



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 46342985
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ -------- -- ------
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài :
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC. LIÊN HỆ
VỚI ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA Nhóm: 5
Lớp học phần: 2223HCMI0121
Người hướng dẫn: Phạm Thị Hương
Hà Nội, tháng 4 năm 2022 lOMoAR cPSD| 46342985 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 I.
DÂN TỘC THEO NGHĨA RỘNG. 4
1. Quan niệm về dân tộc. 4
2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa rộng. 4 II.
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC THEO NGHĨA HẸP. 7
1. Khái niệm dân tộc theo nghĩa hẹp. 7
2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa hẹp. 8 I.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC NGA. 9
1. Quá trình hình thành dân tộc Nga. 9
2. Quá trình phát triển dân tộc Nga. 10 II.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA. 12
1. Những đặc trưng cơ bản của dân tộc Nga. 12
2. Những giá trị tích cực của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát triển của nước Nga. 17
3. Những hạn chế của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát triển của nước Nga. 19
4. Nguyên nhân của những hạn chế. 21
III. PHƯƠNG THỨC VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ VÀ TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN TỘC NGA. 23
1. Phương hướng khắc phục hạn chế và tiếp tục phát triển các đặc trưng của dân tộc Nga. 23
2. Giải pháp khắc phục hạn chế và phát triển các đặc trưng của dân tộc Nga. 23 KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 LỜI MỞ ĐẦU
Victor Hugo từng nói: "Không có đất nước nào nhỏ bé. Sự vĩ đại của một dân tộc không
được quyết định bởi số người, cũng như sự vĩ đại của một người không được đo bằng
chiều cao của anh ta". Từ xa xưa vấn đề dân tộc là tất yếu, đóng vai trò quan trọng nhất
đối với một đất nước. Dân tộc là lý tưởng, là lẽ sống của con người trong quá trình gìn
giữ và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là giá trị cốt lõi mà Đảng và nhà nước ta theo đuổi từ
những buổi đầu dựng nước. Từ thời vua Hùng, trải qua hàng nghìn năm lịch sử cho đến
khi phát triển lên xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề dân tộc càng được củng cố và
hoàn thiện. Để xây dựng được một đất nước độc lập dân chủ, chính trị ổn định như
hiện tại, ông cha ta, những người đi trước đã đánh đổi bằng biết bao mồ hôi và sức lực. 2 lOMoAR cPSD| 46342985
Vậy nên chúng ta, thế hệ trẻ, được thừa hưởng thành quả cách mạng bản thân cần phải
tiếp nối người đi trước hoàn thành sứ mệnh của mình.
Thế giới mà chúng ta đang sống luôn vận động không ngừng dưới sự tác động mạnh
mẽ của những tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Sự ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0 đã tạo nên một điểm nhấn trong thời kỳ kỷ nguyên số. Mặt khác, góp phần đẩy
nhanh quá trình toàn cầu hóa diễn ra với tốc độ đáng kinh ngạc. Toàn cầu hóa trở thành
xu thế phát triển của thế giới trong đó có Việt Nam. Xu hướng toàn cầu hóa tạo nên
mạng lưới liên kết giữa các quốc gia và có tác động rất lớn đến vấn đề chính trịxã hội
của các nước. Bên cạnh những ưu điểm về phát triển kinh tế giữa các nước với nhau
còn kéo theo những lo ngại về vấn đề dân tộc. Làm sao có thể cân bằng được việc phát
triển kinh tế nhưng không làm mất giá trị cốt lõi của dân tộc? Đó là câu hỏi đặt ra cho
các quốc gia mà đặc biệt là các nước nhỏ đang phát triển. Nhận thức được đúng đắn về
vấn đề dân tộc là điều vô cùng cần thiết. Có kiến thức, ta mới xác định chính xác tư
tưởng từ đó áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Nhận ra được tầm quan trọng, cũng như
tính thực tiễn của vấn đề này, bài thảo luận xin phép đề cập đến các đặc trưng cơ bản
của dân tộc nhằm cung cấp một số kiến thức cụ thể xác thực mà nhóm đã nghiên cứu
được. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, nhóm 5 đã lựa chọn dân tộc Nga để làm rõ hơn về vấn đề này. NỘI DUNG CHƯƠNG 1:
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC.
I. DÂN TỘC THEO NGHĨA RỘNG.
1. Quan niệm về dân tộc.
a, Quan niệm về dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin Dân tộc là chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt
chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa
đặc thù hay chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất
quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa
và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ
nước. b, Quan niệm về dân tộc của phương Tây và phương Đông. ❖ Với phương Tây.
Dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và thay thế
vai trò của phương thức sản xuất phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở sự
phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Nền
kinh tế tự cấp, tự túc bị xoá bỏ, thị trường có tính chất địa phương nhỏ hẹp, khép kín
được mở rộng thành thị trường dân tộc. Cùng với quá trình đó, sự phát triển đến mức
độ chín muồi làm cho dân tộc xuất hiện, chỉ đến lúc đó tất cả lãnh địa của các nước
phương Tây mới thực sự hợp nhất lại, tức là chấm dứt tình trạng cát cứ phong kiến và
dân tộc được hình thành. Như vậy, dân tộc ra đời trên cơ sở của sự phát triển sản xuất 3 lOMoAR cPSD| 46342985
phong kiến, trao đổi hàng hoá làm cho các bộ tộc gắn bó với nhau. Kể từ đó nền kinh
tế phát triển mà hình thành lên dân tộc. ❖ Với phương Đông
Do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản
được xác lập. Loại hình dân tộc tiền tư bản đó xuất hiện trên cơ sở một nền văn hoá,
một tâm lý dân tộc phát triển đến độ tương đối chín muồi, nhưng lại dựa trên cơ sở một
cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới mức độ nhất định nhưng nhìn chung còn kém phát
triển và còn trạng thái phân tán. Như vậy, dân tộc được hình thành qua quá trình đấu
tranh dựng nước và giữa nước, gắn bó với nhau vượt qua cuộc chiến để từ đó chung sống và phát triển.
2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa rộng.
a, Khái niệm dân tộc theo nghĩa rộng.
Dân tộc (Nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và
có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu
dài dựng nước và giữ nước. b, Đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa rộng.
Dân tộc được nhận biết thông qua những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Lãnh thổ là dấu hiệu xác định không gian sinh tồn, vị trí địa lý của một dân tộc, biểu
thị vùng đất, vùng trời, vùng biển mà mỗi dân tộc được quyền sở hữu. Lãnh thổ là yếu
tố thể hiện chủ quyền của một dân tộc trong tương quan với các quốc gia, dân tộc khác.
Trên không gian đó, các cộng đồng tộc người có mối quan hệ gắn bó với nhau, cư trú
đan xen với nhau. Vận mệnh của cộng đồng tộc người gắn bó với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
Đối với quốc gia và từng thành viên dân tộc, yếu tố lãnh thổ là liêng thiêng nhất. Không
có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia. Bảo vệ chủ quyền quốc gia là
nghĩa vụ và trách nhiệm cao nhất của mỗi thành viên dân tộc. Chủ quyền quốc gia -
dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định thường được thể chế hóa thành luật pháp
quốc gia và luật pháp quốc tế. Có thể cư trú tập trung trên một lãnh thổ của một quốc
gia, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Dân tộc Việt Nam sinh sống xen kẽ
nhau, có trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đồng đều, nhưng không có sự phân
chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng. Hình thái cư trú xen kẽ nhiều dân tộc anh em,
phản ánh mối quan hệ đoàn kết, thống nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong một quốc gia.
Đặc trưng này muốn chỉ vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc xác
lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước. Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị
chia cắt. Lãnh thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc
quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc 4 lOMoAR cPSD| 46342985
gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành. Thứ hai, có chung một
phương thức sinh hoạt kinh tế.
Đây là nét đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc, là cơ sở để gắn kết các bộ phận, các
thành viên trong dân tộc, tạo nên tính thống nhất, ổn định, bền vững của dân tộc. Mối
quan hệ kinh tế là nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Nếu thiếu tính
cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa thể trở thành dân tộc
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý bằng chính sách, pháp luật, chiến
lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất.
Như vậy trong phương thức sinh hoạt kinh tế có thể thấy hoạt động lao động sản xuất
vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã
hội là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con
người, nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Thứ ba, có chung ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp.
Mỗi một dân tộc có ngôn ngữ riêng, bao gồm cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, làm
công cụ giao tiếp giữa các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và tình
cảm…Trong một quốc gia có nhiều cộng đồng tộc người, với các ngôn ngữ khác nhau,
nhưng bao giờ cũng sẽ có một ngôn ngữ chung, thống nhất. Tính thống nhất trong ngôn
ngữ dân tộc được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ
vựng cơ bản. Ngôn ngữ dân tộc là một ngôn ngữ đã phát triển và sự thống nhất về ngôn
ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.
Sở dĩ ngôn ngữ trở thành một công cụ giao tiếp vạn năm vì nó hành trình cùng con
người từ lúc con người xuất hiện cho tới tận ngày nay. chúng ta biết rằng, để đáp ứng
nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất nhiều các hệ thống tín
hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ.
VD: Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn
chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ
Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết
được, học được chữ Nôm. Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại
quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được
nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin
hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin".
Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý. 5 lOMoAR cPSD| 46342985
Văn hóa dân tộc được biểu hiện thông qua tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, lối
sống dân tộc, tạo nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Văn hóa dân tộc gắn bó chặt chẽ
với văn hóa của các cộng đồng người trong một quốc gia. Văn hóa là một yếu tố đặc
biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo
của dân tộc mình. Trong sinh hoạt cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc những
thành phần xã hội khác nhau tham gia vào sự sáng tạo giá trị văn hóa chung của dân
tộc, đồng thời hấp thụ các giá trị văn hóa chung đó.
Cá nhân hoặc nhóm người nào từ chối những giá trị văn hóa dân tộc thì họ đã tự mình
tách khỏi cộng đồng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc không thể không phát triển nếu
không giao lưu với văn hóa của dân tộc khác. Tuy nhiên, trong giao lưu văn hóa, các
dân tộc luôn ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh nguy cơ đồng hóa về văn hóa.
VD: Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em, trong
đó có những tộc người sống trên lãnh thổ Việt Nam, có những dân tộc chỉ có số lượng
vài trăm người, có những dân tộc có hàng triệu người nhưng các dân tộc luôn coi nhau
như anh em một nhà, thương yêu đùm bọc lẫn nhau , chung một văn hóa, chung sức
xây dựng bảo vệ Tổ quốc như lời Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi Đại hội các dân tộc
thiểu số: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai, Ê Đê, Xê Đăng hay Ba
Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta
quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự chủ của chúng ta”.
Thứ năm, có chung một nhà nước (Nhà nước dân tộc)
Các thành viên cũng như các cộng đồng người trong một dân tộc đều chịu sự quản lý,
điều khiển của một nhà nước độc lập. Đây là yếu tố phân biệt dân tộc - quốc gia và dân
tộc - tộc người. Dân tộc - tộc người trong một quốc gia không có nhà nước với thể chế
chính trị riêng. Hình thức tổ chức, tính chất của nhà nước do chế độ chính trị của dân
tộc, là đại diện cho dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới.
VD: Trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, 54 dân tộc anh em như “cây một cội, như con
một nhà” tuy khác nhau về dân tộc nhưng mọi người đều là con dân Việt Nam, đều đấu
tranh hết mình vì tương lai của đất nước, từ Nam vô Bắc một lòng vì sự phát triển của
đất nước, 54 dân tộc nhưng chỉ một đảng, luôn tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau,
xây dựng một quốc gia vững mạnh.
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên.
Các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi
đặc trưng có một vị trí xác định. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội mà còn là động lực của sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại
ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hợp tác và hội nhập
là xu thế khách quan đối với mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới, song không vì thế mà
làm mất đi bản sắc với những đặc trưng phong phú của dân tộc mình. 6 lOMoAR cPSD| 46342985
II. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC THEO NGHĨA HẸP.
1. Khái niệm dân tộc theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người được hình
thành trong lịch sử, có mối liên kết chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc
người, ngôn ngữ và văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và
phát triển cao hơn những nhân tố tộc người của các cộng đồng đó.
2. Đặc trưng cơ bản của dân tộc theo nghĩa hẹp.
Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngôn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn
đề luôn được các dân tộc coi trọng giữ gìn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tộc
người, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, có những tộc người không còn ngôn ngữ mẹ
đẻ mà sử dụng ngôn ngữ khác làm công cụ giao tiếp.
Rất nhiều tộc người ở Việt Nam có ngôn ngữ riêng từ nhiều nguồn gốc khác nhau.
Ví dụ như ngôn ngữ dân tộc Thái trong ngữ hệ Thái - Kađai vẫn thường xuyên được
sử dụng trong cộng đồng người Thái ở Việt Nam. Có rất nhiều sách Thái cổ ghi lại
những phong tục tập quán, lễ nghi, ca dao tục ngữ, các bài cúng và sách về các bài
thuốc chữa bệnh dân gian. Khác với dân tộc Thái, dân tộc Mường không có chữ viết
riêng, và cũng do sự trộn lẫn dân cư Việt và Mường nên ngôn ngữ của dân tộc Mường
cũng có nhiều điểm tương đồng với ngôn ngữ Việt. Điều này càng làm ngôn ngữ trở nên phong phú hơn.
Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể
ở mỗi tộc người, phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo của tộc người đó. Lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền thống
văn hóa của họ. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song song tồn tại xu
thế bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người.
Sự chia sẻ văn hóa trong cộng đồng và sự khác biệt về văn hóa so với các tộc người
khác được thể hiện ở mọi mặt ở cuộc sống. Một ví dụ rõ ràng nhất là cách mà các dân
tộc ăn Tết truyền thống của dân tộc mình. Dân tộc Chăm có hai ngày lễ lớn nhất là
Păng-Katê và Păng-Chabư, khi đó người dân tộc Chăm sẽ tổ chức lễ cúng gồm hoa
quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy vừa kéo đờn
Kanhi (đờn mai rùa) vừa xướng văn tế lễ còn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa
mừng. Hay như người Ê Đê đón Tết Cơm mới vào mùa lúa chín vàng cả nương rẫy.
Mỗi gia đình sẽ ăn mừng mùa lúa chín với lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai chóe
rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài dĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng sẽ khấn vái các
vị thần để xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa.
Ý thức tự giác tộc người. Đây là tiêu chí quan trọng nhất để phân định một tộc
người có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người. Đặc trưng
nổi bật là các tộc người luôn tự ý thức về nguồn gốc, tộc danh của dân tộc mình; đó
còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tộc người dù cho có những
tác động làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác động ảnh hưởng của giao lưu
kinh tế, văn hóa… Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc người liên quan
trực tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người. Ý thức tự giác tộc người 7 lOMoAR cPSD| 46342985
có tính độc lập cao. Dẫu cho lãnh thổ bị ngăn cách, văn hóa bị đứt gãy, thậm chí cả
ngôn ngữ mẹ đẻ bị mất đi thì ý thức tự giác tộc người vẫn được duy trì. Khi có ý thức
về tộc người, một người sẽ luôn biết rõ được cộng đồng mà mình thuộc về, khi đó, dân
tộc tộc người vẫn sẽ trường tồn dù không có biểu hiện cụ thể về lãnh thổ hay bị chịu
ảnh hưởng từ những yếu tố tác động bên ngoài.
Thực chất, hai cách hiểu về khái niệm dân tộc tuy không đồng nhất nhưng lại gắn
bó mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc
người; dân tộc tộc người là bộ phận hình thành dân tộc quốc gia. Dân tộc tộc người ra
đời trong những quốc gia nhất định và thông thường những nhân tố hình thành dân tộc
tộc người không tách rời với những nhân tố hình thành quốc gia. CHƯƠNG 2:
LIÊN HỆ VỚI ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC NGA.
1. Quá trình hình thành dân tộc Nga.
Tổ tiên người Nga là các bộ lạc người Slavs sinh sống tại vùng đất Nga và phía Đông
Châu Âu, họ sống dưới sự cai trị của người Scythians và Samartians du nhập từ phía
Đông. Tới thế kỷ thứ III nhóm người Goths từ phía Bắc đã lật đổ người Samartians và
cai quản miền Nam nước Nga. Nhưng sự cai trị cũng không được bao lâu do cuộc xâm
nhập của người Hung Nô phía Đông, họ đã xây dựng lên đế chế Hung Nô ở miền Nam
nước Nga nhưng cũng dần biến mất khỏi lịch sử sau thời kì thịnh vượng ngắn ngủi.
Sau này bộ tộc Avar, Kharzar và cả Viking cũng tới chiếm đóng nước Nga.
Năm 862, một người Rus thuộc bộ tộc Viking tên Rurik đã lập lên vương quốc tại
Novgorod ở miền Bắc nước Nga. Sau khi Rurik qua đời, con trai ông là Oleg kế vị đã
mở rộng thêm quyền lực về phía nam đặt tên nước là Kiev. Năm 1054 nhiều người vì
tranh giành quyền lực mà xảy ra nội chiến, Đại công quốc Kiev bị chia thành nhiều
nước nhỏ. Đến cuối thế kỷ XII, Kiev mất dần sự ảnh hưởng ở nước Nga rồi dần dần suy thoái.
Năm 1243, người Mông Cổ thành lập Hãn Quốc Kim Trướng, công quốc Moskva
không chống cự mà chấp nhận sự cai trị của người Mông Cổ bởi vậy mà có được lòng
tin của người Mông Cổ và được trao quyền cai trị. Đại công tước Moskva là Ivan I đã
biến công quốc Maskva thành đại công quốc Moskva.
Vào đầu thế kỷ XIX, một cuộc chiến xảy ra giữa đế quốc Nga và đế quốc Nhật trong
việc giành quyền kiểm soát Mãn Châu và Triều Tiên đã dẫn đến cuộc cách mạng năm
1805, gia hoàng Nicolai đã đàn áp dã man khiến dân chúng bất mãn, đất nước trở nên
suy yếu. Trong thế chiến I, do bị ràng buộc bởi hiệp ước hoàng đế Nicolai và thần dân
của mình bước vào chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1917, Cuộc Cách mạng Tháng
Mười nổ ra đã xóa bỏ nước Nga Sa hoàng và dựng lên một nước Nga mới Nước Nga
Xô – Viết, đưa giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân Nga lên nắm chính quyền.
Năm 1939, Hitler xâm lược Ba Lan cùng lúc đó Stalin cũng xâm chiến Ba Lan và chiếm
được một nửa. Quân đội Xô – Viết đã phản công được Đức nhờ lực lượng đông đảo và 8 lOMoAR cPSD| 46342985
sự hỗ trợ của Mỹ. Năm 1945, quân đội Xô – Viết cuối cùng cũng đánh thắng Đức chiếm
được Berlin và giành chiến thắng hoàn toàn. Sau thế chiến thứ Hai đối lập với chủ
nghĩa Tư Bản đại diện là Mỹ và Chủ nghĩa Xã Hội đại diện là Xô – Viết thế giới bước
vào thời kì chiến tranh lạnh. Xô – Viết cạnh tranh với Mỹ trên toàn bộ lĩnh vực. Năm
1970, Xô – Viết xảy ra xung đột với Trung Quốc và từ đó từng bước đặt lại quan hệ
với Mỹ. Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, những sáng kiến cải tổ và cải mở
của Gorbachev đã vô tình gây ra sự sụp đổ của chuỗi các nước Xã hội chủ nghĩa chia
tách Liên Xô thành 15 nước Cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất.
Năm 1991, Gorbachev giải tán Đảng Cộng sản Xô – Viết rồi từ chức, Liên Bang Nga
được thành lập nhận phần lớn lãnh thổ của nước Nga xưa tiêp nối đến ngày nay.
2. Quá trình phát triển dân tộc Nga.
Sau 10 năm độc lập, chủ yếu do những sai lầm của chính quyền Yeltsin, sức mạnh quốc
gia tổng hợp cũng như vị thế, vai trò trên trường quốc tế của nước Nga suy giảm nghiêm trọng.
7/5/2000 V.Putin chính thức trở thành Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga. Từ đó
đến nay, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống đã gặt hái được rất nhiều thành tựu, thành công.
● Về chính trị - tư tưởng:
Ngay từ đầu, Tổng thống V.Putin đã hạ quyết tâm đưa nước Nga thoát khỏi cuộc suy
thoái, khủng hoảng toàn diện. Kết quả của những cải cách chính trị là nước Nga thời
Putin đã chấm dứt cục diện chính trị hỗn loạn thời Yeltsin, trật tự hiến pháp và không
gian pháp lý chung đã được phục hồi và củng cố. Chính phủ Nga cũng ngày càng mạnh
tay hơn trong việc sử dụng các công cụ của Nhà nước để thiết lập trật tự, kỷ cương và
chống tham nhũng,... Thành tựu nổi bật là Nga đã bảo đảm được sự ổn định chính trị,
vừa ngăn không để xảy ra “cách mạng sắc màu”, vừa không bị “cách mạng sắc màu”
ở một số nước SNG khác tác động tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước.
● Về kinh tế - xã hội:
Kinh tế phục hồi đã tạo điều kiện cho chính quyền thực hiện các chính sách xã hội tích
cực như xây dựng, sửa chữa hạ tầng cơ sở, trường học, bệnh viện, tăng lương cho người
lao động và lương hưu,.. làm cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân lao động Nga. Thu nhập
thực tế của dân Nga đã tăng gần 3 lần, còn tỷ lệ đói nghèo giảm một nửa. Đặc biệt, Nga
đã chặn được đà suy giảm dân số kéo dài rất nhiều năm (nhất là trong thập niên 90)
bằng nhiều chính sách xã hội.
● Về quân sự - quốc phòng:
Một chương trình cải cách sâu rộng và hiện đại hóa toàn diện lực lượng vũ trang đã
được đưa ra và thực thi hiệu quả, giúp quân đội Nga thành lực lượng chính quy, hiện
đại, có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Với vị thế là cường quốc quân sự hùng mạnh
thứ hai thế giới, Nga hiện đủ sức ngăn chặn các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, bảo
đảm sự ổn định, thế cân bằng chiến lược và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nga trở 9 lOMoAR cPSD| 46342985
thành nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu và có uy tín nhất thế giới (Nga xuất khẩu vũ khí
tới 65 nước, đã ký Hiệp định hợp tác kỹ thuật - quân sự với 89 nước). ● Về đối ngoại:
Nga nhắm tới các mục tiêu mang đậm tính hiện thực, đó là bảo vệ lợi ích quốc gia và
nâng cao vai trò, vị thế của nước Nga trên trường quốc tế. Trên thực tế, bằng chính
sách đối ngoại được hiểu theo nghĩa như trên, Nga ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng
của mình trong các công việc quốc tế. Nga đặc biệt đề cao vai trò của Liên Hợp quốc
nói chung, của Hội đồng Bảo an nói riêng trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Nga
mạnh mẽ lên án những động thái gây căng thẳng, sự ngờ vực lẫn nhau trong quan hệ
quốc tế, kiên trì đấu tranh chống lại ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực do một siêu
cường hoặc một nhóm nước lớn phát triển chi phối, ủng hộ việc xây dựng một trật tự
thế giới đa cực, đa trung tâm, công bằng và bình đẳng hơn. II.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC NGA.
1. Những đặc trưng cơ bản của dân tộc Nga.
Theo nghĩa rộng:
Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ cố định.
Nằm ở phía bắc, phía tây và phía đông của Nam bán cầu, phần lớn nước Nga nằm gần
Bắc Cực hơn so với đường xích đạo. So sánh các quốc gia riêng lẻ rất ít có giá trị trong
việc đo lường quy mô và sự đa dạng to lớn của Nga. 17,09 triệu km2 của đất nước bao
gồm một phần tám diện tích đất có người ở của Trái đất. Phần châu Âu của nó, chiếm
một phần đáng kể của lục địa châu Âu, là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động công nghiệp
của Nga và là nơi nằm giữa sông Dniep và dãy núi Ural, Đế quốc Nga hình thành. Nga
bao gồm toàn bộ phần phía bắc của châu Á. Kéo dài tới 57.792 km (35.910 dặm), biên
giới Nga là dài nhất thế giới. Dọc biên giới đất liền dài 20.139 km, Nga có ranh giới
với 14 quốc gia: Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan (thông qua
Kaliningrad Oblast), Belarus, Ukraine, Georgia, Azerbaijan, Kazakhstan, Mông Cổ,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Bắc Triều Tiên.
Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.
Nước Nga đứng thứ 6 thế giới về tổng sản phẩm quốc dân và là một trong những nước
đứng đầu về sản xuất than, sắt, thép, quặng, dầu lửa và xi măng. Nước Nga (Liên Xô)
trở thành cường quốc hạt nhân từ 1949. Từ năm 1991, cải tổ được đẩy mạnh thông qua
việc áp dụng chính sách thị trường tự do và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân. Tuy
nhiên, việc thiếu khuyến khích kinh tế đối với lực lượng lao động ảnh hưởng tới tất cả
các thành phần kinh tế. Nhiều hàng hoá cơ bản bị thiếu do mạng lưới lưu thông kém.
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng kém phát triển
Sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn, được tổ chức theo hình thức nông trường quốc
doanh hay nông trang tập thể. Tuy đã cơ khí hoá và được ngành công nghiệp sản xuất
phân bón lớn nhất thế giới hỗ trợ, song nông nghiệp của nước Nga vẫn chưa sản xuất
đủ lương thực cho nhu cầu trong nước do năng suất thấp, ít kho bãi và các phương tiện
vận tải. Hàng nhập khẩu từ U-crai-na và Ka-dắc-xtan cũng đóng vai trò quan trọng. 10 lOMoAR cPSD| 46342985
Các cây trồng chính của Nga là lúa mì, yến mạch, khoai tây, củ cải đường và cây ăn quả.
Thứ ba, có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp.
160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ. Theo cuộc điều tra dân số
năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là tiếng Tatar với 5.3 triệu và tiếng
Ukraina với 1.8 triệu. Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước, nhưng
Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình
trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga. Tiếng Nga thuộc ngữ hệ Ấn
Âu và là một trong những thành viên còn tồn tại của các ngôn ngữ Đông Slavơ; các
ngôn ngữ khác gồm tiếng Belarus và tiếng Ukraina (và có lẽ cả tiếng Rusyn). Những
ví dụ văn bản sử dụng chữ Đông Slavơ Cổ (Nga Cổ) được chứng minh có từ thế kỷ thứ X trở về sau.
Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý
Với diện tích lớn nhất trên thế giới, nước Nga mang trong mình những nét văn hóa độc
đáo trải rộng khắp lãnh thổ của mình. Văn hóa Nga chịu ảnh hưởng của nền tư tưởng
tôn giáo chính thống là Slav. Văn hoá Nga được thể hiện khá rõ qua những nét đặc
trưng trong trang phục truyền thống. Trang phục truyền thống của phụ nữ Nga gồm 4
loại cơ bản là váy poneva, váy sarafan, váy andarak và váy kubelek. Trang phục truyền
thống của nam là những trang phục của người Slavơ bao gồm có áo dài thắt ngang
lưng, quần không quá rộng, giày da hoặc bện bằng vỏ cây, mũ có hoặc không có vành.
Nga rất nổi tiếng với những điệu múa dân gian được biểu diễn trong các dịp lễ hội cùng
với tiếng đàn balalaika - một nhạc cụ truyền thống. Đàn balalaika không chỉ là một
nhạc cụ đơn thuần mà còn mang trong mình cả tâm hồn Nga và trở thành một trong
biểu tượng của văn hoá Nga.
Nga còn nổi tiếng với lĩnh vực nghệ thuật sân khấu bale và opera. Được xem là cái nôi
đào tạo và phát triển cho bộ môn nghệ thuật này cho nên hàng năm ở Nga thu hút lượng
lớn sinh viên đến học tập. Đất nước này cũng thường xuyên diễn ra những buổi biểu
diễn có quy mô lớn cho hai loại hình nghệ thuật mang tính hàn lâm cao cấp này.
Búp bê Nga (còn có tên gọi là Matrioshka) là biểu tượng mà bất cứ ở đâu và khi nào
nhìn thấy đều có thể nhanh chóng liên tưởng về nước Nga. Không những là đồ chơi
cho những em bé nước Nga, Matrioshka còn là biểu tượng hay món quà không thể
thiếu của khách du lịch khi đến với đất nước Nga xinh đẹp. Ngày nay búp bê
Matrioshka trở thành nét văn hóa đặc trưng cho người Nga.
Thứ năm, có chung một nhà nước (nhà nước dân tộc)
Theo hiến pháp Nga sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, được thông qua trong cuộc trưng
cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993,
Nga là một liên bang và theo chính thức là một nền cộng hòa bán tổng thống, theo đó
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng là lãnh đạo chính phủ. Nga được cơ
cấu theo nền tảng một chế độ dân chủ đại diện. Quyền hành pháp thuộc chính phủ.
Quyền lập pháp thuộc hai viện của Quốc hội Liên bang. Chính phủ được điều chỉnh
bằng một hệ thống kiểm tra và cân bằng được định nghĩa trong Hiến pháp Liên bang 11 lOMoAR cPSD| 46342985
Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và khế ước xã hội cho người dân Liên bang
Nga. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm (được tham
gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp);
cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2018. Các bộ của chính phủ gồm thủ tướng và
các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa chọn khác; tất cả đều do tổng
thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy nhiên việc chỉ định thủ tướng phải
được Duma Quốc gia thuộc Quốc hội Liên bang thông qua).
Theo nghĩa hẹp:
Thứ nhất, Nga có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc người.
Nga là một quốc gia đa sắc tộc với 185 dân tộc; dân số của các dân tộc khác nhau rất
lớn, từ hàng triệu người đến dưới mười nghìn người. Thành phần các dân tộc của Nga
rất đa dạng, người dân tộc Nga là tộc người có dân số đông nhất, chiếm tỷ lệ 81,53%
tổng dân số, còn lại là các cộng đồng dân tộc thiểu số khác. Trong các dân tộc thiểu số,
quy mô dân số cũng có sự chênh lệch đáng kể. Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Theo tài liệu về phân bố dân tộc, không có dân tộc nào có một vùng lãnh thổ riêng mà
cư trú xen kẽ nhau. Vì vậy, hầu như không có dân tộc nào ở Nga cư trú tập trung và
duy nhất trên một địa bàn. Dân cư tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Đông Âu do đây là
khu vực có các điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cư trú - sinh hoạt, tập trung nhiều trung
tâm công nghiệp của Liên bang Nga,... Còn phần lãnh thổ phía Bắc, Tây của Liên Bang
Nga có khí hậu cực lạnh giá, khắc nghiệt, địa hình núi cao,… nên khó khăn cho đời
sống, phát triển kinh tế. Vì vậy, dân cư phân bố ở khu vực này thưa thớt.
Thứ ba, các dân tộc có trình độ phát triển không đồng đều.
Các dân tộc ở Nga còn có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Số ít dân tộc vẫn còn duy trì phương thức canh tác chủ yếu bằng khai thác tự nhiên như
đánh bắt cá,… mà chưa tiếp cận với phương thức sản xuất công nghiệp, một số khác
vẫn được biết đến là cư dân bán du mục, chưa có nơi định cư cố định…Không chỉ riêng
nước Nga mà ở các quốc gia có nhiều dân tộc, sự phát triển không đồng đều giữa các
dân tộc là tình trạng khá phổ biến. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: lịch sử,
xã hội, điều kiện tự nhiên nơi sinh sống… quy định.
Thứ tư, mỗi dân tộc có một nét văn hoá bản sắc riêng góp phần làm phong phú đa dạng văn hóa Nga.
Nền văn hóa Nga là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc có những giá
trị và sắc thái văn hóa riêng. Vì thế, ở nước Nga có nhiều dòng ngôn ngữ, trong mỗi
dòng lại có những nhóm khác nhau. Văn hóa, sản xuất, kiến trúc, xây dựng ... giữa các
dân tộc cũng có nhiều nét khác nhau. Văn hóa ăn, mặc của các dân tộc hết sức phong
phú. Phong tục, tập quán, lối sống của mỗi dân tộc một khác nhau dẫn đến tổ chức xã
hội của mỗi dân tộc cũng khác. Chính bản sắc văn hóa mỗi dân tộc nước Nga tạo nên
nền văn hoá Nga rực rỡ.
Thứ năm, những dân tộc thiểu số ở Nga phân bố ở những địa bàn có vị trí quan trọng. 12 lOMoAR cPSD| 46342985
Dân tộc thiểu số ở Nga phân bố rải rác về phần phía bắc và phía đông nước Nga, nơi
có khí hậu tương đối khắc nghiệt nhưng là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên và
khoáng sản, là nơi dễ xảy ra tranh chấp lợi ích giữa các nước. Tiêu biểu gần đây là
những tranh chấp xảy ra tại Bắc Cực. Bắc Cực trở nên hấp dẫn nhiều quốc gia trên thế
giới vì khu vực này rất giàu tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu mỏ và khí đốt,chiếm
tới gần 30% trữ lượng khí đốt và 13% trữ lượng dầu mỏ chưa được phát hiện trên toàn
thế giới, cùng với đó là kim loại hiếm, thủy hải sản… Ngay từ năm 2001, Nga đã tuyên
bố với Liên Hợp Quốc chủ quyền biển hàng chục nghìn km² ở Bắc Cực. Năm 2001,
Nga đã đệ trình lên Ủy ban Phân định ranh giới thềm lục địa của LHQ yêu cầu công
nhận 1,2 triệu km2 dưới lòng biển từ đỉnh hai núi ngầm Lomonosov và Mendeleev đến
Bắc cực. Chính vì vậy những dân tộc cư trú tại phần lãnh thổ nước Nga gần Bắc Cực
trở nên rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh quốc phòng…
2. Những giá trị tích cực của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát
triển của nước Nga.
Theo nghĩa rộng:
Thứ nhất, lợi ích của việc có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp
Ngôn ngữ chính là những công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật thể
và phi vật thể của chúng ta. Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa,
trao đổi với nhau. Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi
nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi
với nhau. Ngôn ngữ cũng giúp tăng cường hợp tác, xây dựng xã hội tri thức toàn diện,
bảo tồn các di sản văn hóa và tạo điều kiện tiếp cận với một nền giáo dục có chất lượng
cho mọi người. Mỗi tiếng nói đều là nguồn ngữ nghĩa độc đáo để hiểu, viết và mô tả
thực tế thế giới. Tiếng nói cùng với sự đa dạng của ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng để
xác định bản sắc của các cá nhân như là nguồn sáng tạo và phương tiện để biểu hiện
văn hóa, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của xã hội. Thứ hai, lợi ích có một nhà nước chung
Trong lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước.
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên
sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế.
Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban hành các quy
định, các luật chơi trên thị trường, mà còn đóng vai trò chủ thể hoạt động sản xuất (nhất
là các hàng hóa và dịch vụ công), là người mua và bán các hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường. Như vậy lúc này quan hệ giữa nhà nước và thị trường biểu hiện ra là quan hệ
giữa các chủ thể trên thị trường, quan hệ giữa những người mua và người bán hàng hóa
và dịch vụ chịu sự tương tác, ràng buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng
như sự quản lý điều hành của nhà nước thông qua hệ thống quy định luật pháp và các công cụ quản lý. 13 lOMoAR cPSD| 46342985
Ví dụ: Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước Tư sản trong giai đoạn đầu phát triển
xã hội tư bản: xác lập và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống
xã hội nền văn hóa cũng có nhiều vai trò to lớn, cụ thể như:
+ Văn hóa góp phần làm ổn định tình trạng xã hội, bởi nó là những thứ đã tồn tại
trong một thời gian dài, đi sâu vào trong nhận thức của từng người dân, do vậy
mọi hành vi của người dân đều chịu sự điều chỉnh bởi một khuôn khổ tập quán,
đạo đức của dân tộc. Văn hóa đã góp phần làm cải thiện các mối quan hệ trong
xã hội, đem lại chất lượng sống tốt hơn cho người dân về cả mặt vật chất và tinh thần.
+ Văn hóa được chia thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, đem lại được
những giá trị lợi ích về tinh thần và vật chất cho con người từ đó tạo dựng lên
những nét đẹp truyền thống mang đậm dấu ấn của dân tộc Nga.
Thứ tư, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Có chung một vùng lãnh thổ ổn định tạo ra nơi sinh sống, sinh hoạt cho các dân tộc
đồng thời giúp các dân tộc cư trú trên đó có sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội giữa
các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, càng có thêm điều kiện đoàn kết và
hòa hợp giữa các dân tộc. Ngoài ra, phần diện tích lãnh thổ ấy còn là nguồn tài nguyên
vô giá để các dân tộc cư trú khai thác, sử dụng cho các mục đích kinh tế, xã hội phát triển quốc gia.
Theo nghĩa hẹp:
Những nét riêng biệt của các dân tộc cư trú trong lãnh thổ Nga đã góp phần không nhỏ
đối với sinh phát triển và phồn thịnh của đất nước Nga.
Thứ nhất, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Các tộc người sinh sống trên nước Nga không sống tách biệt với nhau thành từng khu
vực riêng mà thường có sự xen kẽ giữa các tộc người tạo điều kiện cho sự giao lưu văn
hóa giữa các tộc người trong đất nước. Từ đó, các dân tộc có thể rút ngắn sự chênh lệch
về trình độ dân trí, phát huy học hỏi những truyền thống, phong tục tập quán, thói quen
sinh hoạt tốt đẹp và vận dụng linh hoạt đối với từng dân tộc; cùng với đó là dần xóa bỏ
những tập tục lạc hậu, phản khoa học, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, lối sống con người.
Thứ hai, mỗi dân tộc có một nét văn hoá bản sắc riêng góp phần làm phong phú đa dạng văn hóa Nga.
Mỗi dân tộc trên nước Nga nói riêng và trên thế giới nói chung đều mang trong mình
những nét riêng biệt về nguồn gốc, lịch sử hình thành, phong tục tập quán, lối sống,
ngôn ngữ, trang phục, thói quen canh tác…Điều này tạo nên sự đa dạng về văn hóa xã
hội cho nước Nga, nhà nước cũng có thể tận dụng sự đa dạng đó để quảng bá du lịch,
dịch vụ, đưa văn hóa bản địa từng dân tộc đến với đa số người dân trong nước và quốc
tế. Đặc điểm này cùng với việc cư trú xen kẽ nhau giữa các tộc người như đã nói ở trên 14 lOMoAR cPSD| 46342985
sẽ tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn trong việc áp dụng linh hoạt những văn hóa, phong tục
tập quán sao cho phù hợp với từng dân tộc, từng vùng miền để vừa có thể bảo tồn được
những tinh hoa bản sắc từng dân tộc vừa tiếp thu những văn hóa tiến bộ của dân tộc
khác trên đất nước Nga.
Thứ ba, những dân tộc thiểu số ở Nga phân bố ở những địa bàn có vị trí rất quan trọng.
Việc cư trú tại những khu vực biên giới, khu vực gần địa phận tranh chấp… của các
dân tộc thiểu số ở Nga góp phần hỗ trợ nhà nước trong việc giữ gìn đảm bảo an ninh
quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ, phát hiện sớm những âm mưu thủ đoạn của các thế
lực thù địch từ đó ra những chính sách linh hoạt, phù hợp đối với vấn đề chính trị, an
ninh xã hội toàn đất nước Nga. Chính vì đặc điểm quan trọng như vậy cùng với những
nguyên nhân xã hội khác làm gia tăng sự quan tâm, ưu tiên của chính phủ đến những
vùng có dân tộc thiểu số sinh sống; từ đó đảm bảo ổn định an sinh xã hội phát triển
kinh tế vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách trình độ giữa các dân tộc với nhau.
Như vậy, đặc điểm về phân bố địa bàn các dân tộc thiểu số ở Nga cùng với các đặc
điểm trên đã góp phần mang lại sự phát triển, tăng trưởng về kinh tế, tiến bộ xã hội… cho nước Nga.
3. Những hạn chế của các đặc trưng của dân tộc Nga đối với sự phát triển của nước Nga.
Theo nghĩa rộng:
Thứ nhất, việc có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp.
Ngôn ngữ của dân tộc có số lượng người nói đông hơn sẽ ảnh hưởng tới ngôn ngữ có
số lượng người nói ít hơn. Ví dụ, trong một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, thì ngôn
ngữ của dân tộc đa số luôn ảnh hưởng đến các ngôn ngữ còn lại (có dân số ít hơn). Sự
ảnh hưởng nhiều khi trở nên nghiêm trọng, có thể gây ra sự thay thế ngôn ngữ và dẫn
đến cái chết của ngôn ngữ yếu. Các dân tộc thành viên dần quên đi ngôn ngữ của mình
dẫn đến làm suy giảm bản sắc dân tộc, sự đa dạng ngôn ngữ trong quốc gia cũng dần
biến mất. “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc.
Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó nhằm làm cho nó phổ biến ngày càng rộng
khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu
óc quen ỷ lại hay sao?” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Thứ hai, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
Việc cư trú đan xen giữa các dân tộc trên cùng một lãnh thổ tạo điều kiện để các dân
tộc giao lưu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhưng cũng rất
dễ nảy sinh các vấn đề mất ngôn ngữ, văn hoá, phân hoá giàu nghèo, tranh chấp đất
đai, tài nguyên, gia tăng các tệ nạn xã hội, tiềm ẩn xung đột dân tộc.
Thứ ba, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
Văn hóa là tạo nên ứng xử cộng đồng, phản ứng cộng hưởng tập thể trước một hiện
tượng hoặc sự việc nào đó. Văn hóa chứa đựng cả những sở trường và sở đoản của một
cộng đồng nên khó có thể đạt được kỳ vọng (như thường được nghe) là phát huy những 15 lOMoAR cPSD| 46342985
mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực… mà phải theo một triết lý phù hợp với thực
tiễn khai thác tất cả những gì mình có để phục vụ phát triển. Văn hóa của một dân tộc
không thể phát triển nếu không giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác. Tuy nhiên
trong giao lưu văn hóa, các dân tộc có thể đánh mất đi bản sắc văn hóa của mình.
Những nét độc nhất trong văn hóa dân tộc bị lu mờ bởi một chuẩn mực chung thống
nhất của toàn thể các dân tộc, gây nên hiện tượng đồng hóa về mặt văn hóa. Thậm chí,
các dân tộc có thể bị tiếp xúc với những nét văn hóa tiêu cực không phù hợp với phong
cách sống của mình từ đó làm đơn giản hóa, hay phải nói bào mòn nhân cách, tâm lý
các thành viên trong dân tộc.
Thứ tư, có một nhà nước chung.
Các dân tộc thành lập nên một nhà nước chung nắm quyền điều hành, quản lý, giám
sát toàn bộ các hành động của dân do vậy khâu tuyển chọn người tài lên nắm quyền
cần phải được xem xét thực hiện cẩn thận. Các quyết định là từ nhà nước ban hành,
một nước đi sai có thể sẽ phải trả giá bằng sự phát triển của cả một cộng đồng dân tộc.
Ví dụ: Nạn tham nhũng các khoản hối lộ dưới mọi hình thức tại Nga chiếm
khoảng 300 tỷ USD/, tương đương hơn 15% GDP. Có một nghịch lý là trong khi số
liệu chính thức cho thấy tỷ lệ lạm phát tương đối thấp (7%), thì đại bộ phận dân chúng
Nga lại phàn nàn về vật giá leo thang. Giới phân tích cho rằng chính tham nhũng đã
buộc người dân phải chi những khoản tiền mà đáng lẽ ra không cần phải chi và đây
chính là kiểu lạm phát trá hình đang làm trì trệ quá trình hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và
gây cản trở cho phát triển kinh tế Nga.
Theo nghĩa hẹp:
Bên cạnh những giá trị tích cực, những đặc trưng của các dân tộc tại Nga cũng mang
lại cho chính phủ và người dân Nga những rào cản nhất định trong quá trình phát triển
đất nước. Có thể kể đến như:
Thứ nhất, nga có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc người.
Quy mô dân số tại Nga có sự chênh lệch khá lớn dân số của các nhóm này khác nhau
rất lớn, từ hàng triệu (đến dưới 10.000. Điều này gây khó khăn cho các dân tộc thiểu
số trong việc tổ chức cuộc sống, bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc, duy trì và phát
triển giống nòi do đó mà đặt thêm gánh nặng cho nhà nước về chính sách phát triển
dân số cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc thiểu số rất ít người. Điều này
gây cản trở không nhỏ trong quá trình phát triển đất nước Nga.
Thứ hai, các dân tộc có trình độ phát triển không đồng đều.
Nga là một đất nước có rất nhiều tộc người, tuy nhiên lại có sự chênh lệch khá lớn về
trình độ dân trí, phát triển giữa các dân tộc. Điều này tạo ra sự không đồng nhất trong
các chính sách của chính phủ về phát triển trình độ dân trí cho từng dân tộc, từng vùng
miền, dẫn tới tiêu tốn nhiều nhân lực vật lực hơn để nghiên cứu về trình độ mỗi dân
tộc từ đó đưa ra những chính sách linh hoạt phù hợp. Sự phát triển không đều này còn
gây nên sự bất công về các vấn đề việc làm, văn hóa, xã hội khác, phần nào gây nên
mâu thuẫn giữa các dân tộc gây cản trở quá trình phát triển kinh tế xã hội. Số người di
cư theo hướng này chủ yếu là người Nga, số người còn ở lại các vùng xa xôi, hẻo lánh
đa phần là các dân tộc thiểu số. Xu hướng chuyển dịch dân cư về thủ đô và khu vực 16 lOMoAR cPSD| 46342985
châu Âu càng làm cho dân cư ở các vùng xa, vùng Siberia, Viễn Đông đã thưa thớt, lại càng thưa thớt hơn.
4. Nguyên nhân của những hạn chế và liên hệ với Việt Nam.
Nguyên nhân: Theo nghĩa rộng: *Khách quan
- Cơ chế hội nhập thị trường bên cạnh những tác động tích cực to lớn cũng đã bộc lộmặt
trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, đời sống của dân Nga.
- Sự phát triển chưa tương xứng với vị thế và tiềm năng (không còn duy trì được
sứcphát triển cùng vị thế siêu cường thế giới như thời Liên Xô, nước Nga hiện đại dù
cho là một cường quốc cũng như siêu cường tiềm năng tuy nhiên vẫn là một nước đang phát triển). *Chủ quan
- Phải chịu các lệnh trừng phạt, cấm vận từ các nước.
- Chưa có những chính sách thực sự rõ ràng về vấn đề dân tộc.
- Tình trạng xã hội thiếu tổ chức:
+ Vấn đề di dân: Dòng di cư, vượt qua biên giới các quốc gia mới thành lập càng
làm phức tạp thêm cơ cấu dân tộc của nhiều vùng lãnh thổ của nước Nga. Hệ quả của
các quá trình này là xuất hiện tình trạng “sốc văn hóa” của không ít những người nhập
cư hay chủ nghĩa sô-vanh của các dân tộc tại chỗ. Những thay đổi nhanh chóng của xã
hội Nga trong lĩnh vực dân tộc, chính trị - xã hội liên quan đến sự phân tầng xã hội, di
dân hàng loạt, bất bình đẳng và chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền trong điều
kiện kinh tế thị trường tạo nên sự bất bình, lo lắng, bất an của người dân đối với tương
lai. Việc Nga trở thành một nước tiếp nhận người nhập cư cũng tạo ra không ít vấn đề
trong việc hòa hợp người nhập cư, thích nghi họ, hướng họ vào những giá trị chung
toàn Nga để bảo đảm sự cố kết dân tộc.
+ Trong phân bố dân cư và khai thác lãnh thổ quốc gia: Ở Nga, các dân tộc thiểu
số kém phát triển hơn về kinh tế, xã hội; dân cư ít hơn nhưng lại cư trú ở những vùng
đất rộng lớn, xa xôi, hẻo lánh. Ở những địa bàn này, kết cấu hạ tầng cho sản xuất và
đời sống kém phát triển, làm phát sinh tình trạng “biệt lập” về văn hóa - xã hội, kể cả
phát sinh tâm lý lảng tránh, xa cách trung tâm trong suy nghĩ, lối sống của người dân.
Đây là mảnh đất màu mỡ phát sinh và nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, một
thách thức nghiêm trọng trong việc xây dựng một nền văn hóa, lối sống và dân tộc Nga
đoàn kết, thống nhất nói chung.
+ Vấn đề an ninh con người, an ninh kinh tế: Nhà nước chưa bảo đảm được các
điều kiện cần thiết và ngăn chặn được các mối đe dọa. Trong quá trình phát triển của
nước Nga mới, có những giai đoạn, Nhà nước không ngăn chặn, kiểm soát được tình
trạng tội phạm, để cho bạo lực tràn lan; ở một số nơi, chính quyền quản lý, điều hành
kém hiệu lực, hiệu quả, đạo đức xã hội xuống cấp; tình trạng tham nhũng của đội ngũ
quan chức; sự bành trướng quyền lợi, quyền lực của các nhóm tội phạm có tổ chức; hệ
thống các phương tiện thông tin đại chúng áp đặt lên xã hội các tư tưởng của chủ nghĩa 17 lOMoAR cPSD| 46342985
cá nhân, những giá trị ngoại lai; tình trạng làm giàu bất chính của một nhóm nhỏ xã hội
trên lưng sự nghèo khổ, bần cùng hóa của số đông, nhất là nhóm dân tộc thiểu số và nhóm người nhập cư.
Theo nghĩa hẹp:
Những hạn chế đã nêu trên gây cản trở rất lớn tới quá trình phát triển đất nước, nguyên
nhân xuất phát từ những vấn đề tiêu biểu như:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến việc Nga có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc
người có thể do lịch sử hình thành phát triển khác nhau ở mỗi tộc người liên quan đến
quá trình di cư và phân bố không đều của các tộc người trên thế giới kể cả xưa và nay
dẫn đến việc dân tộc này có thể là thiểu số ở Nga nhưng lại chiếm đa số ở quốc gia khác.
Ngoài ra, sự chênh lệch còn đến từ địa hình phân bố của các tộc người ở Nga. Những
dân tộc thiểu số sinh sống nơi trung du miền núi khí hậu địa hình khó khăn nên bị hạn
chế về việc tái sản xuất con người, tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp dẫn đến quy mô dân số
nhỏ. Hơn thế nữa, ở những vùng miền xa xôi nơi các dân tộc thiểu số sinh sống rất khó
có thể bắt được tiến độ phát triển của vùng đồng bằng, thủ đô nên vẫn còn những hủ
tục lạc hậu như tảo hôn (kết hôn khi chưa đủ tuổi), hôn nhân cận huyết… làm tăng tỉ
lệ đột biến ở trẻ em, gây nên các bệnh bẩm sinh,… đồng thời gây tổn hại cho người
mẹ. Dần đàn, điều này góp phần dẫn đến quy mô dân số giảm sút ở các dân tộc thiểu
số và gây nên sự mất căn bằng về dân số giữa các tộc người ở Nga.
Thứ hai, nguyên nhân dẫn đến sự không đồng đều về trình độ phát triển các dân tộc
đầu tiên là do sự chênh lệch về quy mô dân số giữa các dân tộc.
Sự mất cân bằng về quy mô dân số gây nên mất cân đối về lực lượng lao động. Ngoài
ra địa hình là một phần gây cản trở các dân tộc thiểu số tiếp cận với các tư liệu sản
xuất, máy móc thiết bị hiện đại, điều này khiến cho quá trình công nghiệp hóa chưa
được phát triển mạnh mẽ ở những vùng ấy. Trong khi các dân tộc thiểu số chưa kịp
phát triển tương xứng với các dân tộc chiếm đa số khác thì đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa tác động làm mất đi một số ngành sản xuất truyền thống, xuất hiện những
ngành mới,… Những quá trình này làm cho một bộ phận người dân tộc thiểu số bị tách
rời khỏi ngành, nghề làm ăn lâu đời, cách sống truyền thống nhưng lại chưa thể thích
nghi được với những ngành, nghề, cách sống mới. Kiểu phân công lao động như thế
càng làm cho ranh giới, khoảng cách giữa các dân tộc thêm sâu sắc, tăng tính biệt lập,
khép kín cũng như hình thành nên các định kiến trên nền vấn đề dân tộc. So sánh và
liên hệ đến Việt Nam:
Trước hết, người dân Liên bang Nga nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành và tự
giác chấp hành pháp luật rất cao từ những việc vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường,
chấp hành giờ giấc. Chế tài xử phạt của Liên Bang rất nghiêm khắc, ví dụ như: uống
rượu, bia và lái xe có thể tước bằng lái vĩnh viễn hoặc ngồi tù. Có thể nói những điều
luật của Liên Bang Nga có tính cưỡng chế và đồng bộ cao còn Việt Nam thì ở mức độ
nhẹ hơn với những chế tài xử phạt hành chính và phụ thuộc chủ yếu vào ý thức của
người dân thực hiện. Ở Việt Nam, người dân nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành
và tự giác chấp hành pháp luật chưa cao, nhất là bảo vệ môi trường, tham gia giao thông… 18 lOMoAR cPSD| 46342985
Đặc biệt Chính phủ Nga chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân như
chính sách việc làm và trợ cấp thất nghiệp cho người dân: Những người đăng ký tìm
việc làm qua hệ thống mạng xã hội ba lần mà không có việc làm được xem là thất
nghiệp và được trợ cấp bằng một lần mức lương tối thiểu/tháng, và sau 3 tháng, Nhà
nước sẽ tìm việc làm cho người dân đó. Đối với chính sách của Việt Nam hiện nay,
Đảng và Chính phủ vẫn chưa thể tìm ra giải pháp hiệu quả giải quyết triệt để vấn đề
này do thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng như hệ thống hành chính vẫn còn nhiều hạn chế.
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 quy định công dân có quyền được tham gia và
quyền không tham gia hội, đoàn: "Mỗi người đều có quyền liên kết, trong đó có quyền
lập hội đoàn chuyên nghiệp để bảo vệ quyền lợi của mình. Tự do hoạt động hiệp hội
được bảo đảm. Không một ai bị ép buộc, hoạt động trong một hiệp hội nào". Việc thành
lập, hoạt động của hội đoàn được quy định cụ thể tại Bộ Luật Dân sự và các luật của
Liên bang, mang tính linh hoạt nhưng luôn tuân thủ nguyên tắc 3 tự và đảm bảo dựa
trên quy định của pháp luật. Nhà nước trả công qua các hoạt động của các tổ chức minh
bạch, khách quan, trung thực, hiệu quả cao. Các tổ chức xã hội tại Nga đóng góp 17%
kinh phí cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế đấu thầu công khai các nhiệm vụ
công, dịch vụ công để các tổ chức xã hội, hội đoàn có thể tham gia thực hiện bằng ngân
sách nhà nước cung cấp trên cơ sở kết quả đấu thầu là kinh nghiệm tốt cần sớm được
nghiên cứu, vận dụng trong quá trình đổi mới cơ chế hoạt động hội quần chúng ở Việt
Nam. Đối với các tổ chức xã hội (hội đoàn quần chúng) ở nước ta cơ bản Nhà nước
vẫn bao cấp, chưa thực hiện được nguyên tắc 3 tự theo quy định. Mặt khác, nước ta có
các tổ chức chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và còn có các hội có tính chất đặc thù.
Không chỉ vậy mà Nga rất coi trọng vấn đề dân tộc, luôn chú trọng kết hợp hài hòa
chính sách Liên bang và chính sách dân tộc. Nga thành lập cơ quan điều hành, giám
sát thực hiện những vấn đề liên quan đến dân tộc, các địa phương có bộ máy làm công
tác dân tộc và dưới quyền Tổng thống Liên bang Nga có Hội đồng phụ trách dân tộc,
có nhiệm vụ tham vấn các vấn đề về dân tộc và chính sách dân tộc, triển khai thực hiện
công tác dân tộc theo mục tiêu chung và hài hòa lợi ích các dân tộc. Qua thực tiễn lịch
sử, Liên bang Nga rút ra một kinh nghiệm sâu sắc rằng, sự sụp đổ của Liên Xô có
nguyên nhân không nhỏ từ vấn đề dân tộc, đó là sự bất bình đẳng, xung đột về dân tộc,
bị nước ngoài lợi dụng kích động...
Hiến pháp năm 1993 của Liên bang Nga (Điều 28) khẳng định: "Mỗi người đều được
đảm bảo tự do tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có quyền riêng của mình hoặc cùng với
người khác theo bất kỳ tôn giáo nào hoặc không theo bất cứ tôn giáo nào, tự do lựa
chọn và phổ biến tôn giáo và các hình thức tín ngưỡng khác và hành động theo tín
ngưỡng đó". Chính sách tôn giáo của Nhà nước Nga hiện nay là ủng hộ các tôn giáo,
tín ngưỡng truyền thống ở nước Nga. Đặc biệt là Chính phủ Liên bang có chủ trương
thí điểm đưa môn học về đạo đức tôn giáo vào trong trường phổ thông nhằm phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống, qua đó
hạn chế ảnh hưởng truyền giáo từ bên ngoài vào. Hơn thế nữa, Liên bang Nga có điều
luật quy định về vấn đề tà đạo, cuồng tín và người vi phạm phải bị trừng phạt theo luật định. 19 lOMoAR cPSD| 46342985
Chế độ tự quản đã xuất hiện rất sớm tại Nga, từ thế kỷ IX và đến nay, tự quản địa
phương được xác lập là một nguyên tắc hiến định có tính cốt lõi trong Hiến pháp Liên
bang Nga 1993 và là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của tổ chức, được
xác lập ngay tại Chương I "Nền tảng của chế độ hiến định". Cơ quan tự quản địa
phương không nằm trong cơ cấu quyền lực nhà nước của chính quyền Liên bang nhưng
việc phát huy chế độ tự quản đã tác động tích cực để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước. Chế độ tự quản địa phương là hình thức phát huy dân chủ thông qua các hình
thức khác nhau như các hình thức dân chủ trực tiếp (các cuộc bầu cử; trưng cầu dân ý;
bãi miễn; biểu quyết...) hoặc dân chủ khuyến nghị (sáng lập hiến pháp; họp câu lạc bộ,
nhóm; các cuộc họp dân cư; các cuộc điều trần công khai; đơn thư kiến nghị...). Chế
độ tự quản được thực hiện thông qua hình thức hội đồng, người được bầu sẽ lựa chọn
người lãnh đạo hoặc do lãnh đạo địa phương chỉ định thông qua các hình thức trực tiếp, điện tử...
Liên hệ, so sánh tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở Nga qua các thời kỳ, càng có
cơ sở để khẳng định tính đúng đắn và tầm nhìn chiến lược của việc Đảng ta luôn thực
hiện nhất quán đường lối chỉ đạo "các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết
hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển". Quan điểm và cách vận
hành chế độ tự quản địa phương của Liên bang Nga là những gợi ý thiết thực tương
đối phù hợp để tham khảo trong quá trình nghiên cứu thể chế hóa mô hình tự quản ở
cộng đồng dân cư theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/W (2017). Không phải là một cấp
chính quyền, không thuộc cơ cấu quyền lực nhà nước mà là thiết chế nhằm phát huy
quyền lực của cộng đồng trong khuôn khổ giải quyết những vấn đề ở cơ sở, gắn bó trực
tiếp với người dân; tuy không mang quyền lực nhà nước nhưng được đảm bảo bằng
quyền lực nhà nước, trên cơ sở quy định minh bạch, rõ ràng của pháp luật. Đáng lưu ý
là việc thiết lập chế độ tự quản không song song với sự phân chia địa giới hành chính,
mà tùy thuộc theo các đặc diểm địa lý, kinh tế - xã hội, dân tộc, lịch sử... Do vậy, chế
độ tự quản cộng đồng là sự bổ khuyết rất hiệu quả đối với hệ thống quản lý nhà nước
nhưng cần xây dựng quy chế pháp lý rõ ràng, cụ thể để phát huy tốt hiệu quả của mô hình này tại Việt Nam.
III. PHƯƠNG THỨC VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ VÀ TIẾP
TỤC PHÁT TRIỂN CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN TỘC NGA.
1. Phương hướng khắc phục hạn chế và tiếp tục phát triển các đặc trưng của dân tộc Nga.
Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa
dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. 20