cơ sở văn hóa học Việt Nam/ đề tài: Phật giáo
Đạo Phật chính là giáo lý Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ thứ 9 đến thế kỉ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực Châu Á, Châu Phi, gần đây được truyền tới các nước Châu Âu, Châu Mỹ
Môn: cơ sở văn hóa học Việt Nam
Trường: Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ĐÀ NẴNG ==== ====
CƠ SỞVĂN HÓA VIỆTNAM
TÀI LIỆU ÔNVỖ NHẸ ĐỀTÀI : PHẬTGIÁO
Hướng dẫn của giáo viên: PhamThị TúTvành đai Sinh viên thực hiện: 1.NguyễnThị Thu Hiền
2. Nguyễn Tchào Diệu Huyền 3.Nguyễn P hú Kiên 4. H'Lanh Knul 5.Adrông H'Lịch 6. Nguyễn Khánh Linh 7. Huỳnh Thị Cẩm Lvà
8. TrươngThị Tđánh giá của tôi 9. Đoàn Tchào Mai Nga
10. PhùngThị Hoài Ngọc Lớp : 21CNA05 ĐÀ NẴNG - 2022 about:blank 1/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P… MỤC LỤC MỘT. MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀPHẬT GIÁO
1.1. Tưởng niệm Phật giáo
1.2. Tư tưởng xây dựng thành công và phát triển Phật giáo
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của Phậtgiáo
1.2.2. Quá trình nhập và phát triển củamột Phật giáo
CHƯƠNG 2. NỘI DUNGTƯ TƯỞNG CƠ BẢNPHẬTGIÁO
2.1. Tổ chức Phật giáo , Tư tưởng cơ bản của Phật giáo
2.1.1. Quan điểm của Phật giáo về thứế giới quan
2.1.2. Về giáo dục, giáo luật, lễ nghi a đạo Phật
2.2. Những quan điểm về giá trị của Phật giáo
2.2.1. Phật giáo phần kiến tạo một xã hộibạn bè, bác ái
2.2.2. Phật giáo tạo phần cần thiết để bắt đầuc văn hóa dân tộc
2.2.3. Phật giáo khuyến khích mọi người sống thiện,tu tâm dưỡng tính
2.2.4. Giáo lý của phần giáo dục Phật giáogiáo dục đạo đức con người
2.2.5. Phật giáo có ảnh hưởng kích thướccđến các mối quan hệ giMộtđình, xã hội
2.3 . Những quan điểm về giới hạn của Phật giáo.
2.4. Các giải pháp cơ bản.
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦAPHẬTGIÁO ĐỊNH VĂN HÓAVIỆTNAM
3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lÝ
3.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tư ởng
3.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tạo ra lý
3.2. Ảnh hưởng của Phật giáoquá trình nhập văn bản hóa Vchết tiệt Natôi
3.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo qua sự dung hòa vnew network chuyển tín hiệu
3.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với sự dung hòa với c ác tôn giáo khác
3.2.3. Ảnh hưởng của Phật giáo qua sự dung hòa với các tông phái
3.2.4. Ảnh hưởng của Phật giáo qua sự dung hòa vnew xã hội chính thế hệ
3.2.5. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống ngưđờidân bình và trí tuệ
Ảnh hưởng của Phật giáo qua góc nhân văn và xã hội 3.3.
3.3.1. Ảnh hưởng của Phậtgiáo dục bằng ngôn ngữ
3.3.2. Ảnh hưởng của Phậtgiáo qua thơ ca và các tác phẩm văn học
3.3.3. Ảnh hưởng của Phậtgiáo qua phong tục tập quán
3.4. Ý nghĩa của Phật giáo trông giai đoạn hiện tại
3.4.1. Argument with main value 3.4.2. Đối với kinh tế
3.4.3. Đối với tư tưởng - văn hóa - xã hội
3.4.4. Đối với giáo dục, đạo đức, đường sống C. KẾTLUẬN
TÀI LIỆUTHAM KHẢO about:blank 2/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P… PHẦN MỞ ĐẦU
Đạo phật là một trong số các tôn giáo - học thuyếtThọc tập lớn nhất trên thế giới và
có lịch sử hình thành từ rất lâu đời. Tôn giáo này có hệ thống giáo dục và số lượngợngphật tử
đông đảo được phân bố rộng rãi trên khắpThế giới. Tại VViệt Nam , Phật giáo được truyền bá
vào nước ta thế kỷ II SCN do các nhà sưẤn Độ truyền bá vào Trung Quốc và từTthanh ngang
Quốc vàoVviệt Nam. Phật giáo nhanh chóng trở thành tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến
đời sống văn hóa, tinh thần của người dânVviệt Nam. Bài hát Phật giáo tồn tại cùng với
các học thuyết tư tưởng hoặc tôn giáo giáo nắm vai trò chủ đạo trong từng giai đoạn lịch sử
dân tộc như Phật giáo, Nho giáo, học thuyết cnghĩa của Mác-Lênin. about:blank 3/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Ngày nay, trong công cuộc build đất nước quá cao lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở lại thứnền tảng tư tưởng chủ đạo của Đảng
Cộng sản VViệt Nam, là vũ khí lý luận của chúng ta. Ven bờ, Phật giáo vMỘTlà một tôn
giáo có tác động lớn đến nếp sống, suy nghĩmột bộ phận của dân tộc VViệt Nam.
Chính vì thế, việc làm đi sâu vào nghiên cứu lịch sử, giáo lý, cũng như xemđánh giá ảnh hưởng
của Phật giáo đến đời sống tư tưởng văn hómột tinh thần của người Vtốt nhất là hếtsức cần thiết
trong bối cảnh hiện tại do những lý do làm chủ yÍtsau:
Thứ tư , đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu các tư tưởng Phật giáo giúp ta có cái nhìn
đúng và hoàn thiện hơn về những mặt hạn chếchế độ và tiến bộ, nhân đạo. Trên cơ sở đó,
chúng ta sẽ có thêm những điều đã biết vềtâm lý người dân để tìm rmột phương pháp
hướng đạo đúng nuôi, phù hợp nhắm giúp nhân dân xây dựng dự ánngđời sống tinh thần lành
mạnh mẽ, tránh xa các loại tiền tệê tínDị ứng với ảnh hưởng xấuếnsức khỏe, niềm tin của
họ hiểu sai về học lý nhà Phật.
Thứ hai , việc nghiên cứu Phật giáo và sự thậttác dụng của Phật giáo tới đời sống văn bản
hóa - tinh thần của người dânViệt cũng góp phần trợ giúp cho các cấp quản lýạchđịnh,
xây dựng chính sách tôn giáo phù hợp nhằm mục đích ổn địnhNh tình hình chính - xã hội, xây dựng
đất nước Vviệt nam với nền văn hóa đặc sắc,đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và xa hơn
nữa là thành phần làm phong phú hơn nền văn minhnhânloại.
Ngoài ra, quá trình Phật giáo được truyền bá và phát triớ Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, p hát phát triển tư tưởng, đạo đức củmột kẻ lừa đảo. Do đó, việc nghiên cứu
Phật giáo và mối quan hệ, tác động qua lạia Phật giáo và đạo đức con người luôn phải được đề bài hát. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNGQUAN VỀ PHẬTGIÁO
1.1. Tưởng niệm Phật giáo
Phật: tiếng Phạn là Phật, nghĩa là sángtrong suốt.
Phật: là bậc sáng suốt hoàn toàn,giác hoàn toàn, sau đó đưa ra giác ngộ mà giác chúng sinh ngộ nghĩnh.
Do đó mới nói rằng: Phật tự giác, giáctha, giác hạnh viên mãn. Trong Cực Lạc Thế
Giới thiệu có vô số Phật, có những vị Niết đã được nhậpbàn, có những Phật thường gặp ở Tbà
Thế giới để giúp đỡ nhân sinh.
Giáo: Dạy dỗ, Giáo cũng là tôn giáo. - Phật giáolà những lời dạy, những điều Phật dạy,
tạo một hệ thống giáo dục đểngàyứng dụng nhân sinh. Đó là một nền tảngGiáo lý và Triết
lý rất cao thượng, dạy chúng sinh tỉnh, ttự ngộ, tự giác, để cuối cùng thành Phật. - Phật
giáo dục là một tôn giáo lớn trên toàn cầu, truyền bá trong nhiều nước, có tổng số tín hiệu
gần một tỷ lệ người. Số tín đồ Phật giáo đông nhất ở cAc nước Á Châu như: Ấn Độ, Nepal,
Tích Lan (Srilanka), Miến Điện,Trung Hoa, Thoa Lan, Lào, Miên, VViệt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. vv …
1.2. Khái lược sự hình thành và phát triển của Phật giáo
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay Buddha).
Đạo Phật chính là giáo lý Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế
kỉ thứ 9 đến thế kỉ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc
gia trong khu vực Châu Á, Châu Phi, gần đây được truyền tới các nước Châu Âu, Châu
Mỹ. Trong quá trình truyền bá của minh, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân about:blank 4/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
gian, văn hóa bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng
quan trọng với đời sống xã hội và văn hóa của rất nhiều quốc gia. Buddha vốn là một thái
tử tên là Tất Đạt Đa (Siddharta), con trai của Tịnh Phạn Vương (Suddhodana) vua nước
Tịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ (nay thuộc đất Nepal) ông sinh ra vào khoảng
năm 623 trước Công nguyên. Cuộc đời của Phật Thích Ca được kể lại ở trong truyền
thuyết như sau: “Vào một đêm Mahamaya, người vợ chính của Suddhodana, vua của
người Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatapta ở Himalaya. Sau khi các
thiên thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đóa hoa
sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái được mời đến
để giải mơ của Hoàng hậu. Các nhà thông thái cho rằng giấc mơ là điềm Hoàng hậu đang
có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể
của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hậu Mahamaya trở
về nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô
Kapilavastu của người Sakia không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa
ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói: “Thiên địa thiên hạ, duy
ngã độc tôn’’ Khi Hoàng tử Siddhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ
đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisara, vua nước Magadha. một
hôm có nàng Sujata, con gái của một nông dân trong vùng đã đem cho ngài một bát cơm
to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi
thiền định và nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của
sự đau khổ ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Để phá sự thiền định của Hoàng
tử, con quỷ dữ Mara tìm mọi cách làm chàng nản. quỷ Mara đã tìm mọi cách để quấy phá
nhưng không thành. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã
tìm ra được vì sao thế giới tràn đầy khổ đau và đã tìm ra được cách để chiến thắng sự đau
khổ. Siddhartha đã hoàn thành giác ngộ và trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi
giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý
diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của
mình cho thế giới không, vì sự huyền diệu quá khó hiểu đối với mọi người. Chính thượng
đế Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho thế
gian. Chỉ khi đó Phật mới rời khỏi gốc cây bồ đềđi đến khu vườn Lộc Uyển ở Varanasi
để giải bài pháp đầu tiên cho nămngười bạn tu hạnh phúc của mình. Giáo dục
Biểu tượng mới của Đạo Phật đã gây ấn tượng . Đếnnăm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, làyếu đuối, Đức
Phật cùng các môn đồ trở về chân núi Himalaya nơi bạn sinh ra và lớn lên. Trên đường
Đã chuẩn hóa Phật ở mọi thứ cho các môn họcđồ thị đểhọ có thể tự thiết lậpợcsau khi ngài chủ tịch.
Và ở tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Coutội lỗi Gara, Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng
của Phật là: “Đây là các vị tríỳ những lời tối hậu lo ưu phận mình Hữu vi là pháp
cấu trúc sinh họcVô thường biến đổi, hữu hình hoạt tiêu Như lai căn cốt một điều Ráng lotu học
cũng nhiều dễ thương đôi'.
1.2.2. Quá trình nhập và phát triển của Phật giáo about:blank 5/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Đạo Phật được Siddhārtha Gautama thu hút ở miền bcẤn Độ vào thế kỷ 6TCN.
Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khiBụt còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều
dân tộc nên lịch sử phát triểnđạo Phật đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức
và các phương pháp học tập. Ngay từ buổi đầu tiên,Thích Ca-người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức
được giáo dục theo luật phápcó rời rạc. Được hỗ trợ vào chất lượngkhai sáng cùng sự thỏa hiệp
chuyển giáo pháp, đạo Phật được nhiềungười có thể theo dõi và có thể thích nghi với nhiều
hoàn thiện xã hội, nhiều tầng lớp ngưđời,nhiều tập tin ở các thời điểm khácc nhau, và làm điều đó
ngày nay đạo Phật vẫn tiếp tục tồn tạiạivà ngày càng phát triểnênrộng rãi trên toàn thế giới
ngay trong các nước có nền khoa họcc tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
Ngay sau khi thành đạo (vào khoảng giữasauthế kỷ thứ 6 TCN - có tài liệuchođó là vào
năm 589 TCNeo Phật giáo Nam Tông hay năm 593TCN theo Phật giáo BắcTông)
Thích Ca quyết định lý thuyết lại higiản lượcbiết mình. 60 đệ quy đầu tiêntrước là những người
có quan hệ gần vớiThích Ca đã hình thành thành đoàn đầu tiên. Sau đó,
những người này chia nhau đi khắp nơi và truyền báthêm ngày càng nhiều người muốn
theo tu học. Để công việc được vở mộtlượng người học ngày càng caođông, Phật đã
đưa ra một chuẩn mực cho đệmtử có thể dựa vào đó mMộtthu nhận thêm người.Các
chuẩn mực này phần chính là việc Quy y tam bảo - tức là chấp nhận theohướnghướng dẫn của
chính Phật, những lời dạy chỉ của Phật (Pp), và cộng đồng tiền tăng thêm.
Thời kỳ thứ nhất: từ khi Phật giáo du nhập vào cho thế kỷ X
Phật giáo là một tôn giáo được truyền đạtao nước ta từ rất sớm. Theo hiểu bixóa hiện tại
của nghiên cứu lịch sử thì Phật giáo vào Vviệt nam từ những năm đầu tiên.
Chính sử củaTrung Quốc cũng đã ghi nhận rằng, vào những năm đầu Công nguyên,
trong khi miền NamTrung Quốc chưa có đạo Phật thì ở Kinh Đô Giao Chỉ nướcVchết tiệt rồi
có một trung tâm Phật giáo và Phật học khá thịnh vượng.
Ban đầu Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếutrực tiếp từ Ấn Độ. Có thể kể một tên
số tăng sĩ Ấn Độ vàTrung á sang truyền giáo ở Vviệt Nam như: Ma Ha Kỳ Vực, KhubạnĐa
La, Khương Tăng Hội, Chu Cương Lương, Mạ Đa Đề Bà... Đến thế kỷV, Phật giáo đã
được truyền đến nhiều nơi trên đất nước vàđã xuất hiện những nhà sư Vchết tiệt Nlàcó nhiều
tên tiếng anh là: HuệThắng (học trò của Đạt Ma Đề Bà) tu tại chùaTiên Châu.Tuy nhiên
trong lịch sử Phật giáoVviệt nam thì từ thế kỷ thứ VIcho đến thế kỷ X vẫn được xem là about:blank 6/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
giai đoạn truyền giáo của đạo Phật,song giai đoạn này các nhàuyềngiáo dục của Ấn Độ bắt giữ
đầu giảm dần và các nhà truyền thôngáocủaTrung Quốc bắt đầu tăng lên, dẫn đến bắt
đầu có các lợi lộcTrung Quoc du input to VViệt Nam cụ thể như sau:
- PháiThiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi: Cuối thời kỳ hậuLýNam Đế, khoảng năm 580 một
nhà sư Ấn Độ tênTỳ Ni Đa Lưu Chi - là Tổ thứ ba của phái ThiềnTrung Quoc đã vào
Vviệt Nam tu tại chùa PhápVân (tỉnh Bắc Ninh) và trở thành thành viênTổ sư của phái Thiềnnày ở VViệt Nam.
- PháiThiền Vô NgônThông: Năm 820, phái ThiềnVô Ngôn Ngữ Truyền Thôngvào Vtệ
Nam (Vô NgônThông tin Trịnh - là người Quảng Châu,Trung Quốc, tu tại chùa Song
Lâm, Triết Giang). Năm 820, ông sang tu tại chùaTchạy Quốc (Hà Nội) và trở thành thành viênổ
sư phụ của vị thiên tài này ở đâyVViệt Nam.
Theo đánh giá, mười thế kỷ đầu Phật giáo truyền bá vào VTôiet Nam, mặc dù trong khi hoàn thành
cảnh đất nước xâm lược và đô hộ nhưngđạo Phật đã được tạo rangảnh hưởng
in the people and has the normal information for giai đoạnđoạn phát triển mới khi đất nước độc lập thiết lập, tự chủ.
Thời kỳ thứ hai: Phật giáo thời Đinh - Lê - Lý -Trần (thế kỷ X đến thế kỷ XV)
Từ thế kỷ X, nước ta bước vào kỷ nguyênđộc lập, tự chủ sau một ngàn năm Bắc thuộc.
Vđiều này đã tạo điều kiện cho Phật giáophát triển đã sang một bước mới. dưới triều đại
Đinh - Lê, tuy không tuyên bố Phật giáo là Quốc đtạo nhưng đã nhận được Phật giáo
tôn giáo chính của cả nước. Các triềuVua Đinh - Lê có nhiều nâng cấp chính sáchđạo Phật.
Năm 971, Vua Đinh Tiên Hoàng tập tintăng vị trí để xác định thứ tự sản phẩm
tăng chúng. Thiền sư Ngô Chân Lưu (933-1011), hậu của Ngô Quyền được Định
Tiên Hoàng tôn làm KhuôngVthiết thái sư (khuôn mẫu cho nước Việt) và được phong
chứcTăng cường đầu Phật giáo cả nước. Pháp sư Ma Ni được phongTăng lục,
Ở hải triều Đinh - Lê không chỉ sử dụng các tăng cường hỗ trợ cho Phật giáo
phát triển. build nhiều tháp ởvùng Hoa Lư, trở thành một trung tâm kinh tế -
chính trị - xã hội mà vẫn là trung tâmPhậtgiáo dục lớn của cả nước.
Dưới triều nhàTrần, Phật giáo Vviệt nam phát triển tới cực mạnh và trở thành
tôn giáo chính của cả nước.Vị trí đầu tiên củaTriều Trần là vua TrầnThái Tông
trong ba năm ba giữ ngôi (1225-1258), ông vừa trTôiQuốc gia nghiên cứu Phật học
và trở thành người có chương trình học Phật giáo chuyên sâuâm. Dưới nhà Trần, bên ngoàiVT của tôirần
Thái Tông thìcòn có nhiều vị trí Vua, quan khác đóng vai trò trò chơiquan trọng đối với việc phát hiện
sự phát triển của đạo Phật được lịch sử ghi lạinhận và tôn vinh.
Tnhà rộng thời kỳTrần, ở Vviệt nam xuất hiện pháiThiềnTrúclâmYênTử. Nét đặc
sắc củaThiềnrúc lâmYên Tử là quy tụ được ttất cả các dòng có ở Vviệt nam như
Tỳ Ni Đa Lưu Chi,... do đóThiềnrúc lâmYên Tử được xem là line tinh túy ở
VViệt Nam và là nền tảng đầu tiên cho vihệ thống Phật giáo nhất ở VViệt Nam.
Thời kỳ thứ ba: Phật giáo thời Lê Sơ đến nhà Nguyễn (XV-XX)
Từ triều Lê Sơ (thế kỷ XV) trở đi,chế độ Phong kiến ởVviệt nam phát triển lên một
bước mới, lấy dự thảo văn bảna cho tư tưởng chính trị và đạo đức. Phật giáo từ
phòng phát triển thịnh vượng đã suy yếu dMỘT. T
uy nhiên với truyền thống yêu cầu nước, mount bó vớ
dân tộc thì Phật giáo vẫn được giữ gốc rễsâu sắc trong lòng nhân dân; đồng thời với trạng thái
độ khoan dung, Phật giáo đã làm cho tư tưởngTam giáo (Phật,Lão, Nho) vốn có từ trước
bắt đầu mang theo một trạng thái mới. about:blank 7/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Thời kỳ Nam - Bắc triều, khi hoàngTrịnh ở ngoài, Hoàng Nguyễn ở ngoài,
Phật giáo có sự khởi động trở lại khi các Chúa Trịnh, Nguyễn đều tạo điều kiệncho việc
tôn tạo, sửa chữa chùa chiền. Tgiai đoạn này có nhiều suối được ChúaTvành đai,
Nguyễn cho xây dựng như: chùa Phúc Long (xây năm 1618), chùa ThiềnTây ở Vĩnh
Phúc (xây năm 1727), chùaThiên Mụ ở Huế (xây năm 1601)... Cùng thời điểm này, ởVtệ
Nam xuất hiện thiên phú mới làThiềnTào Động ở ngoài và Thiền Lâm tếởĐàng trong.
Thờikỳ thứ tư: Phật giáo thế kỷ XX và hiện nay.
Phật giáoVviệt nam vẫn tiếp tục suy vi cho đến những năm ba mươi của thế kỷ XX
mới bắt đầu có sự khởi động trở lại bở đâu phong trào hưng hưng hưng.
Đầu thế kỷ XX, phong trào hưng hưng Phật giáo không chỉdiễn ra ở VViệt Nam mà
còn diễn đàn ở nhiều nước; đó là kết quảSự yếu đuối của những biến đổi lớn về kinh tế, văn bản
hóa, xã hội, tư tưởng. Phong trào hưng hưnggiáo nổ ra ở Trung Quoc, Nhat Ban sau
đó lan ra nhiều nước Châu Á với cáckhẩu hiệu cách giáo dục, cách thiết lập mạng,
cách mạng văn bản. Phong trào hưng hưng Phật giáoout of mang ý nghĩa tôn giáo thì còn
có ý nghĩa chính trị xã hội tích cực gđã kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; đó là
một số nhà sư cùng một số nhân viên trí tuệ yêu nước, thăm viếng, muốn đạo Phật phát triển
nên sử dụng ngọn cờ Phật giáo để kết nối, ttập hợp lực lượng thực dân Pháp.
Phong trào hưng phấn kéo dài đếnnăm 1950 đã đưa ra hết những kết quả sức quan trọng đó là:
Thứ nhất : Đưa Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức c.
Thứ hai : Sự kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáoVviệt Nam và kết quả của Phong
Sóng Chấn hưng Phật giáo đó là năm 1951, tở Huế, các tổ chức Phật giáo nói đã được trưng bày
lại để lập lạiTổng hội Phật giáo VViệt Nam.
Thứ ba: Phong trào Chấn hưng Phật tích cực xây dựngngđược một số cơ sở giáo dục để
đào tạo tăng, ni và đưa ra công việcao tạo tăng ni trở thành thành quy, nền nếp. Sau đó là kinh sách
Phật giáo được biên dịch và phát hành rộng rãirộng rãi, theo đó các tạp chí Phật học cũng được ra
đời để điều chỉnh phương tiệngiáo lý, giáo luật.
Đến năm 1954, khi đất nước bị chia cắtthành 02 miền thì tình hình Phật giáo ở 02
miền cũng bắt đầu có sự khác biệtau, cụ thể:
Có thể nói Hội Phật giáoThống Nhất VViệt Nam ra đời vhoạt động là bước chuyển
quan trọng trong tiến trình gắn bó với dân tộc củaPhật giáo miền Bắc.
Ở miền Nam, những năm 1954-1975, tình hình Phật giáocó những phức tạp diễn đàn,
đáng chú ý là có sự ra đời của nhieuorganization, system.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hòabình, độc lập, thống nhất đã tạo cơ sở
duyên thuận lợi cho Phật giáo thực hiện một lầnPhật lớn nhất: hệ thống tổ chức tối đa
Phật giáo trong một tổ chức chung.Tháng 2/1980, Ban vận động Phật giáo được
thành lập với 33 vị tăng, ni, cư sĩ đại diệncho các tổ chức quyền của Phật giáo cả nước.
tháng 11/1981, Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáotổ chức đã được long longtại
thủ đô Hà Nội với 165 đại biểu là tăng, ni, cư sĩ của 09 hệ Phật giáo trong cả nước, đó là:
Giáo hội Phật giáoVviệt nam thống nhất với 23 đại bitiểu do Hòa thượng Thích
Thiện Siêu LàmTrQuyền đoàn
Hội Phật giáoThống nhất VViệt Nam có 23 đại bigiản lượcdo Hòa thượngThích
Nguyên Sinh làm trưởng đoàn about:blank 8/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Giáo hội Phật giáo cổ truyềnVviệt nam có 12 đại biểu do hòa thượngThích Trí Tấn làm trưởng đoàn
Ban liên lạc Phật giáoThành phố Hồ Chí Minh có 10 đại biểu do Hòa
thượng Thích Thiện Hào làm trưởng đoàn.
Giáo hội Tăng già nguyên thủy VViệt Nam có 07 đại bitiểu do Hòa thượng Thích
Siêu VTôiếtlàm trưởng đoàn
Hội đoàn sư sư yêu nướcTây Nam Bộ gồm có 08 đại biểu do Hòa Thượng Đại học Dương Nam làm
Giáo hội Tăng già Khất sĩ Vviệt nam có 06 đại biểudo Hòa Thượng Thích Giác Như làm trưởng đoàn
Giáo hội Thiên thái giáo quán bao gồm 05 đại biểu do Thượng tọa độ Thích
Đạt Pháp làm trưởng đoàn
Hội Phật họcVviệt nam có 06 đại biểu do cư sĩ Tăng Quang làm trưởng đoàn.
Có thể nói Phật giáo nhấtVviệt nam là sự kiện cực kỳ quan trọng trong lịch
sử Phật giáo Vviệt nam vì nó đáp ứng nguyện vọng tha thiết của tăng, ni phật tử trong cMột
nước; đồng thời tạo điều kiện hơn bao giờ hết cho Phật giáo Vviệt nam tiếp tục phát
phát triển, phát huy truyền thống gắn bó với dân tộc để "Hộ trì hoằng dương Phật pháp, phục
vụ tổ quốcVviệt nam xã hội chủ nghĩa, góp phần hòa hòa bình, an lạc cho thế giới hạn".
CHƯƠNG 2. NỘI DUNGTƯ TƯỞNGNG YếuPHẬTGIÁO
2.1. Tổ chức Phật giáo, tư tưởng cơ bản của phMộtt giáo
Tổ chức Phật giáo :
Phật giáo chủ trban không có giáo quyền, không công đã nhận hơn quyền, không
được tổ chức theo thế giới hệ thống. Ban đầughi chỉ có những người cùng nhóm
đi truyền giáo,gọilà Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáotập đoàn. Tăng giàcó từ 4người trở
lên. Thành phần của tập đoàncó thể Tăng tuổi có thểbao gồmcả 2 chúngxuất gia và 2chúng tôi tại gia.
Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Tthưởng lão đạo cao đức trọng nhất trong
đoànthể đượcvỗ nhẹthể cácsư suytôn đểquảnlý, điều hành TăngđoàN.Ngoàira cònmột
số vị trí trong hàng Ttrưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.
Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát Phát triển đến các quốc gia, Phật
giáo đã theo tinh thần Khế lý - Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh hoạt tăng
đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.
Tư tưởng phật giáo
Phật giáo là một trào lưu tư tưởng lớn ở Ấn Độ cổ đại. Xuất hiện vào thế kỷ VI trước
công nguyên. Người sáng lập là Buddha (Phật) còn có nghĩa “giác ngộ”. Ông sinh
khoảng năm 623 trước công nguyên, sống gần 80 năm. Sau khi ông mất, các học trò của
ông đã phát triển tư tưởng của ông thành hệ thống tôn giáo – triết học lớn ở Ấn Độ có ảnh
hưởng rộng rãi, sâu sắc trong đời sống tinh thần và tâm linh của nhân loại.
2.1.1: Quan điểm của phật giáo về thế giới quan
Thế giới quan là một khái niệm triết học, là cá nhân đối với thế giới, cho đến cách nhìn
rất căn bản về vũ trụ, từ năng lực tư duy của nhân loại hiện khởi, chứ không phải dừng lại
ở sự nghiên cứu hay suy xét đối với một vấn đề nào đó. about:blank 9/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Theo nghĩa hẹp thế giới quan là quan niệm hay hệ thống quan niệm của con người
về thế giới. Quan niệm hay hệ thống quan niệm này cũng không phải nhất thành
bất biến mà thay đổi theo thời đại phụ thuộc vào mức độ hiểu biết và cải tạo giới
tự nhiên của con người. Nhưng thế giới không tách rời con người.
Theo nghĩa rộng, thế giới quan là hệ thống những quan niệm của con người về thế
giới; về vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của
con người và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định; nghĩa là, thế giới
quan cũng bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc
sống của con người và loài người.
Trong Phật giáo, đặc biệt là đối với Phật giáo nguyên thuỷ, “khía cạnh vũ trụ quan,
thế giới quan có phần hơi mờ nhạt, trong khi đó khía cạnh nhân sinh quan lại khá
từ nét” . Một số nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo nguyên thuỷ không lấy bản thể
luận làm chủ ý, mà vũ trụ quan (thế giới quan) lấy nhân sinh quan làm trung tâm.
Tức là, thế giới quan không tách rời nhân sinh quan, bởi lẽ khảo sát thế giới,
nghiên cứu vũ trụ mà tách rời khỏi con người thở đức Phật không chấp nhận.
2.1.2 Về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Phật:
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):
Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế
kinh, có nghĩa như là một chân lý.
Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành cho 2 chúng
xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc
biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.
Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng vĩ đại. Riêng Đại
tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những trước tác, bình luận, giải
thích giáo lý và rất nhiều các lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý
học được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì chép
bằng chữ Pali và chữ Phạn. Giáo lý:
Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống, không
trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà hoàn toàn chỉ mang
tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt
để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng
đạt đến mục đích sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và
Tứ Diệu đế (4 chân lý). Lý Nhân duyên
Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và biến đổi
không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không (mỗi sự vật đều có quá trình hình
thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là
tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là
“trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối
bởi quy luật nhân - duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và
duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa about:blank 10/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không một hiện
tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên. Nhân và duyên
cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện
tượng và quá trình hợp - tan của các nhân - duyên có trước để tạo ra nhân - duyên mới,
Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành - Trụ - Hoại
- Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt
(đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối
cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo
không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối
cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều
nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân -
duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân
duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2)
Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11)
Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của "Hành", Hành là duyên của "Thức",
Thức là duyên của "Danh sắc", Danh sắc là duyên của "Lục nhập", Lục nhập là duyên
của "Xúc", Xúc là duyên của "Thụ", Thụ là duyên của "Ái", Ái là duyên của "Thủ", Thủ
là duyên của "Hữu", Hữu là duyên của "Sinh", Sinh là duyên của "Lão tử". Phật giáo cho
rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước
nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng
nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh
sáng dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của
con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới
nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến
hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho
con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có
thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự
nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.
Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi thứ ta có, ta
nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một
trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay không có đó
chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là "có";
khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt, lại trở về là "không". Muôn vật từ nhân duyên
mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là một
đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận
mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà
con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống
hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người
và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng,
không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.
Tứ Diệu Đế. about:blank 11/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
“Tứ diệu đế” là nội dung chủ yếu về nhân
sinh quan Phật giáo – luận điểm về giải
thoát và cứu khổ – Niết bàn.
– Khổ đế: tất cả những cái có, vốn là tồn tại đều khổ. Đau khổ là quá trình tồn tại. Đời là
bể khổ “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của bốn biển”. Những cái khổ tóm lại
trong bát khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn khổ.
– Tập đế (nhân đế): Mọi cái khổ đều có nguyên nhân. Nguyên nhân của đau khổ nằm
trong trần tục là vô minh, là dục vọng. “Thập nhị nhân duyên” là nguyên nhân cho cái tồn
tại kéo dài không ngừng và liên tục trong vòng quay vĩnh cửu. Mười hai nguyên nhân ấy
là: Vô minh, hành, thức, danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử đều gây
khổ. Duyên “lão-tử” vừa là kết quả cuối của một quá trình, nhưng cũng là nguyên nhân
của vòng luân hồi mới từ vô minh của cuộc đời khác.
– Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể diệt được. Có thể chấm dứt được đau khổ,
chấm dứt được luân hồi nhờ đạt trạng thái niết bàn.
Niết bàn phải được hiểu với những nghĩa sau: o
Là cảnh trí của nhà tu hành đã diệt sạch các phiền não và tự biết rằng, mình chẳng còn luyến ái; o
Là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não. o
Là đã dứt nhân quả sinh tử, dứt hết nghiệp, luân hồi. o
Là vô vi, trống không, lặng lẽ, yên ổn chấm dứt cái tai hại của sinh tử. o
Là không sinh ra những khổ quả nữa. o
Là không nhân duyên tạo tác nghiệp lầm (vô vi). o
Là yên ổn, khoái lạc, hết khổ (an lạc). o
Là lìa khỏi phiền não (giải thoát).
Niết bàn theo Phật giáo cũng có những nghĩa như thế, nhưng cần phải được hiểu là : o
Cõi tĩnh, tịch, cực lạc siêu không gian, siêu thời gian (hư không, thế giới bên kia); o
Đã diệt trừ hết mọi dục vọng, thù ghét, mê lầm đạt đến sự giải thoát tuyệt đỉnh,
đồng nhất Niết bàn, Pháp, Phật (Niết bàn có ngay trong hiện thực); o
Là thế giới đại đồng, bình đẳng, bác ái (khát vọng về tương lai).
- Đạo đế: Là những con đường chân chính dẫn đến sự giải thoát, là những con đường tu
đạo. Thực chất của những con đường này là diệt “vô minh”. Có tám con đường gọi là “bát chánh đạo”: o
. Chính ý: Tư duy, suy nghĩ đúng. o
Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính. o
Chính kiến: Có sự hiểu biết đúng đắn, nhất là hiểu biết đúng đắn về Tứ diệu đế. about:blank 12/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P… o
Chính nghiệp: Có nghiệp tà và nghiệp chính. Nghiệp tà thì tu sữa, cải tạo. Nghiệp
chính thì giữ cho vững, Thân, khẩu, ý nghiệp đều phải giữ cho chính, cho thanh tịnh. o
. Chính mệnh: Sống trung thực, cư xử đúng đắn, tiết chế dục vọng và giữ nghiêm giới luật. o
. Chính tinh tiến: Thường xuyên tích cực tiên kiên truyền bá chân lý của Phật.
Hoằng dương Phật pháp chân chính. o
. Chính niệm: Thường giữ vững và nhớ Phật, niệm Phật. o
. Chính định: Tĩnh lặng tập trung và suy nghĩ về “tứ diệu đế”, “vô ngã”, “vô thường” và “khổ”. Giáo luật
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều hành
Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn, hướng mọi
người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành
lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm:
Không sát sinh; o
Không nói sai sự thật; o Không tà dâm; o Không trộm cắp; Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó: o
Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; o
Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều
ác, không nói thêu dệt; o
Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi tiết
và cụ thể đối với từng loại xuất gia.
Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới
Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới
như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là: o
Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm. o
Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người. o
Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa. o
Không giữ vàng bạc. o
Không ăn phi thời (quá giờ quy định). o
Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày. about:blank 13/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Đối với Phật tử tại gia:
Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử cần trì
Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính, gieo lòng từ bi,
bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.
Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8
giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa: o + Không trang điểm o
+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng và cũng không xem nghe ...). o
+ Không ăn uống không đúng giờ.
- Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người trong cách
sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần Lục hòa (6 điều hòa hợp):
+ Thân hòa đồng trụ
Giới hòa đồng tu o Khẩu hòa vô tranh o Ý hòa đồng duyệt o
Kiến hoà đồng giải o
Lợi hòa đồng quân
Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với truyền thống văn
hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Giáo
luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành
nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân. Lễ nghi
Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang
nghiêm, tôn kính tới người sáng lập (đức Bổn
sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn
giản và đồng nhất, song cùng với quá trình
phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều
tông phái và du nhập vào các dân tộc khác
nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng của
người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần
có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…
Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm
của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch): - Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên Ngày 14/7: Lễ Tự tứ - Ngày 15/7 : Lễ Vu lan…
Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây - Tết dân tộc của người Khmer);
- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)… about:blank 14/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);
- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).
Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu nghị mà Phật
giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak,
Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật
thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá - tôn giáo quốc tế của Liên hợp
quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung tâm Liên
hợp quốc trên thế giới.
2.2. Những quan điểm về giá trị của Phật Giáo:
2.2.1. Phật giáo góp phần kiến tạo một xã hội bình đẳng, bác ái:
Đức Phật dạy hạnh phúc tối thượng là an lạc và không thể có hạnh phúc chân thật
nếu không thể có an lạc. Đức Phật không hề phân chia cấp bậc mà có cái nhìn ngang
bằng với tất cả chúng sinh. Đạo Phật chủ trương bình đẳng, Phật là Đức Phật đã thành,
chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có phật tính, đều bình đẳng trước Phật,
với Phật không ai là tiểu nhân, không ai quân tử, cũng không có quân, không có
dân,chia cắt nhau bằng hàng rào cấp bậc giai cấp,chỉ có một niềm từ bi bác ái,không có
hằn học,oán ghét,phục thù.Tiếp đó Phật kêu gọi sự tự giác,vị tha không những để giải
quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế.
Phật giáo khuyến khích mọi người sống chan hòa, cảm thông và chân ái dù khác
nhau sắc tộc, tôn giáo, màu da...Đạo Phật là một tôn giáo không có lực lượng vũ trang,
cũng không có thánh chiến trong việc truyền bá giáo lý.
2.2.2. Phật giáo góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc
Với lịch sử hơn 2000 năm, Phật giáo đã hội nhập và đồng hành như một thành tố
không thể chia cắt trong đời sống văn hóa - xã hội của người dân Việt Nam. Thể hiện qua
một số khía cạnh nổi bật sau:
Một là, đề cao giá trị con người, hướng thiện, xây dựng xã hội an bình.
Hai là, duy trì, phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, hòa đồng với cộng đồng.
Ba là, giáo dục, phát huy truyền thống yêu nước.
Bốn là, chung tay xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2.2.3. Phật giáo khuyên mọi người sống lương thiện, tu tâm dưỡng tính
Phật giáo hướng con người tới sự lương thiện, tức là giải thoát chúng sinh khỏi những
ràng buộc khổ đau, trở về với bản ngã nguyên sơ, tốt đẹp buổi ban đầu. Phật dạy làm
người lương thiện, nhất định phải nhớ những ngày để việc làm tích đức hành thiện, cả đời
bạn sẽ được phúc báo.
Thứ nhất: Khi có người sỉ nhục bạn, hãy coi đó là tích phúc.
Ai đó làm bạn bị tổn thương, chính là họ đang giúp bạn trưởng thành hơn. Bạn bị oan
ức, xin hãy nhớ! Đó là họ đang giúp bạn tích đức, không nên quá sầu não.
Thứ 2: Luôn làm việc thiện.
Những người nghèo khổ có thể cải vận của mình bằng việc lập công đức như trên và
chúng ta nên cứu giúp tiền bạc hay sự giúp đỡ tới những người nghèo khổ và khó khăn hơn mình.
Thứ 3: Tu khẩu. about:blank 15/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Lời nói gây tổn thương, còn tệ hơn là giết người. Chân tướng của điều này, rất ít người
hiểu rõ! Tâm tốt nhưng nếu luôn nói lời không tốt, thì vinh hoa phú quý cũng sẽ mất dần.
Thứ 4: Hạn chế sát sinh.
Sát sinh là tội ác lớn nhất trên đời, bởi mọi sinh vật đều có quyền được sống, được tồn
tại, phát triển, sinh sôi. Ta chặn quyền sống của sinh vật, cũng chính là đang gây điều ác.
Nếu hạn chế được sát sinh, tức là ta đang tích đức cho mình.
Thứ 5: Hóa giải hận thù.
Ngay cả khi ai đó xúc phạm bạn, vu khống bạn, hãm hại bạn. Thì cũng nên đối đãi một
cách thiện lành nhất, và nên cảm ơn họ. Bởi cũng chính sự xúc phạm, vu khống, hãm hại
của ai đó sẽ loại bỏ đi tội lỗi mà chính bạn đã gây ra trong quá khứ. Đồng thời trong lòng
bạn cũng không chứa đựng hận thù. Nếu dù chỉ giữ một chút hận thù, không những
không tiêu trừ được nghiệp lực, mà nó sẽ càng nặng hơn lên.
2.2.4. Giáo lý của đạo Phật góp phần giáo dục đạo đức con người:
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo
đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt. Phật giáo là một trong
những tôn giáo của thế giới bao hàm nhiều phương pháp tốt đẹp có thể cải thiện và giáo
dục tâm tính con người. đánh thức nơi con người đức tính tự trọng và tinh thần trách
nhiệm bản thân, phổ biến trong nhân loại đức tính khoan dung, từ bi, tình huynh đệ.
Phật giáo đã được truyền bá một cách gián tiếp qua nhiều hoạt động thiện nguyện
như ủng hộ bạn nghèo, lá lành đùm lá rách…. Chính vì thế ngay từ nhỏ, các em học sinh
đã được biết đến tư tưởng nhân đạo, bác ái mà cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý
nhà Phật đã hòa tan với giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Sự đồng cảm với
những con người gặp khó khăn, những số phận cô đơn, nghèo khó…. đã giúp cho nhiều
học sinh, sinh viên có đủ nghị lực, tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào
những hoạt động có ý nghĩa nhân đạo, tích cực. Thế nên ta không thể phủ nhận việc Phật
giáo đã góp phần tạo dựng nên lối sống với tư tưởng đạo đức tốt đẹp ấy, và ta càng phải
nhắc đến cũng như nhấn mạnh giá trị tốt đẹp ấy trong cuộc sống ngày này khi có quá
nhiều thứ ảnh hưởng tiêu cực đến thanh thiếu niên khiến cho không ít người lầm đường lạc lối.
2.2.5. Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình, xã hội.
Gia đình là một tổ chức nhỏ của xã hội, trong đó các thành viên giữ những vai trò,
nhiệm vụ giống và khác nhau, có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngoài trách nhiệm đối
với bản thân, mọi thành viên trong gia đình đều có trách nhiệm đối với những thành viên
khác và trách nhiệm xây dựng, phát triển cuộc sống chung của gia đình. Gia đình được
xây dựng và phát triển ổn định, bền vững thì xã hội, quốc gia mới hưng thịnh. Vì thế vai
trò của mọi cá nhân trong việc nỗ lực xây dựng gia đình vô cùng quan trọng. Việc xây
dựng gia đình được thực hiện trên nhiều phương diện của đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, gồm có nề nếp sinh hoạt, tình cảm, văn hóa, đạo đức, kinh tế, tài chính, truyền
thống gia đình, sự nghiệp của từng cá nhân và sự nghiệp chung của gia đình, việc gìn giữ
các trách nhiệm, bổn phận của mỗi thành viên v.v… Bổn phận của con đối với cha mẹ là
kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, giúp những việc cha mẹ cần làm, giữ danh dự và truyền
thống gia đình, giữ gìn tài sản, sự nghiệp của cha mẹ. Cha mẹ cũng có bổn phận nuôi
nấng con khôn lớn và giáo dục con nên người, giúp con có nghề nghiệp, hướng con theo
đường lành, dựng vợ gả chồng cho con, trao của thừa tự cho con đúng lúc. Bên cạnh quan about:blank 16/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
hệ giữa cha mẹ và con cái còn có quan hệ chồng vợ, quan hệ anh chị em.Về quan hệ
chồng vợ, chồng đối với vợ phải yêu thương, tôn trọng và chung thủy, quan tâm chăm sóc
chug đời sống vật chất lẫn tinh thần, thường được tặng quần áo, trang sức cho vợ;Vợ đối
with chồng phải yêu, kính quan trọng và trung thành, quản lý nhà cửa tốt, tiện ích
sản phẩm, sự nghiệp của chồng. Người vợ vừa là vợ, vừa là người yêu, vừa là bạn tri kỷ, và
cũng cần có những đức tính như mẹ hoặc em gái. Đối thoại với xã hội có rất nhiều mối quan hệ
khác nhau như bạn bè, đồng nghiệp…Phật giáo luôn hướng ctrên người hướng tới sự cải thiện,
biết giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn, cùng nhau tiếnbộ.Chúng tôi cũng có thể tìm thấyrằng
tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống hiện nay. Tất cả những điều đó
chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng
trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua
cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã
góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy.
2.3. Những quan điểm về hạn chế của Phật giáo
Bên cạnh những mặt tích cực thì Phật giáo cũng có những hạn chế trong tiến trình
chung của sự phát triển của xã hội. Nhưng cần phải nhận thức một điều là những ảnh
hưởng tiêu cực này không phải xuất từ bản chất, lý luận của đạo Phật mà do những người
thừa hành. Hơn nữa, từng cá nhân tiếp thu đạo Phật cũng theo nhiều cách và theo những
trình độ khác nhau, có thể làm thay đổi ý nghĩa tốt đẹp của đạo Phật.
Thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và
hàng chục năm sống dưới chế độ bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu rất cần đến sự
phát triển đột phá. Đảng và Nhà nước đã chi ra nhiệm vụ trước mắt là làm cho dân giàu
nước mạnh xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”.
Chúng ta nhận thấy rằng ngày nay những người đi chùa hầu hết không có đủ tri thức
về đạo lý nhà Phật cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác tích cực, nhiều
người quá lạm dụng yếu tố miêu tín khi tốn tiền của cúng bái lễ lạc thậm chí nhiều người
còn quá cả tin dẫn đến bị lợi dụng mất tiền.
Phật giáo bác học cũng bị mai một nhiều, không còn phát huy vai trò hướng đạo.
Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ họ trong việc xây dựng hoàn thiện
những cách con người Việt Nam. chẳng hạn các buổi giảng kinh, đàm đạo cả buổi lễ Trên
chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh túy của đạo lý phật giáo, mà
phần nhiều theo thị hiếu: cầu an giải hạn, cầu lộc... của giới bình dân.
Phật giáo Bình Dân cũng sa sút. người dân lên chùa thường quá chú trọng đến lễ Phật,
đến cả ham muốn tầm thường, không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật,
số đông thân thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. họ đến chùa cúng bái, thắp
hương phải xin Phật, Bồ Tát, la hán phù hộ độ trì cho họ được mong muốn của mình.
Những mong muốn hai thương là chuyện học hành, tình cảm, sức khỏe, vật chất. hoặc
hơn nữa. Họ có ý đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó đó là
sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói
riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây ngày càng đông, xong xem ra ý thức
cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người
đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, about:blank 17/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
về thiện- ác. Như vậy mục đích đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hóa so
với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
2.4. Những giải pháp cơ bản
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống con người Việt Nam bao giờ cũng mang
tính hai mặt tích cực và tiêu cực. Yêu cầu của đất nước ta trong bối cảnh mới là phải tạo
ra được sự đồng thuận, phát huy tối đa nguồn lực con người phục vụ cho sự phát triển đất
nước. Vì vậy, ứng xử với tôn giáo nói chung, với phật giáo nói riêng phải hướng đến mục
tiêu gia tăng nguồn lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước, phát huy ảnh hưởng tích cực và
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của phật giáo trong quá trình xây dựng ảnh lối sống mới ở
Việt Nam hiện nay cần quán triệt những quan điểm mang tính phương pháp luận cho
nhận thức và hoạt động thực tiễn như sau:
Thứ nhất, khuyến khích Phật giáo tham gia các hoạt động kinh tế- xã hội vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai, xây dựng ý thức đoàn kết tôn giáo và Đồng Thuận xã hội.
Thứ ba, phát huy giá trị đạo đức, văn hóa Phật giáo trong cơ chế thị trường.
Thứ tư, định hướng cho hoạt động vật sự gắn với việc bảo vệ môi trường.
Thứ năm, phát huy tính chủ động, sáng tạo của Phật giáo
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng và đạo lý
Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỷ nguyên Tây lịch, tồn tại, phát triển và
chan hòa với dân tộc này cho đến tận hôm nay. Đạo Phật đã khẳng định chân giá trị của
nó trên mảnh đất này. Xét trên khía cạnh hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực tiếp
hoặc gián tiếp góp phần hình thành một quan niệm sống và sinh hoạt cho con người Việt Nam.
3.1.1 Ảnh hưởng về mặt tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và
Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo, nguyên thủy
cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt. about:blank 18/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Luật nhân quả cần được quan sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có thể
gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không bao
giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò quả, cho một nhân khác.
Về giáo lý, nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm.
Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người
Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền Lành, dù tối thiểu thì
đó cũng là kết quả của âm thanh thầm lặnglý do nghiệp báo, nó nghĩ ra những điều thích hợp với
giới bình dân mà vẫn ảnh hưởng đến giới trTôiFormula. Có thể nói mọi người dânVtiêu điều ảnh
ảnh hưởng ít nhiều qua điều này. Vì thế, lý do nghiệp báo luân hồi đã in đậm trong văn bản
chương bình dân, trong văn học chữ nôm,chữ hán, từ xưa cho đến nayđểdẫn dắt từng
thế hệ con người biết soi sáng tâmtrí mình vào lý do nhân nghiệp báo cáo rằng hành động sao
cho tốt đẹp hòa lại hòa bì nh an vui cho con người , thậm chí chí trẻ con mười tuổicũng tự
nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Vì vậy ., họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghĩa
doanh nghiệp có thể thực hiện thay đổi,họ tự biết sửa chữa,tu tập cải tiến thành công.
3.1.2 Ảnh hưởng của phật giáo về mặt đạo lý
Tác động ảnh hưởng lớn nhất là giáo lý từ bi, tinhthần hòa, tinh thần củaphật giáo đã
ảnh hưởng và thấm sâu trong tâm hồn của người Việt. This thread is known quMột
con người và tư tưởng của NguyễnTrộng rãi (1380-1442), nhà văn, nhà chính trị, nhà tư
tưởng việt nam kiệt xuất, ông đã khéo vứng dụng đạo lý Từ Bi và biến nó thành đườnglối
nhân bản chính thành công và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Vchết tiệt.
Ngoài đạo lýTừ Bi, người Việt nhưng chịu ảnh hưởng sâusắc một đạo lý khác của đạo
phật là đạo lýTứ Ân, gồm có ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân sủng của chúng tôi. Đạo lý
điều này được xây dựng theo một trình tự phù hợpớibước phát triển của tâm trílývề tình cảm
của dân tộcViệt. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổibật và ảnh hưởng
rất sâu sắc trong tình cảm và đạo lý củamột người Vchết tiệt.Vì đạo phật rất chú ý đến sau
hạnh phúc, và được Đức Phật đã giành đượcđề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh
Báo Phụ Mẫu Ân, kínhThái Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vbạn Lan.
Từ cơ sở tư tưởng học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo dài VNam hình
thành công là một bản sắc thù rất rđặc biệt của nó tại VViệt Nam, góp phần llà
phong phú và đa dạng hóa nền văn hóa thần thánhcủa dân tộc Vchết tiệt.
3.2 Ảnh hưởng của Phật giáo trquá trình nhập văn bản hóa VViệt Nam
3.2.1. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống
Khi được truyền vàoVViệt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng
bản địa, như vậy đã được kết hợp chặt chẽwith this signal. Biểu tượng chùaTứ
Pháp thực ra vẫn chỉ là những cơn ác mộng dân tộcgian thờ các vị trí tự nhiên của Mây,
Sấm, Chớp và Mưa thờ Đá. Lối kiến trúcrúc của chùa chiền VViệt Nam là tiềnPhật hậu
Thần cùng với công việc ở chùa cácvị thần, các vị thánh,các vị trí thành hoàng thổ
địa chỉ và vị trí anh hùng dân tộc. Chính vì tinh thần khai phóng to cái này về sau phát sinh
những hậu quả mê tín dị dịch bên trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, cầu đồng….
3.2.2. Ảnh Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác: about:blank 19/30 15:14 9/9/24 Nhóm 2, P…
Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo
Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính
dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền
thống của dân tộc Việt. Nho giáo thực hiện cứu cánh bằng con đường Thiện, tức là
hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Đạo giáo thực hiện cứu cánh
ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất quán với Thiện và
Chân. Phật giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới
chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo
Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa,
Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của người dân Việt.
3.2.3. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tông phái
Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia
Phật Giáo láng giềng. Ở Việt Nam dung hòa và điều hợp cả Nam Tông và Bắc Tông.
Chính vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo cộng với tinh thần khai phóng của Phật
Giáo Việt Nam mới có được kết quả như vậy. Tuy thiền tông chủ trương bất lập văn tự,
song ở Việt Nam chính các vị thiền sư xưa lẫn nay đã để lại rất nhiều trước tác có giá
trị, đặc biệt các thiền viện ở Việt nam điều tụng kinh gõ mõ như các tự viện Tông Tịnh
Độ. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì kết hợp với Mật Giáo, có nhiều thiền sư phái
này như ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không điều nổi tiếng là giỏi
phép thuật trong việc trừ tà, chữa bệnh.
Điều đặc sắc ở đây là trong khi khai triển Phật Giáo Việt Nam, các thiền sư Việt
Nam đã không theo thiền kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Độ và Trung Hoa mà mở lấy
một con đường riêng, phù hợp với dân tộc. Việt Nam, trên pháp đàn tư tưởng thời Lý
cũng như thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật Giáo Việt Nam và các thời kỳ sau này
không có những mâu thuẫn đối lập mà tất cả điều quy về một mục đích chính là tu
hành giải thoát. Phải chăng sự thống nhất về ý thức tư tưởng, dung hòa giữa các tông
phái và đoàn kết dân tộc đã uốn nắn Phật Giáo Việt Nam theo con đường dung hòa thống nhất đó?
3.2.4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã hội
Phật giáo tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có chủ trương
nhập thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, Lý, Trần.
Thời vua Đinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống,
thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp Thuận, ngài Khuông Việt cũng tham gia
triều chính. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây dựng triều đại nhà Lý
khi đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn bạo của Lê Long Đỉnh, ông
vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên đầu sư. Thời nhà Trần có các thiền sư
Đa Bảo, thiền sư Viên Thông... điều được các vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như
những cố vấn triều đình.
Đến thế kỷ 20, phật tử Việt Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như
cuộc vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Đến thời Diệm, Thiệu (1959-1975) cũng
thế, các tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho phong trào đấu tranh đòi hòa
bình và độc lập cho dân tộc, nổi bật là những cuộc đối thoại chính trị giữa các tăng sĩ
Phật Giáo và chính quyền. Đến cuối thế kỷ 20, ta thấy tinh thần nhập thế này cũng
không ngừng phát huy, đó là sự có mặt của các thiền sư Việt Nam trong quốc hội của nước nhà. about:blank 20/30