Lib4U
"Behind every stack of books there is a ood of knowledge."
Cơ hc lưng t và vt liu nano
Trương Văn Tân, PhD
Nghiên cu viên cao cp
Vin Khoa hc và K thut Quc phòng (DSTO)
Melbourne, Victoria,Australia
If you think you understand quantum mechanics,
Richard P. Feynman (Nobel Vt lý 1965)
Ni dung: E =
Trưc hai ngã đưng: cơ học c đin và lưng t nh ng ca s thu nhỏ Di năng lưng đin t và s phát quang Chấm lưng t và
giếng lưng t Ht nano bán dn: s phát hunh quang Ht nano kim loi vàng: plasmon và s phát hunh quang Giếng lưng t và tia hồng
ngoi Tim năng ng dng Thưng đế đ xí ngu!
1. ν E = h
Vào những đêm đông không gì thú v bằng ngi n cnh cái lò sưi nghe tiếng la reo tí tách, nhìn ngn la lung linh cùng vi vài ngưi bạn nhấm
nháp ly rưu vang đ Penfolds bàn v triết lý cuc đi, i chuyn thiên văn đa lý, đông tây kim c. Những đêm đông s vô cùng lnh lo và vô v
nếu kng có cái lò sưi vi những thỏi than hồng thoang thong i ki ca những kc g còn xanh, quyn theo lung kng k đưc hâm
ng bằng những tia hồng ngoi. Đm cm trong một kng gian m áp, ngà ngà men rưu, thỉnh thong ánh mắt ca ta bị lôi cun vào những
ngn la đang hừng hực nhảy nhót, những khonh khắc y có khi nào ta ng đến ý nga. vt lý ca cái lò sưi khiêm tn? Có khi nào ta ng
rng cái lò sưi kia cũng có quan hệ con xa đến cái CD player đt một góc png và đang phát ra những âm thanh tuyt vi ca dòng nhạc
giao ng c đin Schubert, Mozart hay những bài tình ca Ngô Thy Miên, Trnh Công n đau xót cho mi tình gy mong manh hay tán tng mt
tình yêu đang đưc lên ngôi?! Khi đt ra những câu hỏi này ngưi đi s cho rng ta đang bị o nghề nghip, tch ng ngi ng lung,
nhưng thực s nếu bo cái lò sưi là m đu và cái CD player là h qu ca cơ hc lưng t, thin nghĩ cũng không phi là quá li.
Xut phát t gi thuyết lưng t ca Planck, n một thế k trôi qua thuyết lưng t như một con sông đã vưt qua nhiu kc quanh, ghềnh thác,
tp hợp những phát hin vĩ đi theo dòng chảy đ ngày m nay tr thành một dòng sông to ln đ vào bin c khoa học, duy trì s phồn vinh và
hạnh pc ca nhân loi. Vào năm 1900, qua s quan sát v bức x sóng đin t ca vt đen (black body), Planck đưa ra đnh lut bức x din t s
liên hệ gia nhit đ và c sóng ca bức x. Nói một cách d hiu, khi làm ng một thanh st, st biến thành màu đ, ng n thành màu vàng
và ng n nữa màu xanh trng như ta tng thấy khi st thể lng. Càng ng c sóng ca bức x càng ngn (t màu đ tiến đến màu xanh
trong trưng hợp thanh st). Dù kng phải là vt đen lý tưng theo đúng đnh nga trong vt lý, vt đen trong thực tế có thể là đin tr ca ng
đèn, thanh st, kc g trong lò sưi, mt tri, phong nền vũ tr (cosmos background). T đnh lut bức x Planck, da theo quang ph hay màu sc
phát quang ta có thể d đoán nhit đ ca bề mặt mặt tri trong khong 5.000 6.000 °C, than hồng trong lò sưi trên dưi 1.000 °C, đin tr ng
đèn trên 1.000 °C. Vi ba (microwave) phát đi t khong kng gian vô tn cho ta biết nhit đ ca vũ tr là -270 °C. Ngưc li, t nhit đ ca một
vt ta có thể biết bưc sóng phát ra t vt đó. Nhit đ con ngưi 37 °C cho biết cơ thể ta phát tia hng ngoi.
Đ chứng minh đnh lut bc x ca mình, Planck đã táo bạo đưa ra gi thuyết lưng t là năng lưng bc x ca sóng đin t đưc phát ra không
liên tc theo tng gói năng lưng ν ri rc, gi là lưng t, trong đó là hằng s Planck, là tn s ca sóng đin t. Nng Planck tin đó chỉE = h h n
mới là cái mẹo toán” đ suy ra công thức phân bố năng lưng bức x ca ông va tìm thấy sao cho hoàn toàn p hợp vi kết qu t nghim. Vài
năm sau (1905), da vào ý tưng bức x nhit theo gói năng lưng ca Planck, Einstein đi thêm một c quan trng khi đưa ra quan nim rng ánh
sáng đưc cu to bởi các hạt gi là photon (hay quang t, light quantum), mỗi hạt mang năng lưng đin tE = hν, và tương tác vi các ca vt cht
khi chm vào. Bng cách đó ông nhanh chóng hoàn toàn gii thích đưc hiu ng quang đin gii vt lý đương thời phải tay, và phát hin này đã
đem li cho ông gii Nobel năm 1921. Tc là, trái vi quan nim sóng phổ biến lúc bấy gi, Einstein cho rng ánh sáng còn một s , đótn ti th hai
là hạt. Ánh sáng va là sóng va là ht: khái nim nhị nguyên sóng/hạt ra đi.
Ngưi Nhật Bn đã dùng tiếng Hán dch thut ng quantum” là , đc ra âm Hán Vit là lưng t (lưng: năng lưng, t: con, phần nhỏ),ryoshi
biu hin đúng ý nga ca quantum. Công thức vĩ đi, E = hν, hàm chứa tính hạt ca sóng, cũng là khởi đim ca bộ n cơ học lưng t. Tr s
ca h rt nhỏ (6,626 x 10 J.s) nhưng đng sau các ct tr quan trng ca cơ học lưng t, hằng s Planck kng bao gi vng ng. Nó hin hữu
trong mọi công thức quan trng liên quan đến cơ học lưng t và chi phối vic đi đng ca các vt chất cc nhỏ ca thế gii vi . Cho đến ngày
m nay, cơ học lưng t càng ngày càng phục v nhân loi một cách đc lc t chiếc radio, TV nh tng đến chiếc máy tính, CD player, iPod,
đin thoi cm tay và những thiết bị khoa hc, y hc, vin thông, ci thin đi sng và sc khe con ngưi.
2. Trưc hai ngã đưng: cơ hc c đin và lưng t
Khi gp phải một vn đ kng rõ rt, ngưi Nam B có một câu i dí dm nhưng mộc mạc, chân thành: coi dzy hổng phải dzy. Trong vt
lý, din t một cách nh dân những cơ bản ca cơ học lưng t như tính xác sut, tính bất đnh và bản chất nhị nguyên sóng/hạt ca vt
chất trong thế gii vi ca pn t, nguyên t, đin t và các hạt sơ cp hạ nguyên t (subatomic particle). K t đu thế k 20, khi hằng s Planck
xut hin trong đnh lut bức x và tiếp theo đó một lot lý thuyết như hiu ng quang đin Einstein, pơng trình sóng Schrödinger, đnh lut de
Broglie, nguyên lý bất đnh Heisenberg, những điu hiu biết da theo tng thức (common sense) ca thế gii đi tng đưc lý gii qua cơ
học c đin Newton hoàn toàn b đo ln. Trưc nhng phát hin vĩ đi này, đã có mt thi gian dài các nhà khoa hc đã tng hoang mang, thm c
chế diu trưc những khám phá mang tính trit đ và dt khoát ca mt cuc cách mng khoa hc.
Trong thế gii bất đnh ca cơ hc lưng t, đ hiu đưc s hin hu, di đng và tương tác ca vt cht cc nh ta cn đến mt tư duy khác phá tan
những xing xích trói buc ca cơ hc c đin. Khi một chiếc xe i chạy vi vn tc 100 km/h, thì ta có th tiên liu rng sau 1 tiếng đng h chiếc xe
xut phát t đim A s đến đim B cách đó 100 km. Đây là kết qu tt đnh ca chiếc xe. Nng trong thế gii ca các hạt nhỏ, ta kng thể xác đnh
v trí ca hạt cnh xác 100 %. Khác vi chiếc xe i, vn tc và v trí ca vi hạt kng thể đo đc một cách cnh xác cùng một lúc vì s nhoè lưng
t. Nguyên lý bất đnh Heisenberg đã đnh lưng hóa đ nhoè này bng mt công thc đơn gin cha hng s Planck.
Cái mịt v v trí hay tính chất phi đnh x (non-locality) ca vi hạt là một đc đim khác ca cơ học lưng t. cùng một thời đim cng như
ng ma có thể nhiu i khác nhau vi những xác sut đnh v khác nhau. Đây là vic k l theo trc giác đi tng nhưng xy ra trong thế gii
vi . Xác sut này có thể tính đưc t pơng trình sóng nổi tiếng ca Schrödinger. Pơng trình đưc din t dưi một dng đơn gin, HΨ =
EΨ, Ψ là hàm s sóng. Bình pơng ca Ψlà xác sut hin hữu ca hạt một v trí nào đó. Tính ngu nhiên t xác sut ca pơng trình
Schrödinger và s nhòe m trong nguyên lý bất đnh Heisenberg ng tr thế gii vi ca cơ học lưng t. Cái có có kng kng ny đã cho con
ngưi một vũ k suy lun v đc tính vt lý ca nhng cái nh nhất i những đnh lut ca cơ hc c đin phải lùi c. Có l khi khám phá ra
pơng trình nầy Schrödinger còn cao hng hơn c Archimede khi pt hin đưc sc đy ca c lúc ngâm trong bồn tm; Archimede nhy ào ra
khỏi bồn chạy ra ngoài đưng trn trung như nhộng la ln Eureka! (tìm ra ri!). Erwin Schrödinger ngưi Áo, đã viết ra pơng trình này trong
những ngày đm say ca một cuc hẹn lãng mạn vi ngưi bạn gái trong vùng rng i Alps Ông qu là một nhà khoa học lãng t hào hoa,
cùng một lúc phụng s cho c khoa hc và tình yêu!
Công thức Planck, ν, biu hin tính hạt ca sóng; năng lưng quang t, , đưc biu thị bởi tn s sóng . Gn 20 năm sau đnh lut bức xE = h E n
Planck, nhà vt lý ngưi Pháp, Louise de Broglie, táo bo đưa ra mt đ xut ngưc li cho rng hạt cũng có thể là sóng. T công thc ν, ông choE = h
thấy vi hạt (đin t và các hạt sơ cp) khi di chuyn vn tc v s tương ng vi sóng vi c sóng ( là hằng s Planck, là khối lưngl = h/mv h m
hạt và v là vn tc). Mt ln nữa, ta thấy lưng tính sóng/hạt xut hin trong công thức de Broglie; c sóng l tùy thuc vào khối lưng hạt m. T
nghim đã chứng minh s di đng ca đin t, vn là hạt, sinh ra hin tưng giao thoa, nhiu x ca sóng. T d khi đin t di chuyn trong một
đin trưng có đin áp 1 volt, đin t có c sóng là 1,2 x 10 m (vùng ca tia X) [1]. N vy, trái banh golf khi chuyn đng có tr thành sóng
kng? Theo de Broglie, trái banh golf (hay những vt di đng như chim bay, cò bay, xe chạy, ngưi đi.) cũng có dng sóng. Ta hãy dùng con tính
cho d hiu. Dùng công thức de Broglie, ta tính đưc c sóng ca banh đ dài khong 10 m [2], nhưng tr s này quá nhỏ đ có những hin
tưng mang tính cht sóng như nhiu x và giao thoa xy ra. Vì vy, theo những tri nghim thưng ngày, mt cú vt banh trên sân golf dù nhìn thế
nào đi nữa t banh vn là banh!
-34
-9
-34
Sau cú vt, trái banh golf bay lc ng va vào một gc cây, theo đnh lut tác lc và phản lc Newton trái banh golf s bị di tr li. Chuyn nh
tng kng gì phi ngc nhiên. Nng cái ngc nhiên là khi trái banh đưc thu nh đến kích c ca đin t t trái banh có thể đi xuyên” qua vt
chắn vì banh” bây gi có tác dng như sóng. Li tm một hin tưng ma quái khác ca cơ học lưng t đưc gi là hiu ng đưng hầm
(tunelling effect). Nn li công thức c sóng ca de Broglie, ta nhận ra ngay chỉ có những vt cc nhỏ vi khối lưng cc nhỏ mới cho c sóng
có một con s đ ln đ hiu ng này xy ra.
Tính nhị nguyên sóng/hạt là một đc tính tiêu biu ca cơ học lưng t. Schrödinger khi đ cp đến bản chất ca những hạt sơ cp tng i Không
nên nhìn mt ht như là mt thc th c đnh mà hãy xem nó như là s kin nht thi. Đôi khi nhng s kin ny liên kết vi nhau cho ra mt o giác ca nhng
thc th c đnh (It is beer not to view a particle as a permanent entity, but rather as an instantaneous event. Sometimes these events link together to
create the illusion of permanent entities) [3]. K hiu? Có l. Nng ta đng đánh giá thấp khả năng tư duy ca nh vì ta đang bẻ cong hay phải
đi ngưc vi trc giác đã đưc thành nh qua những tri nghim ca cuc sng đi tng. Cnh vì vy khi bàn v lưng t, giáo sư Richard
Feynman tng i Nếu bn nghĩ rng bn đã hiu cơ hc lưng t, thì bn tht ra chưa hiu gì v nó c. Tuy nhiên, cái mịt lưng t s sáng t n
khi ta đt cái o giác ca Schrödinger trong cái nhìn triết học Phật giáo, khi bản chất vô ngã, vô tng ca vt chất lúc sóng lúc hạt, vy
kng vy thật ra ch là kết qu ca cõi ta bà phn ánh điu kin thí nghim và s đo đc ca ngưi quan sát.
N vy, đâu là ln ranh gia vt chất vĩ tuân theo cơ học c đin và vt chất vi ca thế gii lưng t. Các bậc tin bối như Bohr, Heisenberg
và von Neumann vn nhấn mạnh s phân chia gia hai phạm trù c đin và lưng t, mặc dù các ông cũng thừa nhận rng ca có qui lut vt lý
nào có thể đnh v rõ rt ln ranh đi đi này. Gn đây (năm 2005), một nhóm nghiên cu ti Áo và Đc [4] dùng giao thoa kế phân t (molecular
interferometry) tìm kiếm ln ranh này qua s kim nhận vch giao thoa ca các loi phân t trong chân kng bằng cách tăng dn đ ln phân
t cho đến khi các vch này biến mất. Các phân t ln như qu ng C (70 nguyên t carbon, đưng kính 1 nm), phân t sinh học
C H N (đưng kính 2 nm) và phân t nặng ký C F (phân t lưng = 1632, đưng kính 1 nm), đã cho thấy vch giao thoa. Tính nhị nguyên
sóng/hạt đưc xác lp. Phân t C F là phân t có phân t lưng cao nhất t trưc đến gi đưc ghi nhận mang tính nhị nguyên sóng/hạt. Tuy
nhiên, khi có s tác đng ca phân t k ca i trưng xung quanh. Các vch giao thoa bị nhoè đi nhanh cng. Tính chất sóng ca hạt bị suy
gim ri tan biến. T nghim này cho thấy một kết qu quan trng là ngoài kích tc, s tương tác va chạm vi vt chất trong i trưng nh
ng đến tính nh nguyên sóng/hạt trong thế gii vi mô.
