lOMoARcPSD| 58950985
Đại Cương Văn Học Dân Gian
1. Khái Quát
* Nguồn gốc
* Quá trình sáng tác văn học dân gian: Văn học dân gian chính là sản phẩm
của quá trình sáng tác tập thể. Quá trình này diễn ra như sau: Ban đầu, một
người khởi xướng, tạo nên tác phẩm và được tập thể nhận. Sau đó, những
người khác (có thể đến từ nhiều nơi hoặc thế hệ khác nhau) tiếp tục lan
truyền, bổ sung, chỉnh sửa và làm giàu tác phẩm cả về nội dung lẫn hình thức
nghệ thuật.
* Tác giả VHDG:
- Những tác phẩm văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không
phảitất cả nhân dân đều là tác giả của văn học dân gian.
- Khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên
tácgiả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không
hề tạo nên thói quen ấy.
- Người ta không biết ai người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến
tínhvô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh
tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không ý thức vquyền sở hữu tác
phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần trong đời sống của dân gian, mọi
người khi tham gia sáng tạo ngày càng không ý thức về quyền sở hữu tác
phẩm.
* Đặc trưng của văn học dân gian:
- Tính nguyên hợp: Tính nguyên hợp là sự gắn bó hữu cơ những giá trị thẩm mỹ
và trí tuệ của nhiều thành tố Folklore, là sự kết hợp hài hòa thống nhất tính cách
hồn nhiên tính cách nâng cao sáng tạo trong một tác phẩm văn học dân gian.
Một tác phẩm văn học dân gian bao giờ cũng được tiếp nhận, cảm thụ biến
hóa bằng tất cả các giác quan cùng một lúc.
+ Tính nguyên hợp có nguồn gốc từ đặc điểm hình thành của nghệ thuật nguyên
thủy. Gọi tính nguyên hợp nhận thức thẩm mỹ nguyên hợp từ thời nguyên
thủy và tồn tại qua các thời kỳ lịch sử.
+ Tính nguyên hợp chi phối tất cả các thành phần nghệ thuật, các yếu tố chất liệu
tạo nên bản thân nó như ngôn từ, nhạc, vũ, động tác, nghệ thuật tạo hình... vậy,
phải quan sát đời sống thực của tác phẩm văn học dân gian qua việc sử dụng, lưu
truyền và biểu diễn của nhân dân mới dễ dàng nhận rõ tính nguyên hợp.
lOMoARcPSD| 58950985
+ Trong một tác phẩm văn học dân gian, tính nguyên hợp thể hiệnhai phương
diện. Một nội dung, tính nguyên hợp biểu hiện thông qua hình tượng thái độ
của nhân dân đối với hiện thực được phản ánh. Đó còn tính đa chức năng của
tác phẩm. Thứ hai về hình thức, tính nguyên hợp thể hiện sự kết hợp giữa
ngôn từ với các loại hình nghệ thuật khác như nhạc, vũ, động tác, hóa trang…mà
trong sự kết hợp ấy ngôn từ đóng vai trò chủ yếu.
+ Tính nguyên hợp một hiện tượng tự nhiên vốn của một kiểu nghệ thuật
không chuyên. một vấn đề thuộc bản chất tồn tại của loại nghệ thuật này
chứ không phải do ai tự ý đặt ra.
- Tính truyền miệng:
+ Đây một thuộc tính rất quan trọng của văn học dân gian đã lúc các nhà
nghiên cứu, thậm chí đã dùng thuộc tính này để đặt tên cho cả bphận văn học
dân gian. Truyền miệng là thuật ngữ dùng chỉ vào phương thức lưu hành của
Folklore. Cách gọi này còn nhằm mục đích phân biệt với văn học viết theo
đó, thuộc tính truyền miệng là một thuộc tính bản để xác định đặc trưng của
văn học dân gian. Như vậy, nói đến tính truyền miệng nói đến một hình thức
sáng tạo và lưu truyền, sử dụng và biểu diễn rất đặc biệt, khác với hình thức văn
tự của văn học viết. Các tác phẩm Folklore chủ yếu trong lĩnh vực ngôn từ được
sáng tác và truyền đi từ người này sang người khác, từ không gian thời gian này
đến không gian thời gian khác. Phương thức truyền miệng chi phối quá trình sinh
trưởng và tồn tại của tác phẩm Folklore, đưa đến cho nó một số đặc điểm chung
như ngắn gọn, dễ nhớ, phiếm chỉ..
+ tính truyền miệng những hình thức, vẻ đẹp văn học viết không hề
được. Cụ thể là, do truyền miệng nên vỏ âm thanh của ngôn từ được được phát
huy đến mức tối đa.
Do truyền miệng, tức là được nói, kể, ca, diễn nên mối quan
hệ giữa tác giả và người biểu diễn - người nghe là mối quan hệ trực tiếp thân mật
(chứ không phải mối quan hệ gián cách). Đó thật sự mối quan hệ giao u.
Ngoài ra, truyền miệng còn được xem như một thuộc tính tập hợp những yếu tố
tự nhiên của con người trong môi trường diễn xướng. thế văn học dân gian trở
nên đặc biệt sinh động với yếu tố ca diễn nói riêng và những hình thức diễn xướng
khác nói chung.
- Tính tập thể:
+ Văn học dân gian là một bộ phận văn học có tính tập thể. Tính tập thể của văn
học dân gian thể hiện trong hai quá trình, đó quá trình sáng tạo qtrình
tiếp nhận.
lOMoARcPSD| 58950985
+ Nói đến quá trình sáng tạo của văn học dân gian, ta thể hình dung như thế
này. Tác phẩm đầu tiên thể do một người hoặc một nhóm người sáng tạo ra.
Sau đó qua nhiều địa phương, những khoảng thời gian khác nhau, những người
khác cũng tham gia quá trình sửa đổi, điều chỉnh tác phẩm. Người ta không biết
ai người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính danh của văn học
dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính
dị bản). Tất cả đều không ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm
được sửa đổi nhiều lần trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia
sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
+ Còn ở quá trình tiếp nhận, tập thể nhân dân tiếp nhận tác phẩm và họ không
ý thức truy tìm nguồn gốc của tác giả. Điều quan trọng đối với nhân dân khi lưu
truyền không phải là ai sáng tác mà là tác phẩm ấy nói gì ? Nói như thế nào ? Có
phù hợp với tư tưởng, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân hay không ?
+ Tập thể đây là “tập thể nhân dân”. Nhân dân tác giả, nhân dân cũng người
tiếp nhận, lưu truyền. Nói chung, họ vừa tác giả sáng tạo ra tác phẩm, họ vừa
tiếp nhận, lưu truyền tác phẩm. Vậy có thể hiểu rõ hơn về tính tập thể rằng đó là
sự gia công của nhiều người (đa phần những người tài hoa trong dân gian,
nhiều cá nhân sáng tạo tham gia vào quá trình sáng tạo tập thể), qua nhiều thế hệ
khác nhau (đây cũng là phương thức sáng tác lưu truyền tác phẩm). Sáng tác
ấy, sau đó trở thành tài sản chung của tập thể bởi phù hợp với tâm lý tập thể.
+ Tính tập thể còn được hiểu ở phương diện thẩm mỹ. Đối tượng của những sáng
tác văn học dân gian là toàn bộ những gì liên quan đến cộng đồng tập thể. Và vì
thế, văn học dân gian rất coi trọng tâm lý tập thể.
- Tính dị bản:
+ Dị bản là những bản kể, văn bản khác nhau của cùng một tác phẩm văn học dân
gian. Sự khác nhau đó thhiện nhiều phương diện như đtài, nội dung, nghệ
thuật, thể loại…; nhiều yếu tố như chi tiết, tình tiết, skiện, không gian, thời
gian, nhân vật, từ ngữ, hình ảnh, số lượng câu chữ…
+ Khác với vấn đề tam sao thất bản do sự nhầm lẫn, dị bản là những nét biến
đổi khác biệt để thích nghi, thể giải bằng các do xã hội và lí do nghệ thuật.
những biến đổi như sự chỉnh làm gia tăng hiệu quả thẩm mĩ, nhưng cũng
những biến đổi phản ánh sự vận động của ý thức dân gian. Nhờ đó VHDG tự đổi
mới, phát triển , thích nghi và trường tồn.
+ Nói đến dị bản, ta thấy có hai điểm nổi bật. Đó là những yếu tố cố định không
thay đổi và những yếu tố mới.
lOMoARcPSD| 58950985
+ Tính dị bản làm cho tác phẩm văn học dân gian không đứng yên nhất thành bất
biến mà dễ thích ứng phù hợp với nhu cầu thị hiếu của nhân dân các địa phương,
các thời kỳ lịch sử cụ thể khác nhau.
2. Thần Thoại và Truyền Thuyết
Thần Thoại
* Khái niệm: thần thoại hay còn có thể gọi huyền thoại, thể loại văn học dân
gian và là thể loại đầu tiên, ra đời từ những buổi đầu lịch sử, là một phạm trù lịch
sử cụ thể.
Truyền Thuyết
* Khái niệm: Truyền thuyết tên gọi dùng để chỉ một tác phẩm tự sự dân gian
kể về sự kiện nhân vật lịch s(hoặc liên quan đến lịch sử), phần lớn theo
xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ tôn vinh của nhân dân
đối với những người công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng dân của
một vùng. Bên cạnh đó cũng những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán
nhân vật lịch sử.
- Phân biệt truyền thuyết với sử học:
Giáo sử học Trần Quốc Vượng từng khẳng định: “Truyền thuyết không phải
lịch sử”. Đặng Văn Lung cũng nhấn mạnh: “Nói chung, những người nghiên cứu
đều biết rằng, truyền thuyết truyền thuyết, lịch sử lịch sử, không thể đồng
nhất được”
+ Truyền thuyết là những tự sự dân gian cái lõi lịch sử; màu sắc ít nhiều huyền
ảo; nội dung kể về các nhân vật sự kiện lịch sử theo quan điểm tình cảm
của nhân dân. Nói cách khác, truyền thuyết những tsự dân gian được kết tụ
từ hai yếu tố: lịch sử cấu. Truyền thuyết bao gồm nhiều nhóm: truyền thuyết
lịch sử, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết thần tổ ngành nghề, truyền thuyết địa
danh… Trong đó, mang đậm yếu tlịch sử và tiêu biểu cho đặc điểm thể loại
chính là nhóm truyền thuyết lịch sử.
+ Lịch sử là: “Khoa học nghiên cứu về quá trình phát triển của xã hội loài người
nói chung, hay của một quốc gia, một dân tộc nói riêng”
+ Truyền thuyết xuất hiện sớm hơn sử học
+
Dạng thức tác phẩm: Tuy cùng thể tự sự nhưng truyền thuyết thuộc về văn
học dân gian, còn chuyện kể lịch sử lại thuộc về văn học viết (văn học bác học).
văn học dân gian, truyền thuyết bắt buộc phải “chất dân gian”. Một trong
lOMoARcPSD| 58950985
những biểu hiện của “tính tập thể”. Khởi đầu, thể tác phẩm được sáng
tác bởi một nhân nào đó. Nhưng sau quá trình lưu truyền, sản sinh, nó phải trở
thành sở hữu tập thể. Tác phẩm khi ấy không còn được lưu dấu cá tính, tình cảm
riêng của một nhân nào. Ngược lại, chuyện kể lịch sthuộc về văn học viết
nên bắt buộc phải in đậm phong cách, tính tác giả. Các sử gia, khi biên soạn
lịch sử, luôn phấn đấu thể hiện hết tài năng, dũng khí, phong cách diễn đạt của
mình vào trang viết.
+ Quan điểm chi phối: Truyền thuyết là văn học dân gian nên tác giả cũng thuộc
về dân gian. Đó tập thể quần chúng và cả những trí thức gần dân. Rất nhiều
khả năng người kể truyền thuyết đầu tiên những trí thức phong kiến. Họ nho
nhưng không chịu đánh giá lịch sử theo tưởng chính thống. Đinh Gia Khánh
nhận xét, tác phẩm của họ “theo phong cách dân gian và sau khi được dân chúng
truyền khẩu thì ngày càng được dân gian hóa”. Trong khi đó, chuyện kể lịch sử
được biên soạn bởi nhân các sử quan, sử gia. Họ là người làm quan nên phải
theo tưởng chính thống luận bàn công tội các nhân vật lịch sử. Vua sai
họ coi việc chép sử nên họ thường ý thiên vị nhà vua, chỉ chép lại những
quan hệ đến nhà vua. Từ đó, tác phẩm của họ vắng bóng nhân dân và bị cách ly
với không khí dân dã đời thường.
+ Thành phần nhân vật: Truyền thuyết nhằm ngợi ca, tôn vinh tất cả những người
có công với đất nước, theo quan điểm của nhân dân, nên nhân vật trong tác phẩm
rất đa dạng. Có những tên tuổi nổi tiếng (Hai Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang
Trung, Trương Định, …). Có cả những anh hùng vô danh, bình dị
(nghĩa binh phò Trương Định, bộ tướng của Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân,
…). Trong khi đó, chuyện kể lịch sử do theo quan điểm chính thống nên chỉ tập
trung vào hai đối tượng nhân vật: vua và bề tôi.
