không hề mất đi đang được đổi mới nâng cao về
chất. Đồng thời, trí thức có vai trò quan trọng nhưng không thể thay thế hoàn toàn chức
năng cách mạng, lãnh đạo tổ chức sản xuất của công nhân. Sự phát triển của hội
cần sự kết hợp giữa các lực lượng, trong đó công nhân trí thức cần gắn bó, hợp tác
bổ sung cho nhau. thế, cần nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện biện chứng,
tránh rơi vào cái bẫy tuyệt đối hóa hoặc phủ định một chiều.
b, Ảnh hưởng của luận điểm
Luận điểm “Trong nền kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
sẽ chuyển giao cho tầng lớp trí thức” ảnh hưởng tích cực chỗ nhấn mạnh tầm
quan trọng ngày càng lớn của tri thức tầng lớp trí thức trong thời đại mới. Khi khoa
học – công nghệ, tự động hóa đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu của phát
triển, trí thức đã tham gia trực tiếp vào lực lượng sản xuất, quyết định tốc độ chất
lượng tăng trưởng kinh tế. Nhận định này góp phần thúc đẩy xã hội quan tâm nhiều hơn
đến giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao, đồng thời khuyến khích sự gắn kết giữa
lao động trí óc lao động chân tay. cũng khơi gợi nhận thức rằng, trong nền kinh
tế tri thức, công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử cần không ngừng nâng cao trình
độ, từng bước được “trí thức hóa” để đáp ứng yêu cầu sản xuất hiện đại.
Tuy nhiên, luận điểm này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nếu được hiểu theo
nghĩa tuyệt đối hóa vai trò của trí thức và phủ nhận vai trò tiên phong của giai cấp công
nhân. Điều này dễ dẫn tới sự lệch lạc về lý luận, trái với quan điểm Mác – Lênin khi coi
công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thực tiễn, tầng lớp
trí thức có tính phân hóa mạnh, không phải lúc nào cũng gắn bó mật thiết với nhân dân
lao động, nên khó đảm nhận riêng lẻ sứ mệnh lịch sử. Nếu coi nhẹ công nhân và đề cao
tuyệt đối trí thức sẽ gây nguy chia rẽ, m suy yếu khối liên minh công nông trí
lOMoARcPSD| 45740153
thức vốn nền tảng vững chắc của cách mạng. Do đó, ảnh hưởng tiêu cực của luận
điểm này dễ dẫn đến tưởng xa rời quần chúng làm lu mờ vai trò trung tâm của
giai cấp công nhân trong thời đại mới.
2.2.3. Phê phán luận điểm
a, Nhầm lẫn giữa "vai trò quan trọng" và "sứ mệnh lịch sử" của một giai cấp
Lịch sử phát triển của xã hội giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong mỗi
thời kỳ chuyển biến ch mạng từ hình thái kinh tế - hội này sang hình thái kinh tế
hội khác cao hơn luôn một giai cấp đứng vị trí trung tâm, đó giai cấp cách
mạng, đóng vai trò động lực chủ yếu, lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến
đó.Giai cấp cách mạng này sứ mệnh lịch sử thủ tiêu hội cũ, xây dựng hội
mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó
là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh
Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc
lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn thể nhân loại khỏi
mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Từ vai trò to lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước sự sụp đổ của hệ thống các nước chủ
nghĩa hội hiện thực Liên Đông Âu, trước sự điều chỉnh của chủ nghĩa
bản,trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức đã xuất hiện những luận thuyết phủ nhận
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Một trong những luận điệu phổ biến nhất hiện
nay của các thế lực thù địch là khẳng định giai cấp công nhân đã mất đi sứ mệnh lịch sử
vai trò của trí thức trong nền kinh tế tri thức ngày càng trở nên nổi bật. Họ lập luận
rằng trí thức mới lực lượng chủ đạo trong sản xuất sáng tạo tri thức, đồng thời là
nhóm duy nhất có khnăng lãnh đạo cách mạng. Ngược lại, thực tiễn cho thấy trí thức
không phải là một giai cấp mà chỉ là một tầng lớp xã hội đặc thù, không có lợi ích kinh
tế và hệtưởng riêng. Trí thức đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu và phát triển
khoa học công nghệ, nhưng họ không thể thay thế giai cấp công nhân trong việc dẫn dắt
phong trào cách mạng, bởi trí thức không gắn trực tiếp với lực lượng sản xuất
không đại diện cho lợi ích của toàn bộ nhân dân lao động, gắn lợi ích với nhiều giai
cấp khác nhau, thiếu tính thống nhất về chính trị để trở thành giai cấp lãnh đạo.
b, Giai cấp công nhân vẫn giữ nguyên địa vị kinh tế - xã hội khách quan để thực
hiện sứ mệnh lịch sử
Tớc sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là với việc ứng
dụng công nghệ tin học vào quá trình sản xuất, một số học giả sản, tiêu biểu
Alvin Toffler, đã đưa ra những thuyết khác nhau cho rằng, hội hiện đại đang
bước vào thời kỳ “hậu công nghiệp”, “văn minh tin học”, “văn minh trí tuệ”, đi đến phủ
nhận sự hiện tồn của sản xuất công nghiệp. Do đó, giai cấp công nhân với tư cách sản
phẩm của nền sản xuất công nghiệp cũng đương nhiên biến mất cùng với sự biến mất

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA KINH TẾ
BỘ MÔN THẢO LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG
NỀN KINH TẾ TRI THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN SẼ CHUYỂN GIAO CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC.