Ln ranh gia cơ học c đin và lưng t, tt đnh và bất đnh kng phải là một đưng biên rõ rt tùy thuc vào điu kin t nghim và i
trưng xung quanh. Ta li thấy bản chất vô ngã ca s vt. Thuyết duyên sinh trong Phật giáo i đến s liên hệ hỗ tương ca vn vt; cái này sinh
cái kia sinh, cái này dit cái kia dit. Vì duyên sinh n vô ng. Ln ranh mờ o gia cơ học c đin và cơ học lưng t lúc n lúc hin tùy vào s
tương tác ca vt đưc quan sát và môi trưng xung quanh, chẳng qua cũng không ngoài s chi phi ca duyên sinh bao trùm vũ tr.
Vào thập niên 70 ca thế k trưc, những thiết bị thực nghim tinh vi ra đi. Những đnh lut lưng t đu thế k 20 va mang tính triết học va
mang tính khoa học n tàng một ct ma quái gi đây đưc kim chứng vi những thành công vưt bực. Những phát hin bất ng t các kết
qu ca thực nghim lưng t kng những gii ta đưc nhiu băn khoăn cũ xung quanh nhng cuc tranh lun gia Einstein và Bohr, mà còn cho
các nhà vt lý một khung tri mới trong vic to lp cơ s cho n tin học lưng t (quantum information) đnh cao s là máy tính lưng t và
các pơng tin vin thông lưng t.
Mt khác, s xut hin ca nền công nghệ nano vào thp niên 90 đã tr tnh mt mc tiêu cho các ng dng tuân theo cơ học lưng t. Các vt liu
nano trong phạm vi t 1 dến 10 nm (nanomét) nằm gia kích c ca các loi phân t nhỏ và vt liu khi. Đ cho thy đ nhỏ cũng như đ ln ca
vt liu nano, 2 gram hạt nano có đưng kính 100 nm có thể phân phát cho toàn thể 6 t ngưi trên qu đt này mỗi ngưi 300.000 hạt; 1 gram ng
than nano có din tích bề mặt là 1.600 m rng tương đương vi 8 sân tennis. Tính chất ca vt liu nano kng phải như vt liu khối
cũng kng ging các hợp chất phân t, va nằm trong vòng chi phối ca các qui lut vt lý c đin va tùy thuc vào thuyết lưng t. Những tính
chất này bao gm cơ tính, lý tính, quang tính, t tính, a tính, biến đi tùy vào đ ln ca hạt (dây, si) nano, khong cách các hạt (dây, si) và hình
dng ca . N ta s thấy phần kế tiếp, nh ng ca cơ học lưng t trên vt liu nano cho ta những hin tưng thú v và những ng dng vô
cùng to ln.
3. nh hưng ca s thu nh
Hơn 15 năm qua, vic chế to các loi tinh thể nano, hạt nano kim loi, kim loi t tính và bán dn có kích tc t vài nm đến vài chục nm có s
tiến bộ vưt bực. Phương pháp tng hợp hạt nano có kích thưc vài nm và đơn phân b (monodispersion) đưc trình bày t m trong mt bài báo cáo
tng quan đc sc gn đây [5]. Trưc khi kho sát nh hưng ca các qui lut lưng t đến vt liu nano, ta hãy xem s thu nh t bn thân đã mang
li những thay đi nào đến các đc tính ca vt liu.
Sự gia tăng bề mặt cp đ triu ln đến t ln khi vt chất thu nh t mc vĩ , trung (m, cm, mm, µm) đến cp nanot làm thay đi lý tính,
quang tính, t tính và các đc tính nhit đng học ca vt chất đó. Những hằng s t nhiên” ca vt liu khối ta ng là bất biến, khi mức nm
tr thành khả biến theo đ ln hạt. Thật ra, các đc tính ca vt liu tùy vào s nối kết, cu trúc ca nguyên t gm nguyên t n trong (bulk) và
nguyên t bề mặt. kích tc đi thưng, s nguyên t bề mặt gn như không đáng k so vi s nguyên t n trong. Khi b thu nh đến nanot,
bề mặt gia tăng và s nguyên t bề mặt cũng gia tăng. Ta hãy xem vài t d đơn gin v đ nóng chy, t tính và cơ tính ca mt s vt liu.
Đ ng chảy ca vàng khối là 1.064 °C. Khi vàng đ ln cm, mm, thậm c µm, các t l nguyên t vàng bề mặt so vi nguyên t n trong vt
chất có thể xem như là kng đáng k. Đ ng chảy còn duy trì khong 1.000 °C khi hạt vàng có đ ln 50 nm vì nguyên t bề mặt chỉ chiếm 6
%. Tuy nhiên, khi hạt nhỏ n 5 nm (chứa 3600 nguyên t vàng) nguyên t bề mặt chiếm 20 %, đ nóng chy gim đến 900 °C và đến 350 °C khi ht
kích tc 2 nm (200 nguyên t vàng, nguyên t bề mặt 50 %). Sự cnh lch vài trăm °C do s khác bit chỉ vài nanot gia 2 5 nm cho thấy tm
quan trng ca nh hưng đ ln thứ nguyên nano. Khi ngoi suy đến kích thưc 1 nm (30 nguyên t, nguyên t bề mặt 80 %) t đ ng chảy ch
còn 200 °C [6].
70
44 30 4 60 48
60 48
2
Hình 1: nh hưng ca s thu nh trên t tính ca st, (a) vòng t tr ca st khi và (b) ca ht nano st (Ngun: Wikipedia).
Cơ tính và lý tính cũng bị nh ng ca s thu nhỏ. Đã có nhiu công trình phát hin s gia tăng cơ tính v đ bền (strength) và đ dai (toughness)
ca các hạt nano kim loi và ceramic. Ht nano đng vi kích thưc 10 nm gia tăng đ cng (hardness) 8 ln cao n đng khi. Ngoài ra, nhng cu
trúc bề mặt nano còn đem li những hiu qu như gia tăng lc bám do lc van der Waals phỏng bàn chân thạch sùng hay to ra bề mặt cc
gt c (superhydrophobic) hay cc thích nưc (superhydrophilic) ca mt s vt liu.
nh ng ca các qui lut lưng t trên s thu nhỏ ca vt liu cp đ nanot là một hin tưng nổi bật có thể quan sát qua s tác đng ca
sóng đin t trong vùng hồng ngoi, ánh sáng thấy đưc và t ngoi trên các loi hạt và cu trúc nano. Các vt liu ng đáp tr li bằng cách phát
sinh ra ánh sáng, dòng đin, chuyn hoán năng lưng tùy vào đc tính ca khe di năng lưng (energy bandgap) cho ta những ng dng như s
phát quang, pin mặt tri, b cm ng sóng đin t, máy nh hng ngoi và các dng c quang hc, quang đin t hu dng khác. Sự thành hình ca
khe di năng lưng, s biến hóa ca khe di khi vt liu đưc thu nh và các ng dng s đưc kho sát phn sau.
4. Dải năng lưng đin t và s phát quang
Hình 2 : Di năng lưng đin t : (a) kim loi (khe di = 0 eV), (b) cht bán dn (khe di = 1 1,5 eV),
(c) cht cách đin (khe di > 3 eV). Di đen tưng trưng cho di hóa tr và di trng cho di dn đin.
Di năng lưng đin t (electronic energy band) và khe di là những đc tính khối rt quan
trng ca chất rn. Trong chất rn, s thành nh ca di năng lưng đin t quyết đnh đc
tính dn đin, bán dn hay cách đin ca chất rn đó. thể rn, các vân đo nguyên t liên
kết, chồng chập lên nhau mọi pơng ng đ to n vân đo phân t. Ngưi ta phỏng
tính 1 cm chất rn đưc 10 (10 ngàn t t) nguyên t to thành. Trong quá trình nầy, theo
cơ học lưng t, những mực năng lưng đin t s đưc thành nh và các đin t s chiếm
c các mực năng lưng nầy. N vy, ta có 10 vân đo phân t và 10 mức năng lưng
tương ng đưc to thành. Các mức năng lưng nầy chồng chập lên nhau theo thứ t tr s
ca cng, tr thành di đưc gi là di năng lưng đin t. Di năng lưng thấp gi là
di a tr (valence band) và di năng lưng cao n gi là di dn đin (conduction band)
(Hình 2). Vì con s 10 là một con s rt ln những mức năng lưng chồng chập nhau trông
ging như một di liên tc (continuum). N bề dày ca một quyn t đin, t xa nhìn t
trông như một khối liên tc, nhìn gn t mới thấy những trang giy ri rc. Sự thành nh di năng lưng ca chất rn có thể kng liên tc, khi đó
s có một khong trng xut hin, ging như cái mương chia ra hai vùng năng lưng. Khong trng đó gi là khe di năng lưng (Hình 2).
Hình 3: S phát quang đin hc (electroluminescence) ca đèn LED. Năng lưng dư tha do s phi
hp đin t năng lưng cao vi l trng (+) đưc biến thành ánh sáng. u (bưc sóng) ca ánh
sáng đưc quyết đnh bi tr s ca khe di.
Tr s ca khe di năng lưng kng những cho biết đc tính dn đin, bán dn và cách đin
ca vt liu còn quyết đnh quang tính cho nhng ng dng như s pt quang (đèn LED,
light emiing diode), s hin thị màu sc, pin mặt tri ca các chất bán dn và polymer dn
đin. Nguyên tc phát quang ca đèn LED là khi cho một dòng đin chy qua, s kết hợp gia
đin t và l trng mang đin dương xy ra. Trong quá trình kết hợp đin t nhảy t di
dn đin (năng lưng cao) xuyên qua khe di xung di a tr (năng lưng thấp) (Hình
3). Năng lưng dư thừa s biến thành ánh sáng có c sóng đnh bởi năng lưng khe
di [9]. T d nếu ta mun LED phát ánh sáng đ (c sóng = 720 nm, năngE
lưng E = hν = 1,7 eV) t ta cn một vt liu có khe di năng lưng khong 1,7 eV. Hàng
lot hợp chất bán dn như GaAs, GaAsP, AlGaP, GaP, InGaN đã đưc chế to có tr s khe di
t 1 eV đến 3,5 eV phát ra nhiu màu sc khác nhau bao phủ toàn thể phổ ánh sáng thấy đưc
(Bng 1). Tương t, đèn PLED (polymer light emiing diode) dùng polymer dn đin cũng
phát ra nhiu màu sc tùy vào các loi polymer có khác nhau [9].E
Bng 1: Bưc sóng và năng lưng sóng.
3 22
22 22
22
gap
gap
gap
Ánh sáng λBưc sóng
(nm)
Năng lưng sóng E (eV)*
Tia t ngoi ngn n 380 ln n 3,3
Tím 380 3,3
Xanh 450 2,8
Xanh lá cây 530 2,3
Vàng 580 2,1
Đ 720 1,7
Tia hồng ngoi dài n 720 nhỏ n 1,7
*Tính t công thức λ, E = hν = hc/
c: vn tc ánh sáng 300.000 km/s, λ: bưc sóng;
1 eV = 1,602 x 10 J.
Khe di năng lưng ca trng thái khối biến đi khi kích c tiến đến nanot. Ngưi ta tng bảo cái ló cái kn”, khi vt liu bị trong
kng gian nano ta hãy th xem chúng s ló cái khôn lưng t như thế nào.
5. Chm lưng t và giếng lưng t
Những hạt vt chất chẳng hạn như hạt kim loi có thể nhìn thấy đưc bằng mắt (kích tc ~1 mm ) vn còn có những di năng lưng đin t gn
như liên tc vì s nguyên t cu thành còn rt ln. Thậm c, một hạt có thể tích 1 µm chỉ có thể nhìn thấy qua kính hin vi cũng chứa 10 (10 t)
nguyên t. Con s to ln này cho biết di năng lưng vn kng khác gì hạt kích c mm , cm . Vì vy, các đc tính ca hạt 1 µm vn là đc tính
khối (bulk properties). Nếu tiếp tc thu nhỏ, mọi vic s khác đi thứ nguyên nanot. Gi d nếu ta có một hạt kim loi nh lp pơng có cnh
dài 5 nm (nanot) có thể tích 125 nm , hạt kim loi s chứa trên dưi 1.000 nguyên t. thứ nguyên cc nhỏ này và con s 1.000 đ nhỏ đ làm gia
tăng khong cách gia các bc năng lưng đin t. Nói mt cách khác, di năng lưng kng còn như một quyn sách dày mà tr thành nhng trang
giy ri rc. Sự liên tc ca di năng lưng biu hin đc tính khi tiêu biu biến mt và đưc thay thế bi nhng bc năng lưng riêng bit khi vt
chất tiến v thứ nguyên nanot. Ta gi đây là s kìm ta lưng t (quantum confinement) hay là s lưng t a năng lưng trong một kng
gian cc nhỏ. T thế gii đi tng ca cơ học Newton ta c vào thế gii sa ca cơ học lưng t. Và trong cái thế gii sa này vt liu tr
n thiên biến vn hóa kích c nano và cho ta biết bao ng dng cc k thú v.
Đ hiu rõ s lưng t a năng lưng trong một kng gian cc nhỏ ta hãy xem đáp án phần Phụ lc ca bài toán giếng lưng t (quantum
well) ca pơng trình sóng Schrödinger. Trong bài toán này, khi kích tc tiến đến một tr s cc nhỏ năng lưng ca đin t kng còn là một
di liên tc nhng mc ri rc t thấp đến cao. Cái giếng tht ra là hình nh ca nguyên t i đin t b kìm gi trong vòng cương ta ca
nguyên t. Đưng kính cái giếng cũng là đưng kính ca nguyên t. Phải i đây là bài toán đơn gin nhưng cho ra mt kết qu cc k quan trng
đưc tóm thu bởi công thc sau (Ph lc),
E = n h /8ma (n= 1, 2, 3, .)
vi là năng lưng bc là hằng s Planck, là khối lưng đin t và là đưng kính giếng hay chm lưng t.E n, h m a
T pơng trình sóng Schrödinger và vi li gii ca bài toán giếng lưng t, các nhà khoa học đã ng ra cái giếng lưng t thực s bằng cách
to ra những nguyên t nhân to. Nguyên t này tc là chấm lưng t (quantum dot). Thut ng nghe i l tai nhưng rt cô đng và cnh
xác trong vic din t nh dng và chức năng ca . Chấm lưng t biu hin một vt cc nhỏ chịu nh ng ca các qui lut lưng t. Trên
thực tế, chấm lưng t là các hạt nano chứa vài nguyên t đến vài ngàn nguyên t có thể đưc thành nh t dung dch colloid. Chấm lưng t cũng
có thể đưc kích hot đ phát quang. Cũng như vt liu khối, s phát quang ca chấm lưng t cũng tùy thuc vào tr s khe di. Nng khác vi
vt liu khối, chấm lưng t phát ra nhiu màu sc khác nhau bằng cách thay đi kích tc ca . Những phần kế tiếp s gii tch cơ chế khác
bit trong s phát quang gia vt liu khi và ht nano (chm lưng t).
-19
3
3 10
3 3 3
3
2 2 2
6. Hạt nano bán dn: s phát hunh quang
Nghiên cu v chm lưng t dng tinh th (Hình 4) hay trong dung dch huyn phù thot đu xut phát t vic chế to pin mt tri trong vic gia
tăng hiu sut biến hoán t năng lưng mặt tri sang đin năng. K t năm 1986, nghiên cu v chấm lưng t gia tăng mãnh lit và cho đến năm
2005 đã có gn 2.000 đăng ký phát minh (patent) cho các ng dng ca chm lưng t. Vào thập niên 90 ca thế k trưc, các nhà khoa học ti M và
Nga phát hin các tinh thể nano bán dn phát ra những màu ánh sáng khác nhau tùy vào kích c ca . nh ng ca kích c vào s phát quang
ca vt liu nano li càng làm gia tăng cái k ca thế gii nano.
Hình 4: Tp hp chm lưng t (tinh th nano) silicon. Mỗi chm có đưng kính 7 nm và cha 50-70 nguyên t silicon (Ngun: Dr. Arthur
Nozik, National Renewable Energy Laboratorry, B Năng lưng, M).
