



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58886076 Chương V
CÔNG NHẬN THỎA THUẬN LỰA CHỌN TÒA ÁN THEO CÔNG ƯỚC CỦA HỘI NGHỊ LA HAY
Tóm tắt nội dung chính của Chương V:
Trong chương V sẽ cung cấp các kiến thức về vấn đề công nhận thỏa thuận lựa chọn
tòa án theo các Công ước của Hội nghị Lahay. Trong khuôn khổ Hội nghị Lahaye
về Tư pháp quốc tế có hai Điều ước quốc tế điều chỉnh các vấn đề công nhận thỏa
thuận lựa chọn tòa án giữa các bên là Công ước ngày 25/11/1965 về lựa chọn Tòa
án và Công ước ngày 30/06/2005 về Thỏa thuận lựa chọn Tòa án (sau đây gọi là
Công ước La Haye năm 2005). Tuy nhiên, hiện nay không có quốc gia nào tham gia
hay phê chuẩn Công ước ngày 25/11/19651 nên trong chương V chỉ tập trung phân
tích các khía cạnh pháp lý của việc công nhận thỏa thuận lựa chọn tòa án để giải
quyết tranh chấp giữa các bên trong Công ước về Thỏa thuận lựa chọn tòa án năm
2005. Bên cạnh đó, Chương V cũng đánh giá thực trạng quy định về thỏa thuận lựa
chọn tòa án trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành.
5.1. Khái quát chung về công nhận thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh
chấp dân sự có yếu tố nước ngoài trong Công ước Lahaye về thỏa thuận chọn tòa án năm 2005.
Hội nghị Lahaye về Tư pháp quốc tế được hình thành từ năm 1893, theo sáng
kiến của nhà luật học T.M.C Asser với mục đích hoạt động là vì sự tiến triển trong
việc thống nhất các quy định của tư pháp quốc tế giữa các quốc gia, thúc đẩy việc
giải quyết tranh chấp có hiệu quả và tôn trọng pháp luật quốc gia của các thành viên.
Hội nghị Lahaye hiện nay có 80 thành viên quốc gia (79 thành viên quốc gia và 01
Liên minh Châu âu, trong đó Liên minh Châu âu gồm 27 quốc gia)2.
1 Theo http://www.hcch.net/index_en.php?act=states.listing, truy cập ngày 06/05/2015
2 Theo http://www.hcch.net/index_en.php?act=states.listing, truy cập ngày 06/05/2015 lOMoAR cPSD| 58886076
Bắt đầu từ tháng 5 năm 1992, Hoa Kỳ đề nghị tiến hành thương lượng nhằm
xây dựng một công ước đa phương về công nhận và cho thi hành phán quyết trong
lĩnh vực dân sự và thương mại. Tại thời điểm đó, Hoa Kỳ chưa trở thành thành viên
của bất kỳ công ước đa phương, song phương về công nhận và thi hành bản án của
tòa án nước ngoài, nước này thấy rằng đó là một bất lợi chính và có mong muốn
những bản án được tuyên bởi Tòa án Hoa Kỳ sẽ được thi hành ở Tòa án nước ngoài
dễ dàng hơn, đặc biệt là tại tòa án Liên minh Châu Âu.3 Hoa Kỳ đề nghị xây dựng
một “công ước hỗn hợp” (mixed convention). “Công ước hỗn hợp” khác với “công
ước đơn” (simple convention) ở chỗ công ước đơn chỉ quy định vấn đề công nhận
và cho thi hành phán quyết. Công ước hỗn hợp quy định cả về thẩm quyền tài phán
và quy định về công nhận và thi hành phán quyết tại tòa án khác. Theo đó, thẩm
quyền giải quyết sẽ được phân thành ba loại: căn cứ thẩm quyền dựa trên quy định
bắt buộc; căn cứ thẩm quyền theo sự lựa chọn hoặc bị cấm.
Đến năm 1996, đề nghị của Hoa kỳ được thảo luận lại một số phiên họp đặc
biệt. Tuy nhiên, quá trình đàm phán được diễn ra trong thời gian dài và gặp nhiều
vướng mắc. Một dự thảo sơ bộ về thẩm quyền tài phán và công nhận, cho thi hành
bản án liên quan đến dân sự và thương mại được thông qua tại Cuộc họp tháng 10
năm 1999 trong khuôn khổ Hội Nghị LaHaye, nhìn chung Dự thảo có cấu trúc và
nội dung dựa trên Công ước Brussels ngày 27 tháng 9 năm 1968 và Công ước
Lugano ngày 16 tháng 9 năm 1988 của Liên Minh Châu Âu trước đó. Những phiên
tham vấn tiếp theo cho thấy sự khác biệt lớn giữa các đại biểu các nước về Dự thảo
Công ước này và việc không chấp thuận phạm vi điều chỉnh công ước ở mức độ rộng như Dự thảo đề ra.
3 Theo The Hague Convention on Choice of Court Agreements A Discussion of Foreign and Domestic Points,
http://www.shearman.com/~/media/Files/NewsInsights/Publications/2012/07/The-Hague-Convention-on-Choice-of-
Court-Agreemen__/Files/View-full-article-The-Hague-Convention-on-Choice__/FileAttachment/
LaguardiafalgefranceschiarticleHagueConventionon__.pdf truy cập ngày 06/05/2015 lOMoAR cPSD| 58886076
Bởi vì sự thiếu đồng thuận đối với nội dung Công ước và mối lo ngại rằng các
quy tắc trong dự thảo năm 1999 dựa trên hai Công ước Brussels và Công ước Lugano
đã được thông qua quá lâu không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn do sự phát
triển nhanh của thương mại và sở hữu trí tuệ nên các cuộc đàm phán chính thức về
dự thảo năm 1999 bị tạm dừng. Sau đó vào những năm 2000 và 2002, các cuộc đàm
phán không chính thức diễn ra dẫn đến thống nhất chung là không thể xây dựng được
một Công ước với phạm vi rộng như dự kiến ban đầu; quyết định xây dựng Công
ước với phạm vi hẹp hơn là thỏa thuận lựa chọn Tòa án. Sau nhiều phiên họp chính
thức trong thời gian từ 2002-2003, một dự thảo được gửi về Hội nghị Lahaye và các
cuộc đàm phán được tiến hành liên quan đến dự thảo mới này. Vì vậy, Công ước
ngày 30/06/2005 về Thỏa thuận lựa chọn Tòa án đã ra đời với phạm vi hẹp hơn tại
Hội nghị thường kỳ ngày 30/06/2005, bao gồm các điều khoản có tính nguyên tắc
về thực hiện quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt và điều chỉnh việc công
nhận, thi hành các phán quyết là kết quả của việc xét xử dựa trên các thỏa thuận đó.
Công ước có hiệu lực từ ngày 1/10/2015, được ký và chấp thuận bởi Liên minh Châu
Âu (bao gồm các thành viên của Liên minh Châu Âu trừ Đan Mạch), Mexico tham
gia Công ước, Singapore và Hoa Kỳ đã ký Công ước nhưng không phê chuẩn.4
Trước Công ước Lahay, vấn đề xác định thẩm quyền của tòa án đối với các vụ
việc thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế đã được đề cập trong Công ước
Brussel ngày 27 tháng 9 năm 1968 và Công ước Lugano ngày 16 tháng 9 năm 1988
được ký kết trong Cộng đồng Châu Âu và Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu. Tiêu
chí để xác định thẩm quyền của tòa án trong các Điều ước quốc tế này khá rộng bao
gồm thẩm quyền theo nơi cư trú của bị đơn, thẩm quyền theo lĩnh vực tranh chấp và
thẩm quyền theo sự lựa chọn của các bên. Sau đó, Nghị định thư Brussel được thông
qua ngày 22/12/2000, quy định về thẩm quyền của tòa án và vấn đề công nhận, thi
4 Theo http://www.hcch.net/index_en.php?act=conventions.status&cid=98 lOMoAR cPSD| 58886076
hành phán quyết về dân sự, thương mại của tòa án đã thống nhất, tổng hợp, sửa đổi
bổ sung các quy định của Công ước Brussel 1968 và Công ước Lugano 1988 và thay
thế hai công ước này. Các tiêu chí để xác định thẩm quyền của tòa án đều được kế
thừa từ hai Công ước trên bao gồm hai loại là thẩm quyền xác định theo nơi cư trú
của bị đơn (thẩm quyền đương nhiên) và thẩm quyền theo sự thỏa thuận của các bên.
So với các Công ước trên, Công ước Lahaye với phạm vi điều chỉnh hẹp hơn, chỉ
tập trung vào các khía cạnh pháp lý của thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt và đặt
ra các yêu cầu công nhận và tôn trọng sự thỏa thuận đó từ phía các cơ quan giải quyết tranh chấp.
Công ước Lahaye năm 2005 chứa đựng những quy định ngắn gọn, đơn giản,
bao gồm các quy định về thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp của các
bên, quy định về việc công nhận và cho thi hành quyết định của Tòa án được lựa
chọn. Có thể khái quát ba nguyên tắc cơ bản để đảm bảo tính hiệu quả của Công ước Lahaye năm 2005:
- Tòa án được lựa chọn theo thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt, hợp lệ củacác
bên thì Tòa án đó phải tiến hành thực hiện thẩm quyền tài phán
- Nếu các bên đã có một thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt, Tòa án
kháckhông được lựa chọn sẽ không có thẩm quyền tài phán và phải từ chối giải quyết vụ việc
- Một phán quyết được tuyên bởi Tòa án được lựa chọn theo Thỏa thuận
lựachọn riêng biệt sẽ phải được công nhận và cho thi hành tại Tòa án của các nước thành viên khác.
5.2. Các khía cạnh pháp lý của thỏa thuận lựa chọn tòa án trong Công ước Lahaye năm 2005
5.2.1. Phạm vi áp dụng Công ước
Điều 1 Công ước Lahaye năm 2005 quy định về việc công ước áp dụng đối với
tranh chấp quốc tế, khi có một thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt và chỉ liên quan lOMoAR cPSD| 58886076
đến dân sự và thương mại. Để làm rõ hơn về phạm vi áp dụng, Công ước Lahaye
năm 2005 cũng quy định chi tiết về “bản án”, bản án có “tính chất quốc tế”, “nhà nước”....
Công ước sử dụng thuật ngữ “Nhà nước” (State) hoặc “Quốc gia ký kết” để bao
gồm các quốc gia có hai hay nhiều đơn vị lãnh thổ với các hệ thống pháp lý khác
nhau, như Canada, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ cũng như Khối kinh tế khu vực
(“Regional Economic Integration Organizations”) như Liên Minh châu Âu. Công
ước được áp dụng đối với Nhà nước hoặc Quốc gia ký kết phù hợp với “các khu vực
có liên quan về lãnh thổ”, có nghĩa là bao gồm cả phần lãnh thổ lớn hơn (Vương
quốc Anh) hoặc lãnh thổ phụ của nó (Scotland). Điều đó có nghĩa Tòa án của
Scotland được lựa chọn thì Scotland cũng được hiểu là một Nhà nước ký kết.
Đối với vấn đề về Khối kinh tế khu vực, Công ước cũng cho phép một quốc gia
trở thành thành viên của Công ước nếu các nước thành viên của Tổ chức đó đã được
cấp “thẩm quyền trên một số hoặc tất cả các vấn đề của công ước”. Tuy nhiên, các
quốc gia thành viên của Khối kinh tế khu vực cũng có thể tuyên bố họ không trở
thành thành viên của công ước nhưng họ sẽ bị ràng buộc bởi hiệu lực của Công ước5.
Theo quy định của Công ước, “bản án” được hiểu theo nghĩa truyền thống, là
bất kỳ những quyết định có giá trị nào của tòa án (dù tên gọi có thể khác nhau), bao
gồm cả quyết định hoặc lệnh liên quan đến vụ việc, trong đó xác định án phí hoặc
công tác phí của nhân viên tòa án. Tuy nhiên, Công ước xác định một cách rõ ràng
rằng không áp dụng đối với các quyết định liên quan đến biện pháp bảo vệ tạm thời.6
Về bản án có “tính chất quốc tế”, Công ước Lahaye năm 2005 quy định một vụ
việc có tính chất quốc tế trừ khi các bên cùng có nơi cư trú trong một nước thành
5 Theo The Hague Convention on Choice of Court Agreements A Discussion of Foreign and Domestic Points,
http://www.shearman.com/~/media/Files/NewsInsights/Publications/2012/07/The-Hague-Convention-on-Choice-of-
Court-Agreemen__/Files/View-full-article-The-Hague-Convention-on-Choice__/FileAttachment/
LaguardiafalgefranceschiarticleHagueConventionon__.pdf truy cập ngày 06/05/2015
6 Theo Khoản 1 Điều 4 Công ước Lahaye năm 2005 lOMoAR cPSD| 58886076
viên và quan hệ giữa các bên cũng như các yếu tố khác liên quan đến tranh chấp (bất
kể là địa điểm của Tòa án được lựa chọn) chỉ có mối liên hệ với nước đó.7 Như vậy,
Công ước Lahaye năm 2005 không quy định cụ thể về “vụ việc có tính chất quốc tế”
mà quy định theo hướng loại trừ, căn cứ vào dấu hiệu cùng nơi cư trú và các yếu tố
khác liên quan đến tranh chấp chỉ liên hệ với một nước thành viên để chỉ ra vụ việc
dân sự, thương mại không có “tính chất quốc tế”.
Công ước cũng quy định tổ chức hoặc chủ thể khác không phải cá nhân tự nhiên
được coi là cư trú tại một nước khi mà: i) nơi đó theo pháp luật quy định là có trụ
sở; ii) theo quy định của luật mà đó là nơi thành lập hoặc hình thành, iii) nơi mà có
trung tâm hành chính, iv) nơi đặt địa điểm kinh doanh chính8
Tuy nhiên, không phải mọi vụ việc liên quan đến dân sự, thương mại có tính
chất quốc tế là đối tượng điều chỉnh của Công ước La Haye năm 2005. Theo Khoản
1 Điều 2 Công ước La Haye năm 2005 quy định đối với các vấn đề như: sự lựa chọn
tòa án riêng biệt mà một bên là cá nhân giúp việc gia đình cho một cá nhân, cho gia
đình hoặc hộ gia đình, người tiêu dùng; sự lựa chọn tòa án riêng biệt liên quan đến
hợp đồng lao động, bao gồm cả thỏa ước lao động tập thể không thuộc đối tượng áp
dụng của công ước. Điều này được lý giải bởi các vấn đề này không nằm trong mục
đích của Công ước là khuyến khích đầu tư và thương mại quốc tế.9
Ngoài ra, Khoản 2 Điều 2 Công ước La Haye năm 2005 quy định mười sáu vấn
đề liên quan đến dân sự, thương mại cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước như:
- Năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật của cá nhân - Nghĩa vụ nuôi dưỡng - Di chúc và thừa kế
7 Theo Khoản 2 Điều 1 Công ước Lahaye năm 2005
8 Theo Khoản 2 Điều 4 Công ước Lahaye năm 2005
9 The Landmark 2005 Hague Convention on Choice of Court Agreements, http://www.tilj.org/, truy cập ngày 06/05/2015 lOMoAR cPSD| 58886076
- Các vấn đề pháp luật liên quan đến luật hôn nhân gia đình bao gồm cả
chếđộ tài sản hôn nhân, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hôn nhân hoặc các mối quan hệ tương tự
- Vận chuyển hàng hóa và hành khách
- Ô nhiễm môi trường biển, trách nhiệm bồi thường liên quan đến hàng hải;cứu hộ, cứu nạn
- Trách nhiệm đối với thiệt hại liên quan đến hạt nhân
- Hiệu lực của quyền sở hữu trí tuệ ngoại trừ quyền tác giả và các quyền liênquan...
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Phá sản và các vấn đề liên quan đến phá sản.
Bên cạnh đó, công ước cũng không áp dụng đối với Trọng tài và các thủ tục của trọng tài...
5.2.2. Khái niệm thỏa thuận lựa chọn tòa án
Điều 3 Công ước La Haye năm 2005 định nghĩa thỏa thuận lựa chọn tòa án
riêng biệt: là thỏa thuận của hai hay nhiều bên đáp ứng các điều kiện do công ước
quy định để chỉ định việc giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc sẽ phát sinh
trong một quan hệ pháp lý cụ thể bằng một hay nhiều tòa án của một quốc gia ký kết
để loại trừ thẩm quyền của tòa án khác.
Theo quy định này, thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt là thỏa thuận giữa hai
hay nhiều bên nhằm mục đích giải quyết tranh chấp phát sinh hoặc có thể phát sinh,
xác định tòa án của một nước thành viên hoặc một hay nhiều tòa án cụ thể của một
nước thành viên có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận này có tính “riêng
biệt và duy nhất” (trừ khi các bên có quy định khác), đồng thời làm loại trừ thẩm
quyền của bất cứ tòa án nào khác. lOMoAR cPSD| 58886076
Hình thức của thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt
Điểm c Điều 3 Công ước Lahaye năm 2005 quy định cụ thể Thỏa thuận lựa
chọn tòa án riêng biệt được thể hiện dưới dạng văn bản hoặc các hình thức khác bằng
phương tiện thông tin mà có thể truy cập để tham khảo sau này. Thông thường các
hình thức khác này có thể là email, telex, fax...
5.2.3. Nghĩa vụ công nhận thỏa thuận lựa chọn tòa án của các Tòa án có liên quan
Vấn đề này được quy định tại Điều 5 Công ước La Haye năm 2005 như sau:
Tòa án hay các Tòa án của nước thành viên được các bên lựa chọn sẽ có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp mà thỏa thuận đó đề cập, trừ khi thỏa thuận này bị vô
hiệu theo quy định của pháp luật nước đó. Tòa án có thẩm quyền được lựa chọn
không được từ chối thực hiện thẩm quyền vì lí do tranh chấp đó nên được giải quyết
tại Tòa án của một nước khác. Từ quy định này cho thấy tòa án được chọn trong thỏa
thuận lựa chọn tòa án của các bên có thẩm quyền tuyệt đối giải quyết vụ việc. Theo
đó, các bên trong tranh chấp chỉ có quyền thỏa thuận lựa chọn một tòa án giải quyết
tranh chấp dân sự đã phát sinh và tòa án được lựa chọn đó có độc quyền giải quyết tranh chấp.
Về quy định nghĩa vụ các các tòa án khác có liên quan hoặc không liên quan
đến vụ tranh chấp nhưng không được lựa chọn giải quyết tranh chấp của các bên.
Bên cạnh đó, Điều 6 Công ước Lahaye năm 2005 cũng quy định nghĩa vụ của tòa án
của một nước thành viên không được lựa chọn theo thỏa thuận riêng biệt của các bên
không được tiến hành xét xử (tạm dừng hoặc đình chỉ thủ tục giải quyết) trừ một số
trường hợp ngoại lệ như: Thỏa thuận của các bên bị vô hiệu theo quy định của pháp
luật nước nơi có tòa án được lựa chọn; một bên thiếu năng lực hành vi để xác lập
thỏa thuận theo pháp luật của nước có tòa án xét xử vụ việc; thỏa thuận thể hiện cụ
thể là trái với trật tự công cộng của Nhà nước có tòa án xét xử vụ việc; do các nguyên lOMoAR cPSD| 58886076
nhân ngoài sự kiểm soát của các bên, thỏa thuận không thể được thiết lập một các
thỏa đáng; Tòa án được lựa chọn không xét xử vụ việc.
Như vậy, khi các bên tham gia tranh chấp đã thỏa thuận lựa chọn tòa án giải
quyết tranh chấp và thỏa thuận đó đã phát sinh hiệu lực pháp lý thì bất kỳ tòa án nào
đã không được thỏa thuận lựa chọn đều phải từ chối thụ lý vụ việc khi nhận được
đơn kiện. Trong trường hợp một bên tham gia tranh chấp không tôn trọng thỏa thuận
lựa chọn tòa án giữa các bện đã được xác lập, nộp đơn khởi kiện đến một tòa án khác
với tòa án mà các bên đã thỏa thuận thì tòa án đó phải từ chối thụ lý đơn kiện mặc
dù bên còn lại (bị đơn) có phản đối hoặc không có phản đối hành vi của nguyên đơn.
Một số trường hợp ngoại lệ
Đối với hợp đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm: Theo quy định tại Điều 17 Công
ước Lahaye năm 2005, những vụ việc liên quan đến hợp đồng bảo hiểm (hoặc tái
bảo hiểm) thuộc phạm vi áp dụng của Công ước và không bị loại trừ mặc dù hợp
đồng đó liên quan đến một vấn đề mà Công ước không thể áp dụng được. Ví dụ, mặc
dù ô nhiễm biển được loại trừ khỏi phạm vi bảo hiểm của Công ước theo Điều 2 (2)
(g), một hợp đồng bảo hiểm cho ô nhiễm biển lại thuộc phạm vi áp dụng của Công
ước. Giả sử rằng ô nhiễm biển đã xảy ra và người được bảo hiểm khởi kiện tại Tòa
án theo thỏa thuận lựa chọn Tòa án riêng biệt chống lại các công ty bảo hiểm vì công
ty từ chối bồi thường, Công ước áp dụng đối với trường hợp này. Giả sử thêm rằng
người được bảo hiểm đã có bản án phù hợp với vụ việc thì việc công nhận và thi
hành phán quyết đó không thể bị giới hạn hoặc từ chối dựa trên cơ sở rằng hợp đồng
đó bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được bảo hiểm hoặc tái bảo
hiểm liên quan đến Điều 11 về bồi thường thiệt hại không áp dụng.
5.3. Quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết của Tòa án theo thỏa thuận lựa chọn tòa án lOMoAR cPSD| 58886076
Công ước Lahaye năm 2005 có các quy định đối với vấn đề công nhận, thi hành
phán quyết của tòa án theo thỏa thuận lựa chọn tòa án hoặc của một tòa án được
chuyển giao vụ việc từ tòa án mà các bên lựa chọn tại Điều 8 và Điều 9. Cụ thể:
- Bản án, phán quyết của Tòa án nước ký kết được lựa chọn theo sự thỏa thuận
lựa chọn tòa án riêng biệt giữa các bên tranh chấp thì được Tòa án nước ký kết khác
công nhận và cho thi hành. Khi thực hiện thủ tục công nhận và cho thi hành, Tòa án
nước được yêu cầu cho công nhận và thi hành sẽ không xem xét lại các vấn đề do
Tòa án được lựa chọn đưa ra.
- Điều kiện để bản án, quyết định của Tòa án được công nhận và thi hành: Bản
án đó phải có hiệu lực ở nước xuất xứ và được thi hành ở nước xuất xứ.
Bên cạnh đó, Công ước Lahaye năm 2005 cũng quy định về những trường hợp
ngoại lệ của tòa án theo thỏa thuận lựa chọn tòa án hoặc của một tòa án được chuyển
giao vụ việc từ tòa án mà các bên lựa chọn bị từ chối công nhận và cho thi hành tại
quốc gia được yêu cầu tại Điều 9 Công ước La Haye năm 2005. Cụ thể:
+ Phán quyết của tòa án quốc gia được chọn sẽ bị từ chối công nhận và cho thi
hành tại quốc gia được yêu cầu nếu theo quy định của pháp luật quốc gia nơi nhận
được yêu cầu tranh chấp thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án quốc gia đó. Điều
này có nghĩa là khi quốc gia A nhận được yêu cầu công nhận và cho thi hành phán
quyết của tòa án nước B nhưng tranh chấp này thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa
án nước A thì theo quy định của Công ước, tòa án nước A có quyền từ chối công
nhận và cho thi hành phán quyết đó mặc dù thẩm quyền của tòa án nước B đã được
xác định trên cơ sở thỏa thuận lựa chọn tòa án hợp pháp giữa các bên.
+ Thỏa thuận lựa chọn tòa án riêng biệt bị vô hiệu theo pháp luật của nước có
tòa án được lựa chọn, trừ trường hợp Tòa án được lựa chọn xác định thỏa thuận đó hợp pháp
+ Một bên không có năng lực để ký kết Thỏa thuận theo pháp luật của nước
được yêu cầu công nhận và thi hành lOMoAR cPSD| 58886076
+ Các tài liệu quy định về thủ tục tố tụng và các tài liệu tương đương, bao gồm
cả những yếu tố cần thiết để yêu cầu bồi thường đã i) không được thông báo cho bị
đơn trong thời gian và theo các thức để bị đơn có thể thu xếp để phản hồi yêu cầu;
ii) đã được thông báo nhưng nước được yêu cầu công nhận và thi hành cho rằng cách
đó không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước yêu cầu liên quan đến dịch vụ của văn bản
+ Bản án được ban hành có sự gian lận liên quan đến thủ tục
+ Việc công nhận và thi hành không phù hợp với chính sách công của nước
được yêu cầu; trong đó có vấn đề mà thủ tục tố tụng cụ thể dẫn đến phán xét là không
phù hợp với ngân tắc cơ bản về sự công bằng trong thủ tục của nước được yêu cầu
+ bản án không phù hợp với một bản án đã được nước yêu cầu phán quyết trong
một vụ tranh chấp giữa các bên
+ Bản án không phù hợp với bản án trước đó được đưa ra bởi một quốc gia khác
giữa cùng các bên và cùng vụ việc (với điều kiện bản án trước đó đáp ứng điều kiện
cần thiết để công nhận và thi hành tại nước được yêu cầu)
Bên cạnh đó, Điều 11 quy định một ngoại lệ liên quan đến bản án liên quan đến
bồi thường thiệt hại. Bản án về bồi thường thiệt hại, bao gồm tiền phạt bổ sung hoặc
ngăn ngừa, có thể bị từ chối đến mức bồi thường mà họ "đền bù cho một bên không
phù hợp với thực tế thiệt hại hoặc ảnh hưởng phải gánh chịu." Tòa án được yêu cầu
thi hành sẽ xem xét có hay không sự gia tăng mức bồi thường theo bản án của Tòa
đã tuyên để phù hợp với các toàn bộ chi phí và các chi phí khác liên quan đến thủ tục tố tụng
Ngoài ra, Điều 20 cũng quy định Một nước thành viên có thể tuyên bố rằng tòa
án của nước này có quyền từ chối công nhận và thi hành một phán quyết của tòa án
nước thành viên khác nếu các bên cư trú ở nước đã yêu cầu và mối quan hệ giữa các
bên cũng như tất cả các yếu tố khác có liên quan đến tranh chấp chỉ liên hệ với nước
đã yêu cầu đó. Một nước thành viên cũng có thể tuyên bố rằng các tòa án của nước lOMoAR cPSD| 58886076
đó sẽ công nhận hoặc thi hành phán quyết của một hay các tòa án của một hoặc một
số nước thành viên khác được các bên lựa chọn trong một thỏa thuận được coi là
không riêng biệt, duy nhất.
Trong khuôn khổ Hội nghị Lahaye, đối với vấn đề công nhận và cho thi hành
phán quyết của Tòa án còn có quy định của Công ước ngày 01/02/1971 về công nhận
và thi hành bản án dân sự và thương mại của nước ngoài (Công ước Lahaye năm
1971) và Nghị định thư ngày 01/02/1971 bổ sung cho Công ước về Công nhận và
thi hành bản án dân sự và thương mại của nước ngoài (Nghị định thư năm 1971).
Công ước Lahaye năm 1971 có hiệu lực từ ngày 20 tháng 8 năm 1979, hiện nay có
năm thành viên tham gia ký kết, phê chuẩn công ước bao gồm: An-ba-ni , Cộng hòa
Síp, Phần Lan, Bồ Đào Nha và Cô-oét.10
So sánh với Công ước Lahaye năm 2005, Công ước Lahaye năm 1971 và Nghị
định thư năm 1971 có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây:
Thứ nhất, Công ước và Nghị định thư áp dụng đối với tất cả các quyết định của
Tòa án nước ký kết liên quan đến vấn đề dân sự và thương mại, thậm chí một bên
trong vụ việc có thể là người cư trú hoặc thường trú tại một nước ký kết11. Tuy nhiên,
Công ước Lahaye năm 1971 và Nghị định thư năm 1971 cũng không áp dụng đối
với các quyết định áp dụng biện pháp tạm thời hay quyết định được phán quyết bởi Tòa án hành chính.
Thứ hai, một số bản án về vụ việc dân sự, thương mại không được công nhận
và thi hành theo Điều 1 Công ước Lahaye năm 1971 với số lượng 07 vụ việc, ít hơn
nhiều so với quy định tại Công ước Lahaye năm 2005. Theo quy định tại Điều 1
Công ước Lahaye năm 1971 một số vụ việc dân sự, thương mại không thuộc thẩm
quyền áp dụng của Công ước giống với quy định trong Công ước Lahaye năm 2005
10 Theo http://www.hcch.net/index_en.php?act=conventions.status&cid=78, truy cập ngày 05/06/2015
11 Điều 2 Công ước Lahaye năm 1971 lOMoAR cPSD| 58886076
như: Năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật của cá nhân; thừa kế; phá sản;
trách nhiệm đối với thiệt hại liên quan đến hạt nhân; các vấn đề liên quan đến luật
hôn nhân gia đình như quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái; giữa vợ chồng
hoặc vấn đề tài sản giữa vợ chồng; nghĩa vụ nuôi dưỡng. Ngoài ra, vụ việc dân sự,
thương mại không thuộc phạm vi áp dụng của Công ước Lahaye năm 1971 khác với
Công ước Lahaye năm 2005 như vấn đề về an sinh xã hội.
Về điều kiện bản án của Tòa án được công nhận và thi hành theo Công ước
Lahaye năm 1971 được quy định tại Điều 4 cơ bản tương tự như đối với quy định
tại Công ước năm 2005: Bản án đó phải thỏa mãn ba điều kiện i) Bản án được ban
hành bởi Tòa án có thẩm quyền; ii) bản án đó là bản án cuối cùng, không bị xem xét,
khiếu nại; iii) Bản án phải có hiệu lực thi hành tại nước xuất xứ.
Công ước Lahaye năm 1971 quy định trường hợp bản án, quyết định của Tòa
án bị từ chối thi hành tại Điều 5. So sánh với nội dung Công ước Lahaye 2005, các
trường hợp quy định tại Điều 5 Công ước Lahaye năm 1971 có nội dung tương tự, cụ thể như sau:
+ Bản án được ban hành có sự gian lận liên quan đến thủ tục
+ Việc công nhận và thi hành không phù hợp với chính sách công của nước
được yêu cầu; trong đó có vấn đề mà thủ tục tố tụng cụ thể dẫn đến phán xét là không
phù hợp với ngân tắc cơ bản về sự công bằng trong thủ tục của nước được yêu cầu
+ Vụ việc có một số yếu tố như cùng các bên tham gia, sự kiện pháp lý giống
nhau, cùng mục đích, trong đó: i) Đã được giải quyết theo quyết định bởi Tòa án của
nước được yêu cầu; ii) đã được quyết định bằng Tòa án của nước khác mà có quyền
được công nhận và thi hành theo pháp luật của nước được yêu cầu; iii) đang chờ
quyết định của Tòa án của nước yêu cầu giải quyết theo những thủ tục tố tụng với tư
cách là cơ quan đầu tiên giải quyết vụ án.
5.4. Quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án và công nhận thỏa thuận lựa chọn tòa án
trong thực tiễn Pháp luật Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58886076
Trong quy định của các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam là thành
viên có một số Hiệp định đã có quy định cho phép các bên lựa chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp khác với Tòa án Việt Nam. Đó là: Hiệp định tương trợ tư pháp giữa
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga (tại khoản 2 Điều 36 xác
định cụ thể về Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án của bên ký kết nơi bị đơn
thường trú hoặc có trụ sở hoặc Tòa án của bên ký kết nơi nguyên đơn thường trú
hoặc có trụ sở (lãnh thổ của nước này có đối tượng giải quyết tranh chấp hoặc có tài
sản của bị đơn, đồng thời cho phép các bên có thể “thỏa thuận với nhau nhằm thay
đổi thẩm quyền giải quyết các vấn đề nêu trên”11 .
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và
Ucraina tại Điều 20 quy định: “trong các trường hợp khác, Tòa án của các bên ký
kết cũng có thẩm quyền giải quyết vụ việc, nếu các bên đương sự có thỏa thuận bằng
văn bản. Trong trường hợp có thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên đương sự, Tòa
án sẽ đình chỉ giải quyết vụ việc theo yêu cầu của bị đơn nếu bị đơn yêu cầu trước
khi mở phiên tòa”. Theo quy định này, nếu các bên có thỏa thuận lựa chọn tòa án
bằng văn bản thì Tòa án đó có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp, một bên không
tuân thủ thỏa thuận đó mà khởi kiện tại tòa án khác tòa án các bên đã thỏa thuận lựa
chọn thì Tòa án nhận được yêu cầu khởi kiện chỉ có nghĩa vụ đình chỉ giải quyết vụ
việc nếu như bị đơn có yêu cầu phản đối trước khi mở phiên tòa. Điều đó có nghĩa
là thỏa thuận lựa chọn tòa án sẽ bị vô hiệu hóa nếu như bị đơn có ý kiến phản đối
thẩm quyền của Tòa án sau khi tòa án đã mở phiên tòa hoặc là hoàn toàn không có
ý kiến phản đối, chấp nhận việc xét xử của Tòa án mà mình không đồng ý lựa chọn
giải quyết tranh chấp giữa các bên từ đầu. Như vậy, mặc dù đã có quy định cho phép
quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp dân sự giữa các bên nhưng
11 Nguồn: http://vietlaw.quochoi.vn/Pages/vbpq-toan-van.aspx?ItemID=14040, truy cập ngày 06/05/2015 lOMoAR cPSD| 58886076
hiệu lực của thỏa thuận này theo quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt
Nam và Ucraina hẹp hơn rất nhiều so với Công ước La Haye năm 2005.
Đối với các Hiệp định tương trợ tư pháp còn lại đều không có quy định về vấn
đề thỏa thuận lựa chọn tòa án nên đối với các tranh chấp dân sự liên quan đến công
dân của các quốc gia còn lại đều phải căn cứ vào pháp luật Việt Nam để giải quyết
xung đột về thẩm quyền xét xử khi một trong các bên đương sự khởi kiện tại tòa án Việt Nam.
Việt Nam chưa ban hành đạo luật riêng về Tư pháp quốc tế. Việc xác định thẩm
quyền của Tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được
tìm thấy chủ yếu trong Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ngoài ra Bộ luật Hàng hải và Luật
Hàng không dân dụng là hai ngành luật chuyên ngành có quy định về quyền thỏa
thuận lựa chọn thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực mà
hai văn bản này điều chỉnh.
Trước đây, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS năm
2004), thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu nước
ngoài được quy định tại Điều 410 về thẩm quyền chung và Điều 411 về thẩm quyền
riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Còn lại toàn bộ các quy định khác của BLTTDS
năm 2004 không đề cập đến quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp
của các bên đương sự. Chính vì vậy, theo nguyên tắc được xác định tại Điều 410,
Điều 411 và quy định tại khoản 3 Điều 356 – Những bản án quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu “vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Tòa án Việt Nam” thì những tranh chấp thuộc
thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam thì các bên có thể khởi kiện tại tòa án nước
ngoài hoặc Tòa án Việt Nam tùy theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Nếu như nguyên
đơn nộp đơn khởi kiện tại tòa án nước ngoài và tòa án nước ngoài đã thụ lý giải quyết
nhưng tranh chấp đó thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam thì trong mọi
trường hợp bản án đó sẽ không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58886076
Bên cạnh đó, Bộ luật Hàng hải năm 2005 có quy định cho phép các bên thỏa
thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp tại Khoản 1 Điều 260 và Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam 2006 tại Điều 172 nhưng lại được quy định theo hai cách
khác nhau. Theo Điều 260 Bộ luật Hàng hải 2005 thì các bên tham gia tranh chấp có
quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án nước ngoài còn theo Điều 172 Luật Hàng không
dân dụng 2006 thì các bên trong tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án Việt
Nam. Vậy luật chuyên ngành thì cho phép nhưng Bộ luật tố tụng dân sự được coi là
Bộ luật gốc lại không có các quy định cụ thể về cách thức thỏa thuận, giá trị hiệu lực
của thỏa thuận đối với tòa án Việt Nam, hướng giải quyết trong trường hợp một bên
không tôn trọng thỏa thuận đó làm cho việc áp dụng trên thực tế quy định của Điều
260 và Điều 172 rất khó khăn.
Ví dụ, giả thiết các bên trong một tranh chấp hàng hải có điều khoản thỏa thuận
lựa chọn Tòa án Liên bang Nga giải quyết tranh chấp giữa các bên thì Tòa án Việt
Nam sẽ giải quyết như thế nào trong các trường hợp sau:
- Tranh chấp đó thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam và, một bênkhởi
kiện đến tòa án Việt Nam thì tòa án Việt Nam có quyền từ chối thụ lý giải quyết hay không?
- Tranh chấp thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng một bênkhởi
kiện ở Việt Nam và một bên đương sự khởi kiện ở Nga. Sau đó, bên đương sự khởi
kiện ở Nga yêu cầu Tòa án Việt Nam phải đình chỉ giải quyết vụ án dựa trên thỏa
thuận lựa chọn chọn Tòa án Nga giữa hai bên. Tòa án Việt Nam có đình chỉ giải
quyết vụ án không và sau này bản án của Tòa án Nga có thể được công nhận và cho
thi hành ở Việt Nam hay không?
- Tranh chấp đó thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án Việt Nam nhưng do có
thỏathuận lựa chọn Tòa án Nga giải quyết nên các bên khởi kiện đến Tòa án Nga thì
bản án liệu có được công nhận và cho thi hành ở Việt Nam dựa trên thỏa thuận giữa các bên? lOMoAR cPSD| 58886076
Đối với trường hợp thứ ba thì theo quy định tại khoản 3 Điều 356 chắc chắn
bản án của Tòa án Nga sẽ không được công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Còn
đối với trường hợp thứ nhất và trường hợp thứ hai, do Bộ luật Tố tụng dân sự chưa
có quy định nên dẫn đến hệ quả việc giải quyết của Tòa án Việt Nam là không thống
nhất. Có trường hợp đã từ chối giải quyết nhưng có những trường hợp vẫn thụ lý và
giải quyết vụ việc vì Điều 410 về thẩm quyền chung không có quy định về thỏa thuận
lựa chọn tòa án giữa các bên.
Từ những phân tích trên cho thấy, việc quy định tản mạn, thiếu tính thống
nhất, không quy định nguyên tắc thỏa thuận lựa chọn tòa án đã là một trong các hạn
chế của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước đây. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, đã có hiệu lực từ 1/7/2016, đã bổ sung các quy định cho phép các bên
thỏa thuận lựa chọn tòa án nước ngoài hoặc tòa án Việt Nam trong yêu cầu giải quyết
tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 469 về Thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và Điều 470 về Thẩm quyền
riêng biệt của Tòa án Việt Nam thì lần đầu tiên thỏa thuận lực chọn Tòa án được
chính thức quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự với vai trò là cơ sở xác định thẩm
quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Pháp
luật Việt Nam mới chỉ quy định hai điều kiện pháp lý của việc áp dụng thỏa thuận
lựa chọn tòa án Việt Nam, đó là: i, việc thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết tranh
chấp phải được sự cho phép của Pháp luật Việt Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. ii, các bên đã thống nhất đồng ý lựa chọn tòa án giải quyết tranh
chấp. (điểm c, khoản 1 Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Khi các bên đã có thỏa thuận lựa chọn tòa án hợp pháp thì việc công nhận của Tòa
án Việt Nam thể hiện trong hai trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, nếu các bên đã có thỏa thuận lựa chọn tòa án Việt Nam
mà một bên vẫn khởi kiện tại tòa án nước ngoài thì bản án, quyết định của tòa án lOMoAR cPSD| 58886076
nước ngoài đó sẽ không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam với lý do tòa
án của nước đã ra bản án không có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó theo
quy định tại khoản 4 Điều 439 và khoản 1 Điều 440 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Trường hợp thứ hai, nếu các bên đã có thỏa thuận lựa chọn tòa án nước ngoài
giải quyết tranh chấp mà một bên vẫn khởi kiện tại tòa án Việt Nam thì tòa án Việt
nam sẽ phải phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 472 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Bên cạnh đó, Bộ luật Hàng hải năm 2015 sẽ có hiệu lực từ 1/1/2017 tiếp tục
quy định thừa nhận quyền thỏa thuận lựa chọn Tòa án của một trong hai bên chủ thể
trong các hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải để giải quyết tranh chấp. Các
bên cũng có quyền lựa chọn tòa án của một nước thứ ba để giải quyết tranh chấp.12
Như vậy, kể từ 1/7/2016, trong ví dụ nêu trên, nếu các bên trong tranh chấp
hàng hải đã có thỏa thuận lựa chọn Tòa án Liên ban Nga giải quyết tranh chấp thì
Tòa án Liên bang Nga sẽ có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp một bên cố
tình khởi kiện ra trước Tòa án Việt Nam thì Tòa án Việt Nam phải từ chối thụ lý giải
quyết theo quy định theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 472 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Như vậy, hiện nay, Việt Nam đã có quy định trực tiếp về quyền lựa chọn Toà án
giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài là một bước tiến trong khoa học pháp
lý. Tuy nhiên, để xây dựng khung pháp luật hoàn chỉnh về vấn đề này đòi hỏi phải
quan tâm đến nhiều vấn đề khác như: thống nhất tiêu chí xác định thẩm quyền của
tòa án, giải quyết xung đột về thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài,
12 Điều 5 Luật Hàng hải 2015: lOMoAR cPSD| 58886076
... Ngoài ra, có quan điểm cho rằng, Việt Nam có thể lựa chọn việc tham gia Công
ước Lahaye năm 2005 để giải quyết vấn đề này.
Nghiên cứu tình hình thực tiễn ở nước ta, Việt Nam nên tham gia vào Công ước
Lahaye năm 2005 về thỏa thuận lựa chọn tòa án và tiếp tục nội luật hóa quy định về
quyền lựa chọn Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại trong Bộ
luật tố tụng dân sự trên cơ sở có tham khảo kinh nghiệm pháp luật các nước, pháp
luật quốc tế và quy định trong Công ước Lahaye năm 2005.
“1. Các bên tham gia trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải có quyền thỏa thuận riêng, nếu Bộ
luật này không hạn chế. 2.
Các bên tham gia trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải mà trong đó có ít nhất một bên
là tổchức hoặc cá nhân nước ngoài thì có quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc tế
trong quan hệ hợp đồng và chọn Trọng tài, Tòa án ở một trong hai nước hoặc ở một nước thứ ba để giải quyết tranh chấp. 3.
Trong trường hợp Bộ luật này có quy định hoặc các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, luật nước
ngoàicó thể được áp dụng tại Việt Nam đối với quan hệ hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải, nếu luật đó không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”
Do số lượng quốc gia tham gia Công ước Lahaye năm 2005 hiện nay không
nhiều và các quốc gia thành viên khác vẫn đang xem xét về việc gia nhập Công ước.
Việc tham gia Công ước này cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện, có tính đến
các yếu tố lợi ích đối với Việt Nam. Quá trình nghiên cứu đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian, chi phí nghiên cứu và sửa đổi hệ thống pháp luật. Do đó, phương thức nội
luật hóa quy định về quyền lựa chọn Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp dân sự,
thương mại trên cơ sở có tham khảo kinh nghiệm pháp luật các nước, pháp luật quốc
tế và quy định trong Công ước Lahaye năm 2005 phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Pháp luật Việt Nam chưa có Bộ luật quy định riêng về Tư pháp quốc tế nên cần
tiếp tục hoàn thiện các quy định về vấn đề này trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Bởi vì Bộ luật tố tụng dân sự được coi là đạo luật gốc quy định các vấn đề phát sinh
trong lĩnh vực tố tụng dân sự, bao gồm cả tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. Bên lOMoAR cPSD| 58886076
cạnh đó, việc quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự sẽ đảm bảm tính thống nhất,
đồng bộ của hệ thống pháp luật; tạo điều kiện dễ dàng cho việc nghiên cứu pháp luật.
Để có thể công nhận và thực hiện thỏa thuận lựa chọn tòa án của các bên trong
hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
sẽ phải bổ sung một số quy định về điều kiện, hình thức lựa chọn tòa án theo sự thỏa
thuận của các bên như sau:
Thứ nhất, về phạm vi thỏa thuận: các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ một
số tranh chấp về xác định năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật của cá nhân;
nghĩa vụ nuôi dưỡng; di chúc và thừa kế; các vấn đề pháp luật liên quan đến luật hôn
nhân gia đình bao gồm cả chế độ tài sản hôn nhân, các quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ quan hệ hôn nhân và gia đình. Thỏa thuận lựa chọn tòa án có thể áp dụng cho toàn
bộ hoặc một phần nội dung của tranh chấp.
Thứ hai, về hình thức thỏa thuận lựa chọn Tòa án: Thỏa thuận phải được lập
thành văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị tương đương với văn bản như email,
telex... Ngoài ra, thỏa thuận lựa chọn tòa án có thể là một điều khoản trong hợp đồng
hoặc một văn bản riêng biệt đối với hợp đồng.
Thứ ba, điều kiện để Thỏa thuận lựa chọn tòa án hợp pháp. Pháp luật Việt Nam
nên bổ sung quy định về điều kiện đối với chủ thể có thẩm quyền ký kết thỏa thuận;
năng lực của chủ thể có thẩm quyền ký kết...
Thứ tư, thời điểm ký kết Thỏa thuận lựa chọn Tòa án: các bên có thể thỏa thuận
trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh.