Cùng tìm hiểu tổ chức cụm thành viên SS của Hitler | Đại học Hoa Sen

Cùng tìm hiểu tổ chức cụm thành viên SS của Hiler | Đại học Hoa Sen được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem

LỜI NÓI ĐẦU
ODESSA không ph i là tên c a mt c ng t i min Nam Liên Bang Sô Viết, hoc m t thành ph nh nào dó t i
tiu bang Texas, Hoa K , m t danh t riêng g m sáu m u t cái thoát thai t sáu ti ếng Đức
Organisation Der Ehemaligen SS-Angehorigen, t m d ch là « T chc cùa nh ng c u thành viên SS ».
c gi c bi t, T c SS m i trong m i, m t qu c gia trong Như phần đông độ đượ ế Ch ột quân độ ột quân độ
mt qu c gia, do Adolf Hitler thành l i quy giám sát c a Heinrich Himmler. T ập đặt dướ n chức SS được
giao phó nhi u nhi m v c bi t trong th đặ ời gian đả ớc Đứ năm 1933 đến năm ng Quc cai tr c, t
1945. Nh ng nhi m v n y liên h n an ninh chung c c Qu c ; th t v y, ch c ss ph i th c thi đế ủa Đứ
tham v ng c a Hitler, lo i b c Qu c và L a Âu Châu m i thành ph khỏi Đứ ục Đị ần mà Hitler xét « Khônq đáng
sống » cũng như « xiềng xích nhng ging bán nhân », và tiêu dit loài Do Thái, không k đàn ông, đàn
hay tr nít.
thi hành nh ng nhi m v c Để đặ biệt này, ss đã t ảng mườ chc hành quyết kho i bn triệu ngưi,
gm có g n sáu tri u dân Nga Sô, hai tri u dân Ba Lan, kho ng n a tri ệu dân Do Thái, năm tri ệu người
thuộc đủ mi sc dân khác, g m có g ần hai trăm ngàn ngườ ải là Do Thái, Đứi không ph c hay Áo. S người bt
hnh n y u, mầy, thể ế c b nh th n kinh, ho c nh c quan ni m « K thù c ững người đượ a chế độ »,
như nhữ ững nhà báo, nhà văn, tu sĩ thường thành phn Dân Xã, T do, hoc nh ng bc l và phát biu y kiến
ngượ c l i chánh sách vô nhân d o c a bn Quc Xã, và sau này những Sĩ Quan Lục uân b kết ti b t trung
vi nguyên th Hitler. Trước khi b tiêu di t, T c SCHUTZ- STAFFEL Ch
1
được gi tắt là SS và tượng trưng bởi
hai hình sét song song, đã thành công trong việ ủa nó đúng nghĩa vớc làm cho tên gi c i s nhân do tt
cùng, mà không m t t ch c nào t n nay sánh b trước đế ng.
Khi th chi n th n h i tàn, nh ng thành viên ss cao c p nhế ế hai đế ất đoán biết trước sau Đức Quc
cũng sẽ bi trn, chúng hy vng sau này s không ai nh n di ện ra chúng ; chúng tìm phương tiện để
biến kh c và t o l i s ng m i t i h i ngo i, b l c gánh ch u s ỏi nước Đứ ập đờ ại quê hương cho dân chúng Đứ
nguyn r a c a toàn th thế giới. Trong âm mưu này, hàng tấn vàng được chuyn ra ngoài, gi nhng
trương mụ ạo đượ ẵn, và đường dây đào tẩu được mang ám s bí mt, lý lch ngy t c chun b s c triệt để khai
thác. Khi Quân đội Đồng Minh chi c Qu c, t p thếm Đứ sát nhân chiên tranh ss đã trốn thoát g n h ết.
ODESSA là t chc có nhi m v chu n b và th c hi n cu ộc đào tẩ ầy. Khi đã hoàn tấu cho bn n t m mãn
công tác n y, ODESSA l i nuôi tham v ng l t ph n l n thành viên ss không r i kh c Qu ớn lao hơn. Mộ ỏi Đứ c
mà ch n cu c s ng trong bóng t i trong th c ; m t s ời gian Quân đội Đông Minh còn chiếm đóng nước Đứ
khác sau khi đã bôn ba hả ại, có đượi ngo c lch và giy t tùy thân hoàn toàn mi, ra mt tr v, trong khi
nhng thành viên nòng ct l i ngo i qu u khi n t ốc để điề chc.
ODESSA đề ra năm mụ ạt độc tiêu ho ng : Ph c h i nh ng c u nhân viên ss vào đúng chuyên nghiệp trong
Chánh Ph ng Minh thành l ng phái Liên Bang dược Quân đội Đồ ập vào năm 1949 ; Xâm nhập các sở đả
chánh tr ; tìm m i cách g t i cho b t c tên sát nhân SS nào không may b lôi ra Tòa, và b ng m i cách làm
lch cán cân công lý t c khi mại Tây Đứ t c ng chí) gựu Kamerad (đồ p chuy n r c r i; gài c u nhssn viên ss
nh nghững cơ sở thương mạ i và k sao cho h p th i và h k p khai thác tri « Phép l kinh t », ợp lúc để ệt để ế
tái t c Qu c t t, tuyên tr n cho dân chúng bi t r ng b n sát nhãn ss ch nh ng ạo Đứ năm 1945 ; sau hế uy ế
chiên ái quốc như trăm ngàn chiến khác, thi hành nghĩa vụ công dân đố i vi T quốc, không đáng
nh n lãnh l i nguyên r a của dư luận và công chúngl
c y m tr m nh m v tài chánh, m v Đư ODESSA đã thành công trong nhi thực thi năm mục tiêu đề
ra. Thay đổi danh xưng nhiêu lầ ữu như mn, ODESSA còn t ph nhn s hin h t thc th hùng mnh : s
kin này làm cho ph ng th c có thần đông dân chúng Tây Đức tưở ật. Nhưng không. ODESSA là tổ ch ật, đang
hin h ng trên th i. H ng quân giai c a t p th « Kameraden» v c áp d ng chữu và bành trướ ế gi th ẫn đượ t
ch.
t cđã khá thành công trong tấ năm mục tiêu đã được đề ra, nhưng đôi khi ODESSA cũng g p phi
mt vài th t b n hình nh t bi n c x t k danh g ại, điể ế ảy ra vào đầu mùa Xuân năm 1964, khi mộ i
1
SCHUTZ STAFFEL t c giai c p phòng v , là l ng c nh sát quân s a c c Qu c Xã. Thành l ực lượ ủa Đứ ập năm 1925 để
đặc trách an ninh cho Hitler, nhưng sau này được giao phó canh gi nhng tri tp trung và giám sát nhng lãnh th
chiếm đoạt được.
một bưu kiện đến B Tư Pháp Tây Đứ ại Bonn. Đốc t i vi mt gii chc có quyn hiu biết rng rãi, món
quà quý giá c a k vô danh g i t ng tr thành m t y ếu t ng y u trong toàn b H tr ế SƠ ODESSA.
LI NHÀ XU T B N
n ti u thuy u tiên c a Frederick Forsyth, nhi u nhân v t trong « HNhư trong cuố ết đầ sơ ODESSA »
những ngườ ật trên đờ nào độ cũng nhậi có th i mà chúng tôi biết chc th c gi n biết ra ngay mt s. Mt vài
nhân v t khác s làm cho độc gi thc mc, t hi không biết htht hay ch s n ph ng ẩm tưởng tượ
ca Tác Gi . Chúng tôi không mu n soi sáng v thêm n a, vì theo thi n ki n c a chúng tôi, gút m c c ấn đề ế a
«H sơ ODESSA» ở ch làm cho độc gi phi t tìm hi u và d đoán tầm mc xác th c c a câu chuy n.
Tuy nhiên, chúng tôi b n ph n ph i xác nh n v c gi ới độ r ng quá trình ho ng c a c i úy ạt độ ựu Đạ
Eduard Roschmann, thu c t c ss, Ch ch Huy Trưở năm 1941 đến năm 1944, từng Tri Tp Trung Riga t lúc
chào đời vào năm 1908 tạ ỐC, cho đế ý lưu đày tại Graz, ÁO QU n ngày phi t i NAM M, hoàn toàn xác thc
và đã được chúng tôi ph i ki m v ới Văn Khố ca T Chc ss và v i h sơ lưu củ ền Tây Đứa Nhà Cm Quy c.
New York
CHƯƠNG I
TEL AVIV
Mt tri b u ló d ng khi phân tách viên nh báo hoàn t t b n báo cáo. H n du i vai cho b t m i, châm ắt đầ
điêu thuốc, đ ại đoạ ản báo cáo. Ngay lúc đó, người được đề ập đếc l n chót ca b c n trong bn báo cáo
đang đứ ột nơi cách Tel Aviv năm mươi dặ phía Đông trong khu Yad Vashem ; nhưng ng cu nguyn ti m m v
phân tách viên tình báo không bi u này. Hết được điể ắn cũng không biết ngun gc ca nhng tin t n tay ức đế
hn. Hn không cn biết nhi m v ca hn không ph i d đoán những điều trên đả ảo đượm b c
tm m c xác th c và giá tr khi phân tách n i dung c a nh ng tin t c;
Nhi u d kin khác phù h p v i l i khai c ủa đương sự liên quan đến địa điểm c ng. N u áp ủa cơ xưở ế
dụng phương pháp thích nghi, chắc chn Chánh Ph Tây Đức s ra l nh d p b cơ xưởng này.
: Chuy n báo nh ng d n c n tay nhà c m quy ng này s tĐề ngh ki th nhất đế ền nêu trên. Hành độ o
ấn tượ ốt đống t i v i gi o Bonn và s m b ới lãnh đạ đả o s liên t c trong vi c th ực thi Thương Uớc Waldorf.
n : R t có th D ÁÝ kiế n Vulkan đang đượ ếp. Do đó các hỏc x a tin Ai Cp s không bao gi ri khi dàn
phóng.
nh : N u chi n tranh bùng n a Do Thái và Ai C p (khó tránh kh là m t cu c chiNhận đị ế ế gi ỏi) thì đó sẽ ến
ca những vũ khí quy ước, thng b c, tởi vũ khí quy ướ c Do Thái.
Phân tách viên t ỉnh báo đặt bút ký tên dưới hàng ngày tháng : 23 tháng 2 năm 1964 Một bưu tín viên sẽ
khn mang báo cáo này vô ph Th Tướng.
c hung tin Hình như ai cũng nhớ mình đang làm gì vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 ngay sau khi đượ
Tng Th i. T ng Th ng Kennedy b b Dallas, và bống Kennedy qua đờ ắn lúc hai mươi giờ ba mươi trưa, giờ n
tin đầ ền đi tin Tồ ết được loan báo lúc mườ ba mươi, cũng theo giờu tiên truy ng Thng b ám sát ch i ba gi
Dallas. Lúc đó là mườ ba mươi ại New York, mườ ba mươi tại London, và hai mươi gii bn gi t i chín gi ba
mươi tại Humburg. Sau khi thăm bà m già t i nhà trong khu Osdorf, ngo i ô Hamburg, Peter Miller lái xe
quay v trung tâm thành ph vào t i th sáu, m t ph xem m c ố. Peter thường đến thăm mẹ ần để ần điều
gì không, và hơn thế ải đến thăm mẹ na, vì cm thy bn phn ph , ít nht mi tun mt ln. Nếu bà m
điệ dùng điệ ại để thăm hỏi. Nhưng nhứ ắn điện thoi, Peter s n tho t quyết không chu g n thoi, ct ý
để Miller lái xe đến thăm.
ng l Peter mNhư thườ máy thu thanh trên xe. Vào lúc hai mươi giờ ba mươi, khi chiếc Jaguar đang
ngon tr i l ng thớn lăn bánh trên đạ Osdorf, Miller đang thườ ức chương trình nhạc do đài Northwest
German ph trách, ti ng nh c b ng im b cho gi ng nói khàn khàn và tr nh tr ng c ng ngôn ế ặt, nhường ủa xướ
viên.
n tin quan tr ng. T ng Th ng Kennedy v i. Tôi xin l p l i, T ng Th« Chú ý ! Chú ý ! Đây là bả ừa qua đờ ng
Kennedy vừa qua đời. »
Chân Miller t ng lên th t trên tay lái, lách chi c Jaguar c p sát l độ ắng đôi tay dán chặ ế phi.
Chương trình nhạ ịu đượ ột cách độc êm d c thay thế m t ngt bng bn (Tang hành khúc) ngt khong bi
nh ng m u tin v n v t b túc thêm tin Tng thng tr tui c a Hoa K v ừa qua đời. Đoàn xe mui trần lượn
qua đường ph Dallas Tay súng sát nhân núp s n bên c a s c n. Không nghe nh n vi c b t gi ủa Thư Việ ắc đế
ai c .
Tài x c a chi c xu phía chàng. H n phía c a bên trái, giế ếc xe đậu trước Miller bướ ống xe và đi v ắn đế t
mình vì ch i c a tài x bên ph ng ế ải, đi vòng lui lại quanh chi c Jaguar. Miller quay c a ki ng xu ế ế ng.
« Ông b n có nghe không ? » h n h i, cúi g ập người xung.
« Có ! » Miller đáp.