Sự phát hunh quang (uorescence) là hin tưng xy ra khi ta dùng sóng đin t (quang t) kích hot một vt liu, đy đin t ca vt liu này t
di a tr đi xuyên qua khe di lên di dn đin năng lưng cao n (Hình 5). ng kích hot tng là sóng mang năng lưng cao như tia t
ngoi hay ánh sáng màu xanh. Đin t năng lưng cao vn kng n đnh lúc nào cũng mun tr li chốn cũ có năng lưng thấp. Khi đin t tr
li di a tr, s phát quang xy ra (Hình 5). Cũng ging như s phát quang đin học (Hình 3), ánh sáng phát quang có năng lưng tương đương
vi tr s khe di. Tr s khác nhau s cho màu sc khác nhau.
Hình 5: Cơ chế ca s phát hunh quang.
(1): Sóng kích hot; (2): Sóng phát ra; ( ): Đin t.
Sự phát hunh quang ca dung dch colloid ht nano bán dn CdSe (cadmium selenide) là một thí d v nh ng ca s lưng t a năng lưng
trên cơ chế phát quang. Dung dch colloid ca ht nano CdSe đưc kho sát vi nhng ht có đưng kính khác nhau. Sự thay đi khe di năng lưng
ca hạt nano CdSe do s biến đi ca đưng kính ht có th kho sát qua công thc sau,
DE = E + E
DE là khe di ca hạt nano, E là khe di ca trng thái khi (= 1,74 eV) và E là năng lưng do hiu ng lưng t (Hình 6). Hình 7 cho thấy
s đi màu ca dung dch colloid CdSe t màu xanh sang màu đ khi đưng kính hạt gia tăng t 2,3 đến 5,5 nm. Màu phát quang cc k nhạy vi
đưng kính hạt, chỉ cn khác nhau vài nanot là màu ánh sáng thay đi. Li gii ca pơng trình sóng Schrödinger cho ta thấy rõ điu này. Khi
đưng kính hạt tăng gp đôi, E tăng gp bốn (công thức 4, Phụ lc). Vì đ nhạy kcao, quá trình tng hợp hạt nano đòi hỏi đ đng nhất
v kích c phải thật cnh xác cho mt màu sc phát quang nht đnh.
gap quantum
gap quantum
quantum
Hình 6: Khe di năng lưng ca (a) trng thái khi và (b) ht nano; (1): E ;
(2): DE và (3): E DE có th gia gim tùy vào E do s chi phi.
ca kích thưc ht (xem chi tiết trong bài).
Hình 7: Kích thưc ht CdSe gim t 5,5 nm đến 2,3 nm (t phi sang trái)
khiến s phát hunh quang ca dung dch nưc thay đi t màu đ đến màu
xanh bao ph toàn b ph ánh sáng thy đưc [10].
Đ có một sn phẩm thực dng, hạt nano đưc a ln vào một loi polymer trong sut. Tương t như trong dung dch, hạt nano trong polymer s
phát các loi ánh sáng khác nhau và cho ta đèn phát hunh quang. Cũng ging như đèn neon thủy ngân gia dng, ngun tia t ngoi đưc dùng
trong đèn hunh quang hạt nano đ kích hot các đin t ca hạt. Loi đèn này gii quyết đưc những khuyết đim đèn LED bị vưng mắc. Đ có
những màu phát quang khác nhau, đèn LED cn những vt liu có khe di năng lưng khác nhau. V đim này, ht nano dùng đc nht mt vt liu
và chỉ cn thay đi kích tc. Đèn LED rt khó phát ra ánh sáng xanh và nht là ánh sáng trng. Đèn phát hunh quang ht nano cũng vưt qua tr
ngi này. Các nhà khoa học ti Sandia National Laboratories thuc B Năng lưng M (Department of Energy) đã chế to thành công đèn hunh
quang phát ánh sáng trng bằng cách trn hạt nano có đưng kính khác nhau phát ra ánh sáng đ, xanh lá cây, xanh. Tng hợp ba loi màu này s
cho ra ánh sáng trng (Hình 8). K thut quan trng trong quá trình chế to đèn hunh quang hạt nano là cn phải tránh s kết tp ca hạt nano, vì
khi có s kết tp xy ra, đưng kính gia tăng làm đc tính nano biến mất và vic điu chnh màu s mt hiu qu. Mt tng tin gn đây [11] cho biết
ng than nano một vt liu thần k và đa năng khi đưc ct thành những ng rt ngn s tr n chấm lưng t phát quang khi đưc kích hot
bởi tia t ngoi do hiu ng giếng lưng t.
Hình 8: Đèn phát hunh quang màu xanh (trái) và màu trng (phi), đưc chế to ti Sandia National Laboratories (M).
Ngun: hp://www.diendan.org/link_icon.gif); background-aachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color:
transparent; padding-top: 1px; padding-right: 0px; padding-boom: 1px; padding-left: 16px; background-position: 0px 1px; background-repeat: no-
repeat no-repeat; >hp://www.physlink)
Đèn hunh quang ht nano phát ánh sáng trng hin nay vn là mt đ tài nghiên cu quan trng nhằm to ra loi đèn có tui th cao và ít hao năng
lưng [12]. Mc dù có những ưu đim vưt tri n các loi LED trên tơng trưng, vic tơng mãi a đèn hunh quang hạt nano đ to ra một
sn phẩm đi trà hay chế to màn nh TV vn còn nhiu k khăn và tùy thuc vào cách tng hợp các hạt nano có kích tc ging nhau và cách
a ln đng đu vào các vt liu nn không có s kết tp ngoài ý mun.
7. Hạt nano kim loi vàng: plasmon và s phát hunh quang
T bui nh minh ca lch s loài ngưi, vàng có th nói là b ni ca một nền văn minh. Hơn 3.000 năm trưc, ti Ai Cp và Trung Quc con ngưi
đã ý thức vàng là kim loi quý, đã biết khai thác, gia công vàng to ra các đ trang sc quý giá và đưc xem như một thế chấp c thể d tr cho s
phồn thịnh ca một triu đi. Giá tr v mỹ thut hay kinh tế ca vàng cho đến ngày m nay vn kng có nhiu thay đi, nhưng trong nền công
nghệ nano hin đi vi những tim năng ng dng quan trng ca hạt nano vàng trong quang học, quang đin t và y học, vàng nano có l còn quí
giá n vàng khối trên quan đim thực dng nhm phng s cho cuc sng và hnh phúc con ngưi.
trng thái khối, trong các áp dng quang học hay quang đin t, vàng hữu dng cho lm t chỉ dùng làm gương phản chiếu, k dư xem như là
bỏ đi. Tuy nhiên, vàng nano cho con ngưi một lĩnh vc nghiên cu và ng dng hoàn toàn mới l. Khi sóng đin t tác dng lên hạt nano vàng,
tùy vào kích c ca hạt sóng đin t s (1) có tác dng sóng tuân theo hiu ng cng ng plasmon” ca các đin t t do bề mặt và (2) có tác
dng hạt khi kích c ca vàng nhỏ n 2 nm và s phát hunh quang xy ra tuân theo qui lut lưng t như hạt bán dn CdSe. Cng ta hãy tun
t khảo sát hai trưng hp thú v này.
Đc đim ca kim loi là s hin hữu dày đt ca những đin t t do. Đây cũng là nguyên nhân ca s ng loáng bề mặt, truyn đin và truyn
nhit ưu vit ca kim loi. Khi kim loi như vàng và bạc dng hạt nano, hạt kng còn màu vàng hay bạc c hữu trng thái khối phát ra
nhiu màu sc khác nhau tùy vào kích c và nh dng (Hình 9). Điu này đi ngưc li những hiu biết tng thức trong cuc sng hàng ngày.
Hai chiếc nhẫn vàng đưc nấu chảy và gia công thành một chiếc nhẫn to gp đôi thì vn là chiếc nhẫn màu vàng. Tht ra, màu sc ca hạt nano vàng
và bạc t dung dch huyn p đã đưc ngưi La Mã áp dng vào thế k 4. Ngưi ta còn pha chế hạt nano vàng vi thủy tinh đ làm kính màu đ
ruby trang trí cho ca s thánh đưng. Mc dù hạt nano vàng đã đưc áp dng n 1.700 năm, s đi màu ca hạt chỉ đưc làm sáng t vào năm
1908 bởi nhà khoa học Đc, Gustav Mie, qua li gii da trên pơng trình sóng đin t Maxwell cho bài toán v s hấp thụ và tán x ca sóng trên
bề mặt ca các hạt nh cu. Vì vy, s hin thị màu sc ca hạt nano vàng có đưng kính t vài chục đến vài trăm nanot kng trc tiếp liên
quan đến s lưng t a năng lưng vì sóng đin t tác đng lên những đin t t do bề mặt hạt mang đc tính sóng có cơ bản lý thuyết da trên
pơng trình Maxwell.
gap
quantum quantum
Hình 9: S thay đi màu sc ca ht nano vàng các kích thưc khác nhau
(Ngun: Dr. Michael Cortie, University of Technology, Sydney, Australia).
Màu vàng quen thuc ca vàng là s hp th ánh sáng màu xanh ca ph mt tri và phát ra màu vàng. Nhưng khi vàng đưc thu nh cho đến kích
c nhỏ n c sóng ca vùng ánh sáng thy đưc (400 700 nm), theo Mie hin tưng cng hưng plasmon b mt (surface plasmon resonance,
SPR) xy ra. Đây là do tác đng ca đin trưng ca sóng đin t (ánh sáng) vào các đin t t do trên bề mặt ca hạt nano. Đin trưng làm phân
cc hạt, dn đin t v mt phía to ra hai vùng, vùng mang đin tích âm và vùng mang đin tích dương (Hình 10). Vì bn cht sóng nên đin
trưng dao đng làm cho s phân cc b mt dao đng theo. Sự dao đng này đưc gi là plasmon. Đám mây đin tích trên bề mặt hạt cũng s
dao đng lúc âm lúc dương theo nhịp điu và cưng đ ca đin trưng. mt kích thưc và hình dáng thích hp ca ht nano, đ dao đng (tn
s) ca đám mây đin tích s trùng hp vi đ dao đng ca một vùng ánh sáng nào đó. Sự cng hưng xy ra và vùng ánh sáng này s b các ht
nano hấp thụ. Đây là mt hin tưng đc bit cho vàng và bc nhưng không thy các kim loi khác như st, bạch kim hay palladium.
Hình 10: ca sóng đin t.S phân cc đin t b mt ca ht hình cu do đin trưng
SPR có c sóng hp th trong khong 520 nm (sóng màu xanh) và ít b nh hưng ca kích thưc ht
trong phạm vi t 9 đến 22 nm (Bng 2). Các ht nano hp th ánh sáng xanh s hin th màu đ. Khi nhìn
li kính ruby đ mà c nhân đã chế to t my trăm năm trưc, ta nhn ra ngay nhng ht nano vàng
đưc chế to theo phương thc c truyn có kích thưc 9 22 nm. Khi ht càng ln thì bưc sóng hp th
có c sóng dài hơn và khi đến kích tc 99 nm, ht hp th sóng màu vàng (bưc sóng 575 nm) và
hin thị màu xanh.
Bng 2: Sự phân cc ca đin t b mt do đin trưng ca sóng đin t [13].
Đưng kính hạt (nm) Bưc sóng hấp thụ (nm)
9 517
15 520
22 521
48 533
99 575
Vi một sáng kiến đc đáo, một nhóm nghiên cu ti Rice University (M) [14] đã phủ vàng lên hạt nano silica (thủy tinh) to n v nano vàng
(nanoshell). Điu chỉnh đưng kính ht silica đến 210 nm và đ dày ca vàng làm di chuyn s hấp th sóng đin t bởi SPR đến vùng tia cn hồng
ngoi (c sóng 800 2.200 nm). Pơng pháp phủ vàng lên hạt thủy tinh silica to ra một vt liu lai vi khả năng hấp thụ sóng bởi SPR v pa
vùng phổ ca những c sóng dài n vùng hồng ngoi, tiến v sóng teraher, vi ba, những di sóng rt quan trng trong công nghệ truyn
tng. Trong di sóng y, tim năng ng dng ca loi ht nano lai trong các dng c quang đin t gn như vô hạn.
Hình 11: S phát hunh quang ánh sáng xanh ca ht nano vàng cha 8 nguyên t vàng [15].
Hiu ng SPR s biến mất khi vt liu tr li trng thái khối. Khi các hạt nano vàng tp tích đến đ ln microt, cái màu vàng quyến rũ nguyên
thủy ca kim loi vàng s xut hin tr li. Ngưc li, hiu ng SPR cũng s biến mất khi hạt nano nhỏ n 2 nm. thứ nguyên này, ta đi vào thế
gii lưng t. Ging như chm lưng t bán dn đưc đ cp bên trên, năng lưng đưc lưng t hóa thành các mc ri rc. Sóng đin t gi đây có
tác dng hạt (quang t). Nm ca giáo sư Robert Dickson (Georgia Institute of Techology, M) đã to ra những hạt nano (chấm lưng t) vàng vi
kích tc thật cnh xác chứa 5, 8, 13, 23 và 31 nguyên t [15]. Đây là những hạt phát hunh quang trong đó cm 31 nguyên t có đưng kính ln
nhất khong 1 nm. Những hạt này đưc x lý bề mặt đ a tan đưc trong c. Trong dung dch c, theo thứ t kích tc t nhỏ đến ln khi
đưc kích hot những ht này có khả năng phát ra tia t ngoi, ánh sáng xanh, xanh lá cây, đ và tia hồng ngoi (Hình 11). So vi chấm lưng t bán
dn CdSe chứa vài trăm đến n 1.000 nguyên t, chấm lưng t vàng nhỏ n vi vài chục nguyên t và kng có đc tính như Cd. Vì vy, tim
năng áp dng trong y hc rt ln.
8. Giếng lưng t và tia hng ngoi
Tia hồng ngoi (hồng: đ, ngoi: ngoài) là vùng sóng phía ngoài ánh sáng đ, có bưc sóng dài n ánh sáng đ tri dài t 700 nm đến 14.000 nm (14
µm). Tia hồng ngoi là vùng sóng đin t vô cùng quan trng trong các ng dng vin tng, không gian, quc png và dân dng. Những gì ta gi
là nhit theo ý nghĩa tng tng pt t lò sưi, ly c ng, cơ thể con ngưi đu nm trong vùng sóng hng ngoi. Mc dù tia hng ngoi có
băng tn di rng (broadband), nhưng phn ln bị bầu kng k hấp th ch cha li nhng ca s, tc là những vùng sóng tia hng ngoi không
bị hấp thụ, đc bit là vùng sóng 3 5 µm và 8 14 µm. Hai vùng này theo đnh lut bc x Planck tương đương mt vt phát nhit có nhit đ 300
600 °C (3 5 µm) và 30 40 °C (8 14 µm). Mt cách ngu nhiên, đây cũng là vùng nhit đ ca đng cơ nổ hay đng cơ phản lc và nhit đ con
ngưi. Vì vy, trong những dng c cm biến vi tia hồng ngoi (infrared detector/sensor) ngưi ta thiết kế vt liu có thể hấp thụ hai vùng sóng
này.
Công nghệ tia hồng ngoi đã đt đến mức đ trưng thành và đã sn xut những dng c và thiết bị quan trng. B cm biến hồng ngoi là một bộ
phận trung tâm ca tên la tìm nhit dùng đ truy lùng những ngun nhit t máy bay và tàu chiến đi pơng, điu khin tên la ptung mục
tiêu. B cm biến vin hồng ngoi (c sóng 8 12 µm) là một trong những thiết bị quan trng trong các v tinh dùng đ quan sát mặt đt cho mục
đích quân s và dân s. Mt trong những dng c quan trng khác là máy nh hồng ngoi chọc thủng màn đêm, xuyên qua bụi rm chụp những
bức nh do s khác bit nhit đ gia mục tiêu chụp và i trưng xung quanh (Hình 12). Thiết bị này đưc gn vào ng nhòm hoc kính cá nhân
(goggle) xé tot bóng ti phát hin d dàng nhng k đi ngang v tt, thích chui vào bi làm nhng chuyn m ám linh tinh!