+ Hình thức: Như nhiều thể loại văn học dân gian, truyền thuyết cũng mang tính
truyền thống. Tác phẩm có một kết cấu tương đối ổn định với nhiều yếu tố nghệ
thuật lặp đi lặp lại. Câu chuyện thường bắt đầu bằng việc giới thiệu lai lịch, xuất
thân khác thường của nhân vật lịch sử. Kế đến một chuỗi sự kiện, tình tiết
đậm công trạng của ngưòi anh hùng. Kết thúc là những lời tôn vinh, tưởng nhớ,
đôi khi kể thêm những chứng tích văn hóa liên quan đến nhân vật chính. Khác
truyền thuyết, chuyện kể lịch sử tuân thủ theo lối viết sử: chính xác, cụ thể, theo
trình tự thời gian.
+ Ngôn ngữ kể: Ngôn ngữ trong truyền thuyết chú trọng tính biểu cảm nên mẫu
câu rất đa dạng. Tác phẩm dùng nhiều từ ngữ biểu cảm khai thác tối đa ngôn
ngữ toàn dân. Đây cũng là phương cách đưa tác phẩm hòa nhập sâu rộng vào đời
sống dân gian. Trái lại, ngôn ngữ trong chuyện kể lịch sử chú trọng tính thông
lOMoARcPSD| 58950985
tin, tái hiện không khí thời đại xưa. Bởi vậy, chuyện kể lịch sử có xu hướng dùng
câu ngắn gọn, từ ngữ hàm súc, sử dụng nhiều biệt ngữ, từ Hán Việt.
+ Cách xây dựng hình tượng: Hình tượng nhân vật trong truyền thuyết luôn vượt
lên ngưỡng đời thường. Họ được nâng lên ngưỡng thiêng liêng, bất tử. Do đó,
người kể truyền thuyết thường chú ý phần lai lịch bí ẩn, tô đậm những nét ngoại
hình khác lạ, nhấn mạnh những câu nói hay, miêu tả cặn ktừng hành động phi
thường của nhân vật. Nhân vật truyền thuyết đôi khi cũng được miêu tả tâm
một cách giản đơn. Người kể được quyền cấu, phóng đại, miễn sao câu chuyện
củng cố được niềm tin cho người nghe, người đọc. Riêng hình tượng nhân vật
trong chuyện kể lịch sử phải được khắc họa đúng như con người ngoài đời: lộ rõ
nhân cách, tài năng.
+ Chức năng tác phẩm: Nếu truyền thuyết có chức năng đánh giá sự kiện và con
người lịch sử theo cách nhìn của nhân dân thì chuyện kể lịch sử lại đánh giá theo
cách nhìn của tầng lớp thống trị đương thời (còn gọi tưởng chính thống,
quan điểm chính thống). Nếu truyền thuyết nhằm thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng
mộ, tôn thờ người công đức đối với nhân dân và dân tộc thì tác phẩm lịch sử
lại nhằm đưa ra những tấm gương làm bài học đối nhân xử thế, bài học cảnh tỉnh,
răn đe đời sau. * Đặc trưng của truyền thuyết Đặc trưng nội dung:
- Tính hư cấu lịch sử là đặc điểm nổi bật của truyền thuyết:
+ Trong quá trình vận động phát triển, đổi mới sự giao thoa với các thể loại
khác ( sử thi, cổ tích), truyền thuyết trở thành “lịch sử hư cấu”.
+ Theo thủ tướng Phạm Văn Đồng: “những truyền thuyết dân gian thường một
cái lõi là sự thạat lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hóa, gửi gắm
vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức
tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời
con người ưa thích.”
+ Trong truyền thuyết dân gian, sự thật lịch sử chỉ cái lõi để từ đó nhân dân
sáng tạo thành truyện, nghĩa là đã có hư cấu.
+ Theo Kiều Thu Hoạch, sự thật lịch sử trong truyền thuyết sự thật nghiền
ngầm, “cái thực về mặt tâm , chứ không phải cái thực về lịch sử.” Những
biểu hiện như tính lịch sử, yếu tố lịch sử, chất sử trong truyền thuyết phải được
hiểu như một biện pháp nghệ thuật, được gọi là tính hư cấu lịch sử.
- Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo
+ Truyền thuyết ở giai đoạn sơ khai đã có chức năng “kể sử truyền đời”.
lOMoARcPSD| 58950985
+ Ở VN, chỉ có thể căn cứ vào truyền thuyết truyền miệng mà các sử gia mới có
thể dựng lại được lịch sử dựng nước và giữ nước từ buổi đầu Kỉ Hồng Bàng đến
thời kì Văn Lang- Âu Lạc.
+ Trong lịch sử dựng nước truyền thuyết là nguồn tài liệu phi lịch sử duy nhất
phản ánh nguồn gốc giống nòi dân tộc và giáo dục ý thức lịch sử trải nhiều thế
hệ
+ Trong lịch sử giữ nước, truyền thuyết vẫn tiếp tục phản ánh lịch smột cách
độc đáo về chủ nghĩa anh hùng tập thể với âm hưởng, tình cảm chủ đạo khuynh
hướng ngợi ca .
+ Khi giai cấp phong kiến mất vai trò lịch sử tiến bộ, truyền thuyết đã phản ánh
các phong trào khởi nghĩa nông dân, khi giai cấp phong kiến thoái hóa, truyền
thuyết lịch sử lại có bước phát triển mới với nội dung xã hội tiến bộ và tinh thần
dân tộc sâu sắc.
+ Truyền thuyết không thể hoàn toàn cái đã xảy ra từng được biên chép vào
trong văn bản chính sự nhà nước ở mọi thời, nhưng nó cũng không hoàn toàn chỉ
cái thể xảy ra trong tưởng tượng cấu. là sản phẩm của sự kết hợp một
cách độc đáo giữa sự thật cấu, giữa cấu sự thật trong mối quan hệ
giữa fonklore với thực tại biểu hiện đặc trưng thể loại.
Đặc trưng nghệ thuật:
- Hình thức cấu tạo cốt truyện:
+ Truyền thuyết không những kiểu cốt truyện được xây dựng đa dạng
sức khái quát cao về mặt nghệ thuật. Nhìn chung, cốt truyện truyền thuyết đơn
giản, sơ lược. Đặc điểm này hình thành do yêu cầu câu chuyện ngắn gọn, dễ nhớ
để dễ lưu truyền lịch sử bằng con đường truyền miệng.
+ Có mối quan hệ đặc biệt tự nhiên và sâu sắc với phong tục tín ngưỡng và lễ hội
dân gian. Thường được cấu tạo theo hình thức gồm ba chặng lớn kvề đời một
nhân vật.
Chặng 1: Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm khác thường của nhân vật.
Chặng 2: Hành trạng và những chiến công khác thường của nhân vật.
Chặng 3: Sự hóa thân của nhân vật
+ Đây là một kết cấu chuỗi gồm những mẩu chuyện có thể hư ảo thần kỳ hay đời
thường thế tục, nhưng đã được sắp xếp lại theo một trình tự thời gian cụ thể trong
một không gian xác định.
lOMoARcPSD| 58950985
+ kết cấu chuỗi nên trong mỗi chặng lớn thường lại những tình tiết khác
nhau theo những cách kể khác nhau.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Nhân vật trong truyền thuyết là sự kết hợp kì lạ giữa những nét đời thường thế
tục với những nét kỳ ảo phi thường.
+ Khác với chính sử hàn lâm của sử quan các triều đại bị chế định bởi hệ tư
tưởng của nhà nước phong kiến, nhân vật lịch sử trong truyền thuyết là kiểu
người anh hùng dân tộc rất gần gũi với quần chúng lao động. Vì thế các chi tiết
hình ảnh kể về cuộc đời nhân vật giàu tính hiện thực, đời thường, tất nhiên để
tôn vinh các bậc anh hùng chống xâm lược trong cảm hứng ngợi ca, truyền
thuyết lịch sử vẫn cần đến những yếu tố kỳ diệu. Những yếu tố kì diệu được
điểm tô cho các nhân vật lịch sử có thật chỉ là kết quả của sự hư cấu kì ảo có
chủ tâm được vay mượn trong thế giới cổ tích
+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật truyền thuyết thường sử dụng 3 loại
mô tuýp ứng với ba chặng diễn biến cuộc đời một nhân vật . Chặng thứ nhất kể
về hoàn cảnh xuất hiện nhân vật ở dạng đầy đủ và sau đó là mô túyp về những
đặc điểm kỳ lạ của nhân vật. Chặng thứ hai kể về hành trạng và sự nghiệp hiển
hách của nhân vật. Mô tuyp trung tâm ở chặng này thường là chiến công phi
thường, là lý do tồn tại của một truyền thuyết. Chặng thứ ba xuất hiện các mô
típ về sự hóa thân và sự hiển linh. Trong đó mô quyp hóa thân đã trở thành công
thức kết thúc, biểu hiện nổi bật đặc điểm hư cấu lịch sử của thể loại.
- Không gian- thời gian:
+ Thời gian: Trong thần thoại, ý niệm về thời gian tuy đã có nhưng chỉ mới ở giai
đoạn bắt đầu. Thời gian thần thoại chưa thật cụ thể, ràng chưa tính xác
định. Khảo sát thi pháp thời gian thần thoại, ta thấy phổ biến yếu tố thời gian vĩnh
hằng, bất tử (Kiếu như “Thuở ấy chưa thế gian, cũng chưa muôn vật loài
người” “không biết bao lâu”…). Tuy nhiên vì gắn liền với các sự kiện lịch sử
có thật nên so với thời gian còn mơ hồ của thần thoại và thời gian phiếm chỉ của
cổ tích thì thời gian trong truyền thuyết đã có tính xác định hơn.
+ Không gian: Nhân vật địa bàn hoạt động cụ thể hoặc tương đối cụ thể xác
định. Điều này phản ánh địa bàn cư trú và hoạt động trong lịch sử người Việt cổ.
Bên cạnh đó, một số không gian của truyền thuyết tương đồng chính xác với lịch
sử và còn giúp ích ít nhiều cho việc chép sử. Khảo sát truyền thuyết Việt Nam, ta
thấy một hiện tượng phổ biến không gian thường được đặt đầu truyện cuối
truyện. Ở đầu truyện, không gian nhằm xác định nhân vật có nguồn gốc rõ ràng,
lai lịch cthể. cuối truyện, không gian lại tác dụng đưa những yếu tố
lOMoARcPSD| 58950985
hoang đường huyền thoại gần với thực tế hơn. Và điều đó có ý nghĩa như một sự
xác nhận của dân gian rằng truyền thuyết và lịch sử chỉ là một mà thôi.
* Nội dung của truyền thuyết:
- Truyền thuyết anh hùng với các vấn đề về nguồn gốc giống nòi dân tộc những
kì tích văn hóa thời kì dựng nước trong cảm hứng ngợi ca.
+ Hai chuỗi truyện kể về “Vua rồng xứ Lạc” và “Đất nước Văn Lang” được xem
là VHDG thời kì dựng nước, trước khi nhà nước Âu Lạc ra đời.
+ “Vua rồng xứ Lạc” là truyền thoại về thủy tổ giống nòi Lạc Việt, chủ nhân của
nền văn minh sông Hồng- điểm hội tụ đỉnh cao của văn hóa Phùng NguyênĐông
Sơn.
+ Nhóm truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu gợi về một thuở tổ tiên khai hoang
lấn biển, mở mang địa bàn cư trú.
+ Bộ phận truyền thuyết được hình thành vào cuối thời đại nhà Hùng nhóm
truyện về thời đại 18 thế hệ vua Hùng, vị vua đầu tiên tức Hùng Vương đời
thứ nhất người con trưởng của LLQ-ÂC. Bộ phận truyền thuyết này đã sự
tham gia sáng tạo của đủ mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó một chủ điểm nổi
bật xuyên suốt hệ thống truyền thuyết này chính là sự thành kính thiêng liêng và
niềm biết ơn sâu sắc đối với các vị vua Hùng.
+ Truyền thuyết thời Hùng Vương kể về những chàng rể của các vua Hùngnhững
anh hùng sáng tạo nên kì tích văn hóa Văn Lang thời dựng nước.
- Truyền thuyết lịch sử với vấn đề đấu tranh giữ nước trong trường kì lịch sử dân
tộc chống xâm lược.
+ Đây là bộ phận truyền thuyết có khối lượng lớn nhất, được hình thành sau thời
An Dương Vương để mất nước vào tay Triệu Vương.
+ Căn cứ vào truyền thuyết về Thục Phán- An Dương Vương, thể khái quát:
đến truyền thuyết “ADV Mị Châu- Trọng Thủy” am vang cuối cùng của bản
hùng ca dựng nước và mở đầu của tấn bi kịch nướ mất nhà tan
+ Qua truyền thuyết về ADV, thấy được vai trò của nhân dân Âu Lạc trong công
cuộc giữ nước buổi đầu.
+ một bộ phận thần thoại truyền thuyết anh hùng thời dựng nước đã chuyển
hóa thành những mẫu kể mới để đảm đương những thách thức mới của lịch sử.
