

















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI T P L N MÔN THMLN
ĐỀ BÀI 3: Cơ sở triết học của việc xác định đổi mới
kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải đổi mới
chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong
quá trình Đổi mới ở Việt Nam
Họ và tên SV: Hoàng Khánh Vân
Lớp tín chỉ: Tài Chính Tiên Tiến 64A Mã SV: 11226849
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
.................................................................................... HÀ NỘI, NĂM 2023 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1
Phần I. Cơ sở lý luận – quan điểm toàn diện………………………….2 Phần II.
Vận dụng - quan điểm toàn diện trong quá trình Đổi mới hiện
nay……..................................................................................................5
KẾT LUẬN……………………………………………………………15
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..15 lOMoAR cPSD| 44985297 MỞ ĐẦU
V.I. Lênin nhấn mạnh: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp”
của sự vật đó” , phải tính đến “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy
với những sự vật khác” . Tuy nhiên, con người không thể làm được điều đó hoàn
toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng không
phạm sai lầm và cứng nhắc. Từ nguyên tắc xem xét toàn diện trong nhận thức,
cần phải rút ra cách nhìn đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải
tạo đối tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện
để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ của đối tượng. Song trong từng
bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung sức
lực giải quyết. Trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan
niệm của các nhà kinh điển mácxit về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói
riêng, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương đổi mới toàn diện và triệt để tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt Đảng đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong quá
trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới,
Đảng lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị và các lĩnh
vực khác. Kết quả là chúng ta đã đổi mới một cách căn bản về cơ sở hạ tầng, từ
nền kinh tế thuần nhất một thành phần sang kinh tế nhiều thành phần với đa hình
thức sở hữu; từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, quan liêu sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối bình quân, tem phiếu sang phân
phối theo hiệu quả lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc lợi xã hội. Do đó
việc nghiên cứu “Cơ sở triết học của việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm
nhưng đồng thời phải đổi mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong
quá trình Đổi mới ở Việt Nam” là vấn đề quan trọng cấp thiết để chúng ta đánh
giá thực trạng toàn diện của nền kinh tế Việt Nam một cách khoa học đúng
đắn.Từ đó đưa ra những biện pháp phát triển toàn diện có trọng tâm hiệu quả
giúp phát triển đất nước toàn diện nhanh chóng, bền vững, hội nhập và thăng hoa. lOMoAR cPSD| 44985297
NỘI DUNG Phần I. Cơ sở lý luận – quan điểm toàn diện 1.1. Khái niệm
Quan điểm toàn diện là một quan điểm mang tính phương pháp luận khoa
học trong nhận thức thế giới. Khi nghiên cứu và xem xét sự vật phải quan tâm
đến tất cả các yếu tố, các mặt, bao gồm cả măt gián tiếp, trung gian có liên quan
đến sự vật. Quan điểm này xuất phát từ mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện
tượng và các hình thái tri thức. 1.2. Nội dung
Thứ nhất, để nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải xem
xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, vì bản chất của sự vật, hiện tượng được
bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng với các sự vật, hiện tượng khác. Mối
quan hệ này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này với sự vật
khác. Giữa mối liên hệ trực tiếp với gián tiếp. Cái nhìn phiến diện không mang
đến hiệu quả cho công tác thực hiện. Ngược lại còn có thể tạo ra những nhận
định hay quan điểm lệch lạc. Cũng như mang đến các quyết định không đúng
đắn cho mục tiêu của thực hiện phản ánh quan điểm.
Đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng mối liên hệ. Các nhìn
nhận trên các khía cạnh khác nhau phản ánh những đặc trưng riêng biệt. Nó làm
nên tính đa dạng của chủ thể trong các thể hiện trên thực tế. Do đó mà việc quan
tâm và phân tích từng yếu tố cũng được thể hiện trên cơ sở của nó. Cụ thể hơn
đó là các mối quan hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài,
mối liên hệ về bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự việc.