Hình 12: Hai ngưi lính trong bi rm vi màn đêm dày đc
hin ra trong máy nh hng ngoi (Ngun: Wikipedia).
Mc dù nền công nghệ hồng ngoi đã trưng thành, nhưng chế to những vt liu cm ng hồng ngoi những c sóng nhất đnh vi đ nhạy
cao vn là những thử thách ln trong vt liu học. Những vt liu cm thụ tia hồng ngoi tng là silicon hay là các hợp chất bán dn như PtSi,
InSb, InGaAs, HgCdTe. Gn đây, vt liu hữu cơ như ng than nano và polymer dn đin đưc khảo sát cũng cho thấy s cm ng đi vi tia hồng
ngoi. Khi quang t hồng ngoi kích hot đin t ca vt liu, dòng đin xut hin và qua cưng đ dòng đin s khác bit nhit đ ca mục tiêu
đưc ghi nhận thành nh nh. Nguyên tc này cũng ging như máy nh k thut s tng tng trong đó s xut hin dòng đin là do cm ng
vi ánh sáng thấy đưc.
T thập niên 80 ca thế k trưc, các nhà khoa hc đã ghi nhn kh năng hp th tia hng ngoi xy ra ti các bc năng lưng ca giếng lưng t. Cơ
quan NASA và Jet Propulsion Laboratories (California Institute of Technology, M) t hai thập niên qua đã đu tư vào cơng trình nghiên cu bộ
cm ng hồng ngoi giếng lưng t (quantum well infrared photodetector, QWIP) và chế to máy nh QWIP cho v tinh và cho những trang bị
theo dõi tên la đn đo [16]. QWIP là cơng trình nghiên cu cơ mật quc gia ca M và chỉ mới đưc gii mật vào năm 1997. Nhu cu chế to
những thiên lý nhãn” dùng trong các v tinh ngoài kng gian đ quan sát qu đa cu cho vic tiên đoán thời tiết, tìm kiếm qung mỏ, trinh sát
quân s đòi hỏi nhng vt liu có th cm ng tia vin hng ngoi vi bưc sóng rt dài (> 12 µm). những bưc sóng dài năng lưng càng nh (E =
hν = hc/λ) và cái giếng lưng t ca pơng trình sóng Schrödinger tr thành một nền tng cơ bản trong vic thiết kế vt liu đ đáp ng nhu cu
này.
Vt liu tiêu biu ca QWIP là hợp chất bán dn GaAs và AlGaAs. GaAs là một lp mỏng nanot đưc kp gia hai lp AlGaAs. AlGaAs có khe
di năng lưng to n GaAs, n khi kết hợp li vi nhau giếng lưng t GaAs vi đưng kính vài nanot s đưc thành nh (Hình 13). Kích
tc ca giếng GaAs đưc thiết kế sao cho đin t trong giếng đưc quang t hồng ngoi kích hot lên bậc năng lưng cao n nhảy thoát ra khỏi
ming giếng tr thành dòng đin (Hình 13). Chiu cao giếng đưc điu chnh bi nồng đ nhôm trong hp cht AlGaAs và khong cách gia các bậc
năng lưng bởi đưng kính giếng (công thức 5, Phụ lc). Ging như trưng hợp s phát hunh quang ca chấm lưng t, ta dùng một vt liu
ging nhau chỉ cn điu chnh đưng kính và chiu cao nano ca giếng, QWIP có th bao trùm toàn thể vùng hng ngoi, cm ng nhng vùng sóng
t cn hồng ngoi (1 3 µm) đến vin hồng ngai (8 12 µm), cc vin hồng ngoi (> 12 µm). Các nhà vt liu học đi xa n, thiết kế các loi giếng
lưng t có thể cm nhận quang t vùng sóng có c sóng dài n nữa tiến đến vùng sóng teraher (c sóng 30 3000 µm, năng lưng mili
eV) có nhiu áp dng trong y hc và vic chng khng b, rà soát vũ khí hay bom mang trong ngưi.
Hình 13: Cơ chế ca QWIP. Đin t () đưc kích hot trong giếng lưng t nhy ra ngoài tr thành dòng đin. (a): AlGaAs; (b):GaAs; (1) (2): Khe di năng
lưng; (..): Bc năng lưng trong giếng do s lưng t hóa.
Những tiến bộ trong cách to nh chm lưng t bán dn trong công nghệ nano đưa đến vic áp dng chấm lưng t trong bộ cm ng hng ngoi
(quantum dot infrared detector, QDIP). Những năm gn đây, rt nhiu kết qu ca các công trình QDIP đã đưc công bố trên các tp c chuyên
ngành [17]. Theo lý thuyết QDIP có đ nhạy cao n QWIP và các hợp chất bán dn cm ng vùng vin hồng ngoi, nhưng cng cn thời gian
cho s nghiên cu đ tr thành các sn phm đin t và quang đin t hu dng.
Chỉ trong vòng 20 năm QWIP đã có những bứt pk thut và tr thành một bộ n quan trng trong công nghệ bán dn. Lý thuyết v QWIP đã
đưc viết thành sách [18-19], và những pơng thức trong công nghệ nano to ra vt liu nano vi đ cnh xác cp nanot s cho ta những dng
c hồng ngoi, teraher thỏa mãn đ nhạy và chc năng cao trong mt tương lai không xa.
9. Tim năng ng dng
Ngoài s phát quang, vic chuyn hoán năng lưng mặt tri thành đin năng là một ng dng quan trng khác ca chấm lưng t vi hiu sut
kinh ngc 300 %, vưt tri n tt c vt liu đưc biết t trưc đến nay (hiu sut ca pin mặt tri silicon trên tơng trưng chỉ có 15 %) [20]. Vt
liu nano còn có một ng dng nổi bật là tr liu, chẩn đoán bệnh, ti thuc đến tế bào bệnh và các áp dng trong khác nghiên cu y sinh học. Sự
phát sáng hunh quang kng ngng vic to các loi ng đèn nhiu màu sc. Chấm lưng t (hạt nano) đưc gn” vào các phân t sinh học
trong tế bào. Dưi s kích hot ca tia t ngoi, chấm lưng t phát quang ging như cây tng Christmas trong tế bào, giúp ta phân bit phân t ta
mun quan sát vi các phân t xung quanh. Các nhà khoa học tn dng hiu ng cng ng plasmon ca hạt nano vàng to ra bộ cm ng sinh
học và s phát hunh quang trong vic tr liu ung t. Thiên lý nhãn” QWIP bao trùm c vùng hồng ngoi và sóng teraher là một loi thiết
bị cm ng đa năng, khi áp dng cho thiên văn có kh năng nhìn thấy những hành tinh lnh chơi vơi trong vũ tr, hay gn gũi hơn nhìn đa cu t
v tinh, và khi ng vào cơ th con ngưi QWIP giúp y sĩ đnh v khi u ung thư, gia tăng s chính xác cho quá trình phu thut.
Tt c những tim năng ng dng nhiu ha hn này nm ngoài khuôn kh bài viết và s đưc đ cp mt cơ hi khác.
10. Thưng đế đ xí ngu!
Mc dù Einstein là ngưi đã thy rõ hơn ai hết trưc ông nn tng xác sut ca các đnh lut vt lý, và ông là ngưi tiên phong trong cuc chiến đu chinh
phc s hoang dã ca các hin tưng lưng t (Max Born) [21], nhưng cui cùng Einstein kng tin vào tính xác sut như nền tng ca thế gii vi .
Cho đến ngày ông qua đi, Einstein kng tin cơ học lưng t là một lý thuyết hoàn chỉnh. Ông đã hoài nghi nguyên lý bất đnh Heisenberg ri sau
đó phải công nhận , nhưng vn bất đng ý kiến vi Bohr v thế gii quan lưng t, đưc din t qua câu i (GodThưng đế không đ xí ngu
does not play dice). Câu i đã là một ám nh ln ca các nhà khoa học nhiu thập niên lin, làm cho nhiu trí tu ln trong vt lý phải ngp ngng,
bối ri. Nng đnh lý Bell (1964) và các kim tra thực nghim nối tiếp sau đó đã chứng minh rng Tng đế qu thật đã đ xí ngu [21]. Và
Tng đế ci trò này rt gii vì ngày m nay biết bao ng dng đin t, quang đin t hữu ích cho con ngưi đã xut hin nhờ vào tính chất xác
sut ca thế gii lưng t.
Bưc vào thế k 21, cơ học lưng t không còn mang màu sc huyn ca triết hc hay ch là một cuc ci toán hc cao cp chỉ thỏa mãn tính hiếu
k hàn lâm, đã đưc khoát lên chiếc áo thực dng vi nhng áp dng quan trng trong tin học lưng t (quantum information) và công nghệ
nano. N trong bài viết này đã trình bày, s thu nhỏ ca vt liu đến cp nanot đã cho thấy rõ s chi phối lưng t, to ra những bậc năng
lưng ri rc. Chỉ cn những qui lut cơ bản nhất trong cơ học lưng t cũng đ đ cho ra những ng dng cc k mới l qua s tác đng ca sóng
đin t trên các vt liu nano tri rng t sóng teraher, vin hồng ngoi cho đến vùng ánh sáng thấy đưc, tia t ngoi, bao trùm một vùng to ln
ca sóng đin t vi c sóng kéo dài t vài ngàn microt đến vài trăm nanot. Điu này phản ánh s thành công ln ca cm ng hồng
ngoi trong nền công nghip bán dn hin đi.
Vt liu nano tr thành một sân ci đ cơ học lưng t thao túng và khẳng đnh tim năng áp dng ca nh. Cơ học lưng t cũng là ánh đuc
dn đưng đnh ng vic chế to những vt liu nano mới cho các ng dng tương lai trong đin t, quang đin t và quang t học. Tinh thể
nano, hạt nano, ng nano, que nano ca các chất hữu cơ, oxide kim loi hay bán dn vô cơ vi nhiu nh dng và kích tc khác nhau, ln lưt
xut hin trong các png t nghim trên thế gii. Đèn LED, đèn hunh quang hạt nano cho những tim năng ng dng vô cùng phong p ca
công nghệ xanh” theo tiêu chun ít tiêu hao năng lưng, gim thiu ô nhim và gìn gi i sinh. Lưng t và nano cũng là bàn tay êm du ca
ngưi hin mẫu. Cng là ct sng ca những áp dng y khoa hin đi càng lúc càng đem đến nhiu thành qu bất ng trong vic đnh v, kết hợp,
cm ng vi phân t sinh hc, ti thuc, phát hin tế bào ung thư cho vic tr liu và phu thut.
Khi những công trình nghiên cu thun lý ca cơ học lưng t đưc kết hợp vi cu cánh thực dng ca nền công nghệ nano, nhiu ý tưng mới s
nảy sinh, nâng cao lý lun vt lý vưt ra ngoài phạm vi hin có, cũng như to ra nhiu cơ hi cho các nghiên cu đa ngành đ nh thành các loi vt
liu mới vi những ng dng siêu vit cho cuc sng đi tng. Có thể khẳng đnh rng những điu này s kng xy ra nếu kng có hằng s
Planck; một hằng s khiêm tn có một tr s rt nhỏ nhưng nh ng thật là vĩ đi. Nó mang tính phổ quát bao trùm vũ tr, ng tr thế gii ca vt
chất cc nhỏ đến thế gii ca vô s các thiên bao la, làm thay đi s hiu biết v vũ tr, và tiếp tc phong p a cuc sng con ngưi trên qu
đa cu nhỏ này.
Trương Văn Tân
Tháng 8, 2008
Cui Đông Nam n cu
Phụ lục: Bài toán chấm lưng t và giếng lưng t ca phương trình sóng
Schrödinger
Chi tiết v pơng trình sóng Schrödinger có thể tìm thấy các sách giáo khoa a lý ca năm thứ nhất đi học. đây, li gii v các bậc năng
lưng ca giếng lưng t s đưc trình bày. Pơng trình sóng Schrödinger là một pơng trình vi phân, cho trưng hợp một thứ nguyên x, đưc
viết như sau,
(-h /8p m)(d y/dx ) = Ey (1)
h là hằng s Plack (6,626 x 10 J.s), m là khối lưng đin t, là các bậc năng lưng đin t, là hàm s sóng. Li gii ca pơng trình (1) choE y
giếng hay chấm lưng t có đưng kính là,a
Hình P1: Các bc năng lưng đin t ca chm lưng t hay giếng lưng t có đưng kính a.
y = A sin(npx/a) n= 1, 2, 3, . (2)
A là một hằng s, n là s thứ t ca các bc năng lưng (Hình P1)
Thay công thức (2) vào (1), ta có
2 2 2 2
-34
2 2 2
E = n h /8ma n= 1, 2, 3, . (3)
Khi ta cón= 1
E = E = h /8ma (4)
Đ sai bit năng lưng gia bc và làn =1 n = 2
E E = 3h /8ma (5)
Source:
hp://icdrec.edu.vn/forum-topic/che-tao/cong-nghe-nano/co-hoc-luong-tu-va-vat-lieu-nano-tham-khao
This entry was posted on January 14, 2013 by vietvo89 in Electronic & Computer Engineering, Nano Technology, Science
& Technology.
hps://wp.me/p32MGw-5F
Previous post
Next post
Blog at WordPress.com.
2 2 2
1 quantum
2 2
2 1
2 2

Preview text:

Lib4U
"Behind every stack of books there is a flood of knowledge."
Cơ học lượng tử và vật liệu nano Trương Văn Tân, PhD Nghiên cứu viên cao cấp
Viện Khoa học và Kỹ thuật Quốc phòng (DSTO) Melbourne, Victoria,Australia
If you think you understand quantum mechanics,
then you don’t understand quantum mechanics.
Richard P. Feynman (Nobel Vật lý 1965) Nội dung: E = hν
– Trước hai ngã đường: cơ học cổ điển và lượng tử – Ảnh hưởng của sự thu nhỏ – Dải năng lượng điện tử và sự phát quang – Chấm lượng tử và
giếng lượng tử – Hạt nano bán dẫn: sự phát huỳnh quang – Hạt nano kim loại vàng: plasmon và sự phát huỳnh quang – Giếng lượng tử và tia hồng
ngoại – Tiềm năng ứng dụng – Thượng đế đổ xí ngầu! 1. E = hν
Vào những đêm đông không gì thú vị bằng ngồi bên cạnh cái lò sưởi nghe tiếng lửa reo tí tách, nhìn ngọn lửa lung linh cùng với vài người bạn nhấm
nháp ly rượu vang đỏ Penfolds bàn về triết lý cuộc đời, nói chuyện thiên văn địa lý, đông tây kim cổ. Những đêm đông sẽ vô cùng lạnh lẽo và vô vị
nếu không có cái lò sưởi với những thỏi than hồng thoang thoảng mùi khói của những khúc gỗ còn xanh, quyện theo luồng không khí được hâm
nóng bằng những tia hồng ngoại. Đắm chìm trong một không gian ấm áp, ngà ngà men rượu, thỉnh thoảng ánh mắt của ta bị lôi cuốn vào những
ngọn lửa đang hừng hực nhảy nhót, ở những khoảnh khắc ấy có khi nào ta nghĩ đến ý nghĩa…. vật lý của cái lò sưởi khiêm tốn? Có khi nào ta nghĩ
rằng cái lò sưởi kia cũng có quan hệ “bà con xa” đến cái CD player đặt ở một góc phòng và đang phát ra những âm thanh tuyệt vời của dòng nhạc
giao hưởng cổ điển Schubert, Mozart hay những bài tình ca Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn đau xót cho mối tình gầy mong manh hay tán tụng một
tình yêu đang được lên ngôi?! Khi đặt ra những câu hỏi này người đời sẽ cho rằng ta đang bị “méo mó nghề nghiệp”, thích nghĩ ngợi mông lung,
nhưng thực sự nếu bảo cái lò sưởi là mở đầu và cái CD player là hệ quả của cơ học lượng tử, thiển nghĩ cũng không phải là quá lời.