+ Có một bộ phận đồ sộ những truyền thuyết lịch sử về các anh hùng dân tộc mà
chúng ta còn lưu giữ được dến nay. Đây một “tập đại thành” bởi tính đặc biệt
lOMoARcPSD| 58950985
chặt chẽ, hệ thống, lại được kết hợp tnhững mẩu truyện tính cố định. Nguyên
tắc chung của những truyện này là đều kể về 1 anh hùng nhưng ý nghĩa của nó
phản ánh tinh thần đoàn kết chiến đấu của cả dân tộc. Mở đầu chuỗi truyền thuyết
trên truyền thuyết về “hai Bà Trưng”. Tiếp nối sau đó những truyền thuyết
về Bí, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Mai Hắc Đế cho đến khi Ngô Quyền
giành lại đất nước từ quân Nam Hán.
+ Khi đất nước bước vào thời ngót một ngàn năm xây dựng bảo vệ quốc gia
phong kiến độc lập tự chủ, đất nước đã có chính sử ghi chép lại kì tích của các vị
anh hùng, nhưng truyền thuyết dân gian vẫn có lối đi riêng, Những truyền thuyết
ấy muốn khẳng định sức mạnh song của chủ nghĩa anh hùng tập thể trong mọi
cuộc chiến chống ngoại xâm của dân tôc. Trong ý thức dân gian, sự kiện về những
anh hùng đại thắng quân xâm lược được lí giải bằng những mẩu chuyện rất cảm
động (chàng thiếu niên Trần Quốc Toản bóp nát quả cam trong thức, Phạm
Ngũ Lão đan sọt bên đường bị giáo đâm vào đùi mà không biết đau...).
- Những truyền thuyết lịch sử về vấn đề đấu tranh giai cấp trong các phong trào
khởi nghĩa nông dân chống phong kiến.
+ Chính sử có ghi lại những cuộc khởi nghĩa của nông dân nhưng lại xem là giặc
cướp, song trong ý thức dân gian họ những người anh hùng. Hệ thống truyền
thuyết về người anh hùng nông dân ra đời phát triển thành từng chuỗi trong
thế đối lập.
+ Hình tượng người thủ lĩnh nông dân trong truyền thuyết dân gian là sự kết tinh
của ước mơ, khát vọng, để thay đổi trật tự xã hội lúc bấy giờ.
+ Trong những truyền thuyết về Quận He, Quận Hẻo, về Vua Lía, Ba Vành...,ta
thấy sự phản ánh tinh thần hưởng ứng nhiệt thành của nhân dân và biểu hiện
rất nổi bật cảm hứng ngợi ca tài năng kiệt xuất phẩm chất kiêu hùng của những
con người này thông qua những chi tiết kì ảo hư cấu có chủ tâm.
+ Đây là bộ phận truyền thuyết cơ bản thể hiện trực tiếp và mạnh mẽ nhất thái độ
phản kháng, tinh thần dân chủ khát khao giải phóng của nhân dân lao động
trong mọi thời đại.
- Một số phương diện nội dung khác của truyền thuyết:
+ một bộ phận truyền thuyết về các danh nhân văn hóa, mở đầu nhóm truyện
về Thái Tổ dời đô tHoa về Thăng Long. Sau đó cả hệ thống những
mẫu kể về nhà văn hóa đã từng để lại dấu ấn đặc biệt về nhân cách và tài năng (
những truyện về trạng nguyên Văn Thịnh, về Vạn thế sư biểu Chu Văn An,
lOMoARcPSD| 58950985
Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, bác học danh tài Quý Đôn, những sứ thần
quả cảm và thông thái như: Phùng Khắc Khoan, Mạc Đĩnh Chi...)
+ Ngoài những truyền thuyết vdanh nhân văn hóa, cũng cần kể đến một bộ phận
truyền thuyết về những nhân vật tôn giáo ít nhiều có tính truyền thuyết.
3. Truyện Cổ Tích *
Khái niệm:
- Cổ là xưa, tích là vết
- Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếutố
nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc
lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lý xã hội và ước mơ một cuộc sống
tốt đẹp hơn của nhân dân lao động.
* Phân Loại: Có nhiều cách phân loại truyện cổ tích, nhưng cách phân loại phổ
biến nhất được hầu hết các nước áp dụng do Ô.Mi- lơ đề xuất từ năm 1865
Nga, chia truyện cổ tích thành 3 tiểu loại:
- truyện cổ tích thần kì
- truyện cổ tích sinh hoạt - truyện cổ tích loài vật.
* Đặc trưng:
- Truyện cổ tích là truyện kể hoàn toàn hư cấu và kì ảo:
+ Hư cấu chính là bản chất mang tính thẩm mĩ, là đặc trưng nổi bật của thể loại.
+ Trong ngôn ngữ dân gian cổ tích không chỉ có ý nghĩa định danh mà còn là sự
định tính, chỉ cái gì đó xa xưa không có thật.
+ Mỗi tình huống, mỗi cốt truyện đều không có thực, không diễn ra trên thực tế,
nhưng đó là sự hình dung, cách nhìn khái quát của nhân dân về hiện thực xã hội,
bày tỏ khát vọng và tinh thần lạc quan của con người.
+ Truyện cổ tích là dạng truyện kể thể hiện cái nhìn nghệ thuật về cuộc sống của
người lao động, để họ vẽ ra một thế giới lung linh, đẹp đẽ, giúp họ vượt qua những
khó khăn đau khổ của cuộc đời thực.
+ Truyện cổ tích hấp dẫn cũng chính ở sự sáng tạo kì ảo:
lOMoARcPSD| 58950985
+) Qua truyện cổ tích, người lao động muốn vẽ nên một thế giới cần có và nên có
cho con người chứ không phải cái thế giới vốn với những nỗi đau khổ
bất công → ước mơ khát vọng về sự công bằng, về một cuộc đời tốt đẹp.
+) Bản chất của truyện cổ tích xây dựng một thế giới nghệ thuật trong trí tưởng
tượng kỳ ảo, phi hiện thực để thực hiện tưởng về hội công bằng, một thế
giới nên có và cần có cho con người. Truyện cổ tích là chuyện hư cấu có chủ tâm
và mang tính nghệ thuật, truyện cổ tích không bao giờ mạo nhận là hiện thực.
+) Truyện cổ tích hấp dẫn trước hết do tính chất khác thường của câu chuyện
kể, sự không phù hợp với hiện thực, bịa đặt đã mang lại khoái cảm đặc biệt.
Ví dụ: việc chết đi sống lại của cô Tấm,…
+ Đặc điểm của truyện cổ tích truyện không bao giờ xảy ra được lại được kể
bằng một phong cách một giọng kể điệu bộ nét mặt làm như tất cả những điều
được kể lại.
- Truyện cổ tích là những truyện kể đã hoàn tất
+ Truyện cổ tích là những câu chuyện về sự thưởng phạt công bằng theo quan
điểm của nhân dân hiền gặp lành, ác gặp ác”, vậy mỗi câu chuyện
đều đã hoàn thành về cốt truyện.
+ Ta thể thay đổi về lời kể, thay đổi về lời mở đầu, lời miêu tả nhưng cốt truyện
của truyện kể vẫn phải được bảo lưu.
+ Đặc trưng về sự hoàn thành cốt truyện cổ tích liên quan chặt chẽ đến tính chất
cấu, ảo của bản thân câu chuyện. Điều này rất quan trọng đối với tâm
tiếp nhận của người đọc: người ta chấp nhận mọi điều lý, những thứ không
bao giờ thật trong cuộc đời mà chỉ có thể thuộc về thế giới nghệ thuật của cổ
tích.
dụ: thôn nữ lấy được nhà vua, chàng mồ côi lấy được công chúa, con người
lên trời,…
+ Motip quen thuộc, phi nhưng đều hướng tới ước của con người: hạnh
phúc sự công bằng. Việc sửa chữa văn bản để phù hợp với thời đại ngày nay
là không cần thiết vì sẽ làm mất đi giá trị cũng như bản chất của thể loại.
- Tính chất giáo huấn, triết lí của truyện cổ tích
+ Truyện cổ tích lúc nào cũng khuyên nhủ, dạy bảo con người dưới một hình thức
lí thú và nhiều khi ngụ ý một cách bóng bẩy.
lOMoARcPSD| 58950985
+ Truyện cổ tích ca ngợi và bênh vực cho đạo đức của con người thông qua nhân
vật lí tưởng: Nhân vật lí tưởng được giới thiệu ở phần đầu truyện bao giờ cũng
người tài năng vượt trội. Nhân vật tưởng mang đạo đức, tài năng của nhân
dân, những giá trđã được thừa nhận. Nhân vật tưởng thường được các lực
lượng thần kì thử thách về đạo đức và tài năng ( sự tích con khỉ, cây khế,…)
+ Để làm nổi bật phẩm chất của nhân vật tưởng, truyện cổ tích xây dựng theo
sự xung đột của hai tuyến nhân vật: thiện – ác, tốt – xấu, người anh – người em,...
Nhân vật tưởng đạo đức tài năng sẽ được nhận phần thưởng, nhân vật
phản diện không bao giờ nhận được cho dù có giả mạo hay chiếm đoạt, thậm chí
bị trừng phạt.
Phần miêu tả những xung đột trong truyện cổ tích thần kì về cơ bản chính là
sự giới thiệu, mô tả đạo đức và tài năng của nhân vật lí tưởng để bày tỏ ước mơ
của nhân dân.
* Nội dung của truyện cổ tích
Truyện cổ tích sinh hoạt
- Truyện cổ tích sinh hoạt cũng gọi cổ tích thế sự, phân chia theo đề tài
nộidung phản ánh, qua câu chuyện là một bài học về những vấn đề đạo đức, ứng
xử và cách sống của con người.
- Sức hấp dẫn của câu chuyện không các yếu tố ảo, hoang đường
nằm ởsự giản dị của câu chuyện, ở những tình huống sinh hoạt thường ngày. Vì
thế tính giáo huấn của truyện cổ tích sinh hoạt rất cao, hướng tới những chuẩn
mực đạo đức, bênh vực và bảo vệ những giá trị đạo đức trong gia đình và xã hội.
- Mảng truyện này có số lượng ít ở các dân tộc thiểu số nhưng ở người Kinh
lạicó số lượng truyện lớn, điều này thể hiện trình độ phát triển của xã hội, của tư
duy người Kinh đạt đến trình độ cao hơn.
- Nhóm truyện cổ ch sinh hoạt khá đa dạng như chính sự đa dạng của
cuộcsống, của những hoàn cảnh, số phận cuộc đời. Nhóm truyện thể phân chia
ra mảng truyện về trí tuệ con người và truyện về đề tài đạo đức.
+ Nhóm truyện về đtài trí tuệ thường hai dạng bản: truyện về nhân vật
ngốc và truyện về người thông minh.
+) Nhóm truyện về nhân vật ngốc thể kể đến như các truyện “Chàng ngốc đi
buôn”, “làm theo vợ dặn”. Những truyện này gần gũi với truyện cười chỗ chúng
chứa được yếu tố hài, nhưng khác với ý nghĩa phê phán, tiếng cười trong truyện
cổ tích có tính giải trí, những chuyện như vậy thể hiện cái nhìn hài hước, vui tươi
của trí tuệ nhân dân.
lOMoARcPSD| 58950985
+) Nhóm truyện về những người thông minh trí tuệ, giống như Vỏ Quýt Dày Có
Móng Tay Nhọn. Nhóm truyện này xây dựng những mâu thuẫn xung đột chủ yếu
giữa người nghèo, địa vị thấp kém với người bóc lột, vua quan. Ngoài ý nghĩa
đấu tranh giai cấp thì nhóm truyện này nhằm đề cao trí tuệ của dân gian.
- Những chuyện về đạo đức, luân trong hội rất phong phú, mỗi vấn
đề,mỗi cách ứng xử khác nhau trong cuộc sống đều được thể hiện bằng những
cách khác nhau. Nhóm truyện này hầu như không xung đột gay gắt. Câu truyện
thường đơn tuyến.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật của cổ tích sinh hoạt cũng đặc biệt. Tác giả
dângian luôn lựa chọn những chi tiết đắt, tiêu biểu của nhân vật để thể hiện chủ
đề. Bởi truyện cổ tích sinh hoạt không nhằm dựng lại cuộc đời, số phận của
nhân vật cho nên phải tập trung vào những khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc
đời con người, những tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ tính cách.
- Kết cấu của truyện cổ tích sinh hoạt không thật rõ ràng và ổn định, chúng
takhó thể hình hóa cốt truyện của tiểu loại này. Bản thân mỗi chuyện
một kết cấu đặc biệt, linh hoạt theo từng tình huống. thế truyện cổ tích sinh
hoạt mang tính mở và gần với những hình thức truyện kể của văn học viết.
- Trong các truyện cổ tích sinh hoạt có các yếu tố thần kỳ, nhưng về cơ bản
vấnđề quan tâm và đặt ra vẫn là những ứng xử trong sinh hoạt đời thường.
- Truyện cổ tích sinh hoạt gắn với không gian đời thường với cảnh nhà quê
gầngũi. Sự hạn chế mở rộng không gian của của cổ tích sinh hoạt đắp bằng
việc mô tả tỉ mỉ, chi tiết khung cảnh làng quê, tập trung vào hành động, cách giải
quyết của con người, thế mang tính chiều sâu của duy và quan niệm dân
gian.
Truyện cổ tích về loài vật
- Truyện cổ tích về loài vật một bộ phận quan trọng của truyện kdân
gian.Đây nhóm chuyện được yêu thích, đặc biệt trẻ em. Nhiều truyện cổ tích
về loài vật nguồn gốc từ thần thoại về nguồn gốc dân tộc, dòng họ, thế chúng
nằm trong ranh giới giao thoa với thần thoại.
- Giữa truyện cổ tích về loài vật truyện ngụ ngôn cũng những điểm
giaothoa dựa trên những miêu tả về nhân vật và nội dung nhất định của chúng.
Nhưng về bản, giữa thể loại này sự khác nhau rệt(ở truyện ngụ ngôn nhân
vật thể loài vật nhưng cũng thể con người, trong khi nhân vật của
truyện cổ tích về loài vật thì nhất định nhân vật phải là loài vật. Bản thân con vật
lOMoARcPSD| 58950985
trong truyện cổ tích loài vật, những con vật của thế giới tự nhiên còn nhân
vật là con vật trong truyện ngụ ngôn hàm ý đến thế giới con người,...)
- Truyện cổ tích loài vật nội dung giáo huấn nhưng đó không phải
mụcđích chủ yếu của tiểu loại này, mà cốt lõi là một sự nhận thức và lý giải đặc
điểm của loài vật.
- Trong kho tàng truyện cổ tích truyện về loài vật của người Kinh không
xâydựng những nhân vật nổi trội và tạo thành hệ thống truyện, mà các nhân vật
xuất hiện tương đối bình đẳng, nhưng các dân tộc thiểu số truyện cổ tích loài
vật tạo thành những nhóm truyện, xây dựng được những nhân vật tiêu biểu.
- Truyện cổ tích loài vật nhiều xung đột, mỗi xung đột thể hiện những
mâuthuẫn khác nhau của thế giới tự nhiên và bộc lnhững thái độ khác nhau của
dân gian về những vấn đề tự nhiên và xã hội.
- Những vấn đề của đời sống con người, của quan niệm nhân dân thể hiện
quacổ tích loài vật không thực sự đậm nét, vì đó không phải chức năng chính của
thể loại này.
- Kết cấu qua truyện cổ tích loài vật đơn giản, nhiều truyện chỉ một
tìnhhuống, truyện được xây dựng chủ yếu trên các tình huống đó. Trong truyện
cổ tích loài vật, đối thoại giữa các nhân vật đóng vai trò rất quan trọng trong việc
tạo nên kết cấu cốt truyện, bộc lộ tính cách và giải quyết mâu thuẫn xung đột.
Truyện cổ tích thần kỳ
- Đây là nhóm truyện phong phú và hấp dẫn hơn cả của truyện cổ tích, đượcphân
chia dựa vào yếu tố nghệ thuật chủ yếu của tác phẩm sự xuất hiện yếu tố thần
kỳ. Nhóm truyện này thể hiện được đặc trưng bản của truyện cổ tích
nhóm truyện tiêu biểu của truyện cổ tích. Tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt
truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt là phương thức sáng tác. Đó
sự tham gia của các yếu tố thần kỳ, nghệ thuật tưởng tượng của truyện cổ tích
- Nhân vật trung tâm của cổ tích thần kỳ bao giờ cũng là con người, nạn nhâncủa
xã hội nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội xung quanh nó. Nhân vật của truyện
cổ tích thần kỳ thường là những nạn nhân xấu số, những người bất hạnh của xã
hội. Mỗi câu chuyện hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc của những nhân vật
đó.
- Một số kiểu truyện cổ tích thần kỳ phổ biến
+ Truyện người mang lốt vật: Đây là kiểu truyện cổ tích quen thuộc còn được gọi
là kiểu truyện với nhân vật xấu xí mà tài ba. Truyện thường kể về nhân vật mang
một vẻ ngoài xấu xí, dị dạng hoặc mang lốt con vật nhưng lại tâm hồn trong
lOMoARcPSD| 58950985
sáng, tốt bụng đặc biệt tài năng khác thường. Tên nhân vật cũng thường
được dùng để đặt tên truyện, cốt truyện thường theo một mô hình thống nhất.
Qua truyện cổ tích người mang lốt vật, nhân dân lao động thể hiện quan
niệm về mối quan hệ giữa hình dáng bên ngoài phẩm chất bên trong của
con người. Nếu phải lựa chọn thì nhân dân hết sức đề cao phẩm chất, tư cách con
người.
+ Truyện người mồ côi: Đây dạng truyện phổ biến nhất của truyện cổ tích, nhân
vật mồ côi kiểu nhân vật thường gặp nhất khiến cho nó thể kết hợp với nhiều
kiểu nhân vật khác.
Câu chuyện này phản ánh những mâu thuẫn trong phạm vi gia đình, chủ
yếu về vấn đề thừa kế, tư hữu, vấn đề đạo đức chỉ là biểu hiện kết quả của những
hành động đó.
+ Truyện người em: Vấn đề chủ yếu các chuyện này đề cập đến thông qua
xung đột giữa các anh chị em là quyền thừa kế. Vấn đề này có liên quan đến thời
điểm ra đời của truyện cổ tích khi chế độ thị tộc tan rã, gia đình phụ hệ thay thế
dầu gia đình mẫu hệ.
Cốt truyện của kiểu truyện này rất đơn giản và thường mang tính chất lặp
lại, theo thuật ngữ gọi là dạng kết cấu đồng quy, có nghĩa là truyện xây dựng hai
nhân vật thành hai tuyến song song với nhau, đối lập nhau. Đây là cốt truyện phổ
biến, ngoài ra cũng nhiều truyện cuộc đấu tranh giữa người em người
anh sẽ ra quyết liệt với nhiều tình tiết hơn, nhiều típ hơn. Trong kiểu truyện
này, nhân dân thường lý tưởng hóa nhân vật người em.
+ Truyện dũng hay truyện về các chàng trai khỏe: Đây đóng góp độc đáo của
kho tàng truyện cổ tích các dân tộc. Truyện thường xây dựng những nhóm nhân
vật anh hùng, dũng cảm có tài năng đặc biệt.
Nhìn chung các truyện đề cao tập thể những người lao động tài giỏi, anh
hùng, những người thợ lành nghề, thể hiện trí tưởng tượng táo bạo của nhân dân,
sự phát triển của tư duy và nhận thức cuộc sống của con người. Các truyện thuộc
nhóm này gần gũi, thâm nhập vào thể loại thần thoại.
4. Truyện cười, truyện ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn
* Khái niệm: truyện ngụ ngôn là loại truyện kể có thể bằng văn xuôi hoặc văn
vần, ở đó người ta mượn một câu chuyện nhỏ mà nhân vật là loài vật, đồ vật
hay là chính con người để gửi gắm những bài học kinh nghiệm sống, răn dạy
người ta về luân lí, đạo đức, cách đối nhân xử thế.
lOMoARcPSD| 58950985
* Đặc trưng :
- Truyện ngụ ngôn là loại truyện mượn một cốt truyện ẩn dđể ngụ ý một lời quy
châm
+ Nội dung của hầu hết các truyện ngụ ngôn thể hiện một nguyên đạo đức
hay nguyên tắc xử thế nào đ, kèm theo đó là hậu quả tốt hay xấu của việc vận
dụng các nguyên tắc, nguyên xử thế ấy, từ đó rút ra bài học đạo đức, kinh
nghiệm sống, triết lý sống cho con người.
+ Lời quy châm khi được diễn đạt một cách trực tiếp qua nhan đcủa u
chuyện, cũng có khi được tổng kết lại qua câu văn cuối bài, nhưng thường xuyên
được diễn đạt một cách kín đáo, ý nhỉ, ẩn giấu ới lớp ngôn từ thông qua
phương pháp ẩn dụ, người đọc phải tự suy ngẫm và rút ra. Nói cách khác, truyện
ngụ ngôn bao giờ cũng hai phần: phần nghĩa đen phần nghĩa bóng, phần
xác phần hồn, phần truyện kể phần bài học kinh nghiệm. Mục đích của
truyện ngụ ngôn hướng người đọc đến việc lĩnh hội những bài học kinh nghiệm
đó.
+ Ẩn dụ một căn cứ rất quan trọng để nhận biết truyện ngụ ngôn. Mỗi truyện
ngụ ngôn là một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng, trong đó nhân vật thể
con vật, đồ vật hay con người với những hành động thể không thật tưởng
như l, bởi tất cả điều đó thể tạo ra một không gian ẩn dđể truyện ngụ
ngôn che giấu một ngụ ý mà người đọc phải có nhiệm vụ tìm ra
+ truyện ngụ ngôn cốt truyện chphương tiện, lời quy châm rút ra từ cốt
truyện mới là mục đích
+ Vai trò của những nhân vật khác thường trong truyện ngụ ngôn tạo ra môi
trường ẩn dụ, logic tâm lý nhận thức kéo theo là cần tìm ra cái gì ẩn đằng sau
+ truyện ngụ ngôn, hiện tượng kỳ lạ đồng nghĩa với một hiện tượng ẩn ý.
Điểm đến của người đọc là hiện thực có ẩn ý, vì vậy họ chấp nhận tự nguyện đặt
mình vào cái hiện thực kỳ lcủa câu chuyện. - Tính Phức thể của truyện ngụ ngôn
Việt Nam
+ Khi phân tích truyện ngụ ngôn Việt Nam cần chú ý đến tính phức thể. truyện
ngắn truyện dài, truyện ngụ ngôn văn xuôi lại cả truyện ngụ ngôn văn
vần, truyện ngụ ngôn dân gian danh lại truyện ngụ ngôn thành văn
tác giả, có tính dân tộc tính quốc tế, có sự tự nảy sinh và cả sự vay mượn
ngoại lai.
* Nội dung của truyện ngụ ngôn
lOMoARcPSD| 58950985
- Truyện ngụ ngôn nêu lên những bài học triết lý ứng xử kinh nghiệm sống sâu
sắc
+ Đằng sau một cốt truyện ẩn dụ, truyện ngụ ngôn luôn ngụ ý những bài học
triết lý ứng xử, kinh nghiệm sống sâu sắc cho con người. Nội dung này nằm
trong lĩnh vực nhận thức, do đó cùng với tục ngữ, truyện ngụ ngôn được xếp
vào những nhóm thể loại triết lý dân gian.
+ Truyện ngụ ngôn thường dẫn người ta đến những nhận thức đúng đắn bằng
cách nêu lên những kết quả tai hại do nhận thức sai lầm gây ra, dẫn dắt người ta
đến với chân lý bằng cách chỉ ra cái nghịch lý mà người ta dễ mắc phải trong
cuộc sống. Cách làm này có hiệu quả mạnh mẽ trong công việc tác động trực
tiếp vào quá trình tự nhận thức, tự đốn ngộ bài học của người đọc.
+ Truyện ngụ ngôn chỉ ra sự mâu thuẫn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái chủ
quan và khách quan, giữa cái dại, và cái khôn trong nhận thức của con người,
qua đó chuyện ngụ ngôn giúp người đọc nhận ra được cái tốt, cái khôn đúc kết
cho mình những bài học triết lý ứng xử và kinh nghiệm sống sâu sắc
- Truyện ngụ ngôn phản ánh cuộc đấu tranh xã hội
+ Một trong những nội dung khác của truyện ngụ ngôn là phản ánh cuộc đấu
tranh xã hội, đặc biệt trong thời phong kiến có sự phân hóa giai cấp thống trị -bị
trị. Xung đột giữa các nhân vật trong truyện là hình ảnh khúc xạ cho sự xung
đột giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Bằng cách nói ẩn dụ bóng gió kín đáo
truyện ngụ ngôn đã giúp nhân dân vạch mặt chỉ tên những bản chất, đặc điểm
tính cách, của bọn thống trị, từ đó phần nào rút ra kinh nghiệm ứng xử đối phó
cho nhân dân.
Truyện cười
* Khái niệm: Đặc trưng của truyện cười *
Đặc trưng:
- Truyện cười luôn có yếu tố gây cười
+ Cái cười thể mặt trong nhiều thể loại dân gian, nhưng cái cười trong
những thể loại đó hệ quả của việc sử dụng ngôn ngữ hoặc việc x tình huống
bất ngờ tạo nên tiếng cười. Chỉ có trong truyện cười, cái cười vừa là phương tiện
vừa mục đích, vừa hình thức, vừa nội dung của chính bản thân thể loại.
Để đảm bảo yếu tố hài hước luôn xuất hiện. các đối tượng của truyện cười bị hạn
định lại cho một phạm vi nhất định. đồng thời việc lựa chọn đối tượng truyện
cười sử dụng tổng hợp nhiều thủ pháp gây cười như nói lái, chơi chữ, kết thúc bất
ngờ, sử dụng yếu tố tục
+ Truyện cười nhằm mục đích gây cười hay cái cười mục đích của sự sáng tác.
lOMoARcPSD| 58950985
- Truyện cười xây dựng các tình huống đối thoại ngắn gọn
+ Truyện cười là thể loại truyện ngắn gọn bậc nhất, chỉ qua vài dòng đối thoại đã
hoàn thiện một câu chuyện. Truyện cười không có nhiệm vụ kể lại số phận cuộc
đời nhân vật, không quan tâm đến trước và sau việc xảy ra thì cuộc đời nhân vật
ra sao.
+ Truyện cười thường khai thác những nhầm lẫn từ phía người nghe. Điều quan
trọng của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười nó tự bộc
lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe, người đọc tự nh phát
hiện ra và bật cười. Cái đáng cười có thể một thói xấu nhưng bản thân thói xấu
chưa đủ gây ra cái cười và người ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu
thuẫn tiềm tàng bộc lộ dưới cái ngược đời. cái đáng cười là hiện tượng mâu
thuẫn - một loại mâu thuẫn đặc biệt, cho nên truyện cười được cấu tạo như một
màn kịch có các dẫn đến theo trình tự: giới thiệu hiện tượng của mâu thuẫn tiềm
tàng, mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới điểm đỉnh, mâu thuẫn được giải quyết. *
Nội dung của truyện cười:
- Truyện cười đem đến tiếng cười giải trí hài hước
+ Nhu cầu giải tcủa con người luôn thường trực cách thức đơn giản hiệu quả
nhất là được kể, được nghe các câu truyện cười. Xuất phát từ mục đích mua vui
giải tđó, truyện khôi hài ra đời, những câu chuyện đó được kể không nhằm mục
đích ác ý, trái lại để tạo không khí tươi vui, cởi mở giữa những người lao động
để tìm thấy niềm vui, sự sảng khoái, lại có những bài học nhẹ nhàng, góp ý giáo
dục tinh tế.
+ Một chuyện hài hước thường không đề cập đến cái xấu xa, đến những người
xấ, xoay quanh những chuyện đời thường. Vì thế loại truyện này thường
mang tính chế giễu nhắm vào cộng đồng, các dân tộc khác, tìm ra điểm khác
thường để tạo nên tiếng cười. Nhânn phê phán những thói tật xấu trong nội
bộ với ý nghĩa xây dựng hơn là loại trừ bởi vì những tật xấu ấy không gây nguy
hại đến xã hội, ít làm hại đến người khác.
+ Nội dung của truyện hài hước đề cập đến ba nhóm đề tài quen thuộc: phê phán
tính khoác lác, chế giễu thói tham ăn tục uống, truyện về những anh chàng sợ vợ.
+ Nhìn chung chuyện hài hước có tính giải trí cao. Sau nụ cười sảng khoái, thỏa
mãn, người đọc, người nghe dường như quên đi những cái xấu của nhân vật, sự
giáo dục, phê phán nhẹ nhàng cũng tạo nên không khí vui tươi, hồn nhiên trong
bản thân mỗi truyện.
- Truyện cười châm biếm đả kích những cái xấu trong xã hội
lOMoARcPSD| 58950985
+ Các nhà luận mỹ học đã nhận ra vai trò đấu tranh xã hội của tiếng cười. Vũ
khí tiếng cười một tác dụng chiến đấu to lớn. Tiếng cười áp đảo kẻ thù bằng
cách tạo nên luận rộng rãi trong cộng đồng, không sợ hãi trước thế lực nào.
tính chất danh, truyền miệng, cho nên nếu những loại hình văn học truyền
thống khác kiêng kỵ, tránh, thì truyện cười lại thẳng thắn phê phán nêu danh
những cái xấu trong đời sống.
+ Đối với các thói hư tật xấu, tiếng cười có tác dụng giáo dục. Người ta cười cái
xấu, cái xấu nguồn gốc của cái hài. Cái xấu trở thành đối tượng của cái cười
khi nó không biết mình xấu lại muốn tô vẽ thành đẹp. Văn học trào phúng là một
phương tiện đắc lực để tác động vào tư tưởng thẩm mỹ của người đọc bởi vì văn
học có hình thức phản ánh hiện thực đặc trưng là xây dựng những hình tượng có
sức khái quát cao. Các thể loại văn học trào phúng dân gian đều nhằm đến những
đối tượng nhất định để đả kích châm biếm. Ở đây cái xấu không đành phận xấu
do đó nảy sinh mâu thuẫn giữa nội dung hình thức tính chất hài kịch. Bóc
trần mâu thuẫn ấy thì chúng trở thành trò cười.
+ Truyện trào phúng hướng tới những nhân vật thuộc tầng lớp trên như vua quan,
tầng lớp trí thức, ông thầy. Những nhóm người này vốn được hội trọng vọng
nhưng bản thân thì lại chứa đựng những thứ xấu xa, tầm thườn. Truyện cười cũng
ẩn ý đám người đó qua những hình tượng như Diêm Vương, trời những ông vua
của thế giới kỳ ảo.
+ Đối với thể loại truyện trạng thì đám vua chúa không xuất hiện gián tiếp mà đã
xuất hiện một cách trực tiếp, dân gian đã chỉ đích danh đâu là vua là chúa xấu xa.
+ Do đối tượng đả kích không phải các nhân là tính cách, các thói xấu,
nêu truyện cười thường mang tính danh, khái quát cao. Tóm lại truyện cười
không chỉ đơn thuần câu chuyện giải trí mua vui còn vai trò đấu tranh
hội, hướng tới những giá trị tốt đẹp, sau mỗi tiếng cười chân dung của những
người dân hồn hậu đầy thông minh trí tuệ, mỗi câu chuyện đã tầng lớp ý
nghĩa sâu xa.
5. Ca Dao
* Khái niệm:
- Ca dao thuật ngữ Hán Việt, chiết tự thì “ca” nghĩa bài hát
chươngkhúc hoặc âm nhạc kèm theo, còn “dao”là bài hát suông không cần nhạc
đệm.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58950985
Đại Cương Văn Học Dân Gian 1. Khái Quát * Nguồn gốc
* Quá trình sáng tác văn học dân gian: Văn học dân gian chính là sản phẩm
của quá trình sáng tác tập thể. Quá trình này diễn ra như sau: Ban đầu, một
người khởi xướng, tạo nên tác phẩm và được tập thể nhận. Sau đó, những
người khác (có thể đến từ nhiều nơi hoặc thế hệ khác nhau) tiếp tục lan
truyền, bổ sung, chỉnh sửa và làm giàu tác phẩm cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
* Tác giả VHDG: -
Những tác phẩm văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không
phảitất cả nhân dân đều là tác giả của văn học dân gian. -
Khi sáng tác, các tác phẩm, tập thể dân gian không hề có ý thức lưu lại tên
tácgiả dưới những sáng tác của mình. Mà thực ra, đặc trưng truyền miệng không
hề tạo nên thói quen ấy. -
Người ta không biết ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến
tínhvô danh của văn học dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh
lý tác phẩm (tạo nên tính dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác
phẩm bởi lẽ tác phẩm được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi
người khi tham gia sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
* Đặc trưng của văn học dân gian:
- Tính nguyên hợp: Tính nguyên hợp là sự gắn bó hữu cơ những giá trị thẩm mỹ
và trí tuệ của nhiều thành tố Folklore, là sự kết hợp hài hòa thống nhất tính cách
hồn nhiên và tính cách nâng cao sáng tạo trong một tác phẩm văn học dân gian.
Một tác phẩm văn học dân gian bao giờ cũng được tiếp nhận, cảm thụ và biến
hóa bằng tất cả các giác quan cùng một lúc.
+ Tính nguyên hợp có nguồn gốc từ đặc điểm hình thành của nghệ thuật nguyên
thủy. Gọi là tính nguyên hợp vì nhận thức thẩm mỹ nguyên hợp có từ thời nguyên
thủy và tồn tại qua các thời kỳ lịch sử.
+ Tính nguyên hợp chi phối tất cả các thành phần nghệ thuật, các yếu tố chất liệu
tạo nên bản thân nó như ngôn từ, nhạc, vũ, động tác, nghệ thuật tạo hình... Vì vậy,
phải quan sát đời sống thực của tác phẩm văn học dân gian qua việc sử dụng, lưu
truyền và biểu diễn của nhân dân mới dễ dàng nhận rõ tính nguyên hợp. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Trong một tác phẩm văn học dân gian, tính nguyên hợp thể hiện ở hai phương
diện. Một là nội dung, tính nguyên hợp biểu hiện thông qua hình tượng và thái độ
của nhân dân đối với hiện thực được phản ánh. Đó còn là tính đa chức năng của
tác phẩm. Thứ hai là về hình thức, tính nguyên hợp thể hiện ở sự kết hợp giữa
ngôn từ với các loại hình nghệ thuật khác như nhạc, vũ, động tác, hóa trang…mà
trong sự kết hợp ấy ngôn từ đóng vai trò chủ yếu.
+ Tính nguyên hợp là một hiện tượng tự nhiên vốn có của một kiểu nghệ thuật
không chuyên. Nó là một vấn đề thuộc bản chất tồn tại của loại nghệ thuật này
chứ không phải do ai tự ý đặt ra. - Tính truyền miệng:
+ Đây là một thuộc tính rất quan trọng của văn học dân gian mà đã có lúc các nhà
nghiên cứu, thậm chí đã dùng thuộc tính này để đặt tên cho cả bộ phận văn học
dân gian. Truyền miệng là thuật ngữ dùng chỉ vào phương thức lưu hành của
Folklore. Cách gọi này còn nhằm mục đích phân biệt với văn học viết mà theo
đó, thuộc tính truyền miệng là một thuộc tính cơ bản để xác định đặc trưng của
văn học dân gian. Như vậy, nói đến tính truyền miệng là nói đến một hình thức
sáng tạo và lưu truyền, sử dụng và biểu diễn rất đặc biệt, khác với hình thức văn
tự của văn học viết. Các tác phẩm Folklore chủ yếu trong lĩnh vực ngôn từ được
sáng tác và truyền đi từ người này sang người khác, từ không gian thời gian này
đến không gian thời gian khác. Phương thức truyền miệng chi phối quá trình sinh
trưởng và tồn tại của tác phẩm Folklore, đưa đến cho nó một số đặc điểm chung
như ngắn gọn, dễ nhớ, phiếm chỉ..
+ tính truyền miệng có những hình thức, vẻ đẹp mà văn học viết không hề có
được. Cụ thể là, do truyền miệng nên vỏ âm thanh của ngôn từ được được phát
huy đến mức tối đa. Do truyền miệng, tức là được nói, kể, ca, diễn nên mối quan
hệ giữa tác giả và người biểu diễn - người nghe là mối quan hệ trực tiếp thân mật
(chứ không phải mối quan hệ gián cách). Đó thật sự là mối quan hệ giao lưu.
Ngoài ra, truyền miệng còn được xem như một thuộc tính tập hợp những yếu tố
tự nhiên của con người trong môi trường diễn xướng. Vì thế văn học dân gian trở
nên đặc biệt sinh động với yếu tố ca diễn nói riêng và những hình thức diễn xướng khác nói chung. - Tính tập thể:
+ Văn học dân gian là một bộ phận văn học có tính tập thể. Tính tập thể của văn
học dân gian thể hiện trong hai quá trình, đó là quá trình sáng tạo và quá trình tiếp nhận. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Nói đến quá trình sáng tạo của văn học dân gian, ta có thể hình dung như thế
này. Tác phẩm đầu tiên có thể do một người hoặc một nhóm người sáng tạo ra.
Sau đó qua nhiều địa phương, ở những khoảng thời gian khác nhau, những người
khác cũng tham gia quá trình sửa đổi, điều chỉnh tác phẩm. Người ta không biết
ai là người sáng tác đầu tiên (điều này liên quan đến tính vô danh của văn học
dân gian) và ai đã tham gia vào quá trình sửa đổi chỉnh lý tác phẩm (tạo nên tính
dị bản). Tất cả đều không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm bởi lẽ tác phẩm
được sửa đổi nhiều lần và trong đời sống của dân gian, mọi người khi tham gia
sáng tạo ngày càng không có ý thức về quyền sở hữu tác phẩm.
+ Còn ở quá trình tiếp nhận, tập thể nhân dân tiếp nhận tác phẩm và họ không có
ý thức truy tìm nguồn gốc của tác giả. Điều quan trọng đối với nhân dân khi lưu
truyền không phải là ai sáng tác mà là tác phẩm ấy nói gì ? Nói như thế nào ? Có
phù hợp với tư tưởng, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của nhân dân hay không ?
+ Tập thể ở đây là “tập thể nhân dân”. Nhân dân là tác giả, nhân dân cũng là người
tiếp nhận, lưu truyền. Nói chung, họ vừa là tác giả sáng tạo ra tác phẩm, họ vừa
tiếp nhận, lưu truyền tác phẩm. Vậy có thể hiểu rõ hơn về tính tập thể rằng đó là
sự gia công của nhiều người (đa phần là những người tài hoa trong dân gian,
nhiều cá nhân sáng tạo tham gia vào quá trình sáng tạo tập thể), qua nhiều thế hệ
khác nhau (đây cũng là phương thức sáng tác và lưu truyền tác phẩm). Sáng tác
ấy, sau đó trở thành tài sản chung của tập thể bởi phù hợp với tâm lý tập thể.
+ Tính tập thể còn được hiểu ở phương diện thẩm mỹ. Đối tượng của những sáng
tác văn học dân gian là toàn bộ những gì liên quan đến cộng đồng tập thể. Và vì
thế, văn học dân gian rất coi trọng tâm lý tập thể. - Tính dị bản:
+ Dị bản là những bản kể, văn bản khác nhau của cùng một tác phẩm văn học dân
gian. Sự khác nhau đó thể hiện ở nhiều phương diện như đề tài, nội dung, nghệ
thuật, thể loại…; ở nhiều yếu tố như chi tiết, tình tiết, sự kiện, không gian, thời
gian, nhân vật, từ ngữ, hình ảnh, số lượng câu chữ…
+ Khác với vấn đề tam sao thất bản do có sự nhầm lẫn, dị bản là những nét biến
đổi khác biệt để thích nghi, có thể lí giải bằng các lí do xã hội và lí do nghệ thuật.
Có những biến đổi như sự chỉnh lí làm gia tăng hiệu quả thẩm mĩ, nhưng cũng có
những biến đổi phản ánh sự vận động của ý thức dân gian. Nhờ đó VHDG tự đổi
mới, phát triển , thích nghi và trường tồn.
+ Nói đến dị bản, ta thấy có hai điểm nổi bật. Đó là những yếu tố cố định không
thay đổi và những yếu tố mới. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Tính dị bản làm cho tác phẩm văn học dân gian không đứng yên nhất thành bất
biến mà dễ thích ứng phù hợp với nhu cầu thị hiếu của nhân dân các địa phương,
các thời kỳ lịch sử cụ thể khác nhau.
2. Thần Thoại và Truyền Thuyết Thần Thoại
* Khái niệm: thần thoại hay còn có thể gọi là huyền thoại, là thể loại văn học dân
gian và là thể loại đầu tiên, ra đời từ những buổi đầu lịch sử, là một phạm trù lịch sử cụ thể. Truyền Thuyết
* Khái niệm: Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một tác phẩm tự sự dân gian
kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử), phần lớn theo
xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân
đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của
một vùng. Bên cạnh đó cũng có những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử.
- Phân biệt truyền thuyết với sử học:
Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng từng khẳng định: “Truyền thuyết không phải là
lịch sử”. Đặng Văn Lung cũng nhấn mạnh: “Nói chung, những người nghiên cứu
đều biết rằng, truyền thuyết là truyền thuyết, lịch sử là lịch sử, không thể đồng nhất được”
+ Truyền thuyết là những tự sự dân gian có cái lõi lịch sử; màu sắc ít nhiều huyền
ảo; nội dung kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử theo quan điểm và tình cảm
của nhân dân. Nói cách khác, truyền thuyết là những tự sự dân gian được kết tụ
từ hai yếu tố: lịch sử và hư cấu. Truyền thuyết bao gồm nhiều nhóm: truyền thuyết
lịch sử, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết thần tổ ngành nghề, truyền thuyết địa
danh… Trong đó, mang đậm yếu tố lịch sử và tiêu biểu cho đặc điểm thể loại
chính là nhóm truyền thuyết lịch sử.
+ Lịch sử là: “Khoa học nghiên cứu về quá trình phát triển của xã hội loài người
nói chung, hay của một quốc gia, một dân tộc nói riêng”
+ Truyền thuyết xuất hiện sớm hơn sử học
+ Dạng thức tác phẩm: Tuy cùng là thể tự sự nhưng truyền thuyết thuộc về văn
học dân gian, còn chuyện kể lịch sử lại thuộc về văn học viết (văn học bác học).
Là văn học dân gian, truyền thuyết bắt buộc phải có “chất dân gian”. Một trong lOMoAR cPSD| 58950985
những biểu hiện của nó là “tính tập thể”. Khởi đầu, có thể tác phẩm được sáng
tác bởi một cá nhân nào đó. Nhưng sau quá trình lưu truyền, sản sinh, nó phải trở
thành sở hữu tập thể. Tác phẩm khi ấy không còn được lưu dấu cá tính, tình cảm
riêng của một cá nhân nào. Ngược lại, chuyện kể lịch sử thuộc về văn học viết
nên bắt buộc phải in đậm phong cách, cá tính tác giả. Các sử gia, khi biên soạn
lịch sử, luôn phấn đấu thể hiện hết tài năng, dũng khí, phong cách diễn đạt của mình vào trang viết.
+ Quan điểm chi phối: Truyền thuyết là văn học dân gian nên tác giả cũng thuộc
về dân gian. Đó là tập thể quần chúng và cả những trí thức gần dân. Rất nhiều
khả năng người kể truyền thuyết đầu tiên là những trí thức phong kiến. Họ là nho
sĩ nhưng không chịu đánh giá lịch sử theo tư tưởng chính thống. Đinh Gia Khánh
nhận xét, tác phẩm của họ “theo phong cách dân gian và sau khi được dân chúng
truyền khẩu thì ngày càng được dân gian hóa”. Trong khi đó, chuyện kể lịch sử
được biên soạn bởi cá nhân các sử quan, sử gia. Họ là người làm quan nên phải
theo tư tưởng chính thống mà luận bàn công – tội các nhân vật lịch sử. Vua sai
họ coi việc chép sử nên họ thường có ý thiên vị nhà vua, chỉ chép lại những gì
quan hệ đến nhà vua. Từ đó, tác phẩm của họ vắng bóng nhân dân và bị cách ly
với không khí dân dã đời thường.
+ Thành phần nhân vật: Truyền thuyết nhằm ngợi ca, tôn vinh tất cả những người
có công với đất nước, theo quan điểm của nhân dân, nên nhân vật trong tác phẩm
rất đa dạng. Có những tên tuổi nổi tiếng (Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang
Trung, Trương Định, …). Có cả những anh hùng vô danh, bình dị
(nghĩa binh phò Trương Định, bộ tướng của Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân,
…). Trong khi đó, chuyện kể lịch sử do theo quan điểm chính thống nên chỉ tập
trung vào hai đối tượng nhân vật: vua và bề tôi.
+ Hình thức: Như nhiều thể loại văn học dân gian, truyền thuyết cũng mang tính
truyền thống. Tác phẩm có một kết cấu tương đối ổn định với nhiều yếu tố nghệ
thuật lặp đi lặp lại. Câu chuyện thường bắt đầu bằng việc giới thiệu lai lịch, xuất
thân khác thường của nhân vật lịch sử. Kế đến là một chuỗi sự kiện, tình tiết tô
đậm công trạng của ngưòi anh hùng. Kết thúc là những lời tôn vinh, tưởng nhớ,
đôi khi kể thêm những chứng tích văn hóa liên quan đến nhân vật chính. Khác
truyền thuyết, chuyện kể lịch sử tuân thủ theo lối viết sử: chính xác, cụ thể, theo trình tự thời gian.
+ Ngôn ngữ kể: Ngôn ngữ trong truyền thuyết chú trọng tính biểu cảm nên mẫu
câu rất đa dạng. Tác phẩm dùng nhiều từ ngữ biểu cảm và khai thác tối đa ngôn
ngữ toàn dân. Đây cũng là phương cách đưa tác phẩm hòa nhập sâu rộng vào đời
sống dân gian. Trái lại, ngôn ngữ trong chuyện kể lịch sử chú trọng tính thông lOMoAR cPSD| 58950985
tin, tái hiện không khí thời đại xưa. Bởi vậy, chuyện kể lịch sử có xu hướng dùng
câu ngắn gọn, từ ngữ hàm súc, sử dụng nhiều biệt ngữ, từ Hán Việt.
+ Cách xây dựng hình tượng: Hình tượng nhân vật trong truyền thuyết luôn vượt
lên ngưỡng đời thường. Họ được nâng lên ngưỡng thiêng liêng, bất tử. Do đó,
người kể truyền thuyết thường chú ý phần lai lịch bí ẩn, tô đậm những nét ngoại
hình khác lạ, nhấn mạnh những câu nói hay, miêu tả cặn kẽ từng hành động phi
thường của nhân vật. Nhân vật truyền thuyết đôi khi cũng được miêu tả tâm lý
một cách giản đơn. Người kể được quyền hư cấu, phóng đại, miễn sao câu chuyện
củng cố được niềm tin cho người nghe, người đọc. Riêng hình tượng nhân vật
trong chuyện kể lịch sử phải được khắc họa đúng như con người ngoài đời: lộ rõ nhân cách, tài năng.
+ Chức năng tác phẩm: Nếu truyền thuyết có chức năng đánh giá sự kiện và con
người lịch sử theo cách nhìn của nhân dân thì chuyện kể lịch sử lại đánh giá theo
cách nhìn của tầng lớp thống trị đương thời (còn gọi là tư tưởng chính thống,
quan điểm chính thống). Nếu truyền thuyết nhằm thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng
mộ, tôn thờ người có công đức đối với nhân dân và dân tộc thì tác phẩm lịch sử
lại nhằm đưa ra những tấm gương làm bài học đối nhân xử thế, bài học cảnh tỉnh,
răn đe đời sau. * Đặc trưng của truyền thuyết Đặc trưng nội dung:
- Tính hư cấu lịch sử là đặc điểm nổi bật của truyền thuyết:
+ Trong quá trình vận động phát triển, đổi mới có sự giao thoa với các thể loại
khác ( sử thi, cổ tích), truyền thuyết trở thành “lịch sử hư cấu”.
+ Theo thủ tướng Phạm Văn Đồng: “những truyền thuyết dân gian thường có một
cái lõi là sự thạat lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hóa, gửi gắm
vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức
tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích.”
+ Trong truyền thuyết dân gian, sự thật lịch sử chỉ là cái lõi để từ đó nhân dân
sáng tạo thành truyện, nghĩa là đã có hư cấu.
+ Theo Kiều Thu Hoạch, sự thật lịch sử trong truyền thuyết là sự thật nghiền
ngầm, là “cái thực về mặt tâm lí, chứ không phải là cái thực về lịch sử.” Những
biểu hiện như tính lịch sử, yếu tố lịch sử, chất sử trong truyền thuyết phải được
hiểu như một biện pháp nghệ thuật, được gọi là tính hư cấu lịch sử.
- Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo
+ Truyền thuyết ở giai đoạn sơ khai đã có chức năng “kể sử truyền đời”. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Ở VN, chỉ có thể căn cứ vào truyền thuyết truyền miệng mà các sử gia mới có
thể dựng lại được lịch sử dựng nước và giữ nước từ buổi đầu Kỉ Hồng Bàng đến
thời kì Văn Lang- Âu Lạc.
+ Trong lịch sử dựng nước truyền thuyết là nguồn tài liệu phi lịch sử duy nhất
phản ánh nguồn gốc giống nòi dân tộc và giáo dục ý thức lịch sử trải nhiều thế hệ
+ Trong lịch sử giữ nước, truyền thuyết vẫn tiếp tục phản ánh lịch sử một cách
độc đáo về chủ nghĩa anh hùng tập thể với âm hưởng, tình cảm chủ đạo là khuynh hướng ngợi ca .
+ Khi giai cấp phong kiến mất vai trò lịch sử tiến bộ, truyền thuyết đã phản ánh
các phong trào khởi nghĩa nông dân, khi giai cấp phong kiến thoái hóa, truyền
thuyết lịch sử lại có bước phát triển mới với nội dung xã hội tiến bộ và tinh thần dân tộc sâu sắc.
+ Truyền thuyết không thể hoàn toàn là cái đã xảy ra từng được biên chép vào
trong văn bản chính sự nhà nước ở mọi thời, nhưng nó cũng không hoàn toàn chỉ
là cái có thể xảy ra trong tưởng tượng hư cấu. Nó là sản phẩm của sự kết hợp một
cách độc đáo giữa sự thật và hư cấu, giữa hư cấu và sự thật trong mối quan hệ
giữa fonklore với thực tại biểu hiện đặc trưng thể loại.
Đặc trưng nghệ thuật:
- Hình thức cấu tạo cốt truyện:
+ Truyền thuyết không có những kiểu cốt truyện được xây dựng đa dạng và có
sức khái quát cao về mặt nghệ thuật. Nhìn chung, cốt truyện truyền thuyết đơn
giản, sơ lược. Đặc điểm này hình thành do yêu cầu câu chuyện ngắn gọn, dễ nhớ
để dễ lưu truyền lịch sử bằng con đường truyền miệng.
+ Có mối quan hệ đặc biệt tự nhiên và sâu sắc với phong tục tín ngưỡng và lễ hội
dân gian. Thường được cấu tạo theo hình thức gồm ba chặng lớn kể về đời một nhân vật.
Chặng 1: Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm khác thường của nhân vật.
Chặng 2: Hành trạng và những chiến công khác thường của nhân vật.
Chặng 3: Sự hóa thân của nhân vật
+ Đây là một kết cấu chuỗi gồm những mẩu chuyện có thể hư ảo thần kỳ hay đời
thường thế tục, nhưng đã được sắp xếp lại theo một trình tự thời gian cụ thể trong
một không gian xác định. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Là kết cấu chuỗi nên trong mỗi chặng lớn thường lại có những tình tiết khác
nhau theo những cách kể khác nhau.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
+ Nhân vật trong truyền thuyết là sự kết hợp kì lạ giữa những nét đời thường thế
tục với những nét kỳ ảo phi thường.
+ Khác với chính sử hàn lâm của sử quan các triều đại bị chế định bởi hệ tư
tưởng của nhà nước phong kiến, nhân vật lịch sử trong truyền thuyết là kiểu
người anh hùng dân tộc rất gần gũi với quần chúng lao động. Vì thế các chi tiết
hình ảnh kể về cuộc đời nhân vật giàu tính hiện thực, đời thường, tất nhiên để
tôn vinh các bậc anh hùng chống xâm lược trong cảm hứng ngợi ca, truyền
thuyết lịch sử vẫn cần đến những yếu tố kỳ diệu. Những yếu tố kì diệu được
điểm tô cho các nhân vật lịch sử có thật chỉ là kết quả của sự hư cấu kì ảo có
chủ tâm được vay mượn trong thế giới cổ tích
+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật truyền thuyết thường sử dụng 3 loại
mô tuýp ứng với ba chặng diễn biến cuộc đời một nhân vật . Chặng thứ nhất kể
về hoàn cảnh xuất hiện nhân vật ở dạng đầy đủ và sau đó là mô túyp về những
đặc điểm kỳ lạ của nhân vật. Chặng thứ hai kể về hành trạng và sự nghiệp hiển
hách của nhân vật. Mô tuyp trung tâm ở chặng này thường là chiến công phi
thường, là lý do tồn tại của một truyền thuyết. Chặng thứ ba xuất hiện các mô
típ về sự hóa thân và sự hiển linh. Trong đó mô quyp hóa thân đã trở thành công
thức kết thúc, biểu hiện nổi bật đặc điểm hư cấu lịch sử của thể loại. - Không gian- thời gian:
+ Thời gian: Trong thần thoại, ý niệm về thời gian tuy đã có nhưng chỉ mới ở giai
đoạn bắt đầu. Thời gian thần thoại chưa thật cụ thể, rõ ràng và chưa có tính xác
định. Khảo sát thi pháp thời gian thần thoại, ta thấy phổ biến yếu tố thời gian vĩnh
hằng, bất tử (Kiếu như “Thuở ấy chưa có thế gian, cũng chưa có muôn vật và loài
người” “không biết là bao lâu”…). Tuy nhiên vì gắn liền với các sự kiện lịch sử
có thật nên so với thời gian còn mơ hồ của thần thoại và thời gian phiếm chỉ của
cổ tích thì thời gian trong truyền thuyết đã có tính xác định hơn.
+ Không gian: Nhân vật có địa bàn hoạt động cụ thể hoặc tương đối cụ thể xác
định. Điều này phản ánh địa bàn cư trú và hoạt động trong lịch sử người Việt cổ.
Bên cạnh đó, một số không gian của truyền thuyết tương đồng chính xác với lịch
sử và còn giúp ích ít nhiều cho việc chép sử. Khảo sát truyền thuyết Việt Nam, ta
thấy một hiện tượng phổ biến là không gian thường được đặt ở đầu truyện và cuối
truyện. Ở đầu truyện, không gian nhằm xác định nhân vật có nguồn gốc rõ ràng,
có lai lịch cụ thể. Ở cuối truyện, không gian lại có tác dụng đưa những yếu tố lOMoAR cPSD| 58950985
hoang đường huyền thoại gần với thực tế hơn. Và điều đó có ý nghĩa như một sự
xác nhận của dân gian rằng truyền thuyết và lịch sử chỉ là một mà thôi.
* Nội dung của truyền thuyết:
- Truyền thuyết anh hùng với các vấn đề về nguồn gốc giống nòi dân tộc và những
kì tích văn hóa thời kì dựng nước trong cảm hứng ngợi ca.
+ Hai chuỗi truyện kể về “Vua rồng xứ Lạc” và “Đất nước Văn Lang” được xem
là VHDG thời kì dựng nước, trước khi nhà nước Âu Lạc ra đời.
+ “Vua rồng xứ Lạc” là truyền thoại về thủy tổ giống nòi Lạc Việt, chủ nhân của
nền văn minh sông Hồng- điểm hội tụ đỉnh cao của văn hóa Phùng NguyênĐông Sơn.
+ Nhóm truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ gợi về một thuở tổ tiên khai hoang
lấn biển, mở mang địa bàn cư trú.
+ Bộ phận truyền thuyết được hình thành vào cuối thời đại nhà Hùng là nhóm
truyện về thời đại 18 thế hệ vua Hùng, mà vị vua đầu tiên tức Hùng Vương đời
thứ nhất là người con trưởng của LLQ-ÂC. Bộ phận truyền thuyết này đã có sự
tham gia sáng tạo của đủ mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó có một chủ điểm nổi
bật xuyên suốt hệ thống truyền thuyết này chính là sự thành kính thiêng liêng và
niềm biết ơn sâu sắc đối với các vị vua Hùng.
+ Truyền thuyết thời Hùng Vương kể về những chàng rể của các vua Hùngnhững
anh hùng sáng tạo nên kì tích văn hóa Văn Lang thời dựng nước.
- Truyền thuyết lịch sử với vấn đề đấu tranh giữ nước trong trường kì lịch sử dân tộc chống xâm lược.
+ Đây là bộ phận truyền thuyết có khối lượng lớn nhất, được hình thành sau thời
An Dương Vương để mất nước vào tay Triệu Vương.
+ Căn cứ vào truyền thuyết về Thục Phán- An Dương Vương, có thể khái quát:
đến truyền thuyết “ADV và Mị Châu- Trọng Thủy” là am vang cuối cùng của bản
hùng ca dựng nước và mở đầu của tấn bi kịch nướ mất nhà tan
+ Qua truyền thuyết về ADV, thấy được vai trò của nhân dân Âu Lạc trong công
cuộc giữ nước buổi đầu.
+ Có một bộ phận thần thoại và truyền thuyết anh hùng thời dựng nước đã chuyển
hóa thành những mẫu kể mới để đảm đương những thách thức mới của lịch sử.
+ Có một bộ phận đồ sộ những truyền thuyết lịch sử về các anh hùng dân tộc mà
chúng ta còn lưu giữ được dến nay. Đây là một “tập đại thành” bởi tính đặc biệt lOMoAR cPSD| 58950985
chặt chẽ, hệ thống, lại được kết hợp từ những mẩu truyện có tính cố định. Nguyên
tắc chung của những truyện này là đều kể về 1 anh hùng nhưng ý nghĩa của nó là
phản ánh tinh thần đoàn kết chiến đấu của cả dân tộc. Mở đầu chuỗi truyền thuyết
trên là truyền thuyết về “hai Bà Trưng”. Tiếp nối sau đó là những truyền thuyết
về Lí Bí, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Mai Hắc Đế cho đến khi Ngô Quyền
giành lại đất nước từ quân Nam Hán.
+ Khi đất nước bước vào thời kì ngót một ngàn năm xây dựng và bảo vệ quốc gia
phong kiến độc lập tự chủ, đất nước đã có chính sử ghi chép lại kì tích của các vị
anh hùng, nhưng truyền thuyết dân gian vẫn có lối đi riêng, Những truyền thuyết
ấy muốn khẳng định sức mạnh vô song của chủ nghĩa anh hùng tập thể trong mọi
cuộc chiến chống ngoại xâm của dân tôc. Trong ý thức dân gian, sự kiện về những
anh hùng đại thắng quân xâm lược được lí giải bằng những mẩu chuyện rất cảm
động (chàng thiếu niên Trần Quốc Toản bóp nát quả cam trong vô thức, Phạm
Ngũ Lão đan sọt bên đường bị giáo đâm vào đùi mà không biết đau...).
- Những truyền thuyết lịch sử về vấn đề đấu tranh giai cấp trong các phong trào
khởi nghĩa nông dân chống phong kiến.
+ Chính sử có ghi lại những cuộc khởi nghĩa của nông dân nhưng lại xem là giặc
cướp, song trong ý thức dân gian họ là những người anh hùng. Hệ thống truyền
thuyết về người anh hùng nông dân ra đời và phát triển thành từng chuỗi trong thế đối lập.
+ Hình tượng người thủ lĩnh nông dân trong truyền thuyết dân gian là sự kết tinh
của ước mơ, khát vọng, để thay đổi trật tự xã hội lúc bấy giờ.
+ Trong những truyền thuyết về Quận He, Quận Hẻo, về Vua Lía, Ba Vành...,ta
thấy sự phản ánh tinh thần hưởng ứng nhiệt thành của nhân dân và có biểu hiện
rất nổi bật cảm hứng ngợi ca tài năng kiệt xuất và phẩm chất kiêu hùng của những
con người này thông qua những chi tiết kì ảo hư cấu có chủ tâm.
+ Đây là bộ phận truyền thuyết cơ bản thể hiện trực tiếp và mạnh mẽ nhất thái độ
phản kháng, tinh thần dân chủ và khát khao giải phóng của nhân dân lao động trong mọi thời đại.
- Một số phương diện nội dung khác của truyền thuyết:
+ Có một bộ phận truyền thuyết về các danh nhân văn hóa, mở đầu là nhóm truyện
về Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Sau đó là cả hệ thống những
mẫu kể về nhà văn hóa đã từng để lại dấu ấn đặc biệt về nhân cách và tài năng (
những truyện về trạng nguyên Lê Văn Thịnh, về Vạn thế sư biểu Chu Văn An, lOMoAR cPSD| 58950985
Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, bác học danh tài Lê Quý Đôn, những sứ thần
quả cảm và thông thái như: Phùng Khắc Khoan, Mạc Đĩnh Chi...)
+ Ngoài những truyền thuyết về danh nhân văn hóa, cũng cần kể đến một bộ phận
truyền thuyết về những nhân vật tôn giáo ít nhiều có tính truyền thuyết.
3. Truyện Cổ Tích * Khái niệm:
- Cổ là xưa, tích là vết
- Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếutố
nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc
lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lý xã hội và ước mơ một cuộc sống
tốt đẹp hơn của nhân dân lao động.
* Phân Loại: Có nhiều cách phân loại truyện cổ tích, nhưng cách phân loại phổ
biến nhất được hầu hết các nước áp dụng là do Ô.Mi- lơ đề xuất từ năm 1865 ở
Nga, chia truyện cổ tích thành 3 tiểu loại:
- truyện cổ tích thần kì
- truyện cổ tích sinh hoạt - truyện cổ tích loài vật.
* Đặc trưng:
- Truyện cổ tích là truyện kể hoàn toàn hư cấu và kì ảo:
+ Hư cấu chính là bản chất mang tính thẩm mĩ, là đặc trưng nổi bật của thể loại.
+ Trong ngôn ngữ dân gian cổ tích không chỉ có ý nghĩa định danh mà còn là sự
định tính, chỉ cái gì đó xa xưa không có thật.
+ Mỗi tình huống, mỗi cốt truyện đều không có thực, không diễn ra trên thực tế,
nhưng đó là sự hình dung, cách nhìn khái quát của nhân dân về hiện thực xã hội,
bày tỏ khát vọng và tinh thần lạc quan của con người.
+ Truyện cổ tích là dạng truyện kể thể hiện cái nhìn nghệ thuật về cuộc sống của
người lao động, để họ vẽ ra một thế giới lung linh, đẹp đẽ, giúp họ vượt qua những
khó khăn đau khổ của cuộc đời thực.
+ Truyện cổ tích hấp dẫn cũng chính ở sự sáng tạo kì ảo: lOMoAR cPSD| 58950985
+) Qua truyện cổ tích, người lao động muốn vẽ nên một thế giới cần có và nên có
cho con người chứ không phải là cái thế giới vốn có với những nỗi đau khổ và
bất công → ước mơ khát vọng về sự công bằng, về một cuộc đời tốt đẹp.
+) Bản chất của truyện cổ tích là xây dựng một thế giới nghệ thuật trong trí tưởng
tượng kỳ ảo, phi hiện thực để thực hiện lý tưởng về xã hội công bằng, một thế
giới nên có và cần có cho con người. Truyện cổ tích là chuyện hư cấu có chủ tâm
và mang tính nghệ thuật, truyện cổ tích không bao giờ mạo nhận là hiện thực.
+) Truyện cổ tích hấp dẫn trước hết là do tính chất khác thường của câu chuyện
kể, sự không phù hợp với hiện thực, bịa đặt đã mang lại khoái cảm đặc biệt.
Ví dụ: việc chết đi sống lại của cô Tấm,…
+ Đặc điểm của truyện cổ tích là truyện không bao giờ xảy ra được lại được kể
bằng một phong cách một giọng kể điệu bộ nét mặt làm như tất cả những điều được kể lại.
- Truyện cổ tích là những truyện kể đã hoàn tất
+ Truyện cổ tích là những câu chuyện về sự thưởng – phạt công bằng theo quan
điểm của nhân dân “ Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”, vì vậy mà mỗi câu chuyện
đều đã hoàn thành về cốt truyện.
+ Ta có thể thay đổi về lời kể, thay đổi về lời mở đầu, lời miêu tả nhưng cốt truyện
của truyện kể vẫn phải được bảo lưu.
+ Đặc trưng về sự hoàn thành cốt truyện cổ tích liên quan chặt chẽ đến tính chất
hư cấu, kì ảo của bản thân câu chuyện. Điều này rất quan trọng đối với tâm lý
tiếp nhận của người đọc: người ta chấp nhận mọi điều vô lý, những thứ không
bao giờ có thật trong cuộc đời mà chỉ có thể thuộc về thế giới nghệ thuật của cổ tích.
Ví dụ: cô thôn nữ lấy được nhà vua, chàng mồ côi lấy được công chúa, con người lên trời,…
+ Motip quen thuộc, phi lý nhưng đều hướng tới ước mơ của con người: hạnh
phúc và sự công bằng. Việc sửa chữa văn bản để phù hợp với thời đại ngày nay
là không cần thiết vì sẽ làm mất đi giá trị cũng như bản chất của thể loại.
- Tính chất giáo huấn, triết lí của truyện cổ tích
+ Truyện cổ tích lúc nào cũng khuyên nhủ, dạy bảo con người dưới một hình thức
lí thú và nhiều khi ngụ ý một cách bóng bẩy. lOMoAR cPSD| 58950985
+ Truyện cổ tích ca ngợi và bênh vực cho đạo đức của con người thông qua nhân
vật lí tưởng: Nhân vật lí tưởng được giới thiệu ở phần đầu truyện bao giờ cũng là
người có tài năng vượt trội. Nhân vật lí tưởng mang đạo đức, tài năng của nhân
dân, những giá trị đã được thừa nhận. Nhân vật lí tưởng thường được các lực
lượng thần kì thử thách về đạo đức và tài năng ( sự tích con khỉ, cây khế,…)
+ Để làm nổi bật phẩm chất của nhân vật lí tưởng, truyện cổ tích xây dựng theo
sự xung đột của hai tuyến nhân vật: thiện – ác, tốt – xấu, người anh – người em,...
Nhân vật lí tưởng có đạo đức và tài năng sẽ được nhận phần thưởng, nhân vật
phản diện không bao giờ nhận được cho dù có giả mạo hay chiếm đoạt, thậm chí bị trừng phạt.
⇒ Phần miêu tả những xung đột trong truyện cổ tích thần kì về cơ bản chính là
sự giới thiệu, mô tả đạo đức và tài năng của nhân vật lí tưởng để bày tỏ ước mơ của nhân dân.
* Nội dung của truyện cổ tích
Truyện cổ tích sinh hoạt -
Truyện cổ tích sinh hoạt cũng gọi là cổ tích thế sự, phân chia theo đề tài và
nộidung phản ánh, qua câu chuyện là một bài học về những vấn đề đạo đức, ứng
xử và cách sống của con người. -
Sức hấp dẫn của câu chuyện không ở các yếu tố kì ảo, hoang đường mà
nằm ởsự giản dị của câu chuyện, ở những tình huống sinh hoạt thường ngày. Vì
thế tính giáo huấn của truyện cổ tích sinh hoạt rất cao, hướng tới những chuẩn
mực đạo đức, bênh vực và bảo vệ những giá trị đạo đức trong gia đình và xã hội. -
Mảng truyện này có số lượng ít ở các dân tộc thiểu số nhưng ở người Kinh
lạicó số lượng truyện lớn, điều này thể hiện trình độ phát triển của xã hội, của tư
duy người Kinh đạt đến trình độ cao hơn. -
Nhóm truyện cổ tích sinh hoạt khá đa dạng như chính sự đa dạng của
cuộcsống, của những hoàn cảnh, số phận cuộc đời. Nhóm truyện có thể phân chia
ra mảng truyện về trí tuệ con người và truyện về đề tài đạo đức.
+ Nhóm truyện về đề tài trí tuệ thường có hai dạng cơ bản: truyện về nhân vật
ngốc và truyện về người thông minh.
+) Nhóm truyện về nhân vật ngốc có thể kể đến như các truyện “Chàng ngốc đi
buôn”, “làm theo vợ dặn”. Những truyện này gần gũi với truyện cười ở chỗ chúng
chứa được yếu tố hài, nhưng khác với ý nghĩa phê phán, tiếng cười trong truyện
cổ tích có tính giải trí, những chuyện như vậy thể hiện cái nhìn hài hước, vui tươi của trí tuệ nhân dân. lOMoAR cPSD| 58950985
+) Nhóm truyện về những người thông minh trí tuệ, giống như Vỏ Quýt Dày Có
Móng Tay Nhọn. Nhóm truyện này xây dựng những mâu thuẫn xung đột chủ yếu
giữa người nghèo, địa vị thấp kém với người bóc lột, vua quan. Ngoài ý nghĩa
đấu tranh giai cấp thì nhóm truyện này nhằm đề cao trí tuệ của dân gian. -
Những chuyện về đạo đức, luân lý trong xã hội rất phong phú, mỗi vấn
đề,mỗi cách ứng xử khác nhau trong cuộc sống đều được thể hiện bằng những
cách khác nhau. Nhóm truyện này hầu như không có xung đột gay gắt. Câu truyện thường đơn tuyến. -
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của cổ tích sinh hoạt cũng đặc biệt. Tác giả
dângian luôn lựa chọn những chi tiết đắt, tiêu biểu của nhân vật để thể hiện chủ
đề. Bởi vì truyện cổ tích sinh hoạt không nhằm dựng lại cuộc đời, số phận của
nhân vật cho nên nó phải tập trung vào những khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc
đời con người, những tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ tính cách. -
Kết cấu của truyện cổ tích sinh hoạt không thật rõ ràng và ổn định, chúng
takhó có thể mô hình hóa cốt truyện của tiểu loại này. Bản thân mỗi chuyện là
một kết cấu đặc biệt, linh hoạt theo từng tình huống. Vì thế truyện cổ tích sinh
hoạt mang tính mở và gần với những hình thức truyện kể của văn học viết. -
Trong các truyện cổ tích sinh hoạt có các yếu tố thần kỳ, nhưng về cơ bản
vấnđề quan tâm và đặt ra vẫn là những ứng xử trong sinh hoạt đời thường. -
Truyện cổ tích sinh hoạt gắn với không gian đời thường với cảnh nhà quê
gầngũi. Sự hạn chế mở rộng không gian của của cổ tích sinh hoạt bù đắp bằng
việc mô tả tỉ mỉ, chi tiết khung cảnh làng quê, tập trung vào hành động, cách giải
quyết của con người, vì thế mang tính chiều sâu của tư duy và quan niệm dân gian.
Truyện cổ tích về loài vật -
Truyện cổ tích về loài vật là một bộ phận quan trọng của truyện kể dân
gian.Đây là nhóm chuyện được yêu thích, đặc biệt là trẻ em. Nhiều truyện cổ tích
về loài vật có nguồn gốc từ thần thoại về nguồn gốc dân tộc, dòng họ, vì thế chúng
nằm trong ranh giới giao thoa với thần thoại. -
Giữa truyện cổ tích về loài vật và truyện ngụ ngôn cũng có những điểm
giaothoa dựa trên những miêu tả về nhân vật và nội dung nhất định của chúng.
Nhưng về cơ bản, giữa thể loại này có sự khác nhau rõ rệt(ở truyện ngụ ngôn nhân
vật có thể là loài vật nhưng cũng có thể là con người, trong khi nhân vật của
truyện cổ tích về loài vật thì nhất định nhân vật phải là loài vật. Bản thân con vật lOMoAR cPSD| 58950985
trong truyện cổ tích là loài vật, là những con vật của thế giới tự nhiên còn nhân
vật là con vật trong truyện ngụ ngôn hàm ý đến thế giới con người,...) -
Truyện cổ tích loài vật có nội dung giáo huấn nhưng đó không phải là
mụcđích chủ yếu của tiểu loại này, mà cốt lõi là một sự nhận thức và lý giải đặc điểm của loài vật. -
Trong kho tàng truyện cổ tích truyện về loài vật của người Kinh không
xâydựng những nhân vật nổi trội và tạo thành hệ thống truyện, mà các nhân vật
xuất hiện tương đối bình đẳng, nhưng ở các dân tộc thiểu số truyện cổ tích loài
vật tạo thành những nhóm truyện, xây dựng được những nhân vật tiêu biểu. -
Truyện cổ tích loài vật có nhiều xung đột, mỗi xung đột thể hiện những
mâuthuẫn khác nhau của thế giới tự nhiên và bộc lộ những thái độ khác nhau của
dân gian về những vấn đề tự nhiên và xã hội. -
Những vấn đề của đời sống con người, của quan niệm nhân dân thể hiện
quacổ tích loài vật không thực sự đậm nét, vì đó không phải chức năng chính của thể loại này. -
Kết cấu qua truyện cổ tích loài vật đơn giản, nhiều truyện chỉ có một
tìnhhuống, truyện được xây dựng chủ yếu trên các tình huống đó. Trong truyện
cổ tích loài vật, đối thoại giữa các nhân vật đóng vai trò rất quan trọng trong việc
tạo nên kết cấu cốt truyện, bộc lộ tính cách và giải quyết mâu thuẫn xung đột.
Truyện cổ tích thần kỳ
- Đây là nhóm truyện phong phú và hấp dẫn hơn cả của truyện cổ tích, đượcphân
chia dựa vào yếu tố nghệ thuật chủ yếu của tác phẩm là sự xuất hiện yếu tố thần
kỳ. Nhóm truyện này thể hiện được đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích và là
nhóm truyện tiêu biểu của truyện cổ tích. Tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt
truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt là ở phương thức sáng tác. Đó
là sự tham gia của các yếu tố thần kỳ, nghệ thuật tưởng tượng của truyện cổ tích
- Nhân vật trung tâm của cổ tích thần kỳ bao giờ cũng là con người, nạn nhâncủa
xã hội nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội xung quanh nó. Nhân vật của truyện
cổ tích thần kỳ thường là những nạn nhân xấu số, những người bất hạnh của xã
hội. Mỗi câu chuyện là hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc của những nhân vật đó.
- Một số kiểu truyện cổ tích thần kỳ phổ biến
+ Truyện người mang lốt vật: Đây là kiểu truyện cổ tích quen thuộc còn được gọi
là kiểu truyện với nhân vật xấu xí mà tài ba. Truyện thường kể về nhân vật mang
một vẻ ngoài xấu xí, dị dạng hoặc mang lốt con vật nhưng lại có tâm hồn trong lOMoAR cPSD| 58950985
sáng, tốt bụng và đặc biệt có tài năng khác thường. Tên nhân vật cũng thường
được dùng để đặt tên truyện, cốt truyện thường theo một mô hình thống nhất.
Qua truyện cổ tích người mang lốt vật, nhân dân lao động thể hiện quan
niệm về mối quan hệ giữa hình dáng bên ngoài và và phẩm chất bên trong của
con người. Nếu phải lựa chọn thì nhân dân hết sức đề cao phẩm chất, tư cách con người.
+ Truyện người mồ côi: Đây là dạng truyện phổ biến nhất của truyện cổ tích, nhân
vật mồ côi là kiểu nhân vật thường gặp nhất khiến cho nó có thể kết hợp với nhiều kiểu nhân vật khác.
Câu chuyện này phản ánh những mâu thuẫn trong phạm vi gia đình, chủ
yếu về vấn đề thừa kế, tư hữu, vấn đề đạo đức chỉ là biểu hiện kết quả của những hành động đó.
+ Truyện người em: Vấn đề chủ yếu mà các chuyện này đề cập đến thông qua
xung đột giữa các anh chị em là quyền thừa kế. Vấn đề này có liên quan đến thời
điểm ra đời của truyện cổ tích khi chế độ thị tộc tan rã, gia đình phụ hệ thay thế dầu gia đình mẫu hệ.
Cốt truyện của kiểu truyện này rất đơn giản và thường mang tính chất lặp
lại, theo thuật ngữ gọi là dạng kết cấu đồng quy, có nghĩa là truyện xây dựng hai
nhân vật thành hai tuyến song song với nhau, đối lập nhau. Đây là cốt truyện phổ
biến, ngoài ra cũng có nhiều truyện mà cuộc đấu tranh giữa người em và người
anh sẽ ra quyết liệt với nhiều tình tiết hơn, nhiều mô típ hơn. Trong kiểu truyện
này, nhân dân thường lý tưởng hóa nhân vật người em.
+ Truyện dũng sĩ hay truyện về các chàng trai khỏe: Đây là đóng góp độc đáo của
kho tàng truyện cổ tích các dân tộc. Truyện thường xây dựng những nhóm nhân
vật anh hùng, dũng cảm có tài năng đặc biệt.
Nhìn chung các truyện đề cao tập thể những người lao động tài giỏi, anh
hùng, những người thợ lành nghề, thể hiện trí tưởng tượng táo bạo của nhân dân,
sự phát triển của tư duy và nhận thức cuộc sống của con người. Các truyện thuộc
nhóm này gần gũi, thâm nhập vào thể loại thần thoại.
4. Truyện cười, truyện ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn
* Khái niệm: truyện ngụ ngôn là loại truyện kể có thể bằng văn xuôi hoặc văn
vần, ở đó người ta mượn một câu chuyện nhỏ mà nhân vật là loài vật, đồ vật
hay là chính con người để gửi gắm những bài học kinh nghiệm sống, răn dạy
người ta về luân lí, đạo đức, cách đối nhân xử thế. lOMoAR cPSD| 58950985
* Đặc trưng :
- Truyện ngụ ngôn là loại truyện mượn một cốt truyện ẩn dụ để ngụ ý một lời quy châm
+ Nội dung của hầu hết các truyện ngụ ngôn là thể hiện một nguyên lý đạo đức
hay nguyên tắc xử thế nào đ, kèm theo đó là hậu quả tốt hay xấu của việc vận
dụng các nguyên tắc, nguyên lