-
Thông tin
-
Quiz
Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của những đặc điểm đó với công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay | Tiểu luận Lịch sử đảng
Gần bảy thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử Đảng (LSĐ) 78 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của những đặc điểm đó với công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay | Tiểu luận Lịch sử đảng
Gần bảy thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (LSĐ) 78 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
0
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG ---------------- TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: ĐẶC ĐIỂM RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ Ý
NGHĨA CỦA NHỮNG ĐẶC ĐIỂM ĐÓ VỚI CÔNG TÁC ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY Sinh viên: Mã số sinh viên: Lớp:
Hà Nội, tháng 12 năm 2021 1 MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
B. NỘI DUNG...........................................................................................................4
I. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX..................4
1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam...............4
2. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời...........6
3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị các điều kiện thành lập
Đảng.....................................................................................................................9
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam........................................................10
II. Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa ba yếu
tố Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
...............................................................................................................................12
1. Vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự ra đời của Đảng......................15
2. Vai trò của phong trào công nhân đối với sự ra đời của Đảng.......................17
3. Vai trò của phong trào yêu nước đối với sự ra đời của Đảng.........................19
III. Ý nghĩa của những đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay......................................................20
1. Hiện nay Đảng ta vẫn luôn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì đi
theo và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin.............................................20
2. Công nhân Việt Nam hiện nay phát triển nhanh về số lượng và chất lượng
tuy nhiên giai cấp công nhân đang đối mặt với nhiều khó khăn........................23
3. Đảng phát triển lớn mạnh, có mặt ở khắp mọi nơi đồng thời cũng tồn tại một
vài khuyết điểm hạn chế....................................................................................26
C. KẾT LUẬN........................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................30 2 A. MỞ ĐẦU
Gần bảy thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh
cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Từ thân phận
người dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm
lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo nhân
dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại quá trình lịch sử của cách mạng Việt Nam chúng ta thấy Đảng Cộng
sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân
tộc khi thắng lợi cũng như lúc khó khăn, khi thành công cũng như lúc sai lầm,
khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một điều tất yếu, khách quan của
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở Việt Nam lúc bấy giờ; là
kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị và tổ chức của một tập thể cách mạng; là sự sàng lọc và lựa chọn nghiêm
khắc của lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi mất nước vào ta đề quốc thực dân
Pháp. Đảng ra đời là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mac-
Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Ba yếu tố đó đóng vai trò
to lớn đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và cho đến nay vẫn luôn giữ
được ý nghĩa quan trọng và lớn lao đối với công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Nhân dân Việt Nam ngày nay, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp
hưởng thụ những thành quả cách mạng từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. 3
Việc giáo dục cho các thế hệ trẻ thấy được vai trò và sự cống hiến to lớn của Đảng
và đặc biệt là thấy được ý nghĩa và đặc điểm quan trọng cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là vô cùng cần thiết.
Do vậy, em lựa chọn đề tài: “Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
và ý nghĩa của những đặc điểm đó với công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay”. Làm
đề tài tiểu luận cho mình. 4 B. NỘI DUNG
I. Tình Hình Thế Giới Và Việt Nam Cuối Thế Kỷ XIX Đầu Thế Kỷ XX
1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện những biến
cố lịch sự mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loài người.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính bước chuyển này đã
làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt: Mâu thuẫn vốn
có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã phát
triển đến mức cần phải giải quyết. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng
vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách
mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời
điểm này cũng đã xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh
giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân
trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Đặc biệt là sự
thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại đại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và được xem
là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, đó là lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Không những thế lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ ra cho các dân tộc
thuộc địa con đường giải phóng mình. 5
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác-Lênin đã xây dựng học thuyết lý luận cách
mạng không ngừng với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng
thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo
cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu
tranh chống lại chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, sự liên minh giữa hai giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là lực lượng
chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính
cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân (gọi tắt là chuyên chính
công nông). Một cuộc một cuộc cách mạng như vậy được gọi là cuộc cách mạng
dân chủ tư sản kiểu mới. Sự hoàn thiện triệt để cách mạng đó có nghĩa là tạo lập
chiếc cầu trực tiếp để chuyển sang cách mạng XHCN và giữa chúng không có “bức
tường thành ngăn cách”.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và đặc biệt là lý luận cách mạng không
ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa như Việt Nam, đó
là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường cách mạng vô sản. Đồng thời
Lênin cũng chỉ ra việc cần thiết phải xây dựng một Đảng Cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đnag phát triển mạnh
mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc
cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917.
Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga đã cổ vũ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân
dân các nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười Nga đã thúc đẩy sự ra đời của
hàng loạt các Đảng Cộng sản trên thế giới: Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản
Hunggari (1918), Đảng Cộng sản Mỹ (1919), Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp (1920) …
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời 6
của hàng loạt các Đảng Cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế
đứng ra lãnh đạo, tập tủng sức mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc
(Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong từ sau khi Awngghen qua đời năm 1895).
Tháng 3 – 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu “Vô sản
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đã đánh dấu một giai đoạn mới của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. “Lần đầu tiên trong lịch sử quốc tế
Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa hai giai cấp vô sản
và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân”. Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam: “Xem
trọng các tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một riêng, chuyên nghiên cứu và giúp
đỡ kách mệnh bên Á – Đông … Xem khẩu hiệu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng
“vô sản giai cấp” mà lại thêm câu “… và dân tộc bị áp bức trên thế giới liên hiệp
lại” … Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm kách mệnh thành
công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
Như vậy, tình hình thế giới và những đặc điểm trên đây của thời đại có ảnh
hưởng to lớn tới cách mạng Việt Nam và đặc biệt là quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt
Nam, mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các phong trào đấu tranh
đều lần lượt thất bại. Đến năm 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở
nước ta và bắt đầu tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc.
Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn
áp nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người
Pháp. Toàn quyền Đông Dương Thống đốc Nam Kỳ, Thống sứBắc Kỳ, Khâm sứ 7
Trung kỳ, Công sứ các tỉnh. Biến vua quan Nam Triều thành bù nhìn tay sai. Biến
Việt Nam từ một nước phong kiến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chúng dùng chính sách chia để trị. Chia nước ta thành 3 kỳ sát nhập với Lào,
Campuchia lập Liên bang Đông Dương, nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới.
Mỗi kỳ có chính sách khác nhau hòng chia rẽ và gây thù hận giữa các sứ làm cho
dân tộc ta không đoàn kết thống nhất, không tạo sức mạnh tổng hợp chống lại chúng.
Về kinh tế, 1897 Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần 1, sau chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914 – 1918), chúng khai thác lần 2 để bù vào những tổn thất trong
chiến tranh (vốn đầu tư với tốc độ nhanh, giai đoạn 1924 - 1925 hơn 6 lần 1847 –
1918), tập trung vào hai khu vực chủ yếu là đồn điền cao su và mỏ than.
Tăng cường ngân hàng để cho vay nặng lãi và thâu tóm để kiểm soát các
hoạt động kinh tế ở Đông Dương. Chúng tăng thuế lên 2 - 3 lần so với trước, độc
quyền thuốc phiện, rượu, muối.
Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rợ và chiếm đoạt ruộng đất của
nông dân làm 50% nông dân nước ta mất ruộng đất. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN làm cho quan hệ kinh tế ở nông
thôn bị phá vỡ và hình thành nên những đô thị, khu dân cư và trung tâm kinh tế mới.
Chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp hai phương thức
sản xuất để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN một cách hoàn chỉnh,
chính vì thế mà Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường được. Vì vậy nền
kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu - vừa mang tính chất tư bản thực
dân - vừa mang tính chất phong kiến.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa nô dịch, ngu dân,
gây tâm lý tự ti, vong bàn để chúng dễ bề thống trị. Đồng thời chúng còn tìm mọi 8
cách bưng bít và ngăn chặn không cho ảnh hưởng đến văn hóa tiến bộ trên thế giới
vào Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ chính sách này: “Chủ nghĩa tư bản Pháp
đó vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dựng lưỡi lê để
chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột
một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Tôi xin nhấn
mạnh từ “đầu độc” bằng thuốc phiện, bằng rượu … Chúng tôi không có quyền cư
trú và du lịch ra nước ngoài, chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm và
chúng tôi không có quyền tự do học tập”.
Sự thống trị của thực dân Pháp đã để lại nhiều hậu quả trong nền kinh tế - xã hội Việt Nam.
Về kinh tế, nền kinh tế Việt Nam không thể tiến lên TBCN bình thường được,
trái lại nó phát triển chậm chạp, què quặt, mất đàn tính độc lập, ngày càng lệ thuộc
vào kinh tế Pháp; nó bị kìm hãm trong vòng lạc hậu – vừa mang tính chất TB thực
dân – vừa mang tính chất phong kiến.
Về xã hội, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một nước
thuộc địa nửa phong kiến, mẫu thuẫn trong xã hội cũng bị chi phối bởi đặc điểm
này; xã hội Việt Nam hình thành nhiều mâu thuẫn đan xen lẫn nhau, song mâu
thuẫn chủ yếu nhất nổi lên lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp và tay sai phản động.
Về giai cấp cũng bị phân hóa triệt để do chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp, ngoài những giai cấp vốn có (địa chủ phong kiến và nông dân), xã
hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp mới như tư sản, tiểu tư sản, vô sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hóa sâu sắc, theo đó trong
các giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản đều có những bộ phận có thể lôi kéo, lợi
dụng trong lực lượng cách mạng; các giai cấp tiểu tư sản và nông dân đều có tinh
thần hăng hái cách mạng, là lực lượng quan trọng của cách mạng. Đặc biệt là công 9
nhân, tuy chiếm khoảng 1% dân số nhưng là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh
đạo cách mạng nếu được trang bị Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước theo chiều khuynh hướng khác
nhau diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa của nông dân Yên
Thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908), Phong trào Duy Tân (1906
– 1908), Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925 – 1926), Phong trào cách
mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 –
1930) … Nhưng tất cả các phong trào đều lần lươt thất bại, cách mạng Việt Nam
rơi vào khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
3. Vai Trò Của Nguyễn Ái Quốc Trong Việc Chuẩn Bị Các Điều Kiện Thành Lập Đảng
Trước yêu cầu bức bách phải tìm ra con đường cứu nước mới, tháng 6 năm
1911, Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây, nơi có nền khoa học - kỹ thuật phát triển,
có tư tưởng dân chủ, tự do xem họ làm thế nào rồi về giúp đồng bào mình thoát khỏi gông cùm nô lệ.
Tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản luận cương về vấn đề dân
tộc thuộc địa của Lênin. Bản luận cương đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của
Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Từ đó Người hoàn toàn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ III.
Tháng 12 - 1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh
luận gay gắt là gia nhập Quốc tế III hãy ở lại Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự
kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, từ chiến sĩ yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản. 10
Sau khi đã lựa chọn chắc chắn cho mình con đường cứu nước, Nguyễn Ái
Quốc đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Từ 1921 đến 1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Pháp thành lập “Hội Liên
hiệp thuộc địa”, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và được xuất bản lần
đầu tiên ở Pari vào 1925.
Từ tháng 6 - 1923 đến 1924, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô tham dự nhiều Hội
nghị và Đại hội quốc tế.
Từ 11 – 11 – 1924 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc,
thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Tháng 6 – 1925, Người sáng
lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết
định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 1925 – 1927,
Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Đầu năm 1927, những
bài giảng của Người được tập hợp thành sách với tên gọi “Đường kách mệnh”, với
những nội dung cơ bản vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng ở Việt Nam.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương “Vô sản hóa”.
Đến 1929 phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển rất mạnh mẽ.
Các yếu tố thành lập Đảng đã xuất hiện, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị
phân liệt, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời. Yêu cầu của phong trào
dân tộc dân chủ ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc với tư cách là biệt phái viên của Quốc tế Cộng sản, triệu
tập các tổ chức cộng sản và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ 6 – 1 đến 7 – 2 – 1930 tại Cửu
Long – Hương Cảng – Trung Quốc. 11
4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì
những đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội
ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3 – 1929 để
tiến hành lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã ra nghị
quyết phải thành lập ra Đảng Cộng sản. Cuối 3 – 1929 đại hội kì bộ Bắc Kỳ của
Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội cũng được tiến hành và đại hội này
đã thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản đầu tiên đồng thời đại
hội cũng cử đại biểu đi dự Đại hội Thanh niên toàn quốc và giao nhiệm vụ cho các
đồng chí đại biểu: “phải phấn đầu để chủ trương thành lập Đảng được chấp thuận
tại Đại hội Thanh niên toàn quốc”.
Ngày 1 – 5 – 1929, đại hội lần thứ I của Việt Nam Thanh niên Cách mạng
đồng chí Hội được tiến hành tại Hương Cảng – Trung Quốc. Tại đại hội này, đoàn
Đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại không được đại hội chấp
thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức cộng sản
đầu tiên là Đông Dương Cộng sản Đảng (6 – 1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư.
7 – 1929: Thành lập An Nam Cộng sản Đảng
9 – 1929: Thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
Trước sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản ở trong nước thì Quốc tế Cộng sản đã
viết thư kêu gọi những người cộng sản ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3
tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản đồng thời giao nhiệm vụ cho đồngchí
Nguyễn Ái Quốc là thay mặt Quốc tế Cộng sản hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản, thành
lập ra Đảng Cộng sản. Sau chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đã bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các văn kiện cho hội nghị hợp nhất và khi mọi 12
công tác chuẩn bị đã hoàn tất thì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản tiến hành từ
3 đến 7 – 2 – 1930 tại Hương Cảng – Trung Quốc. Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành
kiến xung đột cũ, quyết định thành lập Đảng Cộng sản và lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt và Lời
kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, bầu Ban chấp
hành Trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành lập Đảng và
các văn kiện do Hội nghị thông qua chính là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặt vĩ đại
trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam
đã trưởng thành. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa
Mác-Lênin và phong trào công nhân với phong trào yêu nước. Đâ là quy luật thành
lập Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
II. Đặc Điểm Ra Đời Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Là Sự Kết Hợp Giữa Ba
Yếu Tố Chủ Nghĩa Mác-Lênin Với Phong Trào Công Nhân Và Phong Trào Yêu Nước
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và
hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là sự lựa chọn của chính lịch sử.
Trước ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong trào đấu
tranh nổ ra của nhiều giai – tầng trong xã hội, với nhiều khuynh hướng chính trị
khác nhau: tiêu biểu cho khunh hướng phong kiến là phong trào Cần Vương do vua
Hàm Nghi và Thượng thư bộ inh Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Do lực lượng của
phong trào quá mỏng nên phong trào sớm bị thất bại. Điều đó cho thấy giai cấp địa 13
chủ phong kiến không còn đủ vai trò và uy tín để kêu gọi và triệu tập lwujc lượng
trong quần chúng nhân dân.
Cùng thời gian với phong trào Cần Vương còn có phong trào đấu tranh của
giai cấp nông dân lớp dưới mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh gần 30 năm của nghĩa
quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Nhưng còn “nặng cốt cách phong
kiến” nên phong trào cũng đi vào kết cục là thất bại.
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của Việt Nam
Quốc dân Đảng (1927 – 1930). Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài,
Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chinh. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất theo
khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa
chủ, cả học sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về chủ trương Đảng mô phỏng chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về
chính trị, Đảng chủ trương đánh Pháp, xóa bỏ chế độ vua quan, lập dân quyền,
nhưng chưa ao giờ có đường lối chính trị rõ ràng, cụ thể. Về tổ chức, Đảng chủ
trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở nhưng chưa bao giờ có một hệ
thống tổ chức thống nhất. Về phương pháp đấu tranh, nặng ám sát cá nhân, lấy bạo động làm lối thoát.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái vào 9 – 2 – 1930 với phương châm “không
thành công cũng thành nhân” đã bị thực dân Pháp dìm phong trào trong biển máu.
Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm
dứt cùng với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Trong khi các giai cấp, tầng lớp đều lần lượt bước lên vũ đài chính trị nhưng
đều không được lịch sử chấp nhận thì với nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên. Chủ nghĩa Mác-Lênin được tuyền bá rộng rãi vào
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và
đnag được khẳng định được sức mạnh của mình. Nếu như những năm 1919 – 1925, 14
phong trào công nhân được đánh giá là đã có bước phát triển hơn với “những cuộc
bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn” thì
từ 1925, phong trào công nhân Việt Nam được đánh giá là có sự chuyển hóa “tùng
bước từ tự phát sang tự giác”.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân Việt Nam đấu tranh
dưới sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam Cách mạn Thanh niên, Công
hội đỏ và các nhóm cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc bãi công liên tiếp nổ ra.
Tiêu biểu là cuộc bãi công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, 500 công
nhân đồn điền cao su Cam Tiến … Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc
đấu tranh công nhân diễn ra trong toàn quốc. Theo số liệu thống kê, năm 1927 có 7
cuộc đấu tranh lớn, thì năm 1929 là 24 cuộc, năm 1930 lên tới 98 cuộc (với số
người tham gia từ 350 người lên 31.680 người).
Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này mang tính chính trị
rõ rệt và diễn ra trong phạm vi cả nước. Trong mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết
giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân đã đạt đến
trình độ “tự giác”, được đánh giá là thuần thục về chính trị. Bản thân phong trào
công nhân có sức lôi cuốn đối với phong trào yêu nước và có thể nói, nó quyết định
phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Như vậy, ttrong khi các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh hướng chính
trị khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất hiện của nhiều giai – tầng trong xã hội trên
vũ đài chính trị, … nhưng tất cả đều không được lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực
của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Chủ nghĩa Mác-
Lênin được thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước làm cho
các phong trào này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác. Chính xu
hướng đó đã làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập Đảng Cộng
sản ở Việt Nam, làm cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên sau khi hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản 15
và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất để thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất.
Điều đó khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của
chính lịch sử, là sản phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố Chủ nghĩa Mác-Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
1. Vai trò của Chủ nghĩa Mac-Lenin đối với sự ra đời của Đảng
Ngay trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng, trong “Đường kách
mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Dẫn đường cho mọi hoạt động của giai cấp đều cần thiết phải có một học thuyết
cách mạng. Song, theo Hồ Chí Minh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”. Nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời
rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết
cách mệnh nhất vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xóa bỏ áp bức
bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm
cốt không có nghĩa là giáo điều máy móc theo từng câu, từng chữ mà chính là nắm
vững tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật.
Đồng thời phải thâu tóm tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh
nghiệm của các đảng an hem, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị,
đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.” 16
Để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc là
người truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam. “Sau khi tìm được con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến hoạt động lý luận và
thực tiễn nhằm truyền bá chủ nghĩa Marx - Lenin về nước. Việc truyền bá của
Người diễn ra liên tục từ năm 1921 đến năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, đánh dấu sự chiến thắng bước đầu của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trong lịch
sử tư tưởng nước ta”. Hành trình ấ của Người ta có thể nhận xét qua những lời sau:
Một là, sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một quá trình
lâu dài, liên tục, đầy cam go, thử thách, bằng nhiều hình thức sinh động, phong
phú. Trong bối cảnh có rất nhiều luồng tư tưởng, nhiều dòng cách mạng đan xen,
với hình thức là đấu tranh giành độc lập, thì sự lựa chọn một hệ tư tưởng nào, một
hình thức cách mạng nào hoàn toàn không phải là tự nhiên. Đồng thời, ngay tại
trong nước, do nhu cầu rất cao về giải phóng dân tộc, bản thân các tầng lớp nhân
dân luôn có ý thức chọn lựa hệ tư tưởng nào đó có thể đáp ứng được nhu cầu này.
Do đó, chủ nghĩa Mác - Lênin muốn xâm nhập, tồn tại và phát triển phải thể hiện
được tính ưu việt và tính hấp dẫn thực sự đối với nhân dân Đông Dương nói chung
và nhân dân Việt Nam nói riêng.
Hai là, nếu xem các yếu tố khách quan là điều kiện cần, nhưng không có
điều kiện đủ là những hoạt động không ngừng nghỉ của Hồ Chí Minh thì không thể
đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam như cách nó đã từng diễn ra; ngược lại,
nếu chỉ có vai trò cá nhân mà thiếu các điều kiện khách quan thì chủ nghĩa Mác -
Lênin cũng không thể “bén rễ” ở nước ta. Sự kỳ công của Hồ Chí Minh và những
người cộng sản đã giúp chủ nghĩa Marx - Lenin thực sự tồn tại và phát triển ở Việt
Nam, tiến tới thành lập được Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá và “sống được” ở xã hội Việt
Nam trong những năm 1920 thực sự chỉ bền vững khi đã hình thành được đảng
cách mạng, chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi không có Đảng thì các tư tưởng
về cách mạng vô sản không được triển khai và thực thi thành những hành động cụ 17
thể, đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Xét nhiều góc
độ, sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
là một tất yếu lịch sử, nhưng sự tất yếu đó hoàn toàn không phải là điều đương
nhiên sẽ đến. Bởi trong bối cảnh phức tạp về chính trị, xã hội vào thời điểm đó,
những hệ tư tưởng thiết thực, lấy nhân dân làm mục tiêu và động lực sẽ giành được
ưu thế nhưng cũng cần những cá nhân dám hi sinh và có năng lực tổ chức.
Bốn là, chúng ta có thể mạnh mẽ bác bỏ các quan điểm sai trái cho rằng chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản là “một sự áp đặt” hay Đảng Cộng sản Việt
Nam “độc quyền yêu nước” và “độc quyền lãnh đạo”… Trước chủ nghĩa Mác -
Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã có nhiều hệ tư tưởng khác, nhiều
đảng phái khác tồn tại, thu hút được một bộ phận nhân dân tham gia, hưởng ứng,
thậm chí đã có những hành động cụ thể để giành độc lập, nhưng tất cả đều không
thành công. Bên cạnh tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tính
thời đại của chủ nghĩa cộng sản, khi được cụ thể hóa thành một thực thể lãnh đạo
nhân dân thực hiện lý tưởng đó của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa cộng sản
thì phải thông qua những cá nhân xuất sắc.
Năm là, từ đây, rút ra một bài học sâu sắc: chủ nghĩa cộng sản đã được xác
nhận là tương lai, là khát vọng muôn đời của nhân loại, nhưng quá trình lãnh đạo
để đi đến thành công cần phát huy vai trò chủ động, tích cực của các đảng cộng
sản. Vì một đảng mà dù bất kỳ lý do nào không còn trung thành với lý tưởng cộng
sản, không thực sự đại diện cho nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân,
không còn sự “sáng trong” về tư tưởng, đạo đức, không thể hiện được năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu thì bản thân đảng đó sẽ mất dần sự tin yêu của nhân dân,
mất dần vai trò lãnh đạo, dẫn dắt.
2. Vai trò của phong trào công nhân đối với sự ra đời của Đảng
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra
rằng: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội 18
dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức
đấu tranh dân tộc”. Vì thế, “Giai cấp vô sản ở mỗi nước khi tiến hành cuộc đấu
tranh để “tự giải phóng” giai cấp mình khỏi sự áp bức, nô dịch của chủ nghĩa tư
bản, trước hết phải giành lấy chính quyền, tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự
mình trở thành dân tộc, nghĩa là phải lãnh đạo, trở thành lực lượng lãnh đạo của
cả phong trào cách mạng của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Điều đó có
nghĩa là việc thành lập đảng cộng sản phải được thực hiện trong phạm vi từng quốc
gia dân tộc, chứ không phải trong từng khu vực thế giới. Nhưng mỗi quốc gia có
những đặc điểm riêng khác nhau về truyền thống lịch sử - văn hóa và trình độ phát
triển kinh tế…Do đó, cần phải thành lập ở mỗi quốc gia một đảng riêng để đề ra
đường lối chính trị phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng nước.
Mặt khác, bên cạnh việc khẳng định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp
công nhân, V.I.Lênin chỉ ra rằng, để lãnh đạo cách mạng, giai cấp công nhân phải
có lý luận tiền phong dẫn đường. Trong tác phẩm “Làm gì?”, V.I.Lênin khẳng
định: “Giai cấp công nhân là sản phẩm của chế độ kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa, còn chủ nghĩa xã hội khoa học lại là sản phẩm của sự nghiên cứu và phát
minh khoa học. Nếu phong trào công nhân không tiếp thu chủ nghĩa Mác thì nó
mãi mãi dừng ở trình độ tự phát, không thể trở thành phong trào tự giác được.
Ngược lại, nếu chủ nghĩa Mác không thâm nhập vào phong trào công nhân thì nó
sẽ mãi mãi dừng lại ở lĩnh vực lý luận, mà không thể trở thành lĩnh vực hành động
thực tiễn”. Vì thế, hai yếu tố này cần có sự kết hợp với nhau. Sự kết hợp này sẽ tạo
cơ sở vững chắc cho cả phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác; trong đó, giai cấp
công nhân là vũ khí vật chất của Chủ nghĩa Mác, còn Chủ nghĩa Mác là vũ khí tư
tưởng của phong trào công nhân. Sự kết hợp đó cũng là quy luật chung dẫn đến sự
ra đời của các đảng cộng sản trên thế giới. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của Chủ
nghĩa Mác – Lênin cũng lưu ý rằng: Trong tất cả các nước, chỉ có sự kết hợp chủ
nghĩa xã hội với phong trào công nhân mới xây dựng được một cơ sở vững chắc
cho cả hai. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, 19
lại được thực hiện bằng con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời
gian. Tức là, sự kết hợp đó không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng nhắc, mà nó
có nét đặc thù do sự chi phối của những điều kiện lịch sử, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Thấm nhuần quan điểm của Chủ Nghĩa Mác-Lênin, trong quá trình chuẩn bị thành
lập đảng cộng sản ở Việt Nam, một “xứ” thuộc địa nửa phong kiến, bên cạnh việc
khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý nghiên cứu lý luận; trực tiếp hoạt động trong
Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Pháp và tìm hiểu học tập những mô hình tổ chức
của các đảng cộng sản trên thế giới (Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản
Trung Quốc,…), để vận dụng sáng tạo nguyên lý xây dựng “đảng kiểu mới” của
Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để
thành lập một chính đảng thực sự là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam trong
bối cảnh Việt Nam chưa có đủ những tiền đề cơ bản cho một đảng cộng sản ra đời
như ở Nga và một số nước tiên tiến khác. Đầu thế kỷ XX, số lượng giai cấp công
nhân còn ít ỏi (năm 1914, giai cấp công nhânViệt Nam chỉ có 10 vạn, chiếm
khoảng hơn 1% dân số); các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam vẫn
còn lẻ tẻ, rời rạc, đang hòa chung vào trong phong trào yêu nước của các giai cấp
tầng lớp khác chứ chưa trở thành một phong trào độc lập.
3. Vai trò của phong trào yêu nước đối với sự ra đời của Đảng
Yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, phong trào yêu
nước là yếu tố có trước phong trào công nhân và cả sự ra đời của giai cấp công
nhân; mâu thuẫn lớn nhất ở Việt Nam lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược và cai trị nước
ta thì các phong trào yêu nước của nhân dân đã diễn ra liên tiếp và sôi nổi. Chính vì