Xuất phát từ giả thuyết lượng tử của Planck, hơn một thế kỷ trôi qua thuyết lượng tử như một con sông đã vượt qua nhiều khúc quanh, ghềnh thác,
tập hợp những phát hiện vĩ đại theo dòng chảy để ngày hôm nay trở thành một dòng sông to lớn đổ vào biển cả khoa học, duy trì sự phồn vinh và
hạnh phúc của nhân loại. Vào năm 1900, qua sự quan sát về bức xạ sóng điện từ của vật đen (black body), Planck đưa ra định luật bức xạ diễn tả sự
liên hệ giữa nhiệt độ và bước sóng của bức xạ. Nói một cách dễ hiểu, khi làm nóng một thanh sắt, sắt biến thành màu đỏ, nóng hơn thành màu vàng
và nóng hơn nữa màu xanh trắng như ta thường thấy khi sắt ở thể lỏng. Càng nóng bước sóng của bức xạ càng ngắn (từ màu đỏ tiến đến màu xanh
trong trường hợp thanh sắt). Dù không phải là vật đen lý tưởng theo đúng định nghĩa trong vật lý, vật đen trong thực tế có thể là điện trở của bóng
đèn, thanh sắt, khúc gỗ trong lò sưởi, mặt trời, phong nền vũ trụ (cosmos background). Từ định luật bức xạ Planck, dựa theo quang phổ hay màu sắc
phát quang ta có thể dự đoán nhiệt độ của bề mặt mặt trời trong khoảng 5.000 – 6.000 °C, than hồng trong lò sưởi trên dưới 1.000 °C, điện trở bóng
đèn trên 1.000 °C. Vi ba (microwave) phát đi từ khoảng không gian vô tận cho ta biết nhiệt độ của vũ trụ là -270 °C. Ngược lại, từ nhiệt độ của một
vật ta có thể biết bước sóng phát ra từ vật đó. Nhiệt độ con người ở 37 °C cho biết cơ thể ta phát tia hồng ngoại.
Để chứng minh định luật bức xạ của mình, Planck đã táo bạo đưa ra “giả thuyết lượng tử” là năng lượng bức xạ của sóng điện từ được phát ra không
liên tục theo từng “gói năng lượng” E = hν rời rạc, gọi là lượng tử, trong đó h là hằng số Planck, n là tần số của sóng điện từ. Nhưng Planck tin đó chỉ
mới là “cái mẹo toán” để suy ra công thức phân bố năng lượng bức xạ của ông vừa tìm thấy sao cho hoàn toàn phù hợp với kết quả thí nghiệm. Vài
năm sau (1905), dựa vào ý tưởng bức xạ nhiệt theo gói năng lượng của Planck, Einstein đi thêm một bước quan trọng khi đưa ra quan niệm rằng ánh
sáng được cấu tạo bởi các hạt gọi là photon (hay quang tử, light quantum), mỗi hạt mang năng lượng E = hν, và tương tác với các điện tử của vật chất
khi chạm vào. Bằng cách đó ông nhanh chóng hoàn toàn giải thích được hiệu ứng quang điện mà giới vật lý đương thời phải bó tay, và phát hiện này đã
đem lại cho ông giải Nobel năm 1921. Tức là, trái với quan niệm sóng phổ biến lúc bấy giờ, Einstein cho rằng ánh sáng còn một sự tồn tại thứ hai, đó
là hạt. Ánh sáng vừa là sóng vừa là hạt: khái niệm nhị nguyên sóng/hạt ra đời.
Người Nhật Bản đã dùng tiếng Hán dịch thuật ngữ “quantum” là ryoshi, đọc ra âm Hán Việt là “lượng tử” (lượng: năng lượng, tử: con, phần nhỏ),
biểu hiện đúng ý nghĩa của quantum. Công thức vĩ đại, E = hν, hàm chứa tính hạt của sóng, cũng là khởi điểm của bộ môn cơ học lượng tử. Trị số
của h rất nhỏ (6,626 x 10-34 J.s) nhưng đằng sau các cột trụ quan trọng của cơ học lượng tử, hằng số Planck không bao giờ vắng bóng. Nó hiện hữu
trong mọi công thức quan trọng liên quan đến cơ học lượng tử và chi phối việc “đi đứng” của các vật chất cực nhỏ của thế giới vi mô. Cho đến ngày
hôm nay, cơ học lượng tử càng ngày càng phục vụ nhân loại một cách đắc lực từ chiếc radio, TV bình thường đến chiếc máy tính, CD player, iPod,
điện thoại cầm tay và những thiết bị khoa học, y học, viễn thông, cải thiện đời sống và sức khỏe con người.
2. Trước hai ngã đường: cơ học cổ điển và lượng tử
Khi gặp phải một vấn đề không rõ rệt, người Nam Bộ có một câu nói dí dỏm nhưng mộc mạc, chân thành: “coi dzậy mà hổng phải dzậy”. Trong vật
lý, nó diễn tả một cách bình dân những cơ bản của cơ học lượng tử như tính xác suất, tính bất định và bản chất nhị nguyên sóng/hạt của vật
chất trong thế giới vi mô của phân tử, nguyên tử, điện tử và các hạt sơ cấp hạ nguyên tử (subatomic particle). Kể từ đầu thế kỷ 20, khi hằng số Planck
xuất hiện trong định luật bức xạ và tiếp theo đó một loạt lý thuyết như hiệu ứng quang điện Einstein, phương trình sóng Schrödinger, định luật de
Broglie, nguyên lý bất định Heisenberg, những điều hiểu biết dựa theo “thường thức” (common sense) của thế giới đời thường được lý giải qua cơ
học cổ điển Newton hoàn toàn bị đảo lộn. Trước những phát hiện vĩ đại này, đã có một thời gian dài các nhà khoa học đã từng hoang mang, thậm chí
chế diễu trước những khám phá mang tính triệt để và dứt khoát của một cuộc cách mạng khoa học.
Trong thế giới bất định của cơ học lượng tử, để hiểu được sự hiện hữu, di động và tương tác của vật chất cực nhỏ ta cần đến một tư duy khác phá tan
những xiềng xích trói buộc của cơ học cổ điển. Khi một chiếc xe hơi chạy với vận tốc 100 km/h, thì ta có thể tiên liệu rằng sau 1 tiếng đồng hồ chiếc xe
xuất phát từ điểm A sẽ đến điểm B cách đó 100 km. Đây là kết quả tất định của chiếc xe. Nhưng trong thế giới của các hạt nhỏ, ta không thể xác định
vị trí của hạt chính xác 100 %. Khác với chiếc xe hơi, vận tốc và vị trí của vi hạt không thể đo đạc một cách chính xác cùng một lúc vì sự nhoè lượng
tử. Nguyên lý bất định Heisenberg đã định lượng hóa độ nhoè này bằng một công thức đơn giản chứa hằng số Planck.
Cái mù mịt về vị trí hay tính chất phi định xứ (non-locality) của vi hạt là một đặc điểm khác của cơ học lượng tử. Ở cùng một thời điểm chúng như
bóng ma có thể ở nhiều nơi khác nhau với những xác suất định vị khác nhau. Đây là việc kỳ lạ theo trực giác đời thường nhưng xảy ra trong thế giới
vi mô. Xác suất này có thể tính được từ phương trình sóng nổi tiếng của Schrödinger. Phương trình được diễn tả dưới một dạng đơn giản, HΨ =
EΨ, Ψ là hàm số sóng. Bình phương của Ψlà xác suất hiện hữu của hạt ở một vị trí nào đó. Tính ngẫu nhiên từ xác suất của phương trình
Schrödinger và sự nhòe mờ trong nguyên lý bất định Heisenberg ngự trị thế giới vi mô của cơ học lượng tử. Cái “có có không không” nầy đã cho con
người một vũ khí suy luận về đặc tính vật lý của những cái nhỏ nhất nơi mà những định luật của cơ học cổ điển phải lùi bước. Có lẽ khi khám phá ra
phương trình nầy Schrödinger còn cao hứng hơn cả Archimede khi phát hiện được sức đẩy của nước lúc ngâm trong bồn tắm; Archimede nhảy ào ra
khỏi bồn chạy ra ngoài đường trần truồng như nhộng la lớn “Eureka!” (tìm ra rồi!). Erwin Schrödinger người Áo, đã viết ra phương trình này trong
những ngày đắm say của một cuộc hẹn hò lãng mạn với người bạn gái trong vùng rừng núi Alps… Ông quả là một nhà khoa học lãng tử hào hoa,
cùng một lúc phụng sự cho cả khoa học và tình yêu!
Công thức Planck, E = hν, biểu hiện tính hạt của sóng; năng lượng quang tử, E, được biểu thị bởi tần số sóng n. Gần 20 năm sau định luật bức xạ
Planck, nhà vật lý người Pháp, Louise de Broglie, táo bạo đưa ra một đề xuất ngược lại cho rằng hạt cũng có thể là sóng. Từ công thức E = hν, ông cho
thấy vi hạt (điện tử và các hạt sơ cấp) khi di chuyển ở vận tốc v sẽ tương ứng với sóng với bước sóng l = h/mv (h là hằng số Planck, m là khối lượng
hạt và v là vận tốc). Một lần nữa, ta thấy lưỡng tính sóng/hạt xuất hiện trong công thức de Broglie; bước sóng l tùy thuộc vào khối lượng hạt m. Thí
nghiệm đã chứng minh sự di động của điện tử, vốn là hạt, sinh ra hiện tượng giao thoa, nhiễu xạ của sóng. Thí dụ khi điện tử di chuyển trong một
điện trường có điện áp 1 volt, điện tử có bước sóng là 1,2 x 10-9 m (vùng của tia X) [1]. Như vậy, trái banh golf khi chuyển động có trở thành sóng
không? Theo de Broglie, trái banh golf (hay những vật di động như chim bay, cò bay, xe chạy, người đi….) cũng có dạng sóng. Ta hãy dùng con tính
cho dễ hiểu. Dùng công thức de Broglie, ta tính được “bước sóng” của banh ở độ dài khoảng 10-34 m [2], nhưng trị số này quá nhỏ để có những hiện
tượng mang tính chất sóng như nhiễu xạ và giao thoa xảy ra. Vì vậy, theo những trải nghiệm thường ngày, một cú vớt banh trên sân golf dù nhìn thế
nào đi nữa thì banh vẫn là banh!
Sau cú vớt, trái banh golf bay lạc hướng va vào một gốc cây, theo định luật tác lực và phản lực Newton trái banh golf sẽ bị dội trở lại. Chuyện bình
thường không gì phải ngạc nhiên. Nhưng cái ngạc nhiên là khi trái banh được thu nhỏ đến kích cỡ của điện tử thì trái banh có thể đi “xuyên” qua vật
chắn vì “banh” bây giờ có tác dụng như sóng. Lại thêm một hiện tượng “ma quái” khác của cơ học lượng tử được gọi là hiệu ứng đường hầm
(tunelling effect). Nhìn lại công thức bước sóng của de Broglie, ta nhận ra ngay chỉ có những vật cực nhỏ với khối lượng cực nhỏ mới cho bước sóng
có một con số đủ lớn để hiệu ứng này xảy ra.
Tính nhị nguyên sóng/hạt là một đặc tính tiêu biểu của cơ học lượng tử. Schrödinger khi đề cập đến bản chất của những hạt sơ cấp từng nói “Không
nên nhìn một hạt như là một thực thể cố định mà hãy xem nó như là sự kiện nhất thời. Đôi khi những sự kiện nầy liên kết với nhau cho ra một ảo giác của những
thực thể cố định” (It is beer not to view a particle as a permanent entity, but rather as an instantaneous event. Sometimes these events link together to
create the illusion of permanent entities) [3]. Khó hiểu? Có lẽ. Nhưng ta đừng đánh giá thấp khả năng tư duy của mình vì ta đang bẻ cong hay phải
đi ngược với trực giác đã được thành hình qua những trải nghiệm của cuộc sống đời thường. Chính vì vậy khi bàn về lượng tử, giáo sư Richard
Feynman từng nói “Nếu bạn nghĩ rằng bạn đã hiểu cơ học lượng tử, thì bạn thật ra chưa hiểu gì về nó cả”. Tuy nhiên, cái mù mịt lượng tử sẽ sáng tỏ hơn
khi ta đặt cái ảo giác của Schrödinger trong cái nhìn triết học Phật giáo, khi mà bản chất vô ngã, vô thường của vật chất – lúc sóng lúc hạt, “vậy mà
không vậy” – thật ra chỉ là kết quả của cõi ta bà phản ánh điều kiện thí nghiệm và sự đo đạc của người quan sát.
Như vậy, đâu là lằn ranh giữa vật chất vĩ mô tuân theo cơ học cổ điển và vật chất vi mô của thế giới lượng tử. Các bậc tiền bối như Bohr, Heisenberg
và von Neumann vẫn nhấn mạnh sự phân chia giữa hai phạm trù cổ điển và lượng tử, mặc dù các ông cũng thừa nhận rằng chưa có qui luật vật lý
nào có thể định vị rõ rệt lằn ranh “đổi đời” này. Gần đây (năm 2005), một nhóm nghiên cứu tại Áo và Đức [4] dùng giao thoa kế phân tử (molecular
interferometry) tìm kiếm lằn ranh này qua sự kiểm nhận vạch giao thoa của các loại phân tử trong chân không bằng cách tăng dần độ lớn phân
tử cho đến khi các vạch này biến mất. Các phân tử lớn như quả bóng C70 (70 nguyên tử carbon, đường kính 1 nm), phân tử sinh học
C44H30N4 (đường kính 2 nm) và phân tử nặng ký C60F48 (phân tử lượng = 1632, đường kính 1 nm), đã cho thấy vạch giao thoa. Tính nhị nguyên
sóng/hạt được xác lập. Phân tử C60F48 là phân tử có phân tử lượng cao nhất từ trước đến giờ được ghi nhận mang tính nhị nguyên sóng/hạt. Tuy
nhiên, khi có sự tác động của phân tử khí của môi trường xung quanh. Các vạch giao thoa bị nhoè đi nhanh chóng. Tính chất sóng của hạt bị suy
giảm rồi tan biến. Thí nghiệm này cho thấy một kết quả quan trọng là ngoài kích thước, sự tương tác va chạm với vật chất trong môi trường ảnh
hưởng đến tính nhị nguyên sóng/hạt trong thế giới vi mô.
Lằn ranh giữa cơ học cổ điển và lượng tử, tất định và bất định không phải là một đường biên rõ rệt mà tùy thuộc vào điều kiện thí nghiệm và môi
trường xung quanh. Ta lại thấy bản chất vô ngã của sự vật. Thuyết duyên sinh trong Phật giáo nói đến sự liên hệ hỗ tương của vạn vật; “cái này sinh
cái kia sinh, cái này diệt cái kia diệt”. Vì duyên sinh nên vô ngả. Lằn ranh mờ ảo giữa cơ học cổ điển và cơ học lượng tử lúc ẩn lúc hiện tùy vào sự
tương tác của vật được quan sát và môi trường xung quanh, chẳng qua cũng không ngoài sự chi phối của duyên sinh bao trùm vũ trụ.
Vào thập niên 70 của thế kỷ trước, những thiết bị thực nghiệm tinh vi ra đời. Những định luật lượng tử đầu thế kỷ 20 vừa mang tính triết học vừa
mang tính khoa học ẩn tàng một chút ma quái giờ đây được kiểm chứng với những thành công vượt bực. Những phát hiện bất ngờ từ các kết
quả của thực nghiệm lượng tử không những giải tỏa được nhiều băn khoăn cũ xung quanh những cuộc tranh luận giữa Einstein và Bohr, mà còn cho
các nhà vật lý một khung trời mới trong việc tạo lập cơ sở cho môn tin học lượng tử (quantum information) mà đỉnh cao sẽ là máy tính lượng tử và
các phương tiện viễn thông lượng tử.
Mặt khác, sự xuất hiện của nền công nghệ nano vào thập niên 90 đã trở thành một mục tiêu cho các ứng dụng tuân theo cơ học lượng tử. Các vật liệu
nano trong phạm vi từ 1 dến 10 nm (nanomét) nằm giữa kích cỡ của các loại phân tử nhỏ và vật liệu khối. Để cho thấy độ nhỏ cũng như “độ lớn” của
vật liệu nano, 2 gram hạt nano có đường kính 100 nm có thể phân phát cho toàn thể 6 tỷ người trên quả đất này mỗi người 300.000 hạt; 1 gram ống
than nano có diện tích bề mặt là 1.600 m2 rộng tương đương với 8 sân tennis. Tính chất của vật liệu nano không phải như vật liệu khối mà
cũng không giống các hợp chất phân tử, vừa nằm trong vòng chi phối của các qui luật vật lý cổ điển vừa tùy thuộc vào thuyết lượng tử. Những tính
chất này bao gồm cơ tính, lý tính, quang tính, từ tính, hóa tính, biến đổi tùy vào độ lớn của hạt (dây, sợi) nano, khoảng cách các hạt (dây, sợi) và hình
dạng của nó. Như ta sẽ thấy ở phần kế tiếp, ảnh hưởng của cơ học lượng tử trên vật liệu nano cho ta những hiện tượng thú vị và những ứng dụng vô cùng to lớn.
3. Ảnh hưởng của sự thu nhỏ
Hơn 15 năm qua, việc chế tạo các loại tinh thể nano, hạt nano kim loại, kim loại từ tính và bán dẫn có kích thước từ vài nm đến vài chục nm có sự
tiến bộ vượt bực. Phương pháp tổng hợp hạt nano có kích thước vài nm và đơn phân bố (monodispersion) được trình bày tỉ mỉ trong một bài báo cáo
tổng quan đặc sắc gần đây [5]. Trước khi khảo sát ảnh hưởng của các qui luật lượng tử đến vật liệu nano, ta hãy xem sự thu nhỏ tự bản thân đã mang
lại những thay đổi nào đến các đặc tính của vật liệu.
Sự gia tăng bề mặt ở cấp độ triệu lần đến tỷ lần khi vật chất thu nhỏ từ mức vĩ mô, trung mô (m, cm, mm, µm) đến cấp nanomét làm thay đổi lý tính,
quang tính, từ tính và các đặc tính nhiệt động học của vật chất đó. Những “hằng số tự nhiên” của vật liệu khối mà ta ngỡ là bất biến, khi ở mức nm
trở thành khả biến theo độ lớn hạt. Thật ra, các đặc tính của vật liệu tùy vào sự nối kết, cấu trúc của nguyên tử gồm nguyên tử bên trong (bulk) và
nguyên tử bề mặt. Ở kích thước đời thường, số nguyên tử bề mặt gần như không đáng kể so với số nguyên tử bên trong. Khi bị thu nhỏ đến nanomét,
bề mặt gia tăng và số nguyên tử bề mặt cũng gia tăng. Ta hãy xem vài thí dụ đơn giản về độ nóng chảy, từ tính và cơ tính của một số vật liệu.
Độ nóng chảy của vàng khối là 1.064 °C. Khi vàng ở độ lớn cm, mm, thậm chí µm, các tỉ lệ nguyên tử vàng ở bề mặt so với nguyên tử bên trong vật
chất có thể xem như là không đáng kể. Độ nóng chảy còn duy trì ở khoảng 1.000 °C khi hạt vàng có độ lớn 50 nm vì nguyên tử ở bề mặt chỉ chiếm 6
%. Tuy nhiên, khi hạt nhỏ hơn 5 nm (chứa 3600 nguyên tử vàng) nguyên tử bề mặt chiếm 20 %, độ nóng chảy giảm đến 900 °C và đến 350 °C khi hạt ở
kích thước 2 nm (200 nguyên tử vàng, nguyên tử bề mặt 50 %). Sự chênh lệch vài trăm °C do sự khác biệt chỉ vài nanomét giữa 2 – 5 nm cho thấy tầm
quan trọng của ảnh hưởng độ lớn ở thứ nguyên nano. Khi ngoại suy đến kích thước 1 nm (30 nguyên tử, nguyên tử bề mặt 80 %) thì độ nóng chảy chỉ còn 200 °C [6].
Hình 1: Ảnh hưởng của sự thu nhỏ trên từ tính của sắt, (a) vòng từ trễ của sắt khối và (b) của hạt nano sắt (Nguồn: Wikipedia).
Cơ tính và lý tính cũng bị ảnh hưởng của sự thu nhỏ. Đã có nhiều công trình phát hiện sự gia tăng cơ tính về độ bền (strength) và độ dai (toughness)
của các hạt nano kim loại và ceramic. Hạt nano đồng với kích thước 10 nm gia tăng độ cứng (hardness) 8 lần cao hơn đồng khối. Ngoài ra, những cấu
trúc bề mặt nano còn đem lại những hiệu quả như gia tăng lực bám do lực van der Waals mô phỏng bàn chân thạch sùng hay tạo ra bề mặt cực
ghét nước (superhydrophobic) hay cực thích nước (superhydrophilic) của một số vật liệu.
Ảnh hưởng của các qui luật lượng tử trên sự thu nhỏ của vật liệu ở cấp độ nanomét là một hiện tượng nổi bật có thể quan sát qua sự tác động của
sóng điện từ trong vùng hồng ngoại, ánh sáng thấy được và tử ngoại trên các loại hạt và cấu trúc nano. Các vật liệu ứng đáp trở lại bằng cách phát
sinh ra ánh sáng, dòng điện, chuyển hoán năng lượng tùy vào đặc tính của khe dải năng lượng (energy bandgap) cho ta những ứng dụng như sự
phát quang, pin mặt trời, bộ cảm ứng sóng điện từ, máy ảnh hồng ngoại và các dụng cụ quang học, quang điện tử hữu dụng khác. Sự thành hình của
khe dải năng lượng, sự biến hóa của khe dải khi vật liệu được thu nhỏ và các ứng dụng sẽ được khảo sát ở phần sau.
4. Dải năng lượng điện tử và sự phát quang
Hình 2 : Dải năng lượng điện tử : (a) kim loại (khe dải = 0 eV), (b) chất bán dẫn (khe dải = 1 – 1,5 eV),
(c) chất cách điện (khe dải > 3 eV). Dải đen tượng trưng cho dải hóa trị và dải trắng cho dải dẫn điện.
Dải năng lượng điện tử (electronic energy band) và khe dải là những đặc tính khối rất quan
trọng của chất rắn. Trong chất rắn, sự thành hình của dải năng lượng điện tử quyết định đặc
tính dẫn điện, bán dẫn hay cách điện của chất rắn đó. Ở thể rắn, các vân đạo nguyên tử liên
kết, chồng chập lên nhau ở mọi phương hướng để tạo nên vân đạo phân tử. Người ta phỏng
tính 1 cm3 chất rắn được 1022 (10 ngàn tỷ tỷ) nguyên tử tạo thành. Trong quá trình nầy, theo
cơ học lượng tử, những mực năng lượng điện tử sẽ được thành hình và các điện tử sẽ chiếm
cứ các mực năng lượng nầy. Như vậy, ta có 1022 vân đạo phân tử và 1022 mức năng lượng
tương ứng được tạo thành. Các mức năng lượng nầy chồng chập lên nhau theo thứ tự trị số
của chúng, trở thành dải được gọi là “dải năng lượng điện tử”. Dải ở năng lượng thấp gọi là
dải hóa trị (valence band) và dải ở năng lượng cao hơn gọi là dải dẫn điện (conduction band) (Hình 2). Vì con số 102
2 là một con số rất lớn những mức năng lượng chồng chập nhau trông
giống như một dải liên tục (continuum). Như bề dày của một quyển tự điển, từ xa nhìn thì
trông như một khối liên tục, nhìn gần thì mới thấy những trang giấy rời rạc. Sự thành hình dải năng lượng của chất rắn có thể không liên tục, khi đó
sẽ có một “khoảng trống” xuất hiện, giống như cái mương chia ra hai vùng năng lượng. Khoảng trống đó gọi là khe dải năng lượng (Hình 2).
Hình 3: Sự phát quang điện học (electroluminescence) của đèn LED. Năng lượng dư thừa do sự phối
hợp điện tử ở năng lượng cao với lỗ trống (+) được biến thành ánh sáng. Màu (bước sóng) của ánh
sáng được quyết định bởi trị số của khe dải.
Trị số của khe dải năng lượng không những cho biết đặc tính dẫn điện, bán dẫn và cách điện
của vật liệu mà còn quyết định quang tính cho những ứng dụng như sự phát quang (đèn LED,
light emiing diode), sự hiển thị màu sắc, pin mặt trời của các chất bán dẫn và polymer dẫn
điện. Nguyên tắc phát quang của đèn LED là khi cho một dòng điện chạy qua, sự kết hợp giữa
điện tử và lỗ trống mang điện dương xảy ra. Trong quá trình kết hợp điện tử “nhảy” từ dải
dẫn điện (năng lượng cao) xuyên qua khe dải xuống dải hóa trị (năng lượng thấp) (Hình
3). Năng lượng dư thừa sẽ biến thành ánh sáng có bước sóng định bởi năng lượng khe
dải Egap [9]. Thí dụ nếu ta muốn LED phát ánh sáng đỏ (bước sóng = 720 nm, năng
lượng Egap = hν = 1,7 eV) thì ta cần một vật liệu có khe dải năng lượng khoảng 1,7 eV. Hàng
loạt hợp chất bán dẫn như GaAs, GaAsP, AlGaP, GaP, InGaN đã được chế tạo có trị số khe dải
từ 1 eV đến 3,5 eV phát ra nhiều màu sắc khác nhau bao phủ toàn thể phổ ánh sáng thấy được
(Bảng 1). Tương tự, đèn PLED (polymer light emiing diode) dùng polymer dẫn điện cũng
phát ra nhiều màu sắc tùy vào các loại polymer có Egap khác nhau [9].
Bảng 1: Bước sóng và năng lượng sóng. Ánh sáng Bước sóng λ Năng lượng sóng E (eV)* (nm) Tia tử ngoại ngắn hơn 380 lớn hơn 3,3 Tím 380 3,3 Xanh 450 2,8 Xanh lá cây 530 2,3 Vàng 580 2,1 Đỏ 720 1,7
Tia hồng ngoại dài hơn 720 nhỏ hơn 1,7
*Tính từ công thức E = hν = hc/λ,
c: vận tốc ánh sáng 300.000 km/s, λ: bước sóng; 1 eV = 1,602 x 10-19 J.
Khe dải năng lượng của trạng thái khối biến đổi khi kích cỡ tiến đến nanomét. Người ta thường bảo “cái bó ló cái khôn”, khi vật liệu bị “bó” trong
không gian nano ta hãy thử xem chúng sẽ ló cái “khôn” lượng tử như thế nào.
5. Chấm lượng tử và giếng lượng tử
Những hạt vật chất chẳng hạn như hạt kim loại có thể nhìn thấy được bằng mắt (kích thước ~1 mm3) vẫn còn có những dải năng lượng điện tử gần
như liên tục vì số nguyên tử cấu thành còn rất lớn. Thậm chí, một hạt có thể tích 1 µm3 chỉ có thể nhìn thấy qua kính hiển vi cũng chứa 1010 (10 tỷ)
nguyên tử. Con số to lớn này cho biết dải năng lượng vẫn không khác gì hạt ở kích cỡ mm3, cm3. Vì vậy, các đặc tính của hạt 1 µm3 vẫn là đặc tính
khối (bulk properties). Nếu tiếp tục thu nhỏ, mọi việc sẽ khác đi ở thứ nguyên nanomét. Giả dụ nếu ta có một hạt kim loại hình lập phương có cạnh
dài 5 nm (nanomét) có thể tích 125 nm ,
3 hạt kim loại sẽ chứa trên dưới 1.000 nguyên tử. Ở thứ nguyên cực nhỏ này và con số 1.000 đủ nhỏ để làm gia
tăng khoảng cách giữa các bậc năng lượng điện tử. Nói một cách khác, dải năng lượng không còn như một quyển sách dày mà trở thành những trang
giấy rời rạc. Sự “liên tục” của dải năng lượng biểu hiện đặc tính khối tiêu biểu biến mất và được thay thế bởi những bậc năng lượng riêng biệt khi vật
chất tiến về thứ nguyên nanomét. Ta gọi đây là sự “kìm tỏa lượng tử” (quantum confinement) hay là sự lượng tử hóa năng lượng trong một không
gian cực nhỏ. Từ thế giới đời thường của cơ học Newton ta bước vào thế giới sa mù của cơ học lượng tử. Và trong cái thế giới sa mù này vật liệu trở
nên “thiên biến vạn hóa” ở kích cỡ nano và cho ta biết bao ứng dụng cực kỳ thú vị.
Để hiểu rõ sự lượng tử hóa năng lượng trong một không gian cực nhỏ ta hãy xem đáp án ở phần Phụ lục của bài toán “giếng lượng tử” (quantum
well) của phương trình sóng Schrödinger. Trong bài toán này, khi kích thước tiến đến một trị số cực nhỏ năng lượng của điện tử không còn là một
dải liên tục mà những mức rời rạc từ thấp đến cao. “Cái giếng” thật ra là hình ảnh của nguyên tử nơi mà điện tử bị kìm giữ trong vòng cương tỏa của
nguyên tử. Đường kính “cái giếng” cũng là đường kính của nguyên tử. Phải nói đây là bài toán đơn giản nhưng cho ra một kết quả cực kỳ quan trọng
được tóm thu bởi công thức sau (Phụ lục),
E = n2h2/8ma2 (n= 1, 2, 3, ….)
với E là năng lượng ở bậc n, h là hằng số Planck, m là khối lượng điện tử và a là đường kính giếng hay chấm lượng tử.
Từ phương trình sóng Schrödinger và với lời giải của bài toán “giếng lượng tử”, các nhà khoa học đã nghĩ ra cái giếng lượng tử thực sự bằng cách
tạo ra những “nguyên tử” nhân tạo. “Nguyên tử” này tức là chấm lượng tử (quantum dot). Thuật ngữ nghe hơi lạ tai nhưng nó rất cô đọng và chính
xác trong việc diễn tả hình dạng và chức năng của nó. “Chấm lượng tử” biểu hiện một vật cực nhỏ chịu ảnh hưởng của các qui luật lượng tử. Trên
thực tế, chấm lượng tử là các hạt nano chứa vài nguyên tử đến vài ngàn nguyên tử có thể được thành hình từ dung dịch colloid. Chấm lượng tử cũng
có thể được kích hoạt để phát quang. Cũng như vật liệu khối, sự phát quang của chấm lượng tử cũng tùy thuộc vào trị số khe dải. Nhưng khác với
vật liệu khối, chấm lượng tử phát ra nhiều màu sắc khác nhau bằng cách thay đổi kích thước của nó. Những phần kế tiếp sẽ giải thích cơ chế khác
biệt trong sự phát quang giữa vật liệu khối và hạt nano (chấm lượng tử).
6. Hạt nano bán dẫn: sự phát huỳnh quang
Nghiên cứu về chấm lượng tử ở dạng tinh thể (Hình 4) hay trong dung dịch huyền phù thoạt đầu xuất phát từ việc chế tạo pin mặt trời trong việc gia
tăng hiệu suất biến hoán từ năng lượng mặt trời sang điện năng. Kể từ năm 1986, nghiên cứu về chấm lượng tử gia tăng mãnh liệt và cho đến năm
2005 đã có gần 2.000 đăng ký phát minh (patent) cho các ứng dụng của chấm lượng tử. Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, các nhà khoa học tại Mỹ và
Nga phát hiện các tinh thể nano bán dẫn phát ra những màu ánh sáng khác nhau tùy vào kích cỡ của nó. Ảnh hưởng của kích cỡ vào sự phát quang
của vật liệu nano lại càng làm gia tăng cái kỳ bí của thế giới nano.
Hình 4: Tập hợp chấm lượng tử (tinh thể nano) silicon. Mỗi chấm có đường kính 7 nm và chứa 50-70 nguyên tử silicon (Nguồn: Dr. Arthur
Nozik, National Renewable Energy Laboratorry, Bộ Năng lượng, Mỹ).
Sự phát huỳnh quang (fluorescence) là hiện tượng xảy ra khi ta dùng sóng điện từ (quang tử) kích hoạt một vật liệu, đẩy điện tử của vật liệu này từ
dải hóa trị đi xuyên qua khe dải lên dải dẫn điện ở năng lượng cao hơn (Hình 5). Sóng kích hoạt thường là sóng mang năng lượng cao như tia tử
ngoại hay ánh sáng màu xanh. Điện tử ở năng lượng cao vốn không ổn định lúc nào cũng muốn trở lại chốn cũ có năng lượng thấp. Khi điện tử trở
lại dải hóa trị, sự phát quang xảy ra (Hình 5). Cũng giống như sự phát quang điện học (Hình 3), ánh sáng phát quang có năng lượng tương đương
với trị số khe dải. Trị số khác nhau sẽ cho màu sắc khác nhau.
Hình 5: Cơ chế của sự phát huỳnh quang.
(1): Sóng kích hoạt; (2): Sóng phát ra; (): Điện tử.
Sự phát huỳnh quang của dung dịch colloid hạt nano bán dẫn CdSe (cadmium selenide) là một thí dụ về ảnh hưởng của sự lượng tử hóa năng lượng
trên cơ chế phát quang. Dung dịch colloid của hạt nano CdSe được khảo sát với những hạt có đường kính khác nhau. Sự thay đổi khe dải năng lượng
của hạt nano CdSe do sự biến đổi của đường kính hạt có thể khảo sát qua công thức sau, DE = Egap + Equantum
DE là khe dải của hạt nano, E
là khe dải của trạng thái khối (= 1,74 eV) và E
là năng lượng do hiệu ứng lượng tử (Hình 6). Hình 7 cho thấy gap quantum
sự đổi màu của dung dịch colloid CdSe từ màu xanh sang màu đỏ khi đường kính hạt gia tăng từ 2,3 đến 5,5 nm. Màu phát quang cực kỳ nhạy với
đường kính hạt, chỉ cần khác nhau vài nanomét là màu ánh sáng thay đổi. Lời giải của phương trình sóng Schrödinger cho ta thấy rõ điều này. Khi
đường kính hạt tăng gấp đôi, Equantum tăng gấp bốn (công thức 4, Phụ lục). Vì độ nhạy khá cao, quá trình tổng hợp hạt nano đòi hỏi độ đồng nhất
về kích cỡ phải thật chính xác cho một màu sắc phát quang nhất định.
Hình 6: Khe dải năng lượng của (a) trạng thái khối và (b) hạt nano; (1): Ega ;p Hình 7: Kích thước hạt CdSe giảm từ 5,5 nm đến 2,3 nm (từ phải sang trái) (2): DE và (3): Equantu .
m DE có thể gia giảm tùy vào Equantu
m do sự chi phối khiến sự phát huỳnh quang của dung dịch nước thay đổi từ màu đỏ đến màu
của kích thước hạt (xem chi tiết trong bài).
xanh bao phủ toàn bộ phổ ánh sáng thấy được [10].
Để có một sản phẩm thực dụng, hạt nano được hòa lẫn vào một loại polymer trong suốt. Tương tự như trong dung dịch, hạt nano trong polymer sẽ
phát các loại ánh sáng khác nhau và cho ta đèn phát huỳnh quang. Cũng giống như đèn neon thủy ngân gia dụng, nguồn tia tử ngoại được dùng
trong đèn huỳnh quang hạt nano để kích hoạt các điện tử của hạt. Loại đèn này giải quyết được những khuyết điểm đèn LED bị vướng mắc. Để có
những màu phát quang khác nhau, đèn LED cần những vật liệu có khe dải năng lượng khác nhau. Về điểm này, hạt nano dùng độc nhất một vật liệu
và chỉ cần thay đổi kích thước. Đèn LED rất khó phát ra ánh sáng xanh và nhất là ánh sáng trắng. Đèn phát huỳnh quang hạt nano cũng vượt qua trở
ngại này. Các nhà khoa học tại Sandia National Laboratories thuộc Bộ Năng lượng Mỹ (Department of Energy) đã chế tạo thành công đèn huỳnh
quang phát ánh sáng trắng bằng cách trộn hạt nano có đường kính khác nhau phát ra ánh sáng đỏ, xanh lá cây, xanh. Tổng hợp ba loại màu này sẽ
cho ra ánh sáng trắng (Hình 8). Kỹ thuật quan trọng trong quá trình chế tạo đèn huỳnh quang hạt nano là cần phải tránh sự kết tập của hạt nano, vì
khi có sự kết tập xảy ra, đường kính gia tăng làm đặc tính nano biến mất và việc điều chỉnh màu sẽ mất hiệu quả. Một thông tin gần đây [11] cho biết
ống than nano – một vật liệu thần kỳ và đa năng – khi được cắt thành những ống rất ngắn sẽ trở nên chấm lượng tử phát quang khi được kích hoạt
bởi tia tử ngoại do hiệu ứng giếng lượng tử.
Hình 8: Đèn phát huỳnh quang màu xanh (trái) và màu trắng (phải), được chế tạo tại Sandia National Laboratories (Mỹ).
Nguồn: hp://www.diendan.org/link_icon.gif); background-aachment: initial; background-origin: initial; background-clip: initial; background-color:
transparent; padding-top: 1px; padding-right: 0px; padding-boom: 1px; padding-left: 16px; background-position: 0px 1px; background-repeat: no-
repeat no-repeat; “>hp://www.physlink)
Đèn huỳnh quang hạt nano phát ánh sáng trắng hiện nay vẫn là một đề tài nghiên cứu quan trọng nhằm tạo ra loại đèn có tuổi thọ cao và ít hao năng
lượng [12]. Mặc dù có những ưu điểm vượt trội hơn các loại LED trên thương trường, việc thương mãi hóa đèn huỳnh quang hạt nano để tạo ra một
sản phẩm đại trà hay chế tạo màn hình TV vẫn còn nhiều khó khăn và tùy thuộc vào cách tổng hợp các hạt nano có kích thước giống nhau và cách
hòa lẫn đồng đều vào các vật liệu nền không có sự kết tập ngoài ý muốn.
7. Hạt nano kim loại vàng: plasmon và sự phát huỳnh quang
Từ buổi bình minh của lịch sử loài người, vàng có thể nói là bề nổi của một nền văn minh. Hơn 3.000 năm trước, tại Ai Cập và Trung Quốc con người
đã ý thức vàng là kim loại quý, đã biết khai thác, gia công vàng tạo ra các đồ trang sức quý giá và được xem như một thế chấp cụ thể dự trữ cho sự
phồn thịnh của một triều đại. Giá trị về mỹ thuật hay kinh tế của vàng cho đến ngày hôm nay vẫn không có nhiều thay đổi, nhưng trong nền công
nghệ nano hiện đại với những tiềm năng ứng dụng quan trọng của hạt nano vàng trong quang học, quang điện tử và y học, vàng nano có lẽ còn quí
giá hơn vàng khối trên quan điểm thực dụng nhằm phụng sự cho cuộc sống và hạnh phúc con người.
Ở trạng thái khối, trong các áp dụng quang học hay quang điện tử, vàng hữu dụng cho lắm thì chỉ dùng làm gương phản chiếu, kỳ dư xem như là
“bỏ đi”. Tuy nhiên, vàng nano cho con người một lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng hoàn toàn mới lạ. Khi sóng điện từ tác dụng lên hạt nano vàng,
tùy vào kích cỡ của hạt sóng điện từ sẽ (1) có tác dụng sóng tuân theo hiệu ứng “cộng hưởng plasmon” của các điện tử tự do bề mặt và (2) có tác
dụng hạt khi kích cỡ của vàng nhỏ hơn 2 nm và sự phát huỳnh quang xảy ra tuân theo qui luật lượng tử như hạt bán dẫn CdSe. Chúng ta hãy tuần
tự khảo sát hai trường hợp thú vị này.
Đặc điểm của kim loại là sự hiện hữu dày đặt của những điện tử tự do. Đây cũng là nguyên nhân của sự bóng loáng bề mặt, truyền điện và truyền
nhiệt ưu việt của kim loại. Khi kim loại như vàng và bạc ở dạng hạt nano, hạt không còn màu vàng hay bạc “cố hữu” ở trạng thái khối mà phát ra
nhiều màu sắc khác nhau tùy vào kích cỡ và hình dạng (Hình 9). Điều này đi ngược lại những hiểu biết thường thức trong cuộc sống hàng ngày.
Hai chiếc nhẫn vàng được nấu chảy và gia công thành một chiếc nhẫn to gấp đôi thì vẫn là chiếc nhẫn màu vàng. Thật ra, màu sắc của hạt nano vàng
và bạc từ dung dịch huyền phù đã được người La Mã áp dụng vào thế kỷ 4. Người ta còn pha chế hạt nano vàng với thủy tinh để làm kính màu đỏ
“ruby” trang trí cho cửa sổ thánh đường. Mặc dù hạt nano vàng đã được áp dụng hơn 1.700 năm, sự đổi màu của hạt chỉ được làm sáng tỏ vào năm
1908 bởi nhà khoa học Đức, Gustav Mie, qua lời giải dựa trên phương trình sóng điện từ Maxwell cho bài toán về sự hấp thụ và tán xạ của sóng trên
bề mặt của các hạt hình cầu. Vì vậy, sự hiển thị màu sắc của hạt nano vàng có đường kính từ vài chục đến vài trăm nanomét không trực tiếp liên
quan đến sự lượng tử hóa năng lượng vì sóng điện từ tác động lên những điện tử tự do bề mặt hạt mang đặc tính sóng có cơ bản lý thuyết dựa trên phương trình Maxwell.
Hình 9: Sự thay đổi màu sắc của hạt nano vàng ở các kích thước khác nhau
(Nguồn: Dr. Michael Cortie, University of Technology, Sydney, Australia).
Màu vàng quen thuộc của vàng là sự hấp thụ ánh sáng màu xanh của phổ mặt trời và phát ra màu vàng. Nhưng khi vàng được thu nhỏ cho đến kích
cỡ nhỏ hơn bước sóng của vùng ánh sáng thấy được (400 – 700 nm), theo Mie hiện tượng “cộng hưởng plasmon bề mặt” (surface plasmon resonance,
SPR) xảy ra. Đây là do tác động của điện trường của sóng điện từ (ánh sáng) vào các điện tử tự do trên bề mặt của hạt nano. Điện trường làm phân
cực hạt, dồn điện tử về một phía tạo ra hai vùng, vùng mang điện tích âm và vùng mang điện tích dương (Hình 10). Vì bản chất sóng nên điện
trường dao động làm cho sự phân cực bề mặt dao động theo. Sự dao động này được gọi là “plasmon”. Đám mây điện tích trên bề mặt hạt cũng sẽ
dao động lúc âm lúc dương theo nhịp điệu và cường độ của điện trường. Ở một kích thước và hình dáng thích hợp của hạt nano, độ dao động (tần
số) của đám mây điện tích sẽ trùng hợp với độ dao động của một vùng ánh sáng nào đó. Sự cộng hưởng xảy ra và vùng ánh sáng này sẽ bị các hạt
nano hấp thụ. Đây là một hiện tượng đặc biệt cho vàng và bạc nhưng không thấy ở các kim loại khác như sắt, bạch kim hay palladium.
Hình 10: Sự phân cực điện tử bề mặt của hạt hình cầu do điện trường của sóng điện từ.
SPR có bước sóng hấp thụ trong khoảng 520 nm (sóng màu xanh) và ít bị ảnh hưởng của kích thước hạt
trong phạm vi từ 9 đến 22 nm (Bảng 2). Các hạt nano hấp thụ ánh sáng xanh sẽ hiển thị màu đỏ. Khi nhìn
lại kính “ruby” đỏ mà cổ nhân đã chế tạo từ mấy trăm năm trước, ta nhận ra ngay những hạt nano vàng
được chế tạo theo phương thức cổ truyền có kích thước 9 – 22 nm. Khi hạt càng lớn thì bước sóng hấp thụ
có bước sóng dài hơn và khi đến kích thước 99 nm, hạt hấp thụ sóng màu vàng (bước sóng 575 nm) và hiển thị màu xanh.
Bảng 2: Sự phân cực của điện tử bề mặt do điện trường của sóng điện từ [13].
Đường kính hạt (nm) Bước sóng hấp thụ (nm) 9 517 15 520 22 521 48 533 99 575
Với một sáng kiến độc đáo, một nhóm nghiên cứu tại Rice University (Mỹ) [14] đã phủ vàng lên hạt nano silica (thủy tinh) tạo nên vỏ nano vàng
(nanoshell). Điều chỉnh đường kính hạt silica đến 210 nm và độ dày của vàng làm di chuyển sự hấp thụ sóng điện từ bởi SPR đến vùng tia cận hồng
ngoại (bước sóng 800 – 2.200 nm). Phương pháp phủ vàng lên hạt thủy tinh silica tạo ra một vật liệu lai với khả năng hấp thụ sóng bởi SPR về phía
vùng phổ của những bước sóng dài hơn vùng hồng ngoại, tiến về sóng teraher, vi ba, những dải sóng rất quan trọng trong công nghệ truyền
thông. Trong dải sóng này, tiềm năng ứng dụng của loại hạt nano lai trong các dụng cụ quang điện tử gần như vô hạn.
Hình 11: Sự phát huỳnh quang ánh sáng xanh của hạt nano vàng chứa 8 nguyên tử vàng [15].
Hiệu ứng SPR sẽ biến mất khi vật liệu trở lại trạng thái khối. Khi các hạt nano vàng tập tích đến độ lớn micromét, cái màu vàng quyến rũ nguyên
thủy của kim loại vàng sẽ xuất hiện trở lại. Ngược lại, hiệu ứng SPR cũng sẽ biến mất khi hạt nano nhỏ hơn 2 nm. Ở thứ nguyên này, ta đi vào thế
giới lượng tử. Giống như chấm lượng tử bán dẫn được đề cập bên trên, năng lượng được lượng tử hóa thành các mức rời rạc. Sóng điện từ giờ đây có
tác dụng hạt (quang tử). Nhóm của giáo sư Robert Dickson (Georgia Institute of Techology, Mỹ) đã tạo ra những hạt nano (chấm lượng tử) vàng với
kích thước thật chính xác chứa 5, 8, 13, 23 và 31 nguyên tử [15]. Đây là những hạt phát huỳnh quang trong đó chùm 31 nguyên tử có đường kính lớn
nhất khoảng 1 nm. Những hạt này được xử lý bề mặt để hòa tan được trong nước. Trong dung dịch nước, theo thứ tự kích thước từ nhỏ đến lớn khi
được kích hoạt những hạt này có khả năng phát ra tia tử ngoại, ánh sáng xanh, xanh lá cây, đỏ và tia hồng ngoại (Hình 11). So với chấm lượng tử bán
dẫn CdSe chứa vài trăm đến hơn 1.000 nguyên tử, chấm lượng tử vàng nhỏ hơn với vài chục nguyên tử và không có độc tính như Cd. Vì vậy, tiềm
năng áp dụng trong y học rất lớn.
8. Giếng lượng tử và tia hồng ngoại
Tia hồng ngoại (hồng: đỏ, ngoại: ngoài) là vùng sóng phía ngoài ánh sáng đỏ, có bước sóng dài hơn ánh sáng đỏ trải dài từ 700 nm đến 14.000 nm (14
µm). Tia hồng ngoại là vùng sóng điện từ vô cùng quan trọng trong các ứng dụng viễn thông, không gian, quốc phòng và dân dụng. Những gì ta gọi
là “nhiệt” theo ý nghĩa thông thường phát từ lò sưởi, ly nước nóng, cơ thể con người đều nằm trong vùng sóng hồng ngoại. Mặc dù tia hồng ngoại có
băng tần dải rộng (broadband), nhưng phần lớn bị bầu không khí hấp thụ chỉ chừa lại những “cửa sổ”, tức là những vùng sóng tia hồng ngoại không
bị hấp thụ, đặc biệt là vùng sóng 3 – 5 µm và 8 – 14 µm. Hai vùng này theo định luật bức xạ Planck tương đương một vật phát nhiệt có nhiệt độ 300 –
600 °C (3 – 5 µm) và 30 – 40 °C (8 – 14 µm). Một cách ngẫu nhiên, đây cũng là vùng nhiệt độ của động cơ nổ hay động cơ phản lực và nhiệt độ con
người. Vì vậy, trong những dụng cụ cảm biến với tia hồng ngoại (infrared detector/sensor) người ta thiết kế vật liệu có thể hấp thụ hai vùng sóng này.
Công nghệ tia hồng ngoại đã đạt đến mức độ trưởng thành và đã sản xuất những dụng cụ và thiết bị quan trọng. Bộ cảm biến hồng ngoại là một bộ
phận trung tâm của tên lửa tìm nhiệt dùng để truy lùng những nguồn nhiệt từ máy bay và tàu chiến đối phương, điều khiển tên lửa phá tung mục
tiêu. Bộ cảm biến viễn hồng ngoại (bước sóng 8 – 12 µm) là một trong những thiết bị quan trọng trong các vệ tinh dùng để quan sát mặt đất cho mục
đích quân sự và dân sự. Một trong những dụng cụ quan trọng khác là máy ảnh hồng ngoại chọc thủng màn đêm, xuyên qua bụi rậm chụp những
bức ảnh do sự khác biệt nhiệt độ giữa mục tiêu chụp và môi trường xung quanh (Hình 12). Thiết bị này được gắn vào ống nhòm hoặc kính cá nhân
(goggle) xé toạt bóng tối phát hiện dễ dàng những kẻ đi ngang về tắt, thích chui vào bụi làm những chuyện mờ ám linh tinh!
Hình 12: Hai người lính trong bụi rậm với màn đêm dày đặc
hiện ra trong máy ảnh hồng ngoại (Nguồn: Wikipedia).
Mặc dù nền công nghệ hồng ngoại đã trưởng thành, nhưng chế tạo những vật liệu cảm ứng hồng ngoại ở những bước sóng nhất định với độ nhạy
cao vẫn là những thử thách lớn trong vật liệu học. Những vật liệu cảm thụ tia hồng ngoại thường là silicon hay là các hợp chất bán dẫn như PtSi,
InSb, InGaAs, HgCdTe. Gần đây, vật liệu hữu cơ như ống than nano và polymer dẫn điện được khảo sát cũng cho thấy sự cảm ứng đối với tia hồng
ngoại. Khi quang tử hồng ngoại kích hoạt điện tử của vật liệu, dòng điện xuất hiện và qua cường độ dòng điện sự khác biệt nhiệt độ của mục tiêu
được ghi nhận thành hình ảnh. Nguyên tắc này cũng giống như máy ảnh kỹ thuật số thông thường trong đó sự xuất hiện dòng điện là do cảm ứng
với ánh sáng thấy được.
Từ thập niên 80 của thế kỷ trước, các nhà khoa học đã ghi nhận khả năng hấp thụ tia hồng ngoại xảy ra tại các bậc năng lượng của giếng lượng tử. Cơ
quan NASA và Jet Propulsion Laboratories (California Institute of Technology, Mỹ) từ hai thập niên qua đã đầu tư vào chương trình nghiên cứu “bộ
cảm ứng hồng ngoại giếng lượng tử” (quantum well infrared photodetector, QWIP) và chế tạo máy ảnh QWIP cho vệ tinh và cho những trang bị
theo dõi tên lửa đạn đạo [16]. QWIP là chương trình nghiên cứu cơ mật quốc gia của Mỹ và chỉ mới được giải mật vào năm 1997. Nhu cầu chế tạo
những “thiên lý nhãn” dùng trong các vệ tinh ngoài không gian để quan sát quả địa cầu cho việc tiên đoán thời tiết, tìm kiếm quặng mỏ, trinh sát
quân sự đòi hỏi những vật liệu có thể cảm ứng tia viễn hồng ngoại với bước sóng rất dài (> 12 µm). Ở những bước sóng dài năng lượng càng nhỏ (E =
hν = hc/λ) và cái giếng lượng tử của phương trình sóng Schrödinger trở thành một nền tảng cơ bản trong việc thiết kế vật liệu để đáp ứng nhu cầu này.
Vật liệu tiêu biểu của QWIP là hợp chất bán dẫn GaAs và AlGaAs. GaAs là một lớp mỏng nanomét được kẹp giữa hai lớp AlGaAs. AlGaAs có khe
dải năng lượng to hơn GaAs, nên khi kết hợp lại với nhau giếng lượng tử GaAs với đường kính vài nanomét sẽ được thành hình (Hình 13). Kích
thước của giếng GaAs được thiết kế sao cho điện tử trong giếng được quang tử hồng ngoại kích hoạt lên bậc năng lượng cao hơn nhảy thoát ra khỏi
miệng giếng trở thành dòng điện (Hình 13). Chiều cao giếng được điều chỉnh bởi nồng độ nhôm trong hợp chất AlGaAs và khoảng cách giữa các bậc
năng lượng bởi đường kính giếng (công thức 5, Phụ lục). Giống như trường hợp sự phát huỳnh quang của chấm lượng tử, ta dùng một vật liệu
giống nhau chỉ cần điều chỉnh đường kính và chiều cao nano của giếng, QWIP có thể bao trùm toàn thể vùng hồng ngoại, cảm ứng những vùng sóng
từ cận hồng ngoại (1 – 3 µm) đến viễn hồng ngọai (8 – 12 µm), cực viễn hồng ngoại (> 12 µm). Các nhà vật liệu học đi xa hơn, thiết kế các loại giếng
lượng tử có thể cảm nhận quang tử ở vùng sóng có bước sóng dài hơn nữa tiến đến vùng sóng teraher (bước sóng 30 – 3000 µm, năng lượng mili
eV) có nhiều áp dụng trong y học và việc chống khủng bố, rà soát vũ khí hay bom mang trong người.
Hình 13: Cơ chế của QWIP. Điện tử () được kích hoạt trong giếng lượng tử nhảy ra ngoài trở thành dòng điện. (a): AlGaAs; (b):GaAs; (1) (2): Khe dải năng
lượng; (…. ): Bậc năng lượng trong giếng do sự lượng tử hóa.
Những tiến bộ trong cách tạo hình chấm lượng tử bán dẫn trong công nghệ nano đưa đến việc áp dụng chấm lượng tử trong bộ cảm ứng hồng ngoại
(quantum dot infrared detector, QDIP). Những năm gần đây, rất nhiều kết quả của các công trình QDIP đã được công bố trên các tạp chí chuyên
ngành [17]. Theo lý thuyết QDIP có độ nhạy cao hơn QWIP và các hợp chất bán dẫn cảm ứng ở vùng viễn hồng ngoại, nhưng chúng cần thời gian
cho sự nghiên cứu để trở thành các sản phẩm điện tử và quang điện tử hữu dụng.
Chỉ trong vòng 20 năm QWIP đã có những bứt phá kỹ thuật và trở thành một bộ môn quan trọng trong công nghệ bán dẫn. Lý thuyết về QWIP đã
được viết thành sách [18-19], và những phương thức trong công nghệ nano tạo ra vật liệu nano với độ chính xác cấp nanomét sẽ cho ta những dụng
cụ hồng ngoại, teraher thỏa mãn độ nhạy và chức năng cao trong một tương lai không xa. 9. Tiềm năng ứng dụng
Ngoài sự phát quang, việc chuyển hoán năng lượng mặt trời thành điện năng là một ứng dụng quan trọng khác của chấm lượng tử với hiệu suất
kinh ngạc 300 %, vượt trội hơn tất cả vật liệu được biết từ trước đến nay (hiệu suất của pin mặt trời silicon trên thương trường chỉ có 15 %) [20]. Vật
liệu nano còn có một ứng dụng nổi bật là trị liệu, chẩn đoán bệnh, tải thuốc đến tế bào bệnh và các áp dụng trong khác nghiên cứu y sinh học. Sự
phát sáng huỳnh quang không ngừng ở việc tạo các loại bóng đèn nhiều màu sắc. Chấm lượng tử (hạt nano) được “gắn” vào các phân tử sinh học
trong tế bào. Dưới sự kích hoạt của tia tử ngoại, chấm lượng tử phát quang giống như cây thông Christmas trong tế bào, giúp ta phân biệt phân tử ta
muốn quan sát với các phân tử xung quanh. Các nhà khoa học tận dụng hiệu ứng cộng hưởng plasmon của hạt nano vàng tạo ra bộ cảm ứng sinh
học và sự phát huỳnh quang trong việc trị liệu ung thư. “Thiên lý nhãn” QWIP bao trùm cả vùng hồng ngoại và sóng teraher là một loại thiết
bị cảm ứng đa năng, khi áp dụng cho thiên văn có khả năng “nhìn” thấy những hành tinh lạnh chơi vơi trong vũ trụ, hay gần gũi hơn nhìn địa cầu từ
vệ tinh, và khi hướng vào cơ thể con người QWIP giúp y sĩ định vị khối u ung thư, gia tăng sự chính xác cho quá trình phẫu thuật.
Tất cả những tiềm năng ứng dụng nhiều hứa hẹn này nằm ngoài khuôn khổ bài viết và sẽ được đề cập ở một cơ hội khác.
10. Thượng đế đổ xí ngầu!
Mặc dù Einstein là người “đã thấy rõ hơn ai hết trước ông nền tảng xác suất của các định luật vật lý, và ông là người tiên phong trong cuộc chiến đấu chinh
phục sự hoang dã của các hiện tượng lượng tử” (Max Born) [21], nhưng cuối cùng Einstein không tin vào tính xác suất như nền tảng của thế giới vi mô.
Cho đến ngày ông qua đời, Einstein không tin cơ học lượng tử là một lý thuyết hoàn chỉnh. Ông đã hoài nghi nguyên lý bất định Heisenberg rồi sau
đó phải công nhận nó, nhưng vẫn bất đồng ý kiến với Bohr về thế giới quan lượng tử, được diễn tả qua câu nói “Thượng đế không đổ xí ngầu” (God
does not play dice). Câu nói đã là một ám ảnh lớn của các nhà khoa học nhiều thập niên liền, làm cho nhiều trí tuệ lớn trong vật lý phải ngập ngừng,
bối rối. Nhưng định lý Bell (1964) và các kiểm tra thực nghiệm nối tiếp sau đó đã chứng minh rằng Thượng đế quả thật đã đổ xí ngầu [21]. Và
Thượng đế chơi trò này rất giỏi vì ngày hôm nay biết bao ứng dụng điện tử, quang điện tử hữu ích cho con người đã xuất hiện nhờ vào tính chất xác
suất của thế giới lượng tử.
Bước vào thế kỷ 21, cơ học lượng tử không còn mang màu sắc huyền bí của triết học hay chỉ là một cuộc chơi toán học cao cấp chỉ thỏa mãn tính hiếu
kỳ hàn lâm, mà nó đã được khoát lên chiếc áo thực dụng với những áp dụng quan trọng trong tin học lượng tử (quantum information) và công nghệ
nano. Như trong bài viết này đã trình bày, sự thu nhỏ của vật liệu đến cấp nanomét đã cho thấy rõ sự chi phối lượng tử, tạo ra những bậc năng
lượng rời rạc. Chỉ cần những qui luật cơ bản nhất trong cơ học lượng tử cũng đủ để cho ra những ứng dụng cực kỳ mới lạ qua sự tác động của sóng
điện từ trên các vật liệu nano trải rộng từ sóng teraher, viễn hồng ngoại cho đến vùng ánh sáng thấy được, tia tử ngoại, bao trùm một vùng to lớn
của sóng điện từ với bước sóng kéo dài từ vài ngàn micromét đến vài trăm nanomét. Điều này phản ánh sự thành công lớn của cảm ứng hồng
ngoại trong nền công nghiệp bán dẫn hiện đại.
Vật liệu nano trở thành một sân chơi để cơ học lượng tử thao túng và khẳng định tiềm năng áp dụng của mình. Cơ học lượng tử cũng là ánh đuốc
dẫn đường định hướng việc chế tạo những vật liệu nano mới cho các ứng dụng tương lai trong điện tử, quang điện tử và quang tử học. Tinh thể
nano, hạt nano, ống nano, que nano của các chất hữu cơ, oxide kim loại hay bán dẫn vô cơ với nhiều hình dạng và kích thước khác nhau, lần lượt
xuất hiện trong các phòng thí nghiệm trên thế giới. Đèn LED, đèn huỳnh quang hạt nano cho những tiềm năng ứng dụng vô cùng phong phú của
công nghệ “xanh” theo tiêu chuẩn ít tiêu hao năng lượng, giảm thiểu ô nhiểm và gìn giữ môi sinh. Lượng tử và nano cũng là bàn tay êm dịu của
người hiền mẫu. Chúng là cột sống của những áp dụng y khoa hiện đại càng lúc càng đem đến nhiều thành quả bất ngờ trong việc định vị, kết hợp,
cảm ứng với phân tử sinh học, tải thuốc, phát hiện tế bào ung thư cho việc trị liệu và phẫu thuật.
Khi những công trình nghiên cứu thuần lý của cơ học lượng tử được kết hợp với cứu cánh thực dụng của nền công nghệ nano, nhiều ý tưởng mới sẽ
nảy sinh, nâng cao lý luận vật lý vượt ra ngoài phạm vi hiện có, cũng như tạo ra nhiều cơ hội cho các nghiên cứu đa ngành để hình thành các loại vật
liệu mới với những ứng dụng siêu việt cho cuộc sống đời thường. Có thể khẳng định rằng những điều này sẽ không xảy ra nếu không có hằng số
Planck; một hằng số khiêm tốn có một trị số rất nhỏ nhưng ảnh hưởng thật là vĩ đại. Nó mang tính phổ quát bao trùm vũ trụ, ngự trị thế giới của vật
chất cực nhỏ đến thế giới của vô số các thiên hà bao la, làm thay đổi sự hiểu biết về vũ trụ, và tiếp tục phong phú hóa cuộc sống con người trên quả địa cầu nhỏ bé này. Trương Văn Tân Tháng 8, 2008 Cuối Đông Nam bán cầu
Phụ lục: Bài toán chấm lượng tử và giếng lượng tử của phương trình sóng Schrödinger
Chi tiết về phương trình sóng Schrödinger có thể tìm thấy ở các sách giáo khoa hóa lý của năm thứ nhất đại học. Ở đây, lời giải về các bậc năng
lượng của giếng lượng tử sẽ được trình bày. Phương trình sóng Schrödinger là một phương trình vi phân, cho trường hợp một thứ nguyên x, được viết như sau, (-h2/8p2m)(d2y/dx2) = Ey (1)
h là hằng số Plack (6,626 x 10-34 J.s), m là khối lượng điện tử, E là các bậc năng lượng điện tử, y là hàm số sóng. Lời giải của phương trình (1) cho
giếng hay chấm lượng tử có đường kính a là,
Hình P1: Các bậc năng lượng điện tử của chấm lượng tử hay giếng lượng tử có đường kính a.
y = A sin(npx/a) n= 1, 2, 3, …. (2)
A là một hằng số, n là số thứ tự của các bậc năng lượng (Hình P1)
Thay công thức (2) vào (1), ta có 2 2 2
E = n2h2/8ma2 n= 1, 2, 3, …. (3) Khi n= 1 ta có E = E = h / 2 8ma2 (4) 1 quantum
Độ sai biệt năng lượng giữa bậc n =1 và n = 2 là E – E = 3h / 2 8ma 2 (5) 2 1 Source:
hp://icdrec.edu.vn/forum-topic/che-tao/cong-nghe-nano/co-hoc-luong-tu-va-vat-lieu-nano-tham-khao
This entry was posted on January 14, 2013 by vietvo89 in Electronic & Computer Engineering, Nano Technology, Science & Technology. hps://wp.me/p32MGw-5F Previous post Next post Blog at WordPress.com.