



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM 
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT 
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH      
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ 
ĐỀ TÀI: CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT 
TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 
MÃ MÔN HỌC: LLCT120314_22_2_49 
HỌC KỲ 2 – NĂM HỌC 2022-2023 
Thực hiện: Nhóm 8-A. Thứ 4, tiết 1-2 
Giảng viên hướng dẫn: T.S Nguyễn Thị Phượng 
TP.HCM, tháng 5 năm 2023   
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO     
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ 
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA  THUẬT TP.HCM  VIỆT NAM 
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT 
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH     
TP.HCM, ngày …. tháng … năm 2023 
DANH SÁCH NHÓM VIẾT TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN TƯ TƯỞNG 
HỒ CHÍ MINH HỌC KỲ 2 NĂM 2022-2023 
1. Mã lớp môn học: LLCT120314_22_2_49 (Thứ 4, tiết 1-2) 
2. Giảng viên hướng dẫn: T.S Nguyễn Thị Phượng 
3. Tên đề tài: Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 
4. Danh sách nhóm viết tiểu luận cuối kỳ:  STT  HỌ TÊN SINH VIÊN  Mã số  Tỉ lệ %  Số điện  Kí tên 
sinh viên tham gia thoại  1  Trần Dương Cẩm Tú  22136089  100%  0384676764    2  Lương Tú Tâm  21143441  100%  0899362916    3  Võ Thảo Ngọc  22110382  100%  0352430242    4  Nguyễn Văn Kiệt  21143168  100%  0362810334    5  Nguyễn Nam Dương  21143121  100%  0789771408    Ghi chú:  
- Tỷ lệ % = 100%: mức độ phần trăm của từng học sinh tham gia được đánh giá bởi nhóm 
trưởng và thống nhất giữa các thành viên trong nhóm. 
- Trưởng nhóm: Trần Dương Cẩm Tú (SĐT: 0384676764)   
Nhận xét của giáo viên 
………………………………………………………………………………………………… 
…………………………………………………………………………………………………. 
Ngày …. tháng … năm 2023 
Giáo viên chấm điểm  MỤC LỤC  PHẦN    MỞ     
ĐẦU……………………………………………………………………….1  1.  Lý do chọn đề 
tài………………………………………………………………… ………….1  2.  Mục    tiêu    nghiên 
cứu………………………………………………………………………….1  3.  Phương  pháp  nghiên 
cứu………………………………………………………………… …..1 
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………………2 
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ  CHÍ   
MINH…………………………………………………………………………...  ……………..2 
1.1. Cơ sở hình thành……………………………………………………………………..……2  1.1.1. Cơ  sở  thực 
tiễn……………………………………………………………...………..….2  1.1.2. Cơ  sở  lý 
luận…………………………………………………………………………….3  1.1.3. Nhân  tố  chủ 
quan…………………………………………………….………………….6  1.2. Quá  trình  hình  thành  và  phát  triển  tư  tưởng  Hồ  Chí 
Minh……………….....…………….7 
1.3. Giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân 
loại….………...……..12 
1.3.1. Đối với cách mạng Việt Nam……………………………………………………….. ….12 
1.3.2 Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại………………………………………….. ….13 
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC HỌC TẬP, TU 
DƯỠNG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY……………..………..14 
2.1. Thực trạng của việc học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay……….14  2.1.1. Tích 
cực……………………………………………………………………………...… 15  2.1.2. Tiêu 
cực…………………………………………………………………………...….... 15  2.1.3. Nguyên  nhân  của    những  biểu  hiện  
tiêu cực…………………………………………….16 
2.2. Áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của sinh viên 
hiện nay………………………………………………………………………………..…... …17      2.2.1. Áp  dụng  tư  tưởng  Hồ  Chí  Minh  về  đạo 
đức……………………………….…………..17  2.2.2. Áp  dụng  tư  tưởng  Hồ  Chí  Minh  vào  lối 
sống……………………………….…………18 
2.3. Phương hướng, biện pháp xây dựng đạo đức, lối sống trong học tập và sinh hoạt của sinh 
viên hiện nay……………………………………………………………………………….…19  2.3.1. Đối  với  xã  hội,  các  ban  ngành,  đoàn  thể,  nhà 
trường……………………….…………19  2.3.2. Đối  với  cá  nhân  mỗi  sinh 
viên………………………………………………..….…….21 
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………..………..…….22 
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...………..….23 
PHỤ LỤC THAM KHẢO………………………………………………….……………….24        PHẦN MỞ ĐẦU: 
1. Lý do chọn đề tài 
Tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VII năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta đã nêu 
tư tưởng Hồ Chí Minh, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) Đảng ta đã bổ 
sung khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh và đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011) khái 
niệm tư tưởng được khái quát lại, bổ sung hoàn chỉnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một 
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt 
Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều 
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, 
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của 
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành 
thắng lợi”. Khái niệm này nêu rõ cấu trúc, nguồn gốc, nội dung và giá trị của tư tưởng 
đối với Đảng và dân tộc ta. 
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp, chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu 
nước khi còn trẻ và học tập từ chiến thắng của các cuộc cách mạng dân tộc trên thế giới, 
chỉ ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp với dân tộc ta, điều đó đã được đúc 
kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ 
sở chủ nghĩa Mác - Lê nin và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. 
Để xây dựng đất nước giàu mạnh thì mỗi sinh viên phải hiểu rõ được tầm quan trọng 
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng và dân tộc ta. 
 Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh đó, mong 
muốn sinh viên hiện nay có cái nhìn và nhận thức rõ hơn, nhóm chúng em chọn đề tài 
“Hãy làm rõ quá trình hình thành, phát triển và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng 
việc học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay”. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
 Về mục tiêu nghiên cứu, nhóm xem xét đề tài về ba khía cạnh: về kiến thức, về 
kỹ năng và về tư tưởng. Về kiến thức, giúp cho sinh viên hiểu rõ cơ sở hình thành tư 
tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Về kỹ năng, giúp sinh 
viên tiếp cận các phương pháp khoa học nhận thức khái quát nội dung, tư tưởng từ tìm 
hiểu cơ sở hình thành cũng như quá trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Và 
cuối cùng về tư tưởng, hiểu được các giá trị cốt lõi, truyền thống vẽ vang và đáng tự 
hào của dân tộc Việt Nam, có tư tưởng, tình cảm tích cực, biết vận dụng được các giá 
trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Việt 
Nam hung mạnh cho sinh viên hiện nay. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
 Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, sử dụng tài liệu có 
liên quan để tra cứu, phân tích và tổng hợp rồi đưa ra đánh giá, nhận xét; đồng thời 
còn sử dụng các phương pháp luận như thống nhất tính Đảng và tính khoa học, thống 
nhất lý luận và thực tiễn, quan điểm lịch sử-cụ thể, quan điểm toàn diện và hệ thống, 
quan điểm kế thừa và phát triển và các phương pháp cụ thể khác để làm rõ hơn các 
vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh.      1      lOMoARcPSD|47206417
PHẦN NỘI DUNG: CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ 
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH  1.1. Cơ sở hình thành 
1.1.1. Cơ sở thực tiễn 
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm lý, 
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng Hồ 
Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan 
và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ  XX đến nay. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động ảnh hưởng của 
những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể ở trong nước và thế giới lúc Người đang sống và 
hoạt động. Hồ Chí Minh đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để tìm 
ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. 1.1.1.1. Thực tiễn Việt Nam 
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX 
Đầu thế kỉ XIX, Việt Nam là một quốc gia lạc hậu, kém phát triển. Ngày 
1/9/1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), chính 
thức xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, 
thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam và Việt Nam trở thành 
quốc gia nửa thuộc địa nửa phong kiến. 
 Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào 
yêu nước đấu tranh chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra với các cuộc khởi nghĩa tiểu 
biểu: khởi nghĩa Trương Định (1861-1864), khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) ở Hà 
Tĩnh của Phan Đình Phùng,… Tuy đều rất anh dũng, nhưng các phong trào yêu nước 
chống Pháp nói trên cuối cùng đều thất bại và bị đàn áp dã man. Điều đó chứng tỏ nhân 
dân ta rất yêu nước, song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn, bất lực 
trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc. 
Chính sách cai trị của thực dân Pháp tạo ra những biến đổi trên đất nước ta 
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ đó làm xuất hiện các mâu thuẫn mới nổi bật: 
Mâu thuẫn giữa nhân dân với đế quốc Pháp, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt 
Nam với giai cấp tư sản bên cạnh mâu thuẫn cũ đã xuất hiện trước đó là mâu thuẫn giữa 
nông dân với địa chủ phong kiến. 
Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, có thêm ảnh hưởng của 
những cải cách, duy tân trên thế giới, phong trào Việt Nam có từng bước chuyển biến 
mới, xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản như phong 
trào Đông Du (1905 – 1909) của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân (1906 – 1908) của 
Phan Châu Trinh, phong trào Đông kinh Nghĩa Thục (1907) của Lương Văn Can, 
Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác, phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung 
Kỳ năm (1908) và kết cục của các phong trào nói trên đều thất bại với nhiều nguyên 
nhân: giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu, các tổ chức và người lãnh đạo của các 
phong trào chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước 
vẫn sục sôi trong lòng nhân dân. Song, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn  ra sâu sắc. 
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào  2      lOMoARcPSD|47206417
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân 
tộc ở nước ta chuyển sang một thời kỳ mới, họ chịu sự chèn ép và áp bức của thực dân, 
tư bản và phong kiến, sớm vùng dậy đấu tranh với các hình thức đấu tranh thô sơ như 
đốt lán trại, bỏ trốn tập thể và nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công. 
Phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX 
là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác – Lênin xâm nhập, truyền bá vào Việt Nam 
thông qua Hồ Chí Minh. Người chuẩn bị lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập 
Đảng cộng sản Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam. 
Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc 
kháng chiến chống Pháp thắng lợi, lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng 
chiến chống Mỹ cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 
trên tất cả phương diện. 
1.1.1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX 
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới phát triển từ 
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc như 
Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan,… đã 
chi phối toàn bộ tình hình thế giới, tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có 
như mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản, mâu thuẫn 
giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau và mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ 
nghĩa đế quốc ngày càng phát triển gây gắt. Chính vì vậy, giành độc lập cho các dân tộc 
thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ mà còn là mong muốn chung của giai cấp vô 
sản quốc tế, tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát  triển. 
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công tại một nước rộng lớn nhất trên thế 
giới là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác- Lênin, nó đã đánh đổ giai cấp tư sản và 
giai cấp địa chủ phong kiến, lập lên một xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Cách mạng 
Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại 
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con 
đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Ngày 02 – 3 – 1919, Quốc tế 
Cộng sản, tức Quốc tế III ra đời ở Mát-xcơ-va và trở thành Bộ Tham mưu, lãnh đạo 
phong trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin, Quốc tế Cộng sản đẩy 
mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm cách mạng Tháng Mười 
Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các đảng 
cộng sản ở nhiều nước. 
 Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của Nhà nước Xô viết, Quốc tế Cộng 
sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ 
của phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã 
ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con  đường cứu nước. 
1.1.2. Cơ sở lý luận 
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã 
thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng như những yếu tố dân chủ, tự do, công 
bằng, bác ái ở những mức độ khác nhau của giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam và 
tinh hoa văn hóa nhân loại.  3      lOMoARcPSD|47206417
1.1.2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 
 Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền 
thống hết sức sâu sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước và ý chí bất 
khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc là 
chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị tinh thần Việt Nam và cũng là cội nguồn sâu 
xa nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu 
nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, 
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt 
qua mọ sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Chính 
chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí 
Minh ra đi tìm đường cứu nước, và tìm thấy chủ nghĩa Mác – Lênin con đường cứu  nước, cứu dân. 
Bên cạnh đó, tinh thần đoàn kết cộng đồng trong dân tộc Việt Nam, hình thành 
nên truyền thống đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước, tinh thần tương thân, 
tương ái “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Nhận thức rõ vai trò quan trọng 
đặc biệt của đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự đoàn kết toàn dân tộc được thể 
hiện cả trong lý luận và hoạt động thực tiễn. Người cho rằng: “Đoàn kết là sức mạnh, 
đoàn kết là thành công”. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại 
thành công”. “Dân ta phải nhớ chữ đồng. Đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh”. 
Dân tộc Việt Nam có truyền thống lạc quan, yêu đời, luôn cần cù, dũng cảm, 
thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, ham học hỏi và không ngừng mở rộng 
của đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong muôn nguy ngàn khó, người lao động 
vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần đó có cơ sở từ niềm 
tin vào sức mạnh của bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí 
Minh chính là hiện thân của truyền thống đó. 
Một nét đặc trưng không thể thiếu của văn hóa Việt Nam khi nói đến là nền 
văn hóa lấy nhân nghĩa làm gốc. Đó là một nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao 
trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với gia đình, làng, Tổ quốc, coi đó là những 
chuẩn mực của nhân cách con người. Hồ Chí Minh luôn chú ý kế thừa, phát huy sức 
mạnh của truyền thống nhân nghĩa. Người nhắc nhở: “Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là 
phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình 
có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được”. 
 Chính truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nói trên là cơ sở hình thành tư 
tưởng cốt lõi, phẩm chất cao quý của chủ tịch Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là 
mục tiêu, động lực của cách mạng, cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp 
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. 
1.1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại: 
Hồ Chí Minh là người cộng sản có hiểu biết sâu sắc kho tàng tri thức của nhân 
loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước, Người 
đã đến 30 quốc gia và các thành phố lớn, nhỏ, tiếp xúc với các tinh hóa văn hóa nhân 
loại khác nhau để đúc kết nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh 
đã biết kế thừa có phê phán, chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu cho tư  tưởng của mình. 
1.1.2.2.1. Tinh hoa văn hóa phương Đông:  4      lOMoARcPSD|47206417
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình trí thức Nho giáo nên từ nhỏ Người đã 
hấp thụ nền văn hóa Quốc học và Hán học vững vàng, chú ý kế thừa và phát triển tinh 
hoa văn hóa phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho giáo, Phật giáo, Lão 
giáo, đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương Đông và ở Việt Nam. 
Ngoài ra, Người còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. 
- Về Nho giáo: Hồ Chí Minh kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trịđể 
quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về xây dựng một xã hội 
lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân nghĩa, dũng, tín, liêm được coi trọng để có 
thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân tộc có quan 
hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần 
trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng đạo đức của con người; trong công tác 
xây dựng Đảng về đạo đức. Khi nghiên cứu, vận dụng học thuyết Nho giáo, Người loại 
bỏ và phê phán những yếu tố lạc hậu như: phân biệt giai cấp, coi thường lao động chân  tay, trọng nam khinh nữ. 
- Về Phật giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển những mặt tích cực củaPhật 
giáo như tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, 
chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của con người và chân lý; khuyên con người 
sống hòa đồng, gắn bó với đất nước của Đạo Phật. Những quan điểm tích cực đó trong 
triết lý của Đạo Phật được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo 
Đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ 
và giàu mạnh. Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo 
đức tích cực trong Phật giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam 
hiện nay. Bên cạnh đó, việc tồn tại một số lạc hậu như mê tín dị đoan, an bài số phận 
của Phật giáo cũng được Người phê phán và loại bỏ. 
- Về Lão giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và phát triển tư tưởng khuyên conngười 
sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ môi 
trường sống. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất, thực hiện 
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư… 
- Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn: Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo 
cácquan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân 
chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của dân tộc Việt 
Nam theo con đường cách mạng vô sản. 
1.1.2.2.2. Tinh hoa văn hóa phương Tây 
 Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong 
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân 
quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền độc lập, tự do, bình đẳng, 
hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay. Đồng thời Người cũng tiếp thu văn 
hóa, văn minh tiến bộ trong đời sống sinh hoạt của phương Tây. 
Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, Người đã sống, hoạt động thực tiễn, 
nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân loại tại những trung tâm 
chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, 
Trung Quốc,..Người trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp 
quyền của các nhà khai sáng phương Tây như Vonte, Rutxô, Môngtétxkiơ, tìm hiểu chủ 
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc),…  5      lOMoARcPSD|47206417
1.2.2.2.3. Chủ nghĩa Mác-Lê nin 
Là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học của C. Mác, Ăng- ghen và sự phát 
triển của V.I.Lênin, được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư 
tưởng tiến bộ nhất của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại, là thế giới quan, phương 
pháp luận của nhận thức khoa học và thực tiễn, khoa học và sự nghiệp giải phóng dân 
tộc khỏi áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin đồng thời kế thừa, phát triển tinh hoa văn hóa, tư tưởng của dân tộc Việt Nam và 
nhân loại, góp phần giải quyết khủng hoảng đường lối cứu nước, lãnh đạo cách mạng 
Việt Nam, mở ra một kỉ nguyên mới. 
Hơn thế nữa, nó còn là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong 
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với Người, chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan, phương 
pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả 
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể  nước ta. 
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những 
đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - 
Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, 
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, 
Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức, ... Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ 
sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước 
nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. 
1.1.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh 
1.1.3.1. Phẩm chất Hồ Chí Minh 
 Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi 
cảnh lầm than, cơ cực để đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người có ý chí, nghị 
lực to lớn, một mình dám đi ra nước ngoài mà chỉ với hai bàn tay trắng, làm nhiều nghề 
nghiệp khác nhau để kiếm sống, tự học hỏi nhiều ngôn ngữ và hoạt động cách mạng qua 
tiếp xúc với nhiều văn hoa tinh hóa nhân loại khác nhau. 
 Hồ Chí Minh là người có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi 
mới và cách mạng. Người vận dụng đúng quy luật chung của xã hội loài người, của cách 
mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ thể của Việt Nam. Từ đó, Người đề xuất tư tưởng, 
đường lối cách mạng mới đáp ứng với thực tiễn cách mạng Việt Nam. 
 Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đưa cách mạng 
Việt Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới, dự báo tương lai chính xác và 
kỳ diệu để dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang. 
Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, là người suốt đời 
đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế  giới. 
1.1.3.2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận 
 Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú. Trước khi 
trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt động công tác ở khoảng 
30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân không 
chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách…mà còn trong thực tế cuộc sống và hoạt  6      lOMoARcPSD|47206417
động tại các cường quốc. Người đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa 
đế quốc, thực dân và thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ thống thuộc  địa. 
 Người thấu hiểu sâu sắc về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa 
xã hội, về xây dựng Đảng thông qua việc nghiên cứu lý luận, tham gia sáng lập Đảng 
Cộng sản Pháp, trở thành cán bộ, hoạt động trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, phong 
trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước… 
 Hồ Chí Minh là nhà tổ chức và lãnh đạo vĩ đại của Việt Nam, thực hiện hóa tư 
tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực, đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ 
sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng thông qua việc sáng lập, lãnh đạo Đảng 
Cộng sản Việt Nam đi đến thắng lợi, sáng lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, khai sinh 
ra Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính 
những phẩm chất cá nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh 
vực khác nhau ở trong nước và trên thế giới là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng  Hồ Chí Minh. 
1.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 
1.2.1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và có chí hướng 
tìm con đường cứu nước mới 
 Trong thời kì này, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của quê hương, 
gia đình và của dân tộc hình thành nên tư tưởng yêu nước và tìm đường cứu nước. 
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước 
mất, nhà tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh 
đã hấp thụ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà và 
những tinh hoa văn hoá phương Đông. Hơn nữa, Người lại được thừa hưởng nền giáo 
huấn yêu nước, thương nòi của gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam  Hồng. 
Tình yêu đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở 
người thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, nhân ái, thương 
người, có hoài bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường của 
dân tộc. Vốn có tư chất thông minh, năng khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí lớn tìm đường 
cứu nước, cứu dân. Người tuy khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối cách 
mạng nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, … nhưng 
Người sáng suốt phê phán, không tán thành, không đi theo các phương pháp, khuynh 
hướng cứu nước của các vị đó. Người muốn tìm hiểu những gì ẩn giấu sau sức mạnh 
của kẻ thù và học hỏi kinh nghiệm cách mạng trên thế giới. 
 Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu rất quan 
trọng về văn hoá Đông - Tây và lòng yêu nước nhiệt thành với chí hướng rõ rệt: trên cơ 
sở tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước. Chính vì 
vậy, ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. 
1.2.2. Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc  7      lOMoARcPSD|47206417
Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của 
cách mạng vô sản được hình thành từng bước trong quá trình Hồ Chí Minh đi tìm 
đường cứu nước, đó là quá trình sống, làm việc, học tập, nghiên cứu lý luận và tham 
gia đấu tranh trong thực tế cách mạng ở nhiều nước trên thế giới. 
Người xác định đúng bản chất, thủ đoạn, tội ác của chủ nghĩa thực dân và tình 
cảnh nhân dân của các nước thuộc địa. Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất 
Pháp. Tiếp đó Người còn đến nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh 
và các nước đế quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra 
đi. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau của 
nhân loại là các nước đế quốc, thực dân. 
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm 1917, 
Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa 
Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng 
ấy và với lãnh tụ Lênin. 
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). 
Thực chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những 
lời lẽ “tự do”, “công bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng 
thống Mỹ lúc bấy giờ. Tại thời điểm này, Người có bước nhận thức mới về quyền tự do, 
dân chủ của nhân dân qua việc Người thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước 
tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghị “Yêu sách của nhân dân 
An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc 
Việt Nam. Qua hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ 
là một trò bịp bợm lớn, các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực 
của bản thân mình. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của Việt Nam trên diễn đàn 
quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến các phong trào dân tộc ở Việt Nam. 
 Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu nước nên 
khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” 
của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những 
câu hỏi của mình. Người khẳng định con đường cứu nước của mình: giải phóng dân tộc 
bằng con đường cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm 
Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919), 
bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành 
người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Hồ 
Chí Minh, bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập trường cách mạng  vô sản.  8      lOMoARcPSD|47206417
1.2.3. Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách  mạng Việt Nam 
 Đây là thời kỳ mục tiêu, phương hướng cách mạng giải phóng dân tộc Việt 
Nam từng bước được cụ thể hóa, thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của 
Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ Chí Minh đã truyền 
bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước chuẩn bị cho việc thành lập 
một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên báo “Người cùng khổ” (1922), “báo 
Thanh niên” (1925),… và các tác phẩm như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), 
“Đường Cách mệnh” (1927),… của Người là những công cụ quan trọng trong việc giáo 
dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành 
yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản. 
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin 
của Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên 
cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng 
từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam cách mạng thanh niên (51929) ba tổ chức 
cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản 
Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l-1930). Trước tình hình ở Đông 
Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-11-1929, Quốc tế Cộng sản đã có 
nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện 
Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập 
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930. Hội nghị hợp nhất đã thông qua “Chánh 
cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Chương trình tóm tắt”, “Điều lệ vắn tắt” của Đảng 
Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo. 
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. 
Trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam là 
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm 
cho công nghệ bản xứ không thế mở mang được… “nông nghệ một ngày một tập trung... 
nông dân thất nghiệp nhiều”. Đánh giá về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp địa chủ, 
“Chánh cương vắn tắt” có sự phân biệt rõ ràng: “Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta 
không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và 
đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh giá hết sức khách quan, chân 
thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ thực tế đó, Đảng 
chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng  sản”. 
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng 
đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã hội, sắp 
xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo 
điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng.  9      lOMoARcPSD|47206417
Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị 
đúng đắn và sáng tạo đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo 
cách mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang đầu năm 1930, tư tưởng Hồ 
Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản. 
1.2.4. Thời kỳ 1930 - 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương pháp 
cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo 
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh đầu 
tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt 
Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề thuộc lý luận, chiến lược cách 
mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng 
chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX. 
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư 
tưởng biệt phái, hẹp hòi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ 
VI Quốc tế Cộng sản (9-1928). 
Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì không sát tình hình các nước thuộc địa, nên đã 
phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra. Tuy bị phê phán, 
song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn. 
Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18l 
l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị 
này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức 
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn kết 
toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi. 
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ của chủ 
nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê 
bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại hội VI của mình, thì những 
quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực 
lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng  sản thừa nhận. 
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về công 
tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ Chí Minh vượt qua 
cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là điều kiện thuận lợi để Hồ Chí 
Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh quần chúng đưa cách mạng để dẫn tới 
thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. 
1.2.5. Thời kỳ 1941 - 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường 
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta 
 Trong thời kỳ này, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cơ bản là 
thống nhất. Trong những lần làm việc với với cán bộ, đảng viên, nhân dân các địa 
phương, ban, bộ, ngành, Hồ Chí Minh nhiều lần đưa ra những quan điểm sáng tạo, đi 
trước thời gian, càng ngày càng được Đảng ta làm sáng tỏ và tiếp tục phát triển soi sáng 
con đường cách mạng Việt Nam.  10      lOMoARcPSD|47206417
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8 
của Đảng. Quan điểm chủ đạo của hội nghị này là nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc coi 
đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân 
tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn 
Việt gian đảng cứu giống nòi rút khỏi nước sôi lửa nóng”. Đồng thời, ngày 19- 
5-1941, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt 
Minh, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo v.v... nhằm đoàn kết mọi 
lực lượng yêu nước chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nghị quyết hội nghị Trung 
ương lần thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáo đồng bào của Hồ Chí 
Minh ngày 6-6-1941, là những chủ trương, chính sách hợp lòng dân đã quy tụ toàn dân 
dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến  thắng lợi. 
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản 
Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố nước Việt Nam dân 
chủ cộng hoà ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về nhà nước của dân, do dân, vì dân có bước  phát triển mới. 
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ tự 
lập tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí 
Minh ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân ta hưởng độc lập chưa được bao 
ngày thì thù trong giặc ngoài câu kết với nhau đẩy nước nhà lâm vào cảnh “nghìn cân 
treo sợi tóc” … Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước 
vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến  vừa kiến quốc. 
Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh và Ban 
Chấp hành trung ương đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II 
của Đảng. Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí Minh vạch ra từ ngày thành lập 
Đảng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường 
kỳ, dựa vào sức mình là chính”. 
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra đã dắt 
dẫn nhân dân ta tiến lên làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở đầu 
quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Hoà bình được 
lập lại nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Nắm 
vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác 
định kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là chủ nghĩa đế quốc 
Mỹ; đồng thời vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền 
Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã được hoàn toàn giải 
phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước 
thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thực hiện quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản. Trong điều kiện ấy tư tưởng Hồ Chí Minh 
tiếp tục phát triển và hoàn thiện.  11      lOMoARcPSD|47206417
Trong những giờ phút gay go nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, 
khi đế quốc Mỹ tăng cường quân đội viễn chinh Mỹ vào miền Nam và đẩy mạnh đánh 
phá miền Bắc bằng không quân và hải quân Mỹ, ngày 17-7-1966, Hồ Chí Minh ra “Lời 
kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước”. Trong đó, Người đưa ra một chân lý lớn của thời 
đại: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Người khẳng định nhân dân Việt Nam chẳng 
những không sợ, mà còn quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. "Đến ngày thắng lợi, 
nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hưởng ứng lời 
kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng 
cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối với Người và Trung ương Đảng, nêu cao 
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. 
Trước khi qua đời, Người đã để lại Di chúc, một văn kiện lịch sử vô giá, đúc 
kết từ tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, phong cách của một lãnh tụ cách mạng, anh 
hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất, suốt đời vì dân, vì nước 
của mình. Và trong Di chúc, điều mong muốn cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, 
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc 
lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” 
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình phát 
triển của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh về cơ bản, tư tưởng 
Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối chính trị đúng đắn của 
cách mạng Việt Nam. Từ năm 1975, cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất đi lên chủ 
nghĩa xã hội. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đưa sự nghiệp đổi mới vững 
bước đi lên. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc  và nhân loại. 
1.3. Giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại 
1.3.1. Đối với cách mạng Việt Nam 
1.3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến 
thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta 
Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng đất nước, dân tộc, sáng lập, lãnh đạo 
và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính toàn tâm, toàn ý phục vụ 
nhân dân đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Người đã mở 
ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền 
với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng 
Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh 
đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, 
sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các cuộc kháng chiến chống thực dân 
Pháp và đế quốc Mỹ, các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh 
thổ của Tổ quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong hơn 30 năm đổi mới  và hội nhập quốc tế. 
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự 
nghiệp cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ nô lệ đè 
nặng trên đầu dân tộc ta.  12      lOMoARcPSD|47206417
Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn là ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cách mạng Việt Nam 
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, và chính thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt 
Nam đã chứng minh, khẳng định tính đúng đắn, giàu sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Đó là một hệ thống những quan điểm lý luận về chiến lược, sách lược của cách mạng ở 
Việt Nam, về sự cải biến xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên các lĩnh vực chính trị, 
kinh tế, văn hóa, xã hội, về xây dựng những điều kiện đảm bảo cách mạng Việt Nam đi 
tới thắng lợi cuối cùng, đó là xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng nhà nước 
của dân, do dân vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị 
xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế. Đảng ta tiếp tục 
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi 
mới hiện nay và trong tương lai. 
1.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách  mạng Việt Nam 
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam trên con 
đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
Người nuôi dưỡng và truyền cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn 
vinh, hạnh phúc, Người đã định hướng, vạch ra con đường, biện pháp để xây dựng, phát 
triển đất nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, phồn vinh, hạnh phúc. Tại Đại 
hội XIII, Đảng đã tiếp tục vận dụng, phát triển tư tưởng của Người, thông qua việc khơi 
dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. 
Trong suốt những chặng đường cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ 
dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lần đầu tiên trong 
lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng 
ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và xây dựng chủ 
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và đạo đức phẩm chất 
cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh. 
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức 
đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã 
hội và bảo đảm quyền con người, bởi vì Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho việc giai 
phóng các dân tộc, đã để ra lý luận về sự phát triển của các dân tộc giành được độc lập 
tiến lên chủ nghĩa xã hội và luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người. Tư tưởng Hồ Chí 
Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi 
chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta di tới thắng lợi. 
1.3.2. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại 
1.3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần mở ra cho các dân tộc thuộc địa con 
đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ xã hội 
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp 
công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ. Ngay trong 
những năm 20 của thế kỷ XX cùng với quá trình hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí 
Minh. Người đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc 
thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giành độc lập dân tộc để tiến lên 
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng có những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối  13      lOMoARcPSD|47206417
quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân 
tộc theo con đường cách mạng vô sản. 
Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa 
xã hội, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các 
nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc 
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc 
thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc. 
Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình thành 
một hệ thống các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải 
phóng dân tộc ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa  Mác - Lênin. 
1.3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập 
dân tộc, dân chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới 
 Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định hợp tác quốc tế là xu thế 
tất yếu của thời đại, phá bỏ sự biệt lập, mở đường cho sự phát triển, liên kết các dân 
tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. 
Người là một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, 
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát  triển trên thế giới. 
Hồ Chí Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc, 
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản và phong trào 
cộng sản quốc tế, phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển. 
Hồ Chí Minh chủ trương hòa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài giữa các nước, không chỉ 
xuất phát từ những mục tiêu chính trị vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội của thời đại, mà 
còn vì sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh, hợp tác quốc tế không chỉ để giành độc lập dân tộc, mà còn để xóa bỏ nghèo nàn, 
lạc hậu, tiến kịp các nước tiên tiến và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn 
với những chuyển biến của thời đại về chính trị, kinh tế, giữ vững độc lập của dân tộc 
mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. 
Có thể nói đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định con 
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, đến việc xác 
định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp 
để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu. 
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn là ở chỗ ngay từ rất sớm. Người 
đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững đặc điểm thời đại. 
Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng 
thế giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô 
sản. Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to 
lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa: với cách mạng  vô sản.  14