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Thị Hương
Lớp học phần: 251_HCMI0121_05 Hà nội – 2025 lOMoAR cPSD| 45740153
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM STT Họ và tên Mã sinh viên Nhiệm vụ 23 Nguyễn Hoàng Giang 22D108022 Thuyết trình 24 Đặng Thanh Hà 23D107072 2.1 25 Đỗ Thu Hà 23D160169 1.1 26 Lê Ngọc Cẩm Hà 22D121033 Powerpoint 27 Nguyễn Hồng Hạnh 23D160014 2.2.3 28 Nguyễn Thị Hằng 23D160069 2.2.1 29 Đoàn Hữu Minh Hiểu 23D160274 1.2 30 Nguyễn Như Hiếu 23D160173 2.2.2 31 Nguyễn Hoàng Hiệp 23D160015 Kết luận+Word 32 Điêu Chính Hoàng 23D160071 2.3 33 Ngô Huy Hoàng 23D160175 2.2.4 Tống Ngọc Hoàng 34 23D160124 Thuyết Trình +Word + LMD (Nhóm trưởng) lOMoAR cPSD| 45740153
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Hà Nội , ngày 23 tháng 09 năm 2025
BIÊN BẢN HỌP NHÓM THẢO LUẬN
Địa điểm : 20h tại zoom
Cuộc họp diễn ra với nội dung : Thành viên thảo luận cùng nhau với đề tài “NHẬN
DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG NỀN KINH TẾ TRI
THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN SẼ CHUYỂN GIAO
CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC”. Thành viên nhóm: STT Họ và tên Nhiệm vụ 23 Nguyễn Hoàng Giang Thuyết trình 24 Đặng Thanh Hà 2.1 25 Đỗ Thu Hà 1.1 26 Lê Ngọc Cẩm Hà Powerpoint 27 Nguyễn Hồng Hạnh 2.2.3 lOMoAR cPSD| 45740153 28 Nguyễn Thị Hằng 2.2.1 29 Đoàn Hữu Minh Hiểu 1.2 30 Nguyễn Như Hiếu 2.2.2 31 Nguyễn Hoàng Hiệp Kết luận+Word 32 Điêu Chính Hoàng 2.3 33 Ngô Huy Hoàng 2.2.4 34 Tống Ngọc Hoàng Thuyết Trình +Word + (Nhóm trưởng) LMD
Nội dung thảo luận:
- Nhóm trưởng thông báo đề tài thảo luận cho các thành viên trong nhóm
- Cả nhóm cùng xây dựng đề cương chi tiết cho bài thảo luận
- Thực hiện chia nhiệm vụ theo đề cương chi tiết theo chi đạo của nhôm trưởng
- Các thành viên nhận nhiệm vụ và thực hiện theo đúng hạn làm nhiệm vụ Kết luận:
Các thành viên tham gia đầy đủ, đóng góp ý kiến tích cực, buổi họp thành công, đạt
được mục đích đã đề ra lOMoAR cPSD| 45740153 MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................7
CHƯƠNG 1: GIAI CẤP GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY...............................8
1.1. Giai cấp công nhân hiện nay.............................................................................8
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân hiện nay.......................................................8
1.1.2. Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX...................................8
1.1.3. Những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại (hiện nay)..9
1.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay.. 10
1.2.1. Nội dung kinh tế.........................................................................................11
1.2.2. Nội dung chính trị – xã hội.........................................................................11
1.2.3. Nội dung văn hóa – tư tưởng......................................................................12
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.........12
1.3.1. Nội dung kinh tế.........................................................................................13
1.3.2. Nội dung chính trị - xã hội.........................................................................13
1.3.3. Nội dung văn hoá, tư tưởng........................................................................14
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG
NỀN KINH TẾ TRI THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN SỄ CHUYỂN GIAO CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC..................................15
2.1. Nền kinh tế tri thức..........................................................................................15
2.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức..................................15
2.1.2. Những điểm tương đồng và khác biệt so với kinh tế truyền thống............15
2.1.3. Những tác động của kinh tế tri thức đối với vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân......................................................................................................................16
2.2. Nhận diện và phân tích luận điểm..................................................................17
2.2.1. Nhận diện luận điểm - Cơ sở hình thành luận điểm.................................17
2.2.2
Nội dung và ảnh hưởng luận điểm...........................................................19
2.2.3. Phê phán luận điểm....................................................................................21
2.2.4. Khẳng định vai trò không thể thay thế của giai cấp công nhân và mối
quan hệ với tầng lớp trí thức.
...............................................................................24
2.3. Phương hướng và giải pháp để phát triển giai cấp công nhân và tầng lớp trí
thức trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội.............................................26
2.3.1. Phương hướng............................................................................................27
2.3.2. Giải pháp.....................................................................................................28
KẾT LUẬN................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................31 lOMoAR cPSD| 45740153 LỜI CÁM ƠN
Quá trình thực hiện thảo luận nhóm là giai đoạn quan trọng nhất trong việc xây
dựng bài thảo luận mỗi nhóm . Thảo luận nhóm là tiền đề nhằm trang bị cho chúng em
những kỹ năng nghiên cứu, những kiến thức quý báu trước khi lập nghiệp.
Trước hết, chúng em xin chân thành cảm ơn Cô giao Phạm Thị Hương trong bộ
môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học đã tận tình chỉ dạy và trang bị cho chúng em những
kiến thức cần thiết trong suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường, làm nền tảng cho
chúng em . Đó là những góp ý hết sức quý báu không chỉ trong quá trình thực hiện
thảo luận này mà còn là hành trang tiếp bước cho chúng em trong quá trình học tập và lập nghiệp sau này.
Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến toàn bộ các thanh viên lớp lắng nghe,
những người luôn sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ trong học tập và cuộc sống. Mong rằng,
chúng ta sẽ mãi mãi gắn bó với nhau. lOMoAR cPSD| 45740153 LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, nền
kinh tế tri thức đang trở thành xu thế phát triển tất yếu của thời đại. Tri thức, khoa học
và công nghệ ngày càng giữ vai trò quyết định trong sự phát triển lực lượng sản xuất và
năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Chính vì thế, có quan điểm cho rằng trong nền
kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dần được chuyển giao cho tầng
lớp trí thức – lực lượng được xem là trung tâm của sáng tạo và đổi mới. Tuy nhiên, đây
là một nhận định phiến diện và sai lệch, bởi nó đã tuyệt đối hóa vai trò của tầng lớp trí
thức, đồng thời hạ thấp và phủ nhận vai trò không thể thay thế của giai cấp công nhân.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, là lực lượng lãnh đạo cách mạng và
giữ vai trò trung tâm trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn phát triển
của nền kinh tế tri thức càng chứng minh rằng, nếu không có công nhân trực tiếp biến
tri thức và công nghệ thành sức mạnh sản xuất vật chất, thì trí thức dù sáng tạo đến đâu
cũng không thể hiện thực hóa thành thành tựu kinh tế – xã hội cụ thể. Đồng thời, sự phát
triển của khoa học – công nghệ cũng đặt ra yêu cầu mới đối với giai cấp công nhân: phải
không ngừng trí thức hóa, nâng cao trình độ, kỹ năng và bản lĩnh chính trị để tiếp tục
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Vì vậy, việc nhận diện và phê phán luận điểm sai lệch về sự “chuyển giao sứ
mệnh lịch sử từ công nhân sang trí thức” không chỉ có ý nghĩa lý luận trong việc bảo vệ
tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác – Lênin, mà còn có ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay. Đây cũng là cơ sở quan trọng để khẳng định mối quan hệ gắn bó, bổ sung
và hỗ trợ lẫn nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức trong sự nghiệp xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
CHƯƠNG 1: GIAI CẤP GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY
1.1. Giai cấp công nhân hiện nay
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp công nhân là một tập đoàn
xã hội, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện
đại, họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền với quá
trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội
hoá ngày càng cao, họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản
của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định
chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. lOMoAR cPSD| 45740153
1.1.2. Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội
hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội
hoá ngày càng cao.