Thứ hai, sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò của
các mối liên hệ không “ngang bằng” nhau. Vì vậy, cần xác định được những mối
liên hệ cơ bản, chủ yếu, trọng tâm thì mới nhận thức được sâu sắc bản chất của
sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động, phát triển của nó. Đòi hỏi con
người nắm bắt được khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Những
nhìn nhận mang đến phản ánh như thế nào cho mức độ phù hợp hay cơ sở phát
triển trong tương lai. Hoặc những yếu tố biến động cũng có thể được đánh giá để
mang đến nhận định cần thiết. Nó giúp cho việc thực hiện các hoạt động tác động lOMoAR cPSD| 44985297
trên sự vật được tiến hành hiệu quả. Đáp ứng các mong muốn của chủ thể tiến hành.
Thứ ba, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này, mối liên hệ
này mà không thấy mặt khác, mối liên hệ khác; nhận thức sự vật trong trạng thái
cô lập, giải quyết công việc không đảm bảo tính đồng bộ
Nguyên tắc toàn diện còn yêu cầu, để nhận thức được đối tượng con người
cần xét nó trong liên hệ với nhu cầu thực tiễn của mình. Mối liên hệ giữa đối
tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh, con người
chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào đó của đối tượng phù hợp với nhu cầu nhất
định của mình, nên nhận thức của con người về đối tượng mang tính tương đối,
không đầy đủ, trọn vẹn. Nắm được điều đó sẽ tránh coi tri thức đã có là chân lý
bất biến, tuyệt đối, cuối cùng về đối tượng mà không chịu bổ sung, phát triển gì
thêm. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt liên hệ của đối tượng phải
chú ý đến sự phát triển cụ thể của chúng. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò
của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát
triển của từng mối liên hệ cụ thể của đối tượng, chứ không phải lấy một ít ở chỗ
này, một ít ở chỗ khác. Như vậy, xem xét toàn diện nhưng không “bình quân, dàn
đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng
mối liên hệ trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ của đối tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ yếu nhất, bản chất nhất,
quan trọng nhất, chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng. Phân tích trên
cho thấy, lôgich của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức
đối tượng phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái
toàn thể đến nhận thức mỗi mặt, mỗi mối liên hệ cụ thể của đối tượng đó và cuối
cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất
của đối tượng. Thực chất, đây cũng là đi từ cụ thể cảm tính đến cụ thể trong tư duy
Cần quán triệt nguyên tắc xem xét toàn diện trong nghiên cứu khoa học. Các
nghiên cứu khoa học không tách rời nhau, mà luôn liên hệ với nhau, thâm nhập lOMoAR cPSD| 44985297
vào nhau. Nhiều đối tượng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học.
Từ nguyên tắc xem xét toàn diện trong nhận thức, cần phải rút ra cách nhìn
đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo đối tượng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện để tác động làm thay đổi
các mặt, các mối liên hệ của đối tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn
phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung sức lực giải quyết.
1.3. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
Nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật cơ bản quan trọng này được
rút ra trực tiếp từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Theo nguyên tắc này con
người phải thực hiện các yêu cầu sau. Thứ nhất, phải xem xét sự tồn tại của đối
tượng trong mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong
chỉnh thể và trong mối liên hệ giữa nó với các đối tượng khác; tránh cách xem
xét phiến diện một chiều, có như vậy mới nhận thức được bản chất và các quy
luật của đối tượng. Thứ hai, phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ,
và phải nắm được mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển
của đối tượng; tránh thói chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ, tránh
thói ngụy biện, coi bản chất thành không bản chất, cái không cơ bản thành cơ
bản hoặc ngược lại, dẫn đến nhận thức xuyên tạc bản chất của đối tượng.
1.4.Ý nghĩa phương pháp luận với quá trình Đổi mới ở Viết Nam
Khi phân tích bất cứ đối tượng nào thì cần vận dụng lý thuyết, hiểu biết một
cách hệ thống thì sẽ xem xét được cấu thành nên những yếu tố, những bộ phận
nào với mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào thì từ đó phát hiện ra thuộc tính
chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố. Chúng ta cần xem xét sự vật
trong tính mở của nó tức xem xét xem trong mối quan hệ với các hệ thống khác
với các yếu tố tạo thành môi trường vận động và phát triển của nó; xem xét tất
cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và các khẩu trung của nó. Phải nắm được
và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ trong quá trình cấu
thành sự vật. Bản thân quan điểm toàn diện đã bao gồm quan điểm lịch sự vì vậy
khi xem xét, hiện tượng phải đặt sự vật hiện tượng vào đúng không gian, thời
gian mà sự vật, sự việc và hiện tượng tồn tại lOMoAR cPSD| 44985297
Đối với xã hội, con người không thể hiểu được bản chất của một hiện tượng
xã hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên hệ, sự tác động qua lại với các hiện
tượng xã hội khác, do vậy rất cần phải xem xét toàn diện. Trong thời kỳ đẩy
mạnh rộng khắp công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, nếu không phân tích
toàn diện những mối liên hệ tác động, sẽ không đánh giá đúng tình hình và nhiệm
vụ cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn và lĩnh vực cụ thể và do vậy không
đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ nguyên tắc xem xét toàn diện trong nhận thức, cần phải rút ra cách nhìn
đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo đối tượng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện để tác động làm thay đổi
các mặt, các mối liên hệ của đối tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn
phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung sức lực giải quyết. Trước
đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ, trên cơ sở phân tích toàn diện
bản chất xã hội Việt Nam là thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc
xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân, mà trước hết là nông dân với giai cấp địa
chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn thứ nhất là chủ yếu, cần tập trung lực
lượng giải quyết, sau đó mới giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuôc cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi
trọn vẹn. Ngày nay trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất
yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng luôn xác định
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình
đổi mới gần 30 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đó.
Phần II. Vận dụng - quan điểm toàn diện trong quá trình Đổi mới hiện nay.
2.1. Đảng xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải đổi
mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình Đổi mới.
Việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật đã giúp đất
nước đạt được những thành tựu trong đổi mới kinh tế và chính trị. Vận dụng lOMoAR cPSD| 44985297
phương pháp luận biện chứng duy vật Đảng đã đổi mới tư duy lý luận về cơ cấu
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bắt đầu từ Đại hội VI Đảng đã đề ra và
dần hoàn thiện qua các kỳ Đại hội đường lối đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng
hoá, nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát
triển, chú ý đảm bảo hợp lý lợi ích cá nhân làm động lực trực tiếp cho phát triển
kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô, sắp xếp lại các lĩnh vực và khu vực sản
xuất chính, có chính sách biến hoạt động dịch vụ sản xuất, kinh doanh và đời
sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế, do đó đất nước đã xây
dựng được một nền kinh tế có cơ cấu công – nông nghiệp - dịch vụ tương đối
hợp lý, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Từ những yếu kém, không thành công do nhiều nguyên nhân khác nhau của
công nghiệp hoá trước đổi mới, Đảng đã nhận thức rõ hơn về tính tất yếu, mô
hình, mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là khu vực
nông nghiệp, nông thôn, trong thời kỳ mới. Công nghiệp hoá là sự chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động giản đơn
là chính sang dùng lao động công nghệ cao với phương tiện và phương pháp sản
xuất tiên tiến, hiện đại có năng suất vượt trội. Đó còn là quá trình thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến xã hội nông nghiệp lạc hậu nước ta
thành xã hội công nghiệp, hiện đại hoá.
Để đảm bảo đổi mới kinh tế thành công, thì nhất thiết phải giữ vững ổn
định và từng bước thực hiện đổi mới chính trị. Đảng luôn khẳng định, đổi mới
kinh tế là trọng tâm, giữ vững ổn định chính trị là một nguyên tắc của đổi mới,
không giữ được ổn định thì không còn là đổi mới theo đúng mục tiêu bảo vệ và
xây dựng đất nước phồn vinh, điều này là phổ biến đối với tất cả các nước trong
giai đoạn chuyển đổi, không riêng gì Việt Nam. Trong đổi mới chính trị phải giữ
vững nguyên tắc, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, nhưng không
làm thay Nhà nước, không được sử dụng quyền lực Nhà nước và vẫn phải hoạt
động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Như vậy là phải đổi mới hoạt
động và sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trong Đảng hạt nhân của hệ thống chính
trị - lại đặt ra những yêu cầu và làm gương cho việc đổi mới các bộ phận hợp
thành hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Có đổi mới đồng bộ như vậy
mới củng cố vững chắc và phát huy được vai trò của hệ thống chính trị các cấp, lOMoAR cPSD| 44985297
và mới biểu hiện được việc thực hiện nhất quán nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chính trị là ý chí và cuộc
sống của hàng bao nhiêu triệu nhân dân. Trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đảng đã từng bước áp dụng các
nguyên tắc toàn diện vào việc phân tích nguyên nhân yếu kém trong công tác
này, nêu một số vấn đề có tính phương pháp luận là: việc xây dựng Nhà nước
Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải gắn với củng cố chế độ kinh tế
xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ phù hợp với các điều kiện chuyển đổi nền
kinh tế. Phải luôn chăm lo phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam ở mọi cấp chính quyền, bởi vì Đảng là của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và dân tộc Việt Nam. Do vậy, vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh về tư
tưởng luôn được đặt lên vị trí hàng đầu: trong bất kỳ hoàn cảnh nào Đảng cũng
phải kiên định những nguyên tắc lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích tình hình, vận dụng sáng tạo đề ra
chủ trương, đường lối, chính sách sát hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quán triệt
sâu sắc trong xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương phát triển đất nước
trong suốt thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, quan
điểm toàn diện được thể hiện rõ nét trong Định hướng phát triển đất nước giai
đoạn 2021 – 2030, toàn diện như sau:
Thứ nhất, phải nhìn nhận, đánh giá toàn diện các mặt, các yếu tố, các lĩnh vực
trong tính chỉnh thể, hệ thống:Đảng ta nhấn mạnh “Tiếp tục phát triển nhanh và
bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong
đó phát triển kinh tế xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”.
Thứ hai, đồng thời với việc xem xét tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong
tínhchỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá, xác định vị trí, vai trò của từng lĩnh vực,
yếu tố đối với sự phát triển của đất nước. Việc đánh giá này rất quan trọng, giúp
cho Đảng ta xây dựng được từng bước đi, lộ trình phù hợp và có biện pháp tác
động phù hợp. Điều nàythể hiện rõ trong từng nội dung, cụ thể:
+Định hướng về xây dựng, hoàn thiện thể chế: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư
duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính
trị,văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; lOMoAR cPSD| 44985297
khơi dậymọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh
và bền vữngcủa đất nước.
+Định hướng về phát triển kinh tế: Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế
pháttriển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường
thuận lợi đểhuy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy
đầu tư, sản xuấtkinh doanh.
+Định hướng về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ: Tạođột
phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn
nhânlực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu,
chuyển giao,ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+Định hướng về phát triển con người và xây dựng nền văn hóa: Phát triển
conngười toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảovệ Tổ quốc.
+Định hướng về quản lý phát triển xã hội: Quản lý phát triển xã hội có hiệu
quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ
vàcông bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh.
+Định hướng về thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường: Chủ động
thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai,
dịchbệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài
nguyên; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
+Định hướng về bảo vệ Tổ quốc: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây
dựng xã hội trật tự, kỷ cương.
+Định hướng về đối ngoại: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam +Định lOMoAR cPSD| 44985297
hướng về đại đoàn kết toàn dân tộc: Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường
đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
+Định hướng về xây dựng Nhà nước: Xây dụng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ
cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên
chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
+Định hướng về xây dựng Đảng: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn
diện;tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức
lãnh đạo,nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống
chính trị trongsạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng
công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ.
Thứ ba, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất của sự vật chỉ
được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua các mối liên hệ. Vì vậy ta cần xem
xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung
quanh.Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc xác định các định hướng trong
việc phát triển đất nước thời kì đổi mới, Đảng đã đề cập tới tất cả các lĩnh vực
của đời sống chính trị, xã hội. Những định hướng đó đã cho thấy mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu giữa các lĩnh vực; khẳng định bản chất tốt đẹp của Nhà nước; hướng
tới xây dựng xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thể hiện quan
điểm toàn diện sâu sắc.
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ
thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc chú ý tới nhiều mặt nhưng lại xem
xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng. Vì vậy, Đảng ta luôn tự ý
thức nghiên cứu sâu sắc, toàn diện nhằm quán triệt quan điểm toàn diện, bài trừ
sự phiến diện,thuật ngụy biện và phòng chống chủ nghĩa chiết trung. lOMoAR cPSD| 44985297 2.2. Thực trạng
Trong thời kỳ đẩy mạnh rộng khắp công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác động, sẽ không đánh giá
đúng tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn và lĩnh vực
cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi trong việc
thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tổng kết 30 năm qua đổi mới, Đảng ta đã
nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, đó là: quan hệ đổi mới, ổn định và
phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; quan hệgiữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Điều đó cho thấy, trên cơ sở vận
dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cáchmạng
Việt Nam, Đảng ta đã “bước đầu xác định được mối quan hệ hữu cơ, mối liên hệ
nội tại giữa tám mối quan hệ lớn, đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước với sự
chi phối và thúc đẩy lẫn nhau giữa các quan hệ. Trong từng mối quan hệ đều có
hai mặtthống nhất và mâu thuẫn. Các mối quan hệ không chỉ tác động, chi phối
lẫn nhau theo tương tác nhân quả, mà còn thâm nhập, giao thoa, quy định lẫn
nhau. Điều quan trọng trong nhận thức các mối quan hệ là ở chỗ, tất cả các quan
hệ đều thống nhất ở mục tiêu phát triển, đều tất yếu thông qua đổi mới, đều phục
vụ cho lợi ích cao nhất:phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân và của dân
tộc”.Từ nhận thức về 8 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng
ta xác định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng - an
ninh là nhiệm vụtrọng yếu, thường xuyên”. Điều đó giúp cho chúng ta thấy rõ:
“Đổi mới mang tầm vócvà ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn
diện, triệt để, là sự nghiệpcách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân”. Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo lOMoAR cPSD| 44985297
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin vào giải quyết những vấn đề
mâu thuẫn nội tại nảy sinh trong quá trình đổi mới là hoàn toàn phù hợp. Trên
quan điểm duy vật biện chứng để tổng kết, đánh giá Đảng ta đã rút ra 5 bài học
kinh nghiệm quan trọng làm tiền đề, từ đó xác định phươnghướng cho chặng
đường tiếp theo của sự nghiệp đổi mới, đó là: “Tiếp tục đổi mớimạnh mẽ tư duy
vận dụng sáng tạo, phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương,
chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết
tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta”
Ngày nay trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải
đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng luôn xác định phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn quá trình đổi mới
gần 30 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đó.
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém
phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã
hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Những thành tựu to lớn trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử để chúng ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khuyết
điểm cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. lOMoAR cPSD| 44985297
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và
thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định nhưng chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi
chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội
và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản
lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn
những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực,
một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của
công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
2.3. Giải pháp phát triển toàn diện trong thời kì Đổi mới
Từ nguyên tắc xem xét toàn diện trong nhận thức, cần phải rút ra cách nhìn
đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo đó, muốn cải tạo đối tượng phải áp dụng
đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện để tác động làm thay đổi
các mặt, các mối liên hệ của đối tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn
phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung sức lực giải quyết.
Thứ nhất cần bám sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, căn cứ vào tình
hình thực tiễn để chỉ đạo, điều hành chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đúng hướng,
có trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường; tiếp tục xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, có khả năng chống chịu với tác động tiêu cực từ bên ngoài; nỗ
lực phấn đấu với quyết tâm cao, biến thách thức thành cơ hội; nâng cao hiệu quả
phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương; khắc phục hạn chế, yếu kém của năm
2021, nhất là các tồn tại, hạn chế kéo dài; thực hiện thành công, toàn diện mục
tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2022, tạo nền tảng vững chắc để phát triển bền vững.
Thứ hai cần thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID19;
kiên định thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp, bảo vệ tối đa sức
khỏe, tính mạng của nhân dân cùng với tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất,
kinh doanh, kịp thời hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Xác định tiêm chủng vắc-
xin, thuốc điều trị COVID-19 và nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân là lOMoAR cPSD| 44985297
các yếu tố quyết định trong kiểm soát dịch bệnh thành công để phục hồi phát
triển kinh tế - xã hội. Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng,
chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội: Tập trung ưu
tiên triển khai đồng bộ, hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 và
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội Thứ ba, chủ động nắm
chắc tình hình, tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy quá trình phục hồi, phát triển
kinh tế - xã hội và duy trì động lực tăng trưởng trong dài hạn, khai thác các động
lực tăng trưởng mới. Tập trung thực hiện 3 trọng tâm: Khôi phục, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh; đẩy mạnh xuất khẩu; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư
công và huy động mọi nguồn lực để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là
hạ tầng chiến lược. Kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát,
nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế. Đẩy mạnh
cơ cấu lại nền kinh tế thực chất, hiệu quả. Phát triển thương mại điện tử, kinh tế
số và các mô hình kinh doanh mới dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin, công
nghệ số. Tập trung xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài nhiều năm.
Thứ tư, tiếp tục ưu tiên hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, đẩy mạnh phân
cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực hợp lý, nâng cao năng lực, chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, góp phần xây dựng xã hội trật
tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng
nguồn lực con người, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực gắn với đẩy mạnh ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo, nâng cao năng suất lao động. Bảo đảm an sinh xã hội, an dân, thực hiện
tốt chính sách xã hội đối với người có công, khôi phục và ổn định thị trường lao
động, tạo việc làm, cơ cấu lại lực lượng lao động, nâng cao thu nhập, đời sống
cho người dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh
thuận lợi. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi
trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường thông tin, tuyên
truyền, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tạo đồng thuận xã hội. Đẩy mạnh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Bảo đảm ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội; tiếp tục củng cố, tăng cường, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, góp phần giữ lOMoAR cPSD| 44985297
vững môi trường hòa bình, ổn định và thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển
đất nước và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ năm, xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật: Tập trung
thể chế hóa những định hướng chính sách của Đảng; siết chặt kỷ luật, kỷ cương,
đề cao trách nhiệm; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hành chính
tư pháp, bổ trợ tư pháp; hoàn thiện cơ chế chính sách; phát triển đồng bộ, ổn
định, bền vững các loại thị trường, nhất là thị trường vốn, tiền tệ, lao động, khoa
học công nghệ, bất động sản..., thích ứng linh hoạt, an toàn với dịch COVID-19.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tạo nền
tảng phát triển kinh tế số, xã hội số: Khẩn trương, quyết liệt, hiệu quả trong chuẩn
bị đầu tư, phân bổ vốn; tập trung tháo gỡ vướng mắc, tăng cường hiệu quả tổ
chức thực hiện theo nguyên tắc hậu kiểm, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu...
Phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại: Đẩy nhanh tiến
độ xây dựng dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, tăng cường kết nối vùng, liên
vùng, khu vực, quốc tế; bảo đảm tiến độ quy hoạch, xây dựng công trình nguồn
điện, lưới điện trọng điểm; khẩn trương triển khai các dự án hạ tầng nền tảng số
quốc gia dùng chung; phát triển hệ thống hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; khuyến
khích phát triển hạ tầng thương mại gắn với đa dạng hóa mô hình phân phối hiện
đại, hạ tầng bưu chính, viễn thông, logistics.
*Riêng bản thân tôi cần nỗ lực học tập rèn luyện và đổi mới toàn diện để
phù hợp với bối cảnh hội nhập góp phần phát triển đất nước bền vững:
Thứ nhất, muốn bản thân ngày càng hoàn thiện và phát triển trở thành người lao
động vừa hồng vừa chuyên thì tôi phải biết kế thừa và phát huy những truyền
thống quý báu của dân tộc. Đồng thời không ngừng học hỏi và lĩnh hội tri thức mới...
Thứ hai, để trở thành một người tốt có nhiều cống hiến cho xã hội và một
quá trình rèn luyện lâu dài và suốt đời. Hiện nay, bản thân tôi cũng đang trong
quá trình quá độ để trở thành một người có nhiều cống hiến cho xã hội. Hiện tại
tôi phải thực hiện tốt vai trò là một sinh viên, luôn cố gắng rèn đức luyện tài, thì lOMoAR cPSD| 44985297
quá trình quá độ trở thành người trưởng thành thật sự sẽ ngắn lại và đạt nhiều
thành công trong tương lai.
Thứ ba, nuôi dưỡng bản tính tốt đẹp của dân tộc như cần cù, siêng năng, dũng
cảm. Nhưng cũng cố gắng cải thiện những đức tính chưa tốt, cố gắng linh hoạt,
cởi mở và sáng tạo trong học tập và cuộc sống.
Thứ tư tôi cần đổi mới bản thân để phù hợp với xu thế phát triển của thế giới,
cần học hỏi rất nhiều nâng cao kỹ năng thích ứng về công nghệ thông tin...Rèn
luyện các kỹ năng sống như giao tiếp tiếng Anh, thuyết trình, ca hát...Để tiếp thu
tri thức dễ dàng, giao lưu với bạn bè thế giới dễ dàng hơn để học hỏi và hoàn thiện bản thân..
Tham gia tích cực vào Đoàn Thanh niên hoặc các câu lạc bộ, hội nhóm ở
trường giúp em rất nhiều trong việc cải thiện các kỹ năng mềm, nâng cao thành
tích cá nhân. Đồng thời, tôi nhận thấy vấn đề đổi mới toàn diện về kinh tế trong
thời kỳ hội nhập là một vấn đề mang tính thời sự. Mỗi người cần có nhận thức
đúng đắn về điều này để chấp hành tốt các chính sách của Đảng và nhà nước,
hiểu được vai trò của mình trong xã hội để góp phần vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của đất nước. KẾT LUẬN
Tóm lại, việc xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm nhưng đồng thời phải đổi
mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình Đổi mới ở Việt
Nam là vấn đề cấp thiết quan trong. Nhờ có sự định hướng đúng đắn trên sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi năm, đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Là
kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng đúng đắn các quy luật khách quan của triết học Mác-xít, trong đó có phép
biện chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới nổi bật là quan
điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện giúp ta nhận thức đánh giá, xem xét sự vật
với tất cả các mối liên hệ mà sự vật có nhưng phải tìm ra được mối liên hệ nào lOMoAR cPSD| 44985297
là cơ bản, quy định sự tồn tại, vận động của sự vật.Từ đó để có cách nhìn nhận
đánh giá đúng bản chất, đúng trọng tâm của sự vật mà không dàn trải. giúp khắc
phục được bệnh phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện trong nhận
thức và cải tạo thực tiễn, đưa ra những biện pháp phát triển kinh tế toàn diện,
đúng đắn, hiệu quả giúp phát triển nền kinh tế nhanh chóng, bền vững, hội nhập và thăng hoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Triết học Mác – Lênin.(GS.TS Phạm Văn Đức chủ biên. Hà Nội,2019)
2.Nhiều giải pháp thúc đẩy kinh tế Việt Nam phục hồi, phát triển bền vững
https://vneconomy.vn/nhieu-giai-phap-thuc-day-kinh-te-viet-nam-phuc-hoiphat- trien-ben-vung.htm
3.Đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay
https://hcma2.hcma.vn/khoahoc/Pages/hoi-thao-toa-dam.aspx? CateID=272&ItemID=11234