« Th t ngoài s ức tưởng tướng hn nói ti p. «Chế c b n C ng S n l i nhúng tay vô n a ch gì ? »
« Tôi không bi t ». ế
« N u qu t chính b n chúng xía vô v này, thì ch c ch n không tránh kh i m t cu i chi n th ba ế th ộc đạ ế
! »
« Có th l m » Miller tr l i. Chàng t m t mình cho r i. Là m t phóng viên mong sao cho tên này đi khuấ
báo chí, Miller th a s ức tưởng tượng cơn khủ ảng đang tạ ạn trong nướng ho t qua nhng tòa so c : nào
triu h i toàn th nhân viên trong ban biên tp tr li tòa so kạn để p cho ra s báo đặc bit phát hành vào
sáng ngày hôm sau, nào là so n th o ti u s , nào l c l i moi tìm hàng ngàn câu nói l ch s c a v T ng Th ng
quá c , và t t c ng n l c này ch khai thác m i v i chi c s v toang, ch t t i m t thành ph nh để ột ngườ ế
ti Ti u bang Texa s.
c mu n m t t i tòa so n nh t báo ngay l p t c, vì mu n t o cho s Miller ướ ức, nhưng ba năm trướ
nghip mình m thành m c l u tra nh ng v ột hướng đi khác biệt, chàng đã trở ột phóng viên độ ập, chuyên điề
án m ng « th ế giới đen». Má chàng không ủa đứa con trai độmy thích ng vic c c nht, Miller phi
giao thi p v i nh ng « k x u xa», chàng có bi ện minh cách nào đi nữa, bà cũng không bao giờ thay
đổi l ập trường.
Trong lúc nh ng b n cái ch t c a Kennedy d n d p truy ng truy ản tin liên quan đế ế ền đi qua hệ th n
thanh, trí óc c a Miller ch i th i gian, c ạy đua vớ tìm cho đượ khai thác được mt « góc cnh » khác có th c
để làm m t phóng s n bi n c quan tr ng này. Ch c ch n các ban biên t p s khai thác ph liên quan đế ế n
ng c a Chánh ph Bonn, và k ni m cu c công du chánh th c c a Tng Thng Kennedy qua Berlin thế nào
cũng sẽ được nh c nh đến.
i ra gh u thu c Roth Handl, m t lo i thu u l Miller ngã ngườ ế, châm điế ốc lá nâu, không đầ ọc, có hương vị
khét. Thêm m u má chàng không th y hài lòng. ột điề
Th nghĩ trên đờ ếu không ? Thười này chuyn s xy ra nếu... Hoc n ng thì mt vic làm ích,
không đi đến đâu, nhưng thử tường tượ ếu đêm đó Miller không mởng n máy thu thanh, chàng s không cho
xe d ng l i bên l ng t a gi , chàng s không th y chi c xe c c s không bao đườ rong hơn nử ế ứu thương, hoặ
gi nghe nói đến Salomon Tauber hay Eduard Roschmann, và b C ng Hòa Israel s ốn mươi tháng sau, có thể
không còn hi n h u n a trên qu t này. đấ
Miller hút h u thu c, quay c a ki ng xu ng, búng m u thu c tàn ra ngoài. Ch c n m t chiết điể ế n ếc
núm là b t c a chi c Jaguar XK 150S r ng lên trong m t thoáng r máy 3 8L đặt dưới ca pô dài thườn thượ ế i
tr l i nhịp điệu bình thường như mộ ật hai đt con thú d mun x lng. Miller b èn pha, liếc nhìn ki ng ế
chiếu hu, cho xe v t nhanh chen l n trong chi ều lưu thông rộ ủa đạn rp c i l Osdorf.
. Ti ng còi h c a m t xe cKhi đến ngã tư Stresemannstrasse, đèn lưu thông bật đỏ ế ứu thương rú lên sau
lưng vượt qua mt Miller, r qua phi trc ch Daimlerstrasse. Chàng ph ng th t nhanh, phóng chin ếc
Jaguar theo sau. Có th không có h t ? Xe c i r c r ết, nhưng ai biế ứu thương đồng nghĩa vớ ối, có nghĩa
Miller s tài nóng b có đề ỏng để ất là khi chàng là người đầ đó chỉ khai thác, nh u tiên có mt ti ch. Có th
mt tai n n trên xa l , ho c m n v i hàng ch c tr em kạn lưu thông rùng rợ ột đám cháy lớ ẹt trong đó. Bất c
chuyện gì cũng có thể ảy đế x n. Miller luôn luôn ct trong xe mt chiếc máy nh Yashica nh gn vi b phn
đèn, sẵ sàng đi thu nhặn t ch ng tích, vì không ai có th d đoán những gì s x c m t mình. ảy ra trướ
Miller bi t m ng Munich, và ch ng ế ột anh chàng đứng đợi đào vào ngày 6 tháng 2 năm 1956 tại phi trườ
kiến c nh chi i danh c u Manchester United n tung cách ch ếc phi chở độ anh ta đứng độ vài trăm
thướ c. Anh chàng này không ph i là mt nhiếp nh gia nhà ngh sề, nhưng nhờ n mang theo máy ch p hình
để tặng cho cô đào vài kiểu, đã vô tình bấm được nhng bức hình độc đáo nhất c a tai n m khạn phi cơ thả c
này. Các t p chí và nh ng món ti n kh ng l mua cho b ật báo trong và ngoài nước đã thi nhau bỏ nh để ng
được cun phim c a anh ta.
Chi c xe c i vô nh ng ch t h p c a khu Altona, ch y v phía b sông. Tài x ế ứu thương len lỏ ững khúc đườ ế
ch c phái già tay lái l m, m c h thng ng nhún r t c ng r n s c v t c a chi c Jaguar r ế ất dũng
mãnh, Miller v n ph i khó nh c l m m i gi c hai bánh xe sau kh đượ ỏi trượt trên con đường đá trơn ướt.
Ch y quanh co mt lúc, chiếc xe c ng l c mứu thương dừ ại trướ t dãy ph t nát. Mồi tàn, đổ t viên c nh sát
đang đứng trước đó, cố ắng đuổi đám ngườ càng lúc càng đông tụ ứu thương. Tài xế g i hiếu k tp quanh xe c
và y tá nh y phóc xu i v i viên c nh sát, c hai h i h ống, đi vòng ra sau kéo chiếc băng ca ra. Sau một đôi lờ
ch y th ng vô dãy ph, leo lên l u tầu. Miller cho xe đ i mt khúc quanh g o mần đó. Chàng đả t nhìn quanh
qu t. Không có d u hiu nào cho th y tai n n này là m nít một đám cháy có trẻ c k là mẹt trong đó. Có lẽ t
người đang lên cơn đau tim. Chàng bướ ững bướ phía đám đông mà viên cảc xung xe, lng th c v nh sát
đang cố sc dn lui v phía sau.
« Xếp ơi ! Cho tôi lên trên kia xem một chút ! » Miller nói l n cho viên c nh sát nghe.
«Còn lâu ! Không có chuyện gì liên quan đến ông b n h t !» Viên c ế nh sát đáp.
«Nhà báo mà !» Miller nói, chìa t m th phóng viên ra.
«Còn tôi đây là cảnh sát», Viên trung sĩ Cảnh Sát nói vn li.
c phép lên trên kia h t c u thang ch t h p, v l i m y tay c p tr «Không ai đượ ế ứu thương cũng sắ
xung, m c s c mà xem.»
Vóc dáng c nh sát th t to l n ; h n cao g n m c chín, nhìn t xa h n trông ủa viên trung cả ột thướ
như một tay đô vật trong chi n d cếc áo mưa rộng phùng phình, và đôi tay dang ra như tay vư ản đám đông
không cho tràn vô dãy ph .
«Chuy n gì v y x p ?» Miller th c m c h ế i.
c. Mu n bi t thì lát n a l i Ty mà h«Nói không đượ ế i».
M ng ph c xu ng c u thang xu t hi n trên l ng. Chi ột người đàn ông bận thườ ục bướ đườ ếc đèn đỏ
gn trên mui xe Volkswagen c a C sát quét ngang m i này, Miller nh n ra h n ngay. H n cùng nh ặt ngườ
Miller theo h ng Hamburg Central High. Gi n tr thành Thanh Tra C nh Sát tọc trườ đây hắ ại Hamburg, đặc
trách khu v c Altona.
«Karl !»
Viên thanh tra c i khi nghe g i tên mình. H n quan sát t ng m t mảnh sát quay ngưòi lạ ột trong đám
đông chen chân sau lưng viên trung sĩ. Hắn nhn ra Miller, vẫy tay chào. Gương mặ ắn nhăn nhó, cổt h v
mt mõi. H n g ật đầ u v phía viên trung sĩ ra h ệu cho phép Miller đếi n gn hn.
«Thôi được, Trung Sĩ. Cho hắn vô, coi v y ch h n vô h i !»
nh sát h cánh tay xu ng và Miller lách mình qua. Viên trung sĩ cả
Chàng b t tay Karl Brandl.
n t «Gió nào đưa bạ ời đây ?»
ôi theo sau xe c«T ứu thương».
y th t. H«M ẳng nhà báo như, nhau hế thy chuyn gì l m ột chút là theo sát ngay như bầy kên kên. Sao
dạo này làm ăn phát đạt không ?»
«Thưòng thôi ! Phóng viên tự do, khe làm m t ngh , không b ai ràng bu c.»
«Xem bạn phát tài và phát tướng quá. C m t t p chí nào lên cùng th y tên Peter Miller».
t lách b y b«Có gì đâu 1 Viế kiếm cơm vậy thôi ! Nghe v Kennedy chưa ?»
i! Kinh th t. B n c m M t may không x y ra trong khu v c c a tôi». «R chắc đang càn quét Dallas. R
Miller li c nhìn v phía hành lang u t i c a dãy ph c dùng làm nhà tr . M t ng u sáng hai ế đượ ọn đèn chiế
vách tường loang l, m t cách y u ót. ế
t b n. May mà không có có ai b«T ằng hơi đốt. Hàng xóm đánh mùi và gọi chúng tôi đế ật diêm hay đốt
la. N u không thì c u b bà hế khu này để a nut hết !»
«Tài t xi nê t t h ?» Miller h i.
luôn luôn ch n nh chu xây nhà c t ph a thôi ! Ch là m«Dĩ nhiên. Họ ng ột như thế này để ố. Đùa vừ t
c già thôi. Trông c ta như đã chết cách đây vài chục năm rồi.»
«Dù gi này c ta có a, thì ch c ch đâu đi nữ ắn cũng khá hơn chỗ này !»
Brandt cườ ứu thương thậ ng bưới tht chua chát. Hai nhân viên c n tr c xung tng nc thang mt,
khiêng cái xác không h n ti ến ra đường.
Brandt ra lệnh cho đám đòng : «Tránh chỗ đi !» cho h
nh sát l p l phía sau. Hai nhân viên cViên Trung sĩ cả ại câu trên và xô đẩy đám đông lùi về ửu thương đều
bước tiến v chiếc xe Mercedes. Brandt đi theo sau với Miller ni gót sau lưng. Không phải Miller chù ý mun
nhln khuôn mặt người chết, mà chàng ch muốn đi theo Brandt thôi.
Khi hai nhân viên cứu thương đế ửa xe đang mở, người đi trước lùi người bướn sát c c lên xe, hai tay nm
ch đểt l y cáng kéo lui v phía trong xe đặt lên giá. Brandt lên ti ng : «Khoan !» và ti n g n chiế ến sát đế ếc
cáng, kéo m t k quá c qua m t bên. «Ch th t c thôi. Tôi ph i o cáo rõ ràng vột góc chăn che mặ i
thượng cấp là tôi đã đi theo xác chết đến t n xe c ứu thương và về nhà xác».
Miller thoáng nhìn thĐèn bên trong xe cứu thương đủ sáng để ầy gương m ới qua đờt ca c già m i. n
tượng đầ ủa Miller chưa bao giờ trong đờ ột ngưòi u tiên và duy nht c i phóng viên, chàng dp thy m
nào x già n y. cho «nhan s c» có b ng c a, c này lúc sinh ti n chấu hơn cụ ảnh hưở ủa hơi đốt đi nữ c
không thuộc «típ» đẹp trai. Khuôn m t g ầy đét, hai tròng mắt sâu húp, c p móm x m, và m t vài c m
tóc trên đầu làm cho Miller tường tượng đến nhng chiếc s người thu nh ca các b lc man r Amazon.
Để ế tăng thêm về x u xí, khuôn m t c a lão còn thêm hai chi c so dài ch y t màng tang xu ng mép
ming.
Quan sát xác ch i g u ra hi u cho nhân viên cết trong giây phút, Brandt kéo chăn lạ ật đầ ứu thương
đứng sau lưng. Brandt lách ngườ ột bên cho nhân viên đẩ ắn đóng cử ại và đi vòng ra i qua m y cáng vô xe. H a l
phía trước. Chiếc xe rú ga vt mnh, nhn còi inh i tán d n theo gi ng nói càu nhàu c a viên ỏi. Đám đông giả
trung sĩ : «Hễt có gì coi r i. Ai v nhà n y ! B vô gia cư hế lũ sao !»t c
Miller nhìn Brandt l u : «T i th t !» ắc đầ
«Ph b n khai thác cho m y t lá c i cải Nhưng bạn còn đáng thương hơn lão ta nữa, vì không có gì để a
bn !»