Ở Việt Nam hiện nay, trong các khu công nghiệp lớn như Bắc Ninh,
Thái Nguyên, Bình Dương, hàng trăm nghìn công nhân làm việc trong các nhà máy sản
xuất linh kiện điện tử cho Samsung, Foxconn, Intel… Đây là lực lượng trực tiếp vận
hành dây chuyền sản xuất, đóng góp phần lớn giá trị sản phẩm xuất khẩu. Vai trò này rất
giống công nhân thế kỷ XIX ở Anh trong các xưởng dệt Manchester hay công nhân
luyện thép ở Đức: họ chính là “chủ thể” vận hành các nhà máy, nhà xưởng – trung tâm
của nền sản xuất công nghiệp. Mặc dù công nghệ, máy móc hiện đại hơn nhiều, nhưng
bản chất “lực lượng sản xuất chủ yếu” vẫn giữ nguyên.
Công nghiệp hoá vẫn là cơ sở khách quan để phát triển giai cấp công nhân về số
lượng và chất lượng. Trung Quốc trong ba mươi năm qua thực hiện công nghiệp hóa
mạnh mẽ, tạo ra một tầng lớp công nhân công nghiệp khổng lồ lên đến hàng trăm triệu
người, làm việc trong các lĩnh vực từ sản xuất hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử cho đến
xây dựng cơ sở hạ tầng. Quá trình này rất giống với châu Âu thế kỷ XIX, khi cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai đã đưa nông dân vào các thành phố, trở thành công
nhân trong các nhà máy dệt, luyện kim. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa và thu
hút FDI cũng kéo hàng triệu lao động nông thôn trở thành công nhân trong các khu công
nghiệp – một xu hướng ổn định từ thế kỷ XIX đến nay.
Ở các nước tư bản hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng
dư. Công nhân may mặc ở Bangladesh, Campuchia hay Việt Nam hiện nay thường nhận
mức lương chỉ vài triệu đồng/tháng, trong khi sản phẩm họ làm ra được bán ở các thị
trường Mỹ, châu Âu với giá gấp nhiều lần. Điều kiện làm việc còn nhiều hạn chế: làm
tăng ca, áp lực năng suất cao, ít quyền thương lượng. Đây chính là hình thức bóc lột giá
trị thặng dư của tư bản – điều mà Marx đã phân tích khi nói về giai cấp công nhân thế
kỷ XIX. Mặc dù luật lao động và công đoàn hiện nay phát triển hơn, nhưng bản chất
“làm thuê – bị bóc lột” vẫn còn.
Xung đột về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn tồn tại là
nguyên nhân của đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện nay. Ở Việt Nam năm 2022, có
nhiều cuộc đình công tự phát của công nhân trong các khu công nghiệp tại TP. Hồ Chí
Minh và Đồng Nai đòi tăng lương cơ bản, tăng trợ cấp ăn ca do giá cả sinh hoạt tăng. Ở
Mỹ, năm 2023, công nhân ngành ô tô (UAW) đình công lớn nhất trong nhiều thập kỷ
đòi tăng lương, bảo vệ việc làm trước nguy cơ cắt giảm khi chuyển sang xe điện. Đây là
minh chứng rõ nét rằng xung đột lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn
là nguyên nhân của các phong trào đấu tranh, giống hệt các cuộc bãi công của công nhân
thế kỷ XIX ở Anh, Pháp, Đức.
Phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn là lực lượng đi đầu trong
các cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác; vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ và chủ nghĩa xã
hội.
Công đoàn Pháp tổ chức hàng loạt cuộc biểu tình chống cải cách hưu trí năm 2023,
huy động hàng triệu người xuống đường. Ở Mỹ Latinh, nhiều đảng lao động và công lOMoAR cPSD| 45740153
đoàn đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc vận động đòi công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường, dân chủ, hòa bình. Ở Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức
đại diện cho quyền lợi công nhân, tham gia vào các chương trình cải thiện phúc lợi xã
hội. Vai trò “đi đầu” này gợi nhớ phong trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế
thế kỷ XIX – thời mà giai cấp công nhân châu Âu cũng đứng mũi chịu sào trong các
cuộc đấu tranh dân sinh, dân chủ.
Tóm lại, lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn mang giá trị khoa
học và cách mạng, ý nghĩa thực tiễn: chỉ đạo cuộc đấu tranh hiện nay của giai cấp công
nhân chống chủ nghĩa tư bản và chọn con đường xã hội chủ nghĩa
1.1.3. Những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại (hiện nay)
Một là, xu hướng “trí tuệ hoá” tăng nhanh. Gắn liền với: cách mạng khoa
họccông nghệ hiện đại, sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí
tuệ hoá. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo
lại, đáp ứng sự thay đổi của công nghệ trong nền sản xuất. Ở khu công nghệ cao Hoà
Lạc, Việt Nam, công nhân của các nhà máy sản xuất chip, linh kiện điện tử phải biết vận
hành robot công nghiệp, máy CNC, sử dụng phần mềm quản lý sản xuất, tiếng Anh kỹ
thuật… Họ thường được doanh nghiệp tổ chức huấn luyện định kỳ để cập nhật công
nghệ mới. Điều này khác hẳn công nhân trong xưởng dệt Manchester hay luyện thép ở
Sheffield thế kỷ XIX, chỉ cần lao động thủ công và biết vận hành một vài máy cơ khí
đơn giản mà không cần đào tạo sâu về công nghệ.
Hai là, xu hướng “trung lưu hoá” gia tăng. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, chủ nghĩa tư
bản có điều chỉnh về phương thức quản lý, các biện pháp điều hoà mẫu thuẫn xã hội.
Một bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản xuất của xã hội
qua chế độ cổ phần hoá - trung lưu hoá. Khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất vẫn tồn tại thì những: thành quả của khoa học - công nghệ, trình độ kinh tế tri
thức, điều chỉnh về thể chế quản lý kinh tế - xã hội… vẫn là công cụ bóc lột giá trị thặng
dư. Công nhân ở các tập đoàn lớn như Viettel, PVN, EVN (Việt Nam) được mua cổ phần
ưu đãi, tham gia quỹ phúc lợi, lương và phụ cấp cao hơn công nhân phổ thông. Ở Mỹ,
công nhân ngành ô tô thuộc nghiệp đoàn UAW nhận lương trung bình 30-40 USD/giờ,
có bảo hiểm y tế, quỹ hưu trí. Họ thuộc “tầng lớp lao động trung lưu”. Khác biệt hoàn
toàn với công nhân thế kỷ XIX thường làm việc 12–14 giờ/ngày, lương thấp, không bảo
hiểm, sống chật chội, không tài sản tích lũy.
Ba là, giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia xã hội chủ nghĩa. Từ khi
nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đi - Nhà nước Xô viết, giai cấp công nhân và đội
tiền phong của mình đã trở thành giai cấp lãnh đạo giành chính quyền và xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh mới của
toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nhân hiện
đại tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cơ cấu trong nền sản xuất hiện đại. Ở Việt
Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân – lãnh đạo toàn lOMoAR cPSD| 45740153
bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nhân không chỉ là người lao động mà
còn tham gia trực tiếp vào hoạch định chính sách qua tổ chức công đoàn, Mặt trận Tổ
quốc. Ở Cuba, công nhân và công đoàn có ghế trong Quốc hội, tham gia vào hoạch định
kinh tế xã hội. Đây là điểm khác biệt căn bản so với công nhân thế kỷ XIX còn đang đấu
tranh đòi 8 giờ làm việc/ngày và quyền bầu cử.
Bốn là, công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi mạnh về cơ cấu
trong nền sản xuất hiện đại.
Cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thu nhập giữa
các bộ phận công nhân rất khác nhau trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc
gia. Ở Trung Quốc, lực lượng công nhân công nghiệp và dịch vụ hơn 400 triệu người,
gồm “cổ xanh” (lao động tay chân) và “cổ trắng” (lao động kỹ thuật cao). Ở Việt Nam,
năm 1990 có vài triệu công nhân, nay hơn 17 triệu, phân bổ trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao. Thu nhập dao động từ 6–7 triệu đồng/tháng (công
nhân may) tới vài chục triệu đồng/tháng (kỹ sư vận hành robot). Khác biệt rõ với công
nhân thế kỷ XIX chủ yếu tập trung trong một số ngành truyền thống, ít phân hóa về kỹ năng và thu nhập.
1.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động trong việc thủ tiêu chế độ tư bản chủ
nghĩa, xóa bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công, đồng thời xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh ấy bắt nguồn từ địa vị kinh tế – xã hội khách
quan của giai cấp công nhân trong phương thức sản xuất hiện đại và từ vai trò chính trị
– xã hội của họ trong tiến trình lịch sử. Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, cách
mạng khoa học – công nghệ và sự biến đổi sâu sắc của cơ cấu giai cấp – tầng lớp xã hội,
nội dung của sứ mệnh ấy không mất đi mà tiếp tục tồn tại, phát triển với những đặc điểm
mới, thể hiện trên ba phương diện cơ bản: kinh tế, chính trị – xã hội và văn hóa – tư tưởng.
1.2.1. Nội dung kinh tế
Trên lĩnh vực kinh tế, giai cấp công nhân trước hết là lực lượng trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, giữ vai trò quyết định trong việc vận hành và
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Giai cấp công nhân không chỉ là chủ thể sáng tạo
ra của cải vật chất mà còn tham gia ngày càng nhiều vào việc tạo ra các giá trị tinh thần
của xã hội. Trong tiến trình phát triển, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và
công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nội dung kinh tế của sứ
mệnh lịch sử giai cấp công nhân ngày càng mở rộng và mang tính chất mới.
Công nhân hiện đại không chỉ giới hạn ở lao động chân tay trong các ngành công
nghiệp truyền thống mà đã được “trí thức hóa” ở mức độ ngày càng cao. Họ nắm giữ,
vận hành và làm chủ các máy móc, thiết bị, quy trình sản xuất tự động hóa, công nghệ
cao, đồng thời tham gia vào việc nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật và quản lý sản xuất. Nhờ
đó, giai cấp công nhân vẫn là lực lượng trung tâm trong hệ thống sản xuất xã hội hiện lOMoAR cPSD| 45740153
đại, giữ vai trò quyết định trong việc thúc đẩy năng suất lao động xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất và cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiên tiến.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nội dung kinh tế của sứ mệnh
giai cấp công nhân còn thể hiện ở khả năng thích ứng với sự biến đổi của phương thức
sản xuất và mô hình tổ chức lao động. Công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ
học vấn, kỹ năng nghề nghiệp và năng lực tiếp thu khoa học – công nghệ để đáp ứng
yêu cầu của nền sản xuất tri thức hóa, tự động hóa, toàn cầu hóa. Điều đó chứng tỏ rằng,
cho dù có sự thay đổi về hình thức biểu hiện, thì giai cấp công nhân vẫn là lực lượng giữ
vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của thời đại ngày nay.
1.2.2. Nội dung chính trị – xã hội
Trên lĩnh vực chính trị – xã hội, giai cấp công nhân tiếp tục là lực lượng xã hội
quan trọng có khả năng tổ chức, đoàn kết và lãnh đạo quần chúng lao động trong cuộc
đấu tranh chống áp bức, bất công, nhằm bảo vệ quyền lợi của đa số nhân dân và hướng
tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, địa vị kinh
tế – xã hội quyết định rằng công nhân không chỉ là giai cấp sản xuất mà còn là giai cấp
có khả năng chính trị to lớn, bởi họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho lợi ích
của đại đa số nhân dân lao động.
Nội dung chính trị của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân ngày nay thể hiện
trước hết ở vai trò tổ chức và tập hợp lực lượng xã hội. Thông qua các tổ chức chính trị
– xã hội của mình, đặc biệt là các tổ chức công đoàn, đảng công nhân, hiệp hội nghề
nghiệp, giai cấp công nhân duy trì và phát huy khả năng lãnh đạo đối với quần chúng
lao động. Trong điều kiện xã hội hiện đại, hình thức đấu tranh của công nhân đã có sự
thay đổi: từ những phong trào đấu tranh trực diện trong quá khứ sang những phương
thức đa dạng hơn, gắn liền với cơ chế tham gia quản lý xã hội, tham gia hoạch định
chính sách, và thực hiện quyền đại diện trong các thể chế chính trị – xã hội.
Bên cạnh đó, giai cấp công nhân còn là lực lượng trung tâm trong khối liên minh
giai cấp, đặc biệt là liên minh công – nông – trí thức. Đây là một trong những nhân tố
quyết định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới. Sự
liên minh này bảo đảm cho giai cấp công nhân không chỉ đại diện cho lợi ích riêng của
mình, mà còn đại diện cho lợi ích chung của toàn thể nhân dân lao động. Như giáo trình
của các trường đã nhấn mạnh, sức mạnh chính trị – xã hội của giai cấp công nhân ngày
nay được củng cố thông qua sự mở rộng liên minh giai cấp và sự tham gia ngày càng
sâu rộng vào đời sống chính trị quốc gia cũng như đời sống chính trị quốc tế.
1.2.3. Nội dung văn hóa – tư tưởng
Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, giai cấp công nhân không chỉ là lực lượng sản
xuất của cải vật chất mà còn là chủ thể sáng tạo và truyền bá những giá trị văn hóa, tinh
thần của thời đại. Nội dung văn hóa – tư tưởng của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
thể hiện ở chỗ: công nhân là lực lượng xã hội gắn liền với hệ tư tưởng tiến bộ nhất – chủ
nghĩa Mác – Lênin, và thông qua chính đảng tiên phong của mình, họ có trách nhiệm
truyền bá, củng cố và phát triển hệ tư tưởng ấy trong đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 45740153
Trong điều kiện hiện đại, khi các hệ tư tưởng và giá trị văn hóa đa dạng, phức tạp
và có sự cạnh tranh gay gắt, thì vai trò văn hóa – tư tưởng của giai cấp công nhân càng
trở nên quan trọng. Giai cấp công nhân phải giữ vững lập trường giai cấp, kiên định lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái,
phản động, những yếu tố tư tưởng tiêu cực làm xói mòn niềm tin của nhân dân lao động.
Mặt khác, công nhân còn góp phần xây dựng những chuẩn mực văn hóa mới, lối
sống mới, kỷ luật lao động, tinh thần tập thể và ý thức cộng đồng – những giá trị nền
tảng cho xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự “trí thức hóa” của một bộ phận công nhân hiện đại
cũng khiến cho họ trở thành lực lượng quan trọng trong việc sáng tạo và phổ biến tri
thức khoa học – công nghệ, đưa những giá trị tinh thần tiến bộ thấm sâu vào đời sống
xã hội. Nhờ đó, giai cấp công nhân không chỉ hoàn thành vai trò sản xuất vật chất, mà
còn là lực lượng bảo đảm sự phát triển bền vững của nền văn hóa và hệ tư tưởng tiến bộ của nhân loại.
1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định vai trò của giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân ở nước ta: “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức
sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn đó, giai cấp công nhân Việt Nam phát huy vai
trò của một giai cấp tiên phong, phát huy vai trò của một giai cấp tiên phong, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng để
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể thuộc nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.3.1. Nội dung kinh tế
Giai cấp công nhân Việt Nam với số lượng đông đảo, có cơ cấu ngành nghề đa
dạng, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp ở mọi thành phần kinh
tế, với chất lượng ngày một nâng cao về kỹ thuật và công nghệ sẽ là nguồn nhân lực lao
động chủ yếu tham gia phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ
nghĩa, lấy khoa học - công nghệ làm động lực quan trọng, quyết định tăng năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả.
Giai cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đây là vấn đề nổi bật nhất với
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực hiện
thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại có nền công nghiệp hiện đại, định hướng xã hội chủ
nghĩa trong một, hai thập kỷ tới với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI. Đó là trách nhiệm
của toàn Đảng toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. Tham gia vào sự nghiệp lOMoAR cPSD| 45740153
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân có điều kiện khách quan
thuận lợi để phát triển về cả số lượng và chất lượng, làm cho những phẩm chất của giai
cấp công nhân hiện đại được hình thành và phát triển đầy đủ trong môi trường xã hội
hiện đại. Đó còn là điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam khắc phục những nhược
điểm, hạn chế vốn có do hoàn cảnh lịch sử và nguồn gốc xã hội sinh ra.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế gắn liền
với việc phát huy vai trò của giai cấp công nhân, của công nghiệp, thực hiện khối liên
minh công-nông-trí thức để tạo ra động lực phát triển nông nghiệp- nông thôn và nông
dân ở nước ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế.
1.3.2. Nội dung chính trị - xã hội.
Cùng với nhiệm vụ giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì nhiệm vụ
“Giữ vững bản lĩnh giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của
cán bộ, đảng viên” và “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ là những nội dung chủ yếu, nổi bật, thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
về phương diện chính trị-xã hội. Thực hiện trọng trách đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong giai cấp công nhân phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố
và phát triển cơ sở chính trị-xã hội quan trọng của Đảng, đồng thời giai cấp công nhân
chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân.
1.3.3. Nội dung văn hoá, tư tưởng
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cách
mạng, tác phong công nghiệp, văn minh, hiện đại, xây dựng hệ giá trị văn hóa và con
người Việt Nam, hoàn thiện nhân cách. Giai cấp công nhân còn tham gia vào cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại những quan điểm sai trái, những sự xuyên tạc của
các thế lực thù địch, kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường cách mạng độc lập và
chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện được, giai cấp công nhân Việt Nam phải thường xuyên
giáo dục cho các thế hệ công nhân và lao động trẻ ở nước ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh
chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa
giai cấp công nhân với dân tộc, đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. lOMoAR cPSD| 45740153
CHƯƠNG 2: NHẬN DIỆN VÀ PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM CHO RẰNG: TRONG
NỀN KINH TẾ TRI THỨC, SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN SỄ CHUYỂN GIAO CHO TẦNG LỚP TRÍ THỨC
2.1. Nền kinh tế tri thức
2.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức a, Khái niệm
Kinh tế tri thức là một trình độ phát triển mới của nền kinh tế, trong đó tri thức
trở thành nguồn lực trực tiếp, quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất, phân phối và
tiêu dùng. Khác với nền kinh tế công nghiệp dựa chủ yếu vào vốn, lao động cơ bắp và
tài nguyên thiên nhiên, kinh tế tri thức coi tri thức, thông tin, công nghệ cao và kỹ năng
sáng tạo là yếu tố quyết định năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. b, Những đặc
trưng cơ bản của kinh tế tri thức

Thứ nhất, tri thức là nguồn lực sản xuất cơ bản: Được coi trọng ngang bằng, thậm
chí vượt lên so với vốn và lao động vật chất.
Thứ hai, công nghệ cao giữ vai trò trung tâm: Đặc biệt là công nghệ thông tin, tự
động hóa, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, vật liệu mới.
Thứ ba, đổi mới sáng tạo trở thành động lực chính: Khả năng tạo ra tri thức mới,
áp dụng và thương mại hóa tri thức quyết định sức phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư, lao động trí tuệ chiếm ưu thế: Lực lượng lao động có trình độ học vấn, tay
nghề, kỹ năng công nghệ cao ngày càng gia tăng, trong khi lao động giản đơn giảm dần.
Thứ năm, toàn cầu hóa và kết nối tri thức: Nền kinh tế tri thức không bó hẹp trong
phạm vi quốc gia mà mang tính toàn cầu, gắn liền với mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị quốc tế.
2.1.2. Những điểm tương đồng và khác biệt so với kinh tế truyền thống a, Tương đồng
- Đều hướng tới mục tiêu nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Đều đòi hỏi sự kết hợp giữa các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất: tư liệu sản
xuất, sức lao động và tổ chức quản lý.
- Vẫn tồn tại những mối quan hệ xã hội – giai cấp trong quá trình sản xuất, dù có sự
biến đổi về hình thức.
- Đều phải cạnh tranh trên thị trường. b, Khác biệt Tiêu chí
Nền kinh tế truyền thống Nền kinh tế tri thức
Cơ sở sản Dựa vào tài nguyên thiên
Dựa vào tri thức, công nghệ, đổi mới xuất
nhiên, đất đai, lao động thủ sáng tạo công lOMoAR cPSD| 45740153
Yếu tố đầu Lao động phổ thông, vốn vật
Nguồn nhân lực chất lượng cao, thông vào quan
chất (máy móc, nguyên liệu) tin, sáng chế trọng Đặc điểm
Chủ yếu là sản phẩm vật chất
Sản phẩm hàm lượng tri thức cao sản phẩm
(nông sản, hàng công nghiệp
(phần mềm, dịch vụ số, R&D…) nặng) Trình độ Trình độ thấp Trình độ cao lực lượng sản xuất Vai trò tri
Tri thức có nhưng chưa phải
Tri thức là yếu tố quyết định, trở thức
yếu tố quyết định, lao động cơ thành lực lượng sản xuất trực tiếp bắp chiếm ưu thế Quan hệ
Chủ yếu dựa vào sở hữu nhỏ,
Phức tạp hơn, đòi hỏi quan hệ sản sản xuất
sản xuất manh mún, năng suất xuất phù hợp hơn, sự xuất hiện của sở thấp
hữu trí tuệ, giá trị gia tăng chủ yếu từ
sản phẩm vô hình (ý tưởng, phần mềm, sáng chế…)
2.1.3. Những tác động của kinh tế tri thức đối với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân
Sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức đã tác động mạnh mẽ đến giai cấp công nhân:
Khía cạnh Tác động tích cực Tác động tiêu cực Về cơ cấu -
Lao động giản đơn giảm dần, - Nguy cơ phân hóa giữa
thay thế bằng công nhân kỹ thuật,
công nhân tri thức và công nhân
công nhân tri thức, công nhân công truyền thống. nghệ cao. -
Lao động giản đơn dễ bị
thay thế bởi máy móc, robot, AI -
Cơ cấu đội ngũ công nhân
→ thất nghiệp, thu nhập giảm
hợp lý hơn, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao. Về vị trí
- Công nhân trở thành chủ thể sáng
- Tự động hóa và số hóa làm
trong sản tạo, làm chủ công nghệ, tham gia cải giảm vai trò trực tiếp của công xuất
tiến quy trình sản xuất.
nhân trong nhiều khâu sản xuất. lOMoAR cPSD| 45740153
- Vai trò mở rộng từ “người vận
- Công nhân thiếu kỹ năng số có
hành” sang “người sáng tạo”, góp
thể bị “gạt ra ngoài lề” của quá
phần trực tiếp vào đổi mới.
trình sản xuất hiện đại. Về quan -
Xuất hiện sự giao thoa mạnh -
Nảy sinh sự cạnh tranh và
hệ với trí mẽ giữa công nhân và trí thức.
khoảng cách mới giữa công nhân thức -
Hình thành “công nhân trí và trí thức.
thức” – vừa có kỹ năng nghề, vừa có -
Công nhân trình độ thấp tri thức khoa học.
có nguy cơ tụt hậu, bị coi là lực -
Quan hệ hợp tác, hỗ trợ nhau lượng thứ yếu trong nền kinh tế
trongsản xuất công nghệ cao. tri thức. Về vai trò
- Một số quan điểm cho rằng sứ -
Công nhân vẫn giữ vị trí then lịch sử
mệnh lịch sử của công nhân bị
chốt vì là lực lượng trực tiếp tạo ra
“chuyển giao” cho trí thức. - Nếu
của cải vật chất – nền tảng tồn tại
không tự nâng cao tri thức và của xã hội.
năng lực, công nhân có thể suy -
Là lực lượng nòng cốt trong giảm vai trò lãnh đạo.
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển đổi số.
2.2. Nhận diện và phân tích luận điểm
2.2.1. Nhận diện luận điểm - Cơ sở hình thành luận điểm
Quan điểm “ trong nền kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được chuyển giao cho tầng lớp trí thức” là quan điểm bắt nguồn từ những biến đổi sâu
sắc của xã hội trong bối cảnh khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư.
Về bối cảnh xã hội – kinh tế: Thế giới hiện nay đang bước vào một giai đoạn phát
triển mới, nơi nền kinh tế tri thức dần trở thành xu thế tất yếu và đóng vai trò trung tâm
trong quá trình tăng trưởng. Nếu trong thời kỳ công nghiệp hóa, lao động chân tay và
công nhân sản xuất là lực lượng chủ đạo, thì trong xã hội tri thức ngày nay, chính tri
thức, sáng tạo và công nghệ mới là yếu tố then chốt tạo ra giá trị gia tăng. Những người
có khả năng sáng tạo tri thức, phát minh công nghệ và làm chủ thông tin – chủ yếu thuộc
tầng lớp trí thức, bao gồm: kỹ sư, giảng viên, nhà khoa học,... – đang trở thành lực lượng
chủ đạo trong sản xuất và phát triển. Chính sự chuyển dịch này làm dấy lên quan điểm
cho rằng giai cấp công nhân đang dần mờ nhạt, không còn nắm giữ vai trò trung tâm,
không được ưu tiên dẫn đến xu hướng giảm, và tầng lớp trí thức đang dần thay thế giai
cấp công nhân để đảm nhận vai trò lãnh đạo sự tiến bộ xã hội. Quan điểm này phản ánh
phần nào thực tiễn mới, nơi mà sự tăng trưởng không còn phụ thuộc chủ yếu vào sức
lao động cơ bắp mà dựa vào hàm lượng chất xám và khả năng đổi mới sáng tạo. Điều
này làm mờ ranh giới giữa công nhân và trí thức, dẫn đến sự lẫn lộn về bản chất giai lOMoAR cPSD| 45740153
cấp. Từ đây xuất hiện quan điểm cho rằng, khi hình thức lao động thay đổi, thì sứ mệnh
lịch sử cũng có thể thay đổi theo, và được "chuyển giao" từ công nhân sang trí thức.
Về điều kiện chính trị - toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Cùng với sự phát triển
của kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra những thay
đổi sâu sắc trong cấu trúc giai cấp và quan hệ lao động trên toàn thế giới. Các quốc gia
ngày càng có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, chính trị và công nghệ, dẫn đến việc hình
thành một thị trường lao động toàn cầu và cạnh tranh khốc liệt. Trong đó, lao động có
trình độ cao, kỹ năng chuyên môn tốt - chủ yếu thuộc tầng lớp trí thức - có khả năng
thích nghi và khả năng cạnh tranh vượt trội. Ngược lại, lao động phổ thông, lao động
tay nghề thấp – vốn là bộ phận đông đảo trong giai cấp công nhân truyền thống – đang
đối mặt với nguy cơ bị thay thế, đào thải hoặc bị đẩy ra bên lề của tiến trình phát triển.
Trước yêu cầu mới của thời đại, lực lượng lao động phải liên tục nâng cao trình độ để
thích ứng và có thể thấy giai cấp công nhân ở thời điểm hiện tại đang phát triển về mọi
mặt, họ không còn là những người chỉ biết những công việc chân tay với trình độ học
vấn thấp mà là những công nhân trong các lĩnh vực công nghệ thông tin hay kỹ thuật số
đòi hỏi trình độ tri thức cao, họ có chuyên môn, kỹ năng vận hành máy móc hiện đại và
tiếp nhận công nghệ cao. Điều này khiến một bộ phận công nhân lầm tưởng rằng họ
không còn là công nhân nữa mà trở thành lao động tri thức. Sự giao thoa giữa trí thức
và công nhân cũng góp phần củng cố thêm cho quan điểm về “sự chuyển giao sứ mệnh lịch sử”.
Về điều kiện khoa học – công nghệ: Một trong những động lực mạnh mẽ nhất
định hình nên quan điểm trên là sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư (4.0). Cuộc cách mạng này không chỉ làm thay đổi phương thức sản xuất mà còn làm
biến đổi sâu sắc cơ cấu lao động. Với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các công nghệ
như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, robot công nghiệp, Internet vạn vật và dữ liệu lớn,
nhiều công việc thuộc lao động cơ giới hoặc lao động giản đơn đang dần được thay thế
bởi máy móc. Quá trình sản xuất ngày càng dựa vào hệ thống điều khiển tự động và
phần mềm thông minh, đòi hỏi lực lượng lao động có khả năng tư duy logic, lập trình,
phân tích và xử lý thông tin. Chính điều này dẫn đến sự dịch chuyển từ lao động thủ
công sang lao động trí tuệ, từ sản xuất vật chất thuần túy sang phát triển sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao. Trong bối cảnh đó, tầng lớp trí thức – đặc biệt là những người
có chuyên môn sâu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ – nổi lên như một lực lượng
tiên phong trong sự nghiệp phát triển kinh tế và cải tiến xã hội. Đây là cơ sở thực tiễn
quan trọng khiến nhiều người tin rằng trí thức mới là người kế thừa sứ mệnh lịch sử trong thời đại mới.
Trong thực tế xã hội phát triển, tầng lớp trí thức có nhiều đóng góp cho giáo dục,
khoa học, quản trị, và phát triển công nghệ,... Họ thường được giao các nhiệm vụ quan
trọng như hoạch định chính sách, phân tích thị trường, xử lý dự án, số liệu,... lãnh đạo
các chương trình nghiên cứu và giữ vai trò quan trọng trong đổi mới sáng tạo. Điều này
càng làm gia tăng quan điểm cho rằng tầng lớp trí thức đã, đang, và sẽ thay thế vai trò lOMoAR cPSD| 45740153
của giai cấp công nhân trong việc dẫn dắt sự phát triển của xã hội và trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, nhìn nhận như vậy là phiến diện và sai lệch, bởi nó chỉ dựa vào biểu
hiện bề ngoài của sự biến đổi xã hội, mà không đi sâu vào bản chất quan hệ sản xuất.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân không chỉ là lực lượng lao động đơn
thuần, mà là lực lượng có lợi ích gắn bó chặt chẽ với lợi ích chung của toàn xã hội. Họ
là giai cấp duy nhất có đủ điều kiện về vị trí trong quan hệ sản xuất và tính tổ chức để
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Việc đề cao trí thức và xem nhẹ công
nhân là sự xét lại lý luận cách mạng, có thể làm suy yếu nền tảng giai cấp của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, gây lệch lạc trong đường lối phát triển và chính sách xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
2.2.2 Nội dung và ảnh hưởng luận điểm
a, Nội dung luận điểm
Thứ nhất là phủ nhận vai trò trung tâm của GCCN: luận điểm cho rằng sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân “chuyển giao” cho tầng lớp trí thức, tức là đã gián tiếp
phủ nhận vai trò trung tâm, lãnh đạo và cách mạng của giai cấp công nhân trong xã hội
hiện đại. Quan điểm này đã khẳng định trong thời đại công nghệ mới, GCCN không còn
đủ trí và lực để lãnh đạo quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến, có khả năng lãnh đạo và tổ chức xã hội mới. Tuy nhiên, luận điểm trên lại ngầm
cho rằng khi tri thức trở thành yếu tố sản xuất chủ yếu, thì vai trò cách mạng và lãnh đạo
của công nhân cũng mất đi, và họ không còn là chủ thể trung tâm của lịch sử nữa. Như
vậy, chức năng lịch sử vốn gắn với sự phát triển xã hội – một chức năng mang tính bản
chất của giai cấp công nhân – đã bị phủ nhận.
Thứ hai, đề cao tuyệt đối vai trò của tầng lớp trí thức: Song song với việc phủ
nhận vai trò của công nhân, luận điểm còn đề cao tầng lớp trí thức một cách tuyệt đối,
xem họ là lực lượng kế thừa toàn bộ vai trò lịch sử của công nhân. Trong xã hội hiện
đại, không thể phủ nhận vai trò ngày càng quan trọng của trí thức trong việc sản xuất tri
thức, phát triển khoa học – công nghệ và đóng góp vào sự phát triển chung. Tuy nhiên,
trí thức không phải là một giai cấp thuần nhất về lập trường và nhận thức. Nhiều trí thức
không đứng về phía nhân dân lao động, mà lại phục vụ cho lợi ích cá nhân hoặc tầng
lớp cầm quyền. Do đó, không thể mặc định rằng trí thức sẽ thay thế hoàn toàn công nhân
trong vai trò cách mạng hoặc lãnh đạo xã hội. Mặt khác, không phải mọi trí thức đều có
khả năng tổ chức sản xuất, quản lý xã hội hoặc gắn bó chặt chẽ với đời sống nhân dân
như giai cấp công nhân từng làm trong lịch sử.
Thứ ba, không xem xét đến sự chuyển biến của GCCN trong xã hội hiện đại: Một
điểm phiến diện trong luận điểm này là không xét đến sự vận động và phát triển nội tại
của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Giai cấp công nhân hiện nay không còn chỉ
là những người lao động giản đơn, làm công việc chân tay trong nhà máy như thời kỳ
công nghiệp đầu tiên. Họ ngày càng được tri thức hóa, có trình độ chuyên môn, kỹ năng
vận hành và làm chủ máy móc, công nghệ hiện đại. Nhiều công nhân hiện đại có kiến lOMoAR cPSD| 45740153
thức không thua kém trí thức, thậm chí trực tiếp tham gia vào quá trình nghiên cứu, cải
tiến kỹ thuật, đổi mới sản xuất. Vì vậy, việc cho rằng công nhân đã “hết vai trò” trong
nền kinh tế tri thức là một nhận định phi thực tế và thiếu cơ sở khoa học.
Thứ tư, bỏ qua mối quan hệ biện chứng giữa công nhân và trí thức: Luận điểm
trên còn mang tính chia cắt và tuyệt đối hóa khi không thấy được mối quan hệ gắn bó
và bổ sung lẫn nhau giữa giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức. Trong nền kinh tế hiện
đại, sự phát triển của xã hội không thể chỉ dựa vào một lực lượng đơn lẻ, mà là sự kết
hợp của nhiều giai tầng xã hội, trong đó công nhân và trí thức đóng vai trò nền tảng.
Công nhân làm chủ quy trình sản xuất; trí thức nghiên cứu, sáng tạo và hỗ trợ công nhân
nâng cao hiệu quả lao động. Hai lực lượng này không thể tách rời, mà phải phối hợp và
hỗ trợ nhau để thúc đẩy sự phát triển bền vững. Do đó, việc tách biệt vai trò và “chuyển
giao sứ mệnh” từ công nhân sang trí thức là cách nhìn thiếu biện chứng, dễ dẫn đến sai
lệch trong định hướng xã hội và xây dựng lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Tóm lại, có thể thấy răng luận điểm: “ Trong nền kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử
của GCCN dần chuyển giao cho tầng lớp trí thức " là một nhận định mang tính phiến
diện, cực đoan và không phản ánh đúng thực tiễn xã hội hiện đại. Trong điều kiện mới,
vai trò của giai cấp công nhân không hề mất đi mà đang được đổi mới và nâng cao về
chất. Đồng thời, trí thức có vai trò quan trọng nhưng không thể thay thế hoàn toàn chức
năng cách mạng, lãnh đạo và tổ chức sản xuất của công nhân. Sự phát triển của xã hội
cần sự kết hợp giữa các lực lượng, trong đó công nhân và trí thức cần gắn bó, hợp tác
và bổ sung cho nhau. Vì thế, cần nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và biện chứng,
tránh rơi vào cái bẫy tuyệt đối hóa hoặc phủ định một chiều.
b, Ảnh hưởng của luận điểm
Luận điểm “Trong nền kinh tế tri thức, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
sẽ chuyển giao cho tầng lớp trí thức” có ảnh hưởng tích cực ở chỗ nó nhấn mạnh tầm
quan trọng ngày càng lớn của tri thức và tầng lớp trí thức trong thời đại mới. Khi khoa
học – công nghệ, tự động hóa và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu của phát
triển, trí thức đã tham gia trực tiếp vào lực lượng sản xuất, quyết định tốc độ và chất
lượng tăng trưởng kinh tế. Nhận định này góp phần thúc đẩy xã hội quan tâm nhiều hơn
đến giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao, đồng thời khuyến khích sự gắn kết giữa
lao động trí óc và lao động chân tay. Nó cũng khơi gợi nhận thức rằng, trong nền kinh
tế tri thức, công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử cần không ngừng nâng cao trình
độ, từng bước được “trí thức hóa” để đáp ứng yêu cầu sản xuất hiện đại.
Tuy nhiên, luận điểm này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nếu được hiểu theo
nghĩa tuyệt đối hóa vai trò của trí thức và phủ nhận vai trò tiên phong của giai cấp công
nhân. Điều này dễ dẫn tới sự lệch lạc về lý luận, trái với quan điểm Mác – Lênin khi coi
công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thực tiễn, tầng lớp
trí thức có tính phân hóa mạnh, không phải lúc nào cũng gắn bó mật thiết với nhân dân
lao động, nên khó đảm nhận riêng lẻ sứ mệnh lịch sử. Nếu coi nhẹ công nhân và đề cao
tuyệt đối trí thức sẽ gây nguy cơ chia rẽ, làm suy yếu khối liên minh công – nông – trí lOMoAR cPSD| 45740153
thức vốn là nền tảng vững chắc của cách mạng. Do đó, ảnh hưởng tiêu cực của luận
điểm này là dễ dẫn đến tư tưởng xa rời quần chúng và làm lu mờ vai trò trung tâm của
giai cấp công nhân trong thời đại mới.
2.2.3. Phê phán luận điểm
a, Nhầm lẫn giữa "vai trò quan trọng" và "sứ mệnh lịch sử" của một giai cấp

Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong mỗi
thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế
xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó là giai cấp cách
mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến
đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó
là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh
Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc
lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Từ vai trò to lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước sự sụp đổ của hệ thống các nước chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, trước sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư
bản,trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức đã xuất hiện những luận thuyết phủ nhận
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Một trong những luận điệu phổ biến nhất hiện
nay của các thế lực thù địch là khẳng định giai cấp công nhân đã mất đi sứ mệnh lịch sử
vì vai trò của trí thức trong nền kinh tế tri thức ngày càng trở nên nổi bật. Họ lập luận
rằng trí thức mới là lực lượng chủ đạo trong sản xuất và sáng tạo tri thức, đồng thời là
nhóm duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng. Ngược lại, thực tiễn cho thấy trí thức
không phải là một giai cấp mà chỉ là một tầng lớp xã hội đặc thù, không có lợi ích kinh
tế và hệ tư tưởng riêng. Trí thức đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu và phát triển
khoa học công nghệ, nhưng họ không thể thay thế giai cấp công nhân trong việc dẫn dắt
phong trào cách mạng, bởi trí thức không gắn bó trực tiếp với lực lượng sản xuất và
không đại diện cho lợi ích của toàn bộ nhân dân lao động, gắn bó lợi ích với nhiều giai
cấp khác nhau, thiếu tính thống nhất về chính trị để trở thành giai cấp lãnh đạo.
b, Giai cấp công nhân vẫn giữ nguyên địa vị kinh tế - xã hội khách quan để thực
hiện sứ mệnh lịch sử
Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là với việc ứng
dụng công nghệ tin học vào quá trình sản xuất, một số học giả tư sản, mà tiêu biểu là
Alvin Toffler, đã đưa ra những lý thuyết khác nhau và cho rằng, xã hội hiện đại đang
bước vào thời kỳ “hậu công nghiệp”, “văn minh tin học”, “văn minh trí tuệ”, đi đến phủ
nhận sự hiện tồn của sản xuất công nghiệp. Do đó, giai cấp công nhân với tư cách là sản
phẩm của nền sản xuất công nghiệp cũng đương nhiên biến mất cùng với sự biến mất