Miller th t v ng ra m ặt. «Đúng, không đề ết. Nbạn đã từng nói, đêm nào l tài nào h i không
người chết và có: có ai đếm x n, nhỉa đế ất là đêm nay, đêm của Kennedy.»
i khoái chí. «BBrandt cườ ọn phóng viên đểu gi c m ột lũ.»
u gi sao ! Dân chúng tò mò, mu n bi t v cái ch t c a Kennedy, b n tôi vi t, h c. Th «Để ế ế ế mua báo đọ ế
thôi».
«Thôi, thôi ! Không cãi lý v i b ạn đâu. Tôi phải v Ty, chào b n !»
i b n h c b t tay nhau r ng ai n l i ch trung Hai ngườ ối đườ ầy đi. Miller quay xe n con đường chánh đi về
tâm thành phố. Hai mươi phút sau chàng cho xe ga ra gần công trườ hơn mộng Hansa, cách phòng tr t
trăm thước.
i xe ga ra ngMùa Đông mà gở ầm dưới đ ốn kém, nhưng đố ới Miller đó một tht t i v t s ít tin
hoang phí mà chàng ch p nh n, Chàng r t giá vì nó n m tít trên t ng chót cao c, ất thích căn phòng mướn đắ
và v ng n n s n nh p c i l thế cao ráo cho phép chàng thưở go nh ủa Đạ Steindamm dưới chân minh. Chàng
không m n vấy quan tâm đế ấn đề ăn diện. Hai mươi chín tuổ ột thước tám, tóc quăn màu nâu, cặi cao m p mt
ht d tht l làm cho m y bà x n x n và m y cô m i l n mê mẵng, đủ ệt, do đó quần áo cũng bằng tha.
a Miller là xe th v n lòng mình, chàng c m th y xNhững đam mê củ thao, săn tin và Sigrid. Đôi khi tự u
h. n u phế i ch n l a gia Sigrid chi c Jaguar, tin chế c chn Sigrid s phải đi tìm tình yêu nơi những
người đàn ông khác. Miller đứng ng m chi ếc Jaguar không chán. Bình thường thì mt phóng viên trẻ, độc
lp, ít khi nào dám mua mt chiếc Jaguar XK 150S. Đồ ph tùng khó kiếm ti Hamburg, nht là ph tùng dành
cho ki c hãng s n xu t n a. Ngay sau khi mua xe v , n ch ểu XK 150S không còn đượ Miller đã cho sơn hai lằ
vàng hai bên hông xe. Vì đượ ại xe dành đểc chế to ti Coventry bên Anh, và không thuc lo xut cng, nên
tay lái n m bên m t.
Đến gi t t i sao mình l n mua nó. Vào mùa phút này, Miller cũng không biế ại quá may man có đ ti
năm đó, khi ngồ ớt tóc, chàng đọi ch h c qua m t t p chí th ời trang, ít khi nào Miller chú ý đến nhng chuyn
tào lao liên quan đến đào kép hát bóng hay ca nhạc, nhưng lúc đó chàng không có gì khác hơn để làm trong
khi ch i. Trong t p chí bài c n b đợ đề ập đế ốn chàng ca tóc dài đang làm mưa làm gió trong làng nhc
tr. B c hình ch p b n ba khuôn m ốn chàng ca sĩ làm cho Miller để ý ngay đế ặt quen quen, hình như đã gặp
qua m n thì ph t l i.
Hai b n nh « Please, Please me» và « Love me do » không g i ý ạc đưa bốn chàng này lên đài danh vọng
gì nhưng ba gương mặ ền. Sau đó chàng mói chọ ra. Năm t quen quen c ám nh Miller sut hai ngày li t nh
1962, ba chàng này đã phụ din tân nhc cho mt hi quán nh trong khu Reeperbahn. Miller m t thêm m t
ngày n ra tên h i quán này, có l g p m t s u m i » có tin liên quan ữa để nh ần chàng đã đến đó để « đầ
đến «băng» du đả ền đến đó, lụ ững chương trinh phụng Sankt Pauli. Hi quán Star. Miller li c li nh din tân
nhạc trong năm 1962, và tìm ra ba chàng này. Lúc đó ban nhạc ca h gồm năm người, trong s đó ba
ngườ i bây gi tr thành th ng, Pete Best và Stuart Sutliffe. ần tượ
T h n liên l c ngay v i nhi ộp đêm Star, chàng đế ếp ảnh gia đã chụp nh qung cáo cho ban nhc này,
vi ông b u Bert Kampfer t b n quy n c a nh ng t c a chàng t, đã mua hế m ảnh độc đáo. Bài phóng sự
nhan để «Hamburg khám phá ban nh c th c h u h t tạc Beatles trướ ế giới! » đượ ế ạp chí trong ngoài nước
dành nhau khai thác. Nh n mua chi c Jaguar do m n Tùy viên Quân L c Hoàng đó Miller mới dư tiề ế ột Sĩ Qua
gia Anh nhượ ại. Chàng cũng bỏ ền để mua vài đĩa nhạ đền ơn họng l ra mt ít ti c ca ban Beatles, l để ,
nhưng về đến nhà ch có Sigi nghe thôi.
Miller r v t b a i no t i nhà ời ga ra đi bộ phòng. Lúc đó quá nửa đêm, mặc đã ăn mộ cơm tố
m, Miller v n c m th n phòng, chàng làm m ng, v a nghe b n tin ấy đói bụng. Lên đế ột đĩa chả tr ừa ăn vừ
cui cùng. M i tin t u d n v cái ch t c a v o th i t do : C ức đề ế lãnh đạ ế gi ảnh sát Liên bang đang đầu
truy lùng hung th ng ngôn viên bình lu n v m i thiên c m c a v c T ng Th i v c, cuủ. Xướ ống đố ới Tây Đứ c
viếng thăm Bá Linh vào mùa hè năm trước, và câu nói lch s : « Ich bin ein Berti- ner !» Tôi là dân Bá Linh.
Bn tin cu i nhối cùng cũng cho phát thanh lạ ững bài truy điệu ca Th trưởng Tây Linh, Willy Brandt, vi
ging nói tr m bu n, ngh ng, nh ng l i ca ng c v T ng th ng tr c a Th ẹn ngào xúc độ ợi công đứ
Tướng Ludwig Erhard và c u Th Tướng Konrad Adenauer, t nhiệm vào ngày 15 tháng 10 trước đó.
Miller t ng. Chàng mong Sigi có mắt máy thu thanh leo lên giườ ặt trong phòng ngay lúc đó, vì chàng vẫn
thích ôm nàng vô lòng m i khi c m th y b i ho ải trong người. Nhưng vũ trường nơi Sigi biểu din thoát y mi
đêm tớ ới đóng cử ững đêm thứi bn gi sáng m a, và nh sáu còn m cho ti sáng, vì du khách ngh cui tun
thường kéo xung khu Reeperbahn, s n sàng b n u u Champagne v i giá c t c c xem t ti ng rượ để đượ n
mt nh ng gái v i b s qu n áo c t c n múa may quay cu ng trong nh u khiêu ngực đồ ững điệ
dâm. Sigi là m t trong s r t ít cô gái h ội đủ nhng yếu t này.
Miller m u thu c th hai, rít v m t mình trên chi ng r ng thênh ồi thêm điế ội vài hơi và lăn ra ngủ ếc giườ
thang vào lúc hai gi t d hình c a lão già quá c p ch n hi n trong kém mười lăm sáng, khuôn mặ ch n
mộng tưởng.
Trong lúc Peter Miller ngồi ăn chả trứng trong căn phòng mướ ại Hamburg, năm người đàn ông đang n t
ngi nh u nh t thân m t c i m trong phòng khách c a m t bi t th p giáp v i H i K n m trong tiế
khu v c Kim T áp t gi Th ngoại ô Cairo. Lúc đó là mộ sáng. Năm người này đã dùng bữa cơm tối tht sang
tr thng và h p kh u, ai n t ngay sau khi b u tiên do h ấy đều tươi vui ra mặ ản tin đầ ng truy n thanh Ai
Cp loan báo T ng Th i trong s ống Kennedy đã qua đời. Ba ngườ này mang quc t i còn lịch Đức, hai ngườ i
là công dân Ai C p. Bà v ông ch t th và H ng H i K p m t c a gi bi ội Trưở Mã, nơi gặ ới thượng lưu Ai Cập
và Phái B c t do trò chuy n. Ng bành da kê sát c Đức, đã bỏ lên phòng cho năm người này đượ i ghế a
sHans Appler, C u chuyên viên nghiên c u Do Thái V trong T ng B Tuyên Truy n c a Josef Goebbels.
Lp nghi p t i Ai C p ngay khi th Chi n th hai ch m d c Odessa móc n p t ch Ai ế ế ứt đượ ối, Applet đã nhậ
Cập, đổi tên thành Salah Chaffar, cng tác vi Chánh ph chuyên viên Do Thái V cho B trong cương v
Hướ ng d n Nghiên c u. Ng i bên trái Chaffar, m t c u chuyên viên khác trong T ng B Tuyên Truy n
ca Goebbels, Ludwig Heiden, hi c v t i m t nhi m s thu c Bện cũng phụ Hướng d n Nghiên c u Ai C p.
Heiden đã bỏ Thiên Chúa Giáo để ồi Giáo, đã từng hành hương sang Mecca, và đượ ọi ngườ theo H c m i biết
qua tên m t ra mình là m trung kiên c a H i Giáo, tay h n v n c m m c cam ới El Hadj. Để ột tín đồ ột ly nướ
trong khi bốn người kia dùng rượu m nh. Chaff ar và El Hadj đều là nhng tên Nazi cu ng tín.
Hai công dân Ai C i Tá Shamseddin Badran, ph tín c n c a Th ng Ch Abdel Hakim Amer, sau ập là Đạ ế
này tr . thành Phó T ng Th c khi b k t t i ph n ngh ch sau cu c chi ống trướ ế ến tranh 6 ngày năm 1967.
Ngườ i Ai C p còn lại là Đại Tá All Samir, Trùm Moukíiabarat, Cơ quan Mật V Tình Báo Ai C p.
i còn có m t th c khách th sáu n khách danh d i bàn Lúc dùng cơm tố ữa, và người đó vị ự. Ông đã rờ
tiệc ngay khi được tin Tng Th ng Kennedy b ám sát. V T ch Qu c H khách quý đó là Anwar El Sadat, Chủ i
Ai C p, c ng tác viên thân c n, sau này tr thành ngườ ủa Nasser. Hans Appier nâng ly rượi kế v c u : « Vy là
rồi đời tên mến m Do Thái. Nào, m i quý b n c n ly m ng bi n c ế này ».
« Nhưng ly chún ồi ! » Đạg tôi cn r i Tá Samir ph ản đối.
nhân v u Scotch. S n Appler nh c nh n T ng ThCh ọi vã châm rượ ki đế ống Kennedy như là một người
mến m dân t c Do Thái không làm cho b i còn l i ngốn ngườ ạc nhiên. Vào ngày 14 tháng 3 năm 1960, khi
Dwight Eisenhower còn làm T ng Th ng Hoa K , Th Tướ ng Do Thái David Ben Gurion và Th Tướng Tây Đức
Konrad Adenauer đã mậ ọp mà mười năm t gp mt ti khách sn Waldorf Astoria, New York, mt cuc h
trước đây không thể ện đượ thu đạt đượ nào thc hi c. Kết qu c trong bui hp này thot v lý,
chính đó do Nasser khăng khăng không chịu tin vào nhng bn báo cáo mt do Odessa
Moukhabarat đệ ạp. Hai nhà lãnh đạo Do Thái và Đứ ốc đã thông qua và ký kế ệp ước, trong đó n c Qu t mt hi
kho u M Kim mản quy định Đức cho Do Thái vay điều kiên năm mươi triệ ột năm. Tuy nhiên, Ben
Gurion đã nhậ ết đượn bi c có tin là mt chuyn còn dùng ti có m t ngu n cung cền vay mượn được để ấp vũ
khí m t cách an toàn là m t chuy n khác, nan gi c th ải. Do đó sáu tháng sau, một hiệp ướ hai ra đời, được
nh v T ng Do Thái Shổng Trưở mon Peres và T c Franz Josef Strauss duyổng Trưởng Tây Đứ t ký. Những điều
khon trong hi c thệp ướ hai này gọi đúng hơn là thương ước cho phép Do Thái s dng ti n do Tây
Đức cho vay để ại Tây Đức. Đoán biết trướ ủa thương ướ mua khí gii t c hình thái phc tp c c này, Adenauer
đã trì hoãn việ ực thi cho đế ặp được th n khi g c v Tng Thng tân c John Fitzgerald Kennedy t i New York
năm 1961. Kennedy làm áp lực, nhưng lạ ới đếi không mun Hoa K trc tiếp gi khí gi n Do Thái, phi
bng m n thi t. Thọi giá Do Thái có được khí cầ ế t là c mt s mâu thun. Nhu cu của Do Thái là phi
oanh t c, v n t i bác 105 ly, súng c i, thi t v n xa và thi ải, đạ ế ết giáp xa. Adenauer nhượ và Thương Ướng b c
Strauss-Peres được thi hành. Tây Đức lúc đó có sẵn nhng món hàng Do Thái c n, ph n l n mang nhãn hi u
Hoa Kỳ, được cường quc này vin tr để đắp kinh phí đài thọ quân độ i Hoa K tại Tây Đức đúng theo
tinh th n c c B ủa Minh Ướ ắc Đại Tây Dương, hoặc được chế to ngay t án c a Hoa Kại Tây Đức theo đồ ,
Nh ng thi c chết giáp xa đẩu tiên đượ ti H i C ng Haifa vào cu t khó mà giối tháng 6 năm 1963. Thậ được
điều gì bí m t mãi mãi, vì quá nhi i bi ều ngườ ết đến nó. Odessa đã phanh ra nội v vào cuối m 1962 và
khn báo cho Ai C p bi t, qua trung gian c a nhân viên chìm do Odessa gài t ế ại Cairo. Nhưng cuối năm 1963,
s vic b i : ngày 15 tháng 10, Konrad Adenauer, con cáo già c a Chánh ph Bonn, vắt đầu thay đổ Th
Tướ ng «s ng ghắt đá» từ nhiệm nhườ ế l i cho Ludwig Erha «Phép l kinh trd, cha đẻ ế», nhưng một nhà
ngo i giao r t rè, thiếu lập trường.
Ngay khi Adenauer còn n m gh ế Th ng, mt thi u s trong n i các c ủa ông đã chống đối, làm áp lc
đòi xé bỏ ệp ước. Nhưng vị ớng cáo già đã khóa miệ hi Th ng h li bng mt vài lý lun vng chc, và s
kiện này đủ chng t cho th i th y uy quy n c a ông. ế gi
Erhard thì khác. M i ng i gh ế Th Tướng chưa nóng đít đã bị báo chí t ng cho m t sao su ». « tử
Nhóm ch ng hi i th i Adenauer Ngo i Giao gi t dây tr m i làm áp l cao ệp ước Waldorf dướ đo Bộ ực «Sư tử
su». Erhard có mòi thay đổ ập trường, nhưng sau lưng ông còn sự cương quyế lãnh đại l t ca v o thế gii
t do, nhất định đảm b o vi ệc thi hành Thương ước.
Nhưng giờ đây ông không còn nữa. Du hi to l n là li u tân T ng Th ống Johnson có thay đổi chánh sách
đố i v o áp lới Tây Đức, và ngưng tạ c v i Th ng c a Chánh ph Bonn không ? Gia ch c a ngôi bi t th
xây c ngo u ly mình. Ht ại ô Cairo rót rượ ắn Wolfgang Lutz, chào đời năm 1921, cu Thiếu Lc
Quân Đứ thù không độ ủa Do Thái, di cư sang Ai Cập năm 1961. Tóc vàng, mắt xanh, gương c, k i tri chung c
mt s t trong nh ng b m t ng nh i v i sinh ho t chánh tr Ai C p, trong ắt đá, Lutz mộ ảnh hườ ất đố
tp th c t n dân Đứ n.
H n quay m phía b i th t v ốn người khách, cườ ật tươi. Nế ời thì cũng không có u có gi di trá trong n
ai có đủ tài trí để khám phá được. Nhưng nụ cười c a h n qu th t x o trá. H n gốc Do thái Mannheim, di cư
sang Palestine năm 1933, lúc mới được mười hai tui
Tên th n mang c p b c Thi i Do Thái. H p viên s mật Ze’ev và hiệ ếu trong Quân Độ ắn cũng là điệ t
trong t tình báo Do Thái t i Ai C nh Sát Ai C p b t th t nh ập. Ngày 28 tháng 2 năm 1965, sau khi C ần độ p
bit th khám phá m t máy phát gi u trong bu ng t ngày 26 ắm, Lutz đã bị câu lưu. Được đem ra xét xử
tháng 6 năm 1965, Lutz bị kêu án kh sai chung thân, nhưng được phóng thích vào năm 1967 trong cuộc trao
đổ i binh v i Ai C t chân xu ng mi t hập. Lutz gia đình chánh thức đặ ền đấ a t ng Lod ngày 4 ại phi trườ
tháng 2 nam 1968.
ng gì sau này x a ghê g m mà h n s i gánh ch bNh ảy đến cho Lutz và gia đình, và tai họ ph ịu như bị t
b, tra tn, chng ki n cế nh v b hiếp dâm, đều đã được an bài ngay trong đêm Tổng Thng Kennedy qua
đời.
Lutz nâng ly m i b i « b n quý », mong sao cho chúng u ng th ra v u m t trong ốn ngườ ật say để ề. Có điề
bốn ngườ ọng đố ền đồi này tiết l quan tr i vi ti ca dân tc Do Thái nên Lutz nôn nóng, b n ch n, mu n
đượ c bung t m một mình, đem máy phát thanh ra để báo cáo ngay v Tel-Aviv. Lutz gi n cười trên
môi hô l o b n c m tình viên Do Thái, Sieg Heil !» ớn;« Đả đả
Peter Miller t nh gi c lúc chín gi sáng hôm sau. Ưỡn mình dướ ớp chăn i l m áp còn ngái ng,
Miller v n c m th y kích thích b i thân hình m i m c c a Sigi n m sát bên. Sigi càu nhàu khi Miller xáp l i
gn: «Thôi b qua đi ông già !» Sigi nói, không thèm mơ mắt.
Miller th dài, quay ngườ ại, giơ cao đồ đeo tay lên xem giời nm sp l ng h . Chàng nhy phóc xung
giườ ng, qu n chi ng, mò mếc khăn bông quanh bụ m t i phía cừng bước đi lạ a s, kéo màn ra. Ánh sáng èo
t c a m t tr i tháng II chiếu vô phòng. Miller nheo m t nhìn xu i lống đạ I Steindamrn. Sáng th b y xe c
lưu thông thưa thớt trên đườ ựa đen bóng. Mi ừng bướ ấu nướng nh ller lng th c xung nhà bếp, n c chè tách
phê đầ ẫn Sigi đều tiên trong ngày. C m chàng l u than phin vì chàng ung quá nhiu phê hút
thuốc như ống khói. Nhâm nhi tách phê và phì phà điế ốc đầu thu u tiên trong ngày, Miller ng i tr m
ngâm suy nghĩ xem có chuyên gì thật đặc bit phi làm không ? Không có gì hết. Chc các nht báo s đồng
lo t kéo dài c n Tột tin liên quan đế ng Thng Kennedy hết tu n này sang tu n khác, không có c ột nào dư để
cho chàng khai thác c ; ngoài ra ngày th b y là ngày x ng b t c chuy n gì, ai ai cùng ấu để thương lượ
mãi bàn tính chương trình ngh cui tun. Miller va hoàn tt mt thiên phóng s v s xâm nh p c a
nhng tay giang h Áo, Pháp, Ý «mõ vàng Reeperbahn», khu ăn chơi nhấ , nhưng đết ti Hamburg n
ngày hôm nay chàng v c ti ng ph n g p tên chẫn chưa nhận đượ ền thù lao. Miller nghĩ bụ ải đế nhiệm đã mua
bn quy n thiên phóng s để đòi tiền, nhưng sau lạ ấp gáp gì, trướ ắn cũng gởi thôi, « G c sau h i chi phiếu
cho mình mà » Miller nghĩ thầ ại mình đâu cẩ ắm, vì trong trương mục mình còn hơn năm ngàn m. Vã l n tin l
Đức Kim !
Miller xách máy thu thanh vô bu ng t a l c Sigi, v a t m r a v a nghe tin ắm, đóng cử ại để khỏi đánh thứ
tc. V n nh ng m n v T ng Th ng Kennedy : m ẫu tin liên quan đế t người đàn ông vừ ữ. Đúng y a b bt gi
như Miller dự đoán, bả n tin không loan báo m t m u tin nào khác ngoài v Kennedy.
Ra kh i bu ng t m, Miller xu ng nhà b p ch i u ng. Mang khay phòng ng ế ế cà phê cho hai ngườ ủ, đặt
xung chi c bàn nh , c i áo bôế ng khoác lên người ra, chàng rúc người vào sát Sigi.
i hai, l ch th v n h i n u b c cNăm lên mườ ra Sigi đã trở thành đị ế ế ng ủa nàng không căng phòng
quá độ như vậ ời trườ y. R ng nàng tr thành hun luyn viên thế vn, và t hun luyn viên sang hành ngh
thoát y vũ. Lý do chuyển ngh là tin, vì bây gi Sigi ki ếm ti n g ấp năm lầ lương huấn s n luyn viên.
r t thích c i b y ph ng, Sigi v n hay b n l n, m c c , n u nghe ục trước đám đông khán giả vũ trườ ế
được ai trong đám khán giả bình ph m v những đường cong trên thân hình c a nàng.
l n Sigi gi i thích cho Miller hi u tri ết đơn giả ệp như thề này : « Khi đang trình n ca ngh nghi
din, em không th y gì h ng ng y m c c u có ai nhìn ết đàng sau nhữ ọn đèn màu, do đó không thấ ỡ. Nhưng nế
mà em th c m c em ph i gi i ngh quá ». ấy đượ ặt người đó, thì chắ
« Ngh » thoát y còn cho phép Sigi xu ng ng i chung bàn v i khán gi sau khi trình di n, không ai
cm nàng u u v i h n c m i. Thống rượ ếu đượ rượu độ ampagne, nhưng phảc nht Sigi chu ung Ch i
đượ c rót t mt chai nguyên, vì ngoài vi ng th c mùi v n ng ng t cệc đưởc thưở ủa rượu, Sigi còn được
hưởng mườ ần trăm hoa hồi ph ng trên mi chai Champagne khui ra m i nàng,
« T i nghi p cho b ọn đàn ông !» Sigi thường nói v i Miller.
« Đáng lý phả ột bà cho đỡi cp cho mi anh m ti ».
« T i nghi p cái gì ? » Miller ph ản đố ấy cũng đềi. «Thng nào thng n u dê x m, trác táng, m t n ết hết ».
« H n n đâu đề ỗi như vậy nếu h có một người đàn bà nào đó biết săn sóc và chiều chung h . » Lý lu n
ca Sigi th t v ng ch c.
Miller tình c quen nàng t i Qu i h ng Reeperbahn. Vóc dáng ản Kokett, đặt dướ ầm Cafe Keese trên đườ
ca Si- gi không phù h p v i tu a nàng : cao m c b t và thân hình hòa ổi hai mươi củ ột thướ ảy mươi, khuôn mặ
hp m t cách tuy t di u. Miller ph i công nh n n ếu hình Sigi được đăng vào trang giữa Tp chí Play Boy,
my hoa h u kh a thân c a t p chí này s ng h p thi được coi như những trườ ếu dinh dưỡng. Sau hơn ba
tháng tán t nh, Miller m i thành công m ời Sigi lên giường, sau đó chung sống luôn vi chàng. Vi tinh
th n c i m và đơn giản đố ững điề ất trong đời vi nh u quan trng nh i, Sigi quyết phi chài và ly cho bng
được Miller, nhưng kẹ ếm mùi trướ ết Miller đẹt không biết có nên cho Miller n c hay không ? Nhn bi p trai và
thành công v i d n s ng và làm cho Miller tho i h i nàng. ới đàn bà, Sigi đành phả n đế ải mái đến độ ph ỏi cướ
Hai người đã sống chung trong tinh trng ch đợi như vậy đượ u tháng, tính đế ối tháng mườc sá n cu i mt.
Miller, m t thanh niên phóng khoáng, ph i công nh n Sigi là m ột người đàn bà đảm đương trong công việc
ni tr, m i tình tuy t v ng, Sigi không bao giột ngườ ời trên giườ trc ti p nhế c nh đến cướ ỏi, nhưng i h
có trăm phương ngàn cách đểm cho Miller hi u chuy n...
« Đánh thức người ta kiu gì vậỳ ? » Sigi càu nhàu.
« Còn nhi u cách khác ác li ệt hơn nữa ! » Miller đùa.
« M y gi r i anh ? »
« G i hai gi r i » Miller nói láo, bi t ch c Si- gi s c n nát b p tay n u biần mườ ế ế ết được lúc đó mới hơn
mườ i gi .
« Thôi em ng l ại đi !»
« Cám ơn cưng ! Sao hôm nay tử tế vy ? » Sigi v a nói xong v i l i n m ng ội xoay ngườ tiếp.
nh bMiller, đang đị chân xuống giườ chuông điệ ại reo. Chàng bướng thì n tho c nhanh qua phòng khách.
« Peter ?»
« Ph i! Ai đầu dây đó ?»
« Karl đây !»
Trí óc Miller còn đang rối vò, chưa đị ắn đượnh th c, vì chàng không nhn ra giọng nói bên kia đầu dây.
« Karl nào ?»
« Karl Brandt ! Chuy n gì v y ? B còn say ke h
Miller tỉnh người li. « Karl ! Xin li, m i ng d ậy chưa hoàn hồn. Có chuyn gì v y ?»
«Tên Do Thái t t t. Tôi c n g p b chế ạn để bàn
Miller th c m c không hi ểu đầu đuôi gì hết.
«Tên Do Thái nào ?»
«Thì thằng già đêm hôm qua đó, khu Altona, nhớ ra chưa ?»
i hôm qua thì nh«T ớ, nhưng làm gì biết đuợc lão ta người Do Thái ?.»
«Tôi mu n g p b n bàn chuy n n y,» Brandt n ói « nhưng không thể nói trong điệ ại đượ n tho c. Gp bn
tại đâu được ?»
u óc phóng viên c a Miller ho ng li n. B t cĐầ ạt độ điều không mun tiết l n tho trong điệ i chc
ph i là chuyn th t quan tr ng họng. Trong trườ p Brandt, Miller không th nghi ng m t thanh tra c nh sát
ph i th n tr y nọng như vậ ếu điều hn mu n nói không quan tr ng.
| 1/170

Preview text:

LỜI NÓI ĐẦU
ODESSA không phải là tên của một cảng tại miền Nam Liên Bang Sô Viết, hoặc một thành phố n ỏ h nào dó tại
tiểu bang Texas, Hoa Kỷ, mà là một danh từ riêng gồm sáu mẫu tự cái thoát thai từ sáu tiếng Đức
Organisation Der Ehemaligen SS-Angehorigen, tạm dịch là « Tổ chức cùa những cựu thành viên SS ».
Như phần đông độc giả được biết, Tồ Chức SS là một quân đội trong một quân đội, một quốc gia trong
một quốc gia, do Adolf Hitler thành lập và đặt dưới quyền giám sát của Heinrich Himmler. Tồ chức SS được
giao phó nhiều nhiệm vụ đặc biệt trong thời gian đảng Quốc Xã cai trị n ớ
ư c Đức, từ năm 1933 đến năm
1945. Những nhiệm vụ nầy liên hệ đến an ninh chung của Đức Quốc Xã ; thật vậy, Tô chức ss phải thực thi
tham vọng của Hitler, loại bỏ khỏi Đức Quốc và Lục Địa Âu Châu mọi thành phần mà Hitler xét « Khônq đáng
sống » cũng như « xiềng xích những giống bán nhân », và tiêu diệt loài Do Thái, không kể đàn ông, đàn bà hay trẻ nít.
Để thi hành những nhiệm vụ đặc biệt này, ss đã tổ chức và hành quyết khoảng mười bốn triệu người,
gồm có gần sáu triệu dân Do Thái, năm triệu dân Nga Sô, hai triệu dân Ba Lan, và khoảng nửa triệu người
thuộc đủ mọi sắc dân khác, gồm có gần hai trăm ngàn người không phải là Do Thái, Đức hay Áo. Số người bất
hạnh nầy, vì cơ thể yếu, mắc bệnh thần kinh, hoặc những người được quan niệm là « Kẻ thù của chế độ »,
như những thành phần Dân Xã, Tự do, hoặc ữ
nh ng nhà báo, nhà văn, tu sĩ thường bộc lộ và phát biểu y kiến
ngược lại chánh sách vô nhân dạo của bọn Quốc Xã, và sau này những Sĩ Quan Lục Ọuân bị kết tội bất trung
với nguyên thủ Hitler. Trước khi bị tiêu diệt, Tổ Chức SCHUTZ- STAFFEL1 được gọi tắt là SS và tượng trưng bởi
hai hình sét song song, đã thành công trong việc làm cho tên gọi của nó đúng nghĩa với sự vô nhân dạo tột
cùng, mà không một tổ chức nào từ trước đến nay sánh bằng .
Khi thế chiến thứ hai đến hồi tàn, những thành viên ss cao cầp nhất đoán biết trước sau gì Đức Quốc
cũng sẽ bại trận, và chúng hy vọng sau này sẽ không có ai nhận diện ra chúng ; chúng tìm phương tiện để
biến khỏi nước Đức và tạo lập đời sống mới tại hải ngoại, bỏ lại quê hương cho dân chúng Đức gánh chịu sự
nguyền rủa của toàn thể thế giới. Trong âm mưu này, hàng tấn vàng được chuyển ra ngoài, gửi vô những
trương mục mang ám số bí mật, lý lịch ngụy tạo được chuẩn bị sẵn, và đường dây đào tẩu được triệt để khai
thác. Khi Quân đội Đồng Minh chiếm Đức Quốc, tập thể sát nhân chiên tranh ss đã trốn thoát gần hết.
ODESSA là tổ chức có nhiệm vụ chuẩn bị và thực hiện cuộc đào tẩu cho bọn nầy. Khi đã hoàn tất mỹ mãn
công tác nầy, ODESSA lại nuôi tham vọng lớn lao hơn. Một phần lớn thành viên ss không rời khỏi Đức Quốc
mà chọn cuộc sống trong bóng tối trong thời gian Quân đội Đông Minh còn chiếm đóng nước Đức ; một số
khác sau khi đã bôn ba hải ngoại, có được lý lịch và giấy tờ tùy thân hoàn toàn mới, ra mặt trở về, trong khi
những thành viên nòng cốt ở lại ngoại quốc để điều khiển tổ chức.
ODESSA đề ra năm mục tiêu hoạt động : Phục hồi những cựu nhân viên ss vào đúng chuyên nghiệp trong
Chánh Phủ Liên Bang dược Quân đội Đồng Minh thành lập vào năm 1949 ; Xâm nhập các cơ sở đảng phái
chánh trị; tìm mọi cách gỡ tội cho bất cứ tên sát nhân SS nào không may bị lôi ra Tòa, và bằng mọi cách làm
lệch cán cân công lý tại Tây Đức khi một cựu Kamerad (đồng chí) gặp chuyện rắc rối; gài cựu nhssn viên ss vô
những cơ sở thương mại và kỹ nghệ sao cho hợp thời và hợp lúc để kịp khai thác triệt để « Phép lạ kinh tế »,
tái tạo Đức Quốc từ năm 1945 ; sau hết, tuyên truyền cho dân chúng biết rằng bọn sát nhãn ss chỉ là những
chiên sĩ ái quốc như trăm ngàn chiến sĩ khác, thi hành nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc, và không đáng
nhận lãnh lời nguyên rủa của dư luận và công chúngl
Được yểm trợ mạnh mẽ về tài chánh, ODESSA đã thành công trong nhiệm vụ thực thi năm mục tiêu đề
ra. Thay đổi danh xưng nhiêu lần, ODESSA còn tự phủ nhận sự hiện hữu như một thực thể hùng mạnh : sự
kiện này làm cho phần đông dân chúng Tây Đức tưởng thật. Nhưng không. ODESSA là tổ chức có thật, đang
hiện hữu và bành trướng trên thế giới. Hệ thống quân giai của tập thể « Kameraden» vẫn được áp dụng chặt chẽ.
Dù đã khá thành công trong tất cả năm mục tiêu đã được đề ra, nhưng đôi khi ODESSA cũng gặp phải
một vài thất bại, mà điển hình nhất là biến cố xảy ra vào đầu mùa Xuân năm 1964, khi một kẻ vô danh gởi
1SCHUTZ STAFFEL tc giai cp phòng v, là lực lượng cnh sát quân s hóa của Đức Quc Xã. Thành lập năm 1925 để
đặc trách an ninh cho Hitler, nhưng sau này được giao phó canh gi nhng tri tp trung và giám sát nhng lãnh th
chi
ếm đoạt được.
một bưu kiện đến Bộ Tư Pháp Tây Đức tại Bonn. Đối với một sõ giới chức có quyền hiểu biết rộng rãi, món
quà quý giá của kẻ vô danh gởi tặng trở thành một yếu tố trọng yếu trong toàn bộ HỒ SƠ ODESSA.
LI NHÀ XUT BN
Như trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Frederick Forsyth, nhiều nhân vật trong « Hồ sơ ODESSA » là
những người có thật trên đời mà chúng tôi biết chắc thể nào độc giả cũng nhận biết ra ngay một số. Một vài
nhân vật khác sẽ làm cho độc giả thắc mắc, tự hỏi không biết họ có thật hay chỉ là sản phẩm tưởng tượng
của Tác Giả. Chúng tôi không muốn soi sáng vấn đề thêm nữa, vì theo thiển kiến của chúng tôi, gút mắc của
«Hồ sơ ODESSA» ở chỗ làm cho độc giả phải tự tìm hiểu và dự đoán tầm mức xác thực của câu chuyện .
Tuy nhiên, chúng tôi có bổn phận phải xác nhận với độc giả rằng quá trình hoạt động của cựu Đại úy
Eduard Roschmann, thuộc tổ chức ss, Chỉ Huy Trưởng Trại Tập Trung Riga từ năm 1941 đến năm 1944, từ lúc
chào đời vào năm 1908 tại Graz, ÁO QUỐC, cho đến ngày phải tự ý lưu đày tại NAM MỸ, hoàn toàn xác thực
và đã được chúng tôi phối kiểm với Văn Khố của Tổ Chức ss và với hồ sơ lưu của Nhà Cầm Quyền Tây Đức. New York CHƯƠNG I TEL AVIV
Mặt trời bắt đầu ló dạng khi phân tách viên tình báo hoàn tất bản báo cáo. Hắn duỗi vai cho bớt mỏi, châm
điêu thuốc, và đọc lại đoạn chót của bản báo cáo. Ngay lúc đó, người được đề cập đến trong bản báo cáo
đang đứng cầu nguyện tại một nơi cách Tel Aviv năm mươi dặm về phía Đông trong khu Yad Vashem ; nhưng
phân tách viên tình báo không biết được điểu này. Hắn cũng không biết nguồn gốc của những tin tức đến tay
hắn. Hắn không cần biết vì nhiệm vụ của hắn không phải là dự đoán những điều trên mà là đảm bảo được
tầm mức xác thực và giá trị khi phân tách nội dung của những tin tức;
Nhiều dữ kiện khác phù hợp với lời khai của đương sự liên quan đến địa điểm của cơ xưởng. Nếu áp
dụng phương pháp thích nghi, chắc chắn Chánh Phủ Tây Đức sẽ ra lệnh dẹp bỏ cơ xưởng này.
Đề nghị : Chuyển báo những dữ kiện cụ thể nhất đến tay nhà cầm quyền nêu trên. Hành động này sẽ tạo
ấn tượng tốt đối với giới lãnh đạo Bonn và sẽ đảm bảo sự liên tục trong việc thực thi Thương Uớc Waldorf.
Ý kiến : Rất có thể Dự Án Vulkan đang được xếp. Do đó các hỏa tiễn Ai Cập sẽ không bao giờ rời khỏi dàn phóng.
Nhận định : Nếu chiến tranh bùng nổ giữa Do Thái và Ai Cập (khó tránh khỏi) thì đó sẽ là một cuộc chiến
của những vũ khí quy ước, thắng bởi vũ khí quy ước, tức Do Thái.
Phân tách viên tỉnh báo đặt bút ký tên dưới hàng ngày tháng : 23 tháng 2 năm 1964 Một bưu tín viên sẽ
khẩn mang báo cáo này vô phủ Thủ Tướng.
Hình như ai cũng nhớ rõ mình đang làm gì vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 ngay sau khi được hung tin
Tổng Thống Kennedy qua đời. Tổng Thống Kennedy bị bắn lúc hai mươi giờ ba mươi trưa, giờ Dallas, và bản
tin đầu tiên truyền đi tin Tồng Thống bị ám sát chết được loan báo lúc mười ba giờ ba mươi, cũng theo giờ
Dallas. Lúc đó là mười bốn giờ ba mươi tại New York, mười chín giờ ba mươi tại London, và hai mươi giờ ba
mươi tại Humburg. Sau khi thăm bà mẹ già tại nhà trong khu Osdorf, ngoại ô Hamburg, Peter Miller lái xe
quay về trung tâm thành phố. Peter thường đến thăm mẹ vào tối thứ sáu, một phần để xem mẹ có cần điều
gì không, và hơn thế nữa, vì cảm thấy có bổn phận phải đến thăm mẹ, ít nhất mỗi tuần một lần. Nếu bà mẹ
có điện thoại, Peter sẽ dùng điện thoại để thăm hỏi. Nhưng bà nhứt quyết không chịu gắn điện thoại, cốt ý
để Miller lái xe đến thăm.
Như thường lệ Peter mở máy thu thanh trên xe. Vào lúc hai mươi giờ ba mươi, khi chiếc Jaguar đang
ngon trớn lăn bánh trên đại lộ Osdorf, và Miller đang thường thức chương trình nhạc do đài Northwest
German phụ trách, tiếng nhạc bỗng im bặt, nhường cho giọng nói khàn khàn và trịnh trọng của xướng ngôn viên.
« Chú ý ! Chú ý ! Đây là bản tin quan trọng. Tổng Thống Kennedy vừa qua đời. Tôi xin lập lại, Tổng Thống Kennedy vừa qua đời. »
Chân Miller tự động rà lên thắng và đôi tay dán chặt trên tay lái, lách chiếc Jaguar cặp sát lề phải.
Chương trình nhạc êm dịu được thay thế một cách đột ngột bằng bản (Tang hành khúc) ngắt khoảng bởi
những mẩu tin vụn vặt bổ túc thêm tin Tổng thống trẻ tuổi của Hoa Kỳ vừa qua đời. Đoàn xe mui trần lượn
qua đường phố Dallas Tay súng sát nhân núp sẵn bên cửa sổ của Thư Viện. Không nghe nhắc đến việc bắt giữ ai cả.
Tài xế của chiếc xe đậu trước Miller bước xuống xe và đi về phía chàng. Hắn đến phía cửa bên trái, giật
mình vì chỗ ngồi của tài xế bên phải, đi vòng lui lại quanh chiếc Jaguar. Miller quay cửa kiếng xuống .
« Ông bạn có nghe không ? » hắn hỏi, cúi gập người xuống. « Có ! » Miller đáp.
« Thật ngoài sức tưởng tướng hắn nói tiếp. «Chắc bọn Cộng Sản lại nhúng tay vô nữa chớ gì ? » « Tôi không biết ».
« Nếu quả thật chính bọn chúng xía vô vụ này, thì chắc chắn không tránh khỏi một cuộc đại chiến thử ba ! »
« Có thể lắm » Miller trả lời. Chàng mong sao cho tên này đi khuất mắt mình cho rồi. Là một phóng viên
báo chí, Miller thừa sức tưởng tượng cơn khủng hoảng đang tạt qua những tòa soạn trong nước : nào là
triệu hồi toàn thể nhân viên trong ban biên tập trở lại tòa soạn để kịp cho ra số báo đặc biệt phát hành vào
sáng ngày hôm sau, nào là soạn thảo tiểu sử, nào lục lọi moi tìm hàng ngàn câu nói lịch sử của vị Tổng Thống
quá cố, và tất cả những nỗ lực này chỉ để khai thác một người với chiềc sọ vỡ toang, chết tại một thành phố tại Tiểu bang Texas.
Miller ước muốn có mặt tại tòa soạn nhật báo ngay lập tức, nhưng ba năm trước, vì muốn tạo cho sự
nghiệp mình một hướng đi khác biệt, chàng đã trở thành một phóng viên độc lập, chuyên điều tra những vụ
án mạng và « thế giới đen». Má chàng không mấy thích công việc của đứa con trai độc nhất, vì Miller phải
giao thiệp với những « kẻ xấu xa», và dù chàng có biện minh cách nào đi nữa, bà cũng không bao giờ thay đổi lập trường .
Trong lúc những bản tin liên quan đến cái chết của Kennedy dồn dập truyền đi qua hệ thống truyền
thanh, trí óc của Miller chạy đua với thời gian, cố tìm cho được một « góc cạnh » khác có thể khai thác được
để làm một phóng sự liên quan đến biến cố quan trọng này. Chắc chắn các ban biên tập sẽ khai thác phản ứng của Chánh p ủ h Bonn, và kỷ n ệ
i m cuộc công du chánh thức của Tổng Thống Kennedy qua Berlin thế nào
cũng sẽ được nhắc nhở đến.
Miller ngã người ra ghế, châm điếu thuốc Roth Handl, một loại thuốc lá nâu, không đầu lọc, có hương vị
khét. Thêm một điều má chàng không thấy hài lòng.
Thử nghĩ trên đời này chuyện gì sẽ xảy ra nếu... Hoặc nếu không ? Thường thì là một việc làm vô ích,
không đi đến đâu, nhưng thử tường tượng nếu đêm đó Miller không mở máy thu thanh, chàng sẽ không cho
xe dừng lại bên lề đường trong hơn nửa giờ, chàng sẽ không thấy chiếc xe cứu thương, hoặc sẽ không bao
giờ nghe nói đến Salomon Tauber hay Eduard Roschmann, và bốn mươi tháng sau, có thể Cộng Hòa Israel sẽ
không còn hiện hữu nữa trên quả đất này.
Miller hút hết điểu thuốc, quay cửa kiếng xuống, búng mẫu thuốc tàn ra ngoài. Chỉ cần ấn một chiếc
núm là bộ máy 3 8L đặt dưới ca pô dài thườn thượt của chiếc Jaguar XK 150S rống lên trong một thoáng rồi
trở lại nhịp điệu bình thường như một con thú dữ muốn xổ lồng. Miller bật hai đèn pha, liếc nhìn vô kiếng
chiếu hậu, cho xe vọt nhanh chen lấn trong chiều lưu thông rộn rịp của đại lộ Osdorf.
Khi đến ngã tư Stresemannstrasse, đèn lưu thông bật đỏ. Tiếng còi hụ của một xe cứu thương rú lên sau
lưng vượt qua mặt Miller, rẽ qua phải trực chỉ Daimlerstrasse. Chàng phản ứng thật nhanh, phóng chiếc
Jaguar theo sau. Có thể không có gì hết, nhưng ai biết ? Xe cứu thương đồng nghĩa với rắc rối, có nghĩa là
Miller sẽ có đề tài nóng bỏng để khai thác, nhất là khi chàng là người đầu tiên có mặt tại chỗ. Có thể đó chỉ là
một tai nạn lưu thông rùng rợn trên xa lộ, hoặc một đám cháy lớn với hàng chục trẻ em kẹt trong đó. Bất cứ
chuyện gì cũng có thể xảy đến. Miller luôn luôn cất trong xe một chiếc máy ảnh Yashica nhỏ gọn với bộ phận đèn, sẵn s
àng đi thu nhặt chứng tích, vì không ai có thể dự đoán những gì sẽ xảy ra trước mắt mình.
Miller biết một anh chàng đứng đợi đào vào ngày 6 tháng 2 năm 1956 tại phi trường Munich, và chứng
kiến cảnh chiếc phi cơ chở đội danh cầu Manchester United nổ tung cách chỗ anh ta đứng độ vài trăm
thước. Anh chàng này không ả
ph i là một nhiếp ảnh gia nhà nghề, nhưng nhờ sẵn mang theo máy chụp hình
để tặng cho cô đào vài kiểu, đã vô tình bấm được những bức hình độc đáo nhất của tai nạn phi cơ thảm khốc
này. Các tạp chí và nhật báo trong và ngoài nước đã thi nhau bỏ những món tiền khổng lồ để mua cho bằng
được cuộn phim của anh ta.
Chiếc xe cứu thương len lỏi vô những khúc đường chật hẹp của khu Altona, chạy về phía bờ sông. Tài xế
chắc phái già tay lái lắm, vì mặc dù hệ thống ống nhún rất cứng rắn và sức vọt của chiếc Jaguar rất dũng
mãnh, Miller vẫn phải khó nhọc lắm mới giữ được hai bánh xe sau khỏi trượt trên con đường đá trơn ướt.
Chạy quanh co một lúc, chiếc xe cứu thương dừng lại trước một dãy phố tồi tàn, đổ nát. Một viên cảnh sát
đang đứng trước đó, cố gắng đuổi đám người hiếu kỳ càng lúc càng đông tụ tập quanh xe cứu thương. Tài xế
và y tá nhảy phóc xuống, đi vòng ra sau kéo chiếc băng ca ra. Sau một đôi lời với viên cảnh sát, cả hai hối hả
chạy thẳng vô dãy phố, leo lên lầu. Miller cho xe đậu tại một khúc quanh gần đó. Chàng đảo mắt nhìn quanh
quất. Không có dấu hiệu nào cho thấy tai nạn này là một đám cháy có trẻ nít mắc kẹt trong đó. Có lẽ là một
người đang lên cơn đau tim. Chàng bước xuống xe, lững thững bước về phía đám đông mà viên cảnh sát
đang cố sức dồn lui về phía sau.
« Xếp ơi ! Cho tôi lên trên kia xem một chút ! » Miller nói lớn cho viên cảnh sát nghe.
«Còn lâu ! Không có chuyện gì liên quan đến ông bạn hết !» Viên cảnh sát đáp.
«Nhà báo mà !» Miller nói, chìa tầm thẻ phóng viên ra.
«Còn tôi đây là cảnh sát», Viên trung sĩ Cảnh Sát nói vặn lại.
«Không ai được phép lên trên kia hết vì cầu thang chật hẹp, vả lại mấy tay cứu thương cũng sắp trở
xuống, mặc sức mà xem.»
Vóc dáng của viên trung sĩ cảnh sát thật to lớn ; hắn cao gần một thước chín, và nhìn từ xa hẳn trông
như một tay đô vật trong chiếc áo mưa rộng phùng phình, và đôi tay dang ra như tay vượn dề cản đám đông
không cho tràn vô dãy phố.
«Chuyện gì vậy xếp ?» Miller thắc mắc hỏi.
«Nói không được. Muốn biết thì lát nữa lại Ty mà hỏi».
Một người đàn ông bận thường phục bước xuống cầu thang và xuất hiện trên lề đường. Chiếc đèn đỏ
gắn trên mui xe Volkswagen của Cản
h sát quét ngang mặt người này, và Miller nhận ra hắn ngay. Hắn cùng
Miller theo học trường Hamburg Central High. Giờ đây hắn trở thành Thanh Tra Cảnh Sát tại Hamburg, đặc trách khu vực Altona. «Karl !»
Viên thanh tra cảnh sát quay ngưòi lại khi nghe gọi tên mình. Hắn quan sát từng mặt một trong đám
đông chen chân sau lưng viên trung sĩ. Hắn nhận ra Miller, vẫy tay chào. Gương mặt hắn nhăn nhó, cổ vẻ
mệt mõi. Hẳn gật đầu về phía viên trung sĩ ra hiệu cho phép Miller đến gần hẳn.
«Thôi được, Trung Sĩ. Cho hắn vô, coi vậy chớ hắn vô hại !»
Viên trung sĩ cảnh sát hạ cánh tay xuống và Miller lách mình qua.
Chàng bắt tay Karl Brandl.
«Gió nào đưa bạn tời đây ?» « ô
T i theo sau xe cứu thương».
«Mầy thẳng nhà báo như, nhau hết. Hễ thấy chuyện gì lạ một chút là theo sát ngay như bầy kên kên. Sao
dạo này làm ăn phát đạt không ?»
«Thưòng thôi ! Phóng viên tự do, khỏe làm mệt nghỉ, không bị ai ràng buộc.»
«Xem bạn phát tài và phát tướng quá. Cầm tờ tạp chí nào lên cùng thấy tên Peter Miller».
«Có gì đâu 1 Viết lách bậy bạ kiếm cơm vậy thôi ! Nghe vụ Kennedy chưa ?»
«Rồi! Kinh thật. Bọn cớm Mỹ chắc đang càn quét Dallas. Rất may không xảy ra trong khu vực của tôi».
Miller liếc nhìn về phía hành lang u tối của dãy phố được dùng làm nhà trọ. Một ngọn đèn chiếu sáng hai
vách tường loang lổ, một cách yếu ót.
«Tự từ bằng hơi đốt. Hàng xóm đánh mùi và gọi chúng tôi đến. May mà không có có ai bật diêm hay đốt
lửa. Nếu không thì cả khu này đểu bị bà hỏa nuốt hết !»
«Tài tử xi nê tự từ hả ?» Miller hỏi .
«Dĩ nhiên. Họ luôn luôn chọn những ổ chuột như thế này để xây nhà cất phố. Đùa vừa thôi ! Chỉ là một
cụ già thôi. Trông cụ ta như đã chết cách đây vài chục năm rồi.»
«Dù giờ này cụ ta có ở đâu đi nữa, thì chắc chắn cũng khá hơn chỗ này !»
Brandt cười thật chua chát. Hai nhân viên cứu thương thận trọng bước xuống từng nấc thang một,
khiêng cái xác không hồn tiến ra đường.
Brandt ra lệnh cho đám đòng : «Tránh chỗ cho họ đi !»
Viên Trung sĩ cảnh sát lập lại câu trên và xô đẩy đám đông lùi về phía sau. Hai nhân viên cửu thương đều
bước tiến về chiếc xe Mercedes. Brandt đi theo sau với Miller nối gót sau lưng. Không phải Miller chù ý muốn
nhln khuôn mặt người chết, mà chàng chỉ muốn đi theo Brandt thôi.
Khi hai nhân viên cứu thương đến sát cửa xe đang mở, người đi trước lùi người bước lên xe, hai tay nắm
chặt lấy cáng kéo lui về phía trong xe để đặt lên giá. Brandt lên tiếng : «Khoan !» và tiến sát đ n ế gần chiếc
cáng, kéo một góc chăn che mặt kẻ quá cố qua một bên. «Chỉ là thủ tục thôi. Tôi phải báo cáo rõ ràng với
thượng cấp là tôi đã đi theo xác chết đến tận xe cứu thương và về nhà xác».
Đèn bên trong xe cứu thương đủ sáng để Miller thoáng nhìn thầy gương mặt của cụ già mới qua đời. Ấn
tượng đầu tiên và duy nhất của Miller là chưa bao giờ trong đời phóng viên, chàng có dịp thấy một ngưòi
nào xấu xí hơn cụ già nầy. Dù cho «nhan sắc» có bị ảnh hưởng của hơi đốt đi nữa, cụ này lúc sinh tiền chắc
không thuộc «típ» đẹp trai. Khuôn mặt gầy đét, hai tròng mắt sâu húp, cặp má móm xọm, và một vài cụm
tóc trên đầu làm cho Miller tường tượng đến những chiếc sọ người thu nhỏ của các bộ lạc man rợ Amazon.
Để tăng thêm về xấu xí, khuôn mặt của lão còn có thêm hai chiếc sẹo dài chạy từ màng tang xuống mép miệng.
Quan sát xác chết trong giây phút, Brandt kéo chăn l i
ạ và gật đầu ra hiệu cho nhân viên cứu thương
đứng sau lưng. Brandt lách người qua một bên cho nhân viên đẩy cáng vô xe. Hắn đóng cửa lại và đi vòng ra
phía trước. Chiếc xe rú ga vọt mạnh, nhấn còi inh ỏi. Đám đông giải tán dần theo giọng nói càu nhàu của viên
trung sĩ : «Hễt có gì coi rồi. Ai về nhà nầy ! Bộ vô gia cư hết cả lũ sao !»
Miller nhìn Brandt lắc đầu : «Tội thật !»
«Phải Nhưng bạn còn đáng thương hơn lão ta nữa, vì không có gì để bạn khai thác cho mấy tờ lá cải của bạn !»
Miller thất vọng ra mặt. «Đúng, không có đề tài nào hết. Như bạn đã từng nói, đêm nào lại không có
người chết và có: có ai đếm xỉa đến, nhất là đêm nay, đêm của Kennedy.»
Brandt cười khoái chí. «Bọn phóng viên đểu giả cả một lũ.»
«Đểu giả sao ! Dân chúng tò mò, muốn biết về cái chết của Kennedy, bọn tôi viết, họ mua báo đọc. Thế thôi».
«Thôi, thôi ! Không cãi lý với bạn đâu. Tôi phải về Ty, chào bạn !»
Hai người bạn học bắt tay nhau rối đường ai nầy đi. Miller quay xe lại chọn con đường chánh đi về trung
tâm thành phố. Hai mươi phút sau chàng cho xe vô ga ra gần công trường Hansa, cách phòng trọ hơn một trăm thước.
Mùa Đông mà gởi xe vô ga ra ngầm dưới đầt thật là tốn kém, nhưng đối với Miller đó là một số ít tiền
hoang phí mà chàng chấp nhận, Chàng rất thích căn phòng mướn đắt giá vì nó nằm tít trên tầng chót cao ốc,
và vị thế cao ráo cho phép chàng thưởng ngoạn sự nhộn nhịp của Đại lộ Steindamm dưới chân minh. Chàng
không mấy quan tâm đến vấn đề ăn diện. Hai mươi chín tuổi cao một thước tám, tóc quăn màu nâu, cặp mắt
hạt dẻ thật lẵng, đủ làm cho mấy bà xồn xồn và mấy cô mới lớn mê mệt, do đó quần áo cũng bằng thửa.
Những đam mê của Miller là xe thể thao, săn tin và Sigrid. Đôi khi tự vấn lòng mình, chàng cảm thấy xấu
hổ. Vì nếu phải chọn lựa giữa Sigrid và chiếc Jaguar, tin chắc chắn Sigrid sẽ phải đi tìm tình yêu nơi những
người đàn ông khác. Miller đứng ngắm chiếc Jaguar không chán. Bình thường thì một phóng viên trẻ, độc
lập, ít khi nào dám mua một chiếc Jaguar XK 150S. Đồ phụ tùng khó kiếm tại Hamburg, nhất là phụ tùng dành
cho kiểu XK 150S không còn được hãng sản xuất nữa. Ngay sau khi mua xe về, Miller đã cho sơn hai l n ằ chỉ
vàng hai bên hông xe. Vì được chế tạo tại Coventry bên Anh, và không thuộc loại xe dành để xuất cảng, nên tay lái nằm bên mặt.
Đến giờ phút này, Miller cũng không biết tại sao mình lại quá may man có đủ tiền mua nó. Vào mùa hè
năm đó, khi ngồi chờ hớt tóc, chàng đọc qua một tạp chí thời trang, ít khi nào Miller chú ý đến những chuyện
tào lao liên quan đến đào kép hát bóng hay ca nhạc, nhưng lúc đó chàng không có gì khác hơn để làm trong
khi chờ đợi. Trong tạp chí có bài đề cập đến bốn chàng ca sĩ tóc dài đang làm mưa làm gió trong làng nhạc
trẻ. Bức hình chụp bốn chàng ca sĩ làm cho Miller để ý ngay đến ba khuôn mặt quen quen, hình như đã gặp qua một lần thì phải .
Hai bản nhạc đưa bốn chàng này lên đài danh vọng « Please, Please me» và « Love me do » không gợi ý
gì nhưng ba gương mặt quen quen cứ ám ảnh Miller suốt hai ngày liền. Sau đó chàng mói chọt nhớ ra. Năm
1962, ba chàng này đã phụ diễn tân nhạc cho một hội quán nhỏ trong khu Reeperbahn. Miller mất thêm một
ngày nữa để nhớ ra tên hội quán này, vì có lần chàng đã đến đó để gặp một số « đầu mối » có tin liên quan
đến «băng» du đảng Sankt Pauli. Hội quán Star. Miller liền đến đó, lục lọi ữ
nh ng chương trinh phụ diễn tân
nhạc trong năm 1962, và tìm ra ba chàng này. Lúc đó ban nhạc của họ gồm năm người, trong số đó có ba
người bây giờ trở thành thần tượng, Pete Best và Stuart Sutliffe.
Từ hộp đêm Star, chàng đến liên lạc ngay với nhiếp ảnh gia đã chụp ảnh quảng cáo cho ban nhạc này,
với ông bầu Bert Kampfert, và đã mua hết bản quyền của những tấm ảnh độc đáo. Bài phóng sự của chàng
nhan để «Hamburg khám phá ban nhạc Beatles trước thế giới! » được hầu hết tạp chí trong và ngoài nước
dành nhau khai thác. Nhờ đó Miller mới dư tiền mua chiếc Jaguar do một Sĩ Quan Tùy viên Quân Lực Hoàng
gia Anh nhượng lại. Chàng cũng bỏ ra một ít tiền để mua vài đĩa nhạc của ban Beatles, có lẽ để đền ơn họ,
nhưng về đến nhà chỉ có Sigi nghe thôi.
Miller rời ga ra đi bộ về phòng. Lúc đó quá nửa đêm, và mặc dù đã ăn một bữa cơm tối no nê tại nhà
mẹ, Miller vẫn cảm thấy đói bụng. Lên đến phòng, chàng làm một đĩa chả trứng, vừa ăn vừa nghe bản tin
cuối cùng. Mọi tin tức đều dồn về cái chết của vị lãnh đạo thế giới tự do : Cảnh sát Liên bang đang bù đầu
truy lùng hung thủ. Xướng ngôn viên bình luận về mối thiên cảm của vị cố Tổng Thống đối với Tây Đức, cuộc
viếng thăm Bá Linh vào mùa hè năm trước, và câu nói lịch sử : « Ich bin ein Berti- ner !» — Tôi là dân Bá Linh.
Bản tin cuối cùng cũng cho phát thanh l i
ạ những bài truy điệu của Thị trưởng Tây Bá Linh, Willy Brandt, với
giọng nói trầm buồn, nghẹn ngào vì xúc động, và những lời ca ngợi công đức vị Tổng thống trẻ của Thủ
Tướng Ludwig Erhard và cựu Thủ Tướng Konrad Adenauer, từ nhiệm vào ngày 15 tháng 10 trước đó.
Miller tắt máy thu thanh leo lên giường. Chàng mong Sigi có mặt trong phòng ngay lúc đó, vì chàng vẫn
thích ôm nàng vô lòng mỗi khi cảm thấy bải hoải trong người. Nhưng vũ trường nơi Sigi biểu diễn thoát y mỗi
đêm tới bốn giờ sáng mới đóng cửa, và ữ
nh ng đêm thứ sáu còn mở cho tới sáng, vì du khách nghỉ cuối tuần
thường kéo xuống khu Reeperbahn, sẵn sàng bỏ tiền uống rượu Champagne với giá cắt cổ để được xem tận
mắt những cô gái với bộ ngực đồ sộ và quần áo cụt cỡn múa may quay cuồng trong những vũ điệu khiêu
dâm. Sigi là một trong số rất ít cô gái hội đủ những yếu tố này.
Miller mồi thêm điếu thuốc thứ hai, rít vội vài hơi và lăn ra ngủ một mình trên chiếc giường rộng thênh
thang vào lúc hai giờ kém mười lăm sáng, khuôn mặt dị hình của lão già quá cố chập chờn ẩn hiện trong mộng tưởng.
Trong lúc Peter Miller ngồi ăn chả trứng trong căn phòng mướn tại Hamburg, năm người đàn ông đang
ngồi nhậu nhẹt thân mật và cởi mở trong phòng khách của một biệt thự tiếp giáp với Hội Kỵ mã nằm trong
khu vực Kim Tự Tháp ở ngoại ô Cairo. Lúc đó là một giờ sáng. Năm người này đã dùng bữa cơm tối thật sang
trọng và hạp khẩu, và ai nấy đều tươi vui ra mặt ngay sau khi bản tin đầu tiên do hệ thống truyền thanh Ai
Cập loan báo Tổng Thống Kennedy đã qua đời. Ba người trong số này mang quốc tịch Đức, hai người còn lại
là công dân Ai Cập. Bà vợ ông chủ biệt thự và Hội Trưởng Hội Kỵ Mã, nơi gặp mặt của giới thượng lưu Ai Cập
và Phái Bộ Đức, đã bỏ lên phòng cho năm người này được tự do trò chuyện. Ngồi ở ghế bành da kê sát cửa
sổ là Hans Appler, Cựu chuyên viên nghiên cứu Do Thái Vụ trong Tổng Bộ Tuyên Truyền của Josef Goebbels.
Lập nghiệp tặi Ai Cập ngay khi thế Chiến thứ hai chấm dứt và được Odessa móc nối, Applet đã nhập tịch Ai
Cập, đổi tên thành Salah Chaffar, và cộng tác với Chánh phủ trong cương vị chuyên viên Do Thái Vụ cho Bộ
Hướng dẫn và Nghiên cứu. Ngồi bên trái Chaffar, là một cựu chuyên viên khác trong Tổng Bộ Tuyên Truyền
của Goebbels, Ludwig Heiden, hiện cũng phục vụ tại một nhiệm sở thuộc Bộ Hướng dẫn Nghiên cứu Ai Cập.
Heiden đã bỏ Thiên Chúa Giáo để theo Hồi Giáo, đã từng hành hương sang Mecca, và được mọi người biết
qua tên mới El Hadj. Để tỏ ra mình là một tín đồ trung kiên của Hồi Giáo, tay hắn vẫn cầm một ly nước cam
trong khi bốn người kia dùng rượu mạnh. Chaffar và El Hadj đều là những tên Nazi cuồng tín.
Hai công dân Ai Cập là Đại Tá Shamseddin Badran, phụ tá tín cẩn của Thống Chế Abdel Hakim Amer, sau
này trở. thành Phó Tổng Thống trước khi bị kết tội phản nghịch sau cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967.
Người Ai Cập còn lại là Đại Tá All Samir, Trùm Moukíiabarat, Cơ quan Mật Vụ Tình Báo Ai Cập .
Lúc dùng cơm tối còn có một thực khách thứ sáu nữa, và người đó là vị khách danh dự. Ông đã rời bàn
tiệc ngay khi được tin Tồng Thống Kennedy bị ám sát. Vị khách quý đó là Anwar El Sadat, Chủ Tịch Quốc Hội
Ai Cập, cộng tác viên thân cận, sau này trở thành người kế vị của Nasser. Hans Appier nâng ly rượu : « Vậy là
rồi đời tên mến mộ Do Thái. Nào, mời quý bạn cạn ly mừng biến cố này ».
« Nhưng ly chúng tôi cạn rồi ! » Đại Tá Samir phản đối .
Chủ nhân vọi vã châm rượu Scotch. Sự kiện Appler nhắc nhờ đến Tổng Thống Kennedy như là một người
mến mộ dân tộc Do Thái không làm cho bốn người còn lại ngạc nhiên. Vào ngày 14 tháng 3 năm 1960, khi
Dwight Eisenhower còn làm Tổng Thống Hoa Kỳ, Thủ Tướng Do Thái David Ben Gurion và Thủ Tướng Tây Đức
Konrad Adenauer đã bí mật gặp mặt tại khách sạn Waldorf Astoria, New York, một cuộc họp mà mười năm
trước đây không thể nào thực hiện được. Kết quả thu đạt được trong buổi họp này thoạt có vẻ vô lý, và
chính đó là lý do mà Nasser khăng khăng không chịu tin vào những bản báo cáo mật do Odessa và
Moukhabarat đệ nạp. Hai nhà lãnh đạo Do Thái và Đức Quốc đã thông qua và ký kết một hiệp ước, trong đó
có khoản quy định Đức cho Do Thái vay vô điều kiên năm mươi triệu Mỹ Kim một năm. Tuy nhiên, Ben
Gurion đã nhận biết được có tiền là một chuyện còn dùng tiền vay mượn được để có một nguồn cung cấp vũ
khí một cách an toàn là một chuyện khác, nan giải. Do đó sáu tháng sau, một hiệp ước thứ hai ra đời, được
nhị vị Tổng Trưởng Do Thái Shỉmon Peres và Tổng Trưởng Tây Đức Franz Josef Strauss duyệt ký. Những điều
khoản trong hiệp ước thứ hai này — gọi đúng hơn là thương ước — cho phép Do Thái sử dụng tiền do Tây
Đức cho vay để mua khí giới tại Tây Đức. Đoán biết trước hình thái phức tạp của thương ước này, Adenauer
đã trì hoãn việc thực thi cho đến khi gặp được vị Tổng Thống tân cừ John Fitzgerald Kennedy tại New York
năm 1961. Kennedy làm áp lực, nhưng lại không muốn Hoa Kỳ trực tiếp gởi khí giới đến Do Thái, mà phải
bằng mọi giá Do Thái có được vũ khí cần thiết. Thật là cả một sự mâu thuẫn. Nhu cầu của Do Thái là phi cơ
oanh tạc, vận tải, đại bác 105 ly, súng cối, thiết vận xa và thiết giáp xa. Adenauer nhượng bộ và Thương Ước
Strauss-Peres được thi hành. Tây Đức lúc đó có sẵn những món hàng Do Thái cần, phần lớn mang nhãn hiệu
Hoa Kỳ, được cường quốc này viện trợ để bù đắp kinh phí đài thọ quân đội Hoa Kỳ tại Tây Đức đúng theo
tinh thần của Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, hoặc được chế tạo ngay tại Tây Đức theo đồ án của Hoa Kỷ,
Những thiết giáp xa đẩu tiên được chở tỏi Hải Cảng Haifa vào cuối tháng 6 năm 1963. Thật khó mà giữ được
điều gì bí mật mãi mãi, vì quá nhiều người biết đến nó. Odessa đã phanh ra nội vụ vào cuối năm 1962 và
khẩn báo cho Ai Cập biết, qua trung gian của nhân viên chìm do Odessa gài tại Cairo. Nhưng cuối năm 1963,
sự việc bắt đầu thay đổi : ngày 15 tháng 10, Konrad Adenauer, con cáo già của Chánh phủ Bonn, vị Thủ
Tướng «sắt đá» từ nhiệm nhường ghế lại cho Ludwig Erhard, cha đẻ «Phép lạ kinh tế», nhưng là một nhà
ngoại giao rụt rè, thiếu lập trường.
Ngay khi Adenauer còn nắm ghế Thủ Tướng, một thiểu số trong nội các của ông đã chống đối, làm áp lực đòi xé bỏ h ệ
i p ước. Nhưng vị Thủ Tướng cáo già đã khóa miệng họ lại bằng một vài lý luận vững chắc, và sự
kiện này đủ chứng tỏ cho thế giới thấy uy quyền của ông.
Erhard thì khác. Mới ngồi ghế Thủ Tướng chưa nóng đít đã bị báo chí tặng cho mỹ từ « Sư tử sao su ».
Nhóm chống hiệp ước Waldorf dưới thời Adenauer đo Bộ Ngoại Giao giật dây trổ mồi làm áp lực «Sư tử cao
su». Erhard có mòi thay đổi lập trường, nhưng sau lưng ông còn có sự cương quyết của vị lãnh đạo thế giới
tự do, nhất định đảm bảo việc thi hành Thương ước.
Nhưng giờ đây ông không còn nữa. Dầu hỏi to lớn là liệu tân Tổng Thống Johnson có thay đổi chánh sách
đối với Tây Đức, và ngưng tạo áp lực với Thủ Tướng của Chánh phủ Bonn không ? Gia chủ của ngôi biệt thự
xây cất ở ngoại ô Cairo rót rượu vô ly mình. Hắn là Wolfgang Lutz, chào đời năm 1921, cựu Thiếu Tá Lục
Quân Đức, kẻ thù không đội trời chung của Do Thái, di cư sang Ai Cập năm 1961. Tóc vàng, mắt xanh, gương
mặt sắt đá, Lutz là một trong những bộ mặt có ảnh hường nhất đối với sinh hoạt chánh trị Ai Cập, và trong
tập thể dân Đức tỵ nạn .
Hắn quay mặt về phía bốn người khách, cười thật tươi. Nếu có gi dối trá trong nụ cười thì cũng không có
ai có đủ tài trí để khám phá được. Nhưng nụ cười của hắn quả thật xảo trá. Hắn gốc Do thái Mannheim, di cư
sang Palestine năm 1933, lúc mới được mười hai tuổi
Tên thật là Ze’ev và hiện mang cấp bậc Thiếu Tá trong Quân Đội Do Thái. Hắn cũng là điệp viên số một
trong tổ tình báo Do Thái tại Ai Cập. Ngày 28 tháng 2 năm 1965, sau khi Cảnh Sát Ai Cập bất thần đột nhập
biệt thự và khám phá một máy phát giấu trong buồng tắm, Lutz đã bị câu lưu. Được đem ra xét xử ngày 26
tháng 6 năm 1965, Lutz bị kêu án khổ sai chung thân, nhưng được phóng thích vào năm 1967 trong cuộc trao
đổi tù binh với Ai Cập. Lutz và gia đình chánh thức đặt chân xuống miền đất hứa tại phi trường Lod ngày 4 tháng 2 nam 1968.
Những gì sau này xảy đến cho Lutz và gia đình, và tai họa ghê gớm mà hắn sẽ phải gánh chịu như bị bắt
bớ, tra tấn, chứng kiến cảnh vợ bị hiếp dâm, đều đã được an bài ngay trong đêm Tổng Thống Kennedy qua đời.
Lutz nâng ly mời bốn người « bạn quý », mong sao cho chúng uống thật say để ra về. Có điều một trong
bốn người này tiết lệ quan trọng đối với tiền đồ của dân tộc Do Thái nên Lutz nôn nóng, bồn chồn, muốn
được vô buồng tắm một mình, đem máy phát thanh ra để báo cáo ngay về Tel-Aviv. Lutz giữ nụ cười trên
môi hô lớn;« Đả đảo bọn cảm tình viên Do Thái, Sieg Heil !»
Peter Miller tỉnh giấc lúc chín giờ sáng hôm sau. Ưỡn mình dưới lớp chăn ấm áp và dù còn ngái ngủ,
Miller vẫn cảm thấy kích thích bởi thân hình mời mọc của Sigi nằm sát bên. Sigi càu nhàu khi Miller xáp lại
gần: «Thôi bỏ qua đi ông già !» Sigi nói, không thèm mơ mắt.
Miller thở dài, quay người nằm sấp lại, giơ cao đồng hồ đeo tay lên xem giờ. Chàng nhảy phóc xuống
giường, quấn chiếc khăn bông quanh bụng, mò mẫm từng bước đi l i
ạ phía cửa sổ, kéo màn ra. Ánh sáng èo
ọt của mặt trời tháng II chiếu vô phòng. Miller nheo mắt nhìn xuống đại lộ I Steindamrn. Sáng thứ bảy xe cộ
lưu thông thưa thớt trên đường nhựa đen bóng. Miller lừng thừng bước xuống nhà bếp, nấu nước chè tách
cà phê đầu tiên trong ngày. Cả mẹ chàng lẫn Sigi đều than phiền vì chàng uống quá nhiều cà phê và hút
thuốc như ống khói. Nhâm nhi tách cà phê và phì phà điếu thuốc lá đầu tiên trong ngày, Miller ngồi trầm
ngâm suy nghĩ xem có chuyên gì thật đặc biệt phải làm không ? Không có gì hết. Chắc các nhật báo sẽ đồng
loạt kéo dài cột tin liên quan đến Tổng Thống Kennedy hết tuần này sang tuần khác, không có cột nào dư đ ể
cho chàng khai thác cả ; ngoài ra ngày thứ bảy là ngày xấu để thương lượng bất cứ chuyện gì, vì ai ai cùng
mãi mê bàn tính chương trình nghỉ cuối tuần. Miller vừa hoàn tất một thiên phóng sự về sự xâm nhập của
những tay giang hồ Áo, Pháp, và Ý vô «mõ vàng Reeperbahn», khu ăn chơi nhất tại Hamburg, nhưng đến
ngày hôm nay chàng vẫn chưa nhận được tiền thù lao. Miller nghĩ bụng phải đến gặp tên chủ nhiệm đã mua
bản quyền thiên phóng sự để đòi tiền, nhưng sau lại thôi, « Gấp gáp gì, trước sau gì hắn cũng gởi chi phiếu
cho mình mà » Miller nghĩ thầm. Vã lại mình đâu cẩn tiền lắm, vì trong trương mục mình còn hơn năm ngàn Đức Kim !
Miller xách máy thu thanh vô buồng tắm, đóng cửa lại để khỏi đánh thức Sigi, vừa tắm rửa vừa nghe tin
tức. Vẫn những mẫu tin liên quan đến vụ Tổng Thống Kennedy : một người đàn ông vừa bị bắt giữ. Đúng y
như Miller dự đoán, bản tin không loan báo một mẩu tin nào khác ngoài vụ Kennedy.
Ra khỏi buồng tắm, Miller xuống nhà bếp chế cà phê cho hai người uống. Mang khay vô phòng ngủ, đặt
xuống chiếc bàn nhỏ, cởi áo bông khoác lên người ra, chàng rúc người vào sát Sigi.
Năm lên mười hai, lẽ ra Sigi đã trở thành vô địch thế vận hội nếu bộ ngực của nàng không căng phòng
quá độ như vậy. Rời trường nàng trở thành huấn luyện viên thế vận, và từ huấn luyện viên sang hành nghề
thoát y vũ. Lý do chuyển nghề là tiền, vì bây giờ Sigi kiếm tiền gấp năm lần số lương huấn luyện viên.
Dù rất thích cởi bỏ y phục trước đám đông khán giả vũ trường, Sigi vẫn hay bẽn lẽn, mắc cỡ, nếu nghe
được ai trong đám khán giả bình phẩm về những đường cong trên thân hình của nàng.
Có lần Sigi giải thích cho Miller hiểu triết lý đơn giản của nghề ngh ệ
i p như thề này : « Khi đang trình
diễn, em không thầy gì hết đàng sau những ngọn đèn màu, do đó không thấy mắc cỡ. Nhưng nếu có ai nhìn
mà em thấy được mặt người đó, thì chắc em phải giải nghệ quá ».
« Nghề » thoát y còn cho phép Sigi xuống ngồi chung bàn với khán giả sau khi trình diễn, và không ai
cấm nàng uống rượu với họ nếu được mời. Thử rượu độc nhất Sigi chịu uống là Champagne, nhưng phải
được rót từ một chai nguyên, vì ngoài việc đưởc thưởng thức mùi vị nồng và ngọt của rượu, Sigi còn được
hưởng mười phần trăm hoa hồng trên mỗi chai Champagne khui ra mời nàng,
« Tội nghiệp cho bọn đàn ông !» Sigi thường nói với Miller.
« Đáng lý phải cấp cho mỗi anh một bà cho đỡ tủi ».
« Tội nghiệp cái gì ? » Miller phản đối. «Thằng nào thằng nấy cũng đều dê xồm, trác táng, mất nết hết ».
« Họ đâu đền nỗi như vậy nếu họ có một người đàn bà nào đó biết săn sóc và chiều chuộng họ. » Lý luận
của Sigi thật vững chắc.
Miller tình cờ quen nàng tại Quản Kokett, đặt dưới hầm Cafe Keese trên đường Reeperbahn. Vóc dáng
của Si- gi không phù hợp với tuổi hai mươi của nàng : cao một thước bảy mươi, khuôn mặt và thân hình hòa
hợp một cách tuyệt diệu. Miller phải công nhận nếu hình Sigi được đăng vào trang giữa Tạp chí Play Boy,
mấy hoa hậu khỏa thân của tạp chí này sẽ được coi như những trường hợp thiếu dinh dưỡng. Sau hơn ba
tháng tán tỉnh, Miller mới thành công mời Sigi lên giường, và sau đó chung sống luôn với chàng. Với tinh
thần cởi mở và đơn giản đối với ữ
nh ng điều quan trọng nhất trong đời, Sigi quyết phải chài và lấy cho bằng
được Miller, nhưng kẹt không biết có nên cho Miller nếm mùi trước hay không ? Nhận biết Miller đẹp trai và
thành công với đàn bà, Sigi đành phải dọn đến sống và làm cho Miller thoải mái đến độ phải hỏi cưới nàng.
Hai người đã sống chung trong tinh trạng chờ đợi như vậy được sáu tháng, tính đến cuối tháng mười một.
Miller, một thanh niên phóng khoáng, phải công nhận Sigi là một người đàn bà đảm đương trong công việc
nội trợ, và một người tình tuyệt vời trên giường, Sigi không bao giờ trực tiếp nhắc nhở đến cưới hỏi, nhưng
có trăm phương ngàn cách để làm cho Miller hiểu chuyện...
« Đánh thức người ta kiểu gì vậỳ ? » Sigi càu nhàu.
« Còn nhiều cách khác ác liệt hơn nữa ! » Miller đùa.
« Mấy giờ rồi anh ? »
« Gần mười hai giờ rồi » Miller nói láo, biết chắc Si- gi sẽ cắn nát bắp tay nếu biết được lúc đó mới hơn mười giờ.
« Thôi em ngủ lại đi !»
« Cám ơn cưng ! Sao hôm nay tử tế vậy ? » Sigi vừa nói xong vội xoay người lại nằm ngủ tiếp.
Miller, đang định bỏ chân xuống giường thì chuông điện thoại reo. Chàng bước nhanh qua phòng khách. « Peter ?»
« Phải! Ai ở đầu dây đó ?» « Karl đây !»
Trí óc Miller còn đang rối vò, chưa định thắn được, vì chàng không nhận ra giọng nói bên kia đầu dây. « Karl nào ?»
« Karl Brandt ! Chuyện gì vậy ? Bộ còn say ke hả ?»
Miller tỉnh người lại. « Ồ Karl ! Xin lỗi, mới ngủ dậy chưa hoàn hồn. Có chuyện gì vậy ?»
«Tên Do Thái tự tử chết. Tôi cần gặp bạn để bàn
Miller thắc mắc không hiểu đầu đuôi gì hết. «Tên Do Thái nào ?»
«Thì thằng già đêm hôm qua đó, khu Altona, nhớ ra chưa ?»
«Tối hôm qua thì nhớ, nhưng làm gì biết đuợc lão ta người Do Thái ?.»
«Tôi muốn gặp bạn bàn chuyện nầy,» Brandt nói « nhưng không thể nói trong điện thoại được. Gặp bạn tại đâu được ?»
Đầu óc phóng viên của Miller hoạt động liền. Bất cứ điều gì không muốn tiết lộ trong điện thoại chắc
phải là chuyện thật quan trọng. Trong trường hợp Brandt, Miller không thể nghi ngờ một thanh tra cảnh sát
phải thận trọng như vậy nếu điều hắn muốn nói không quan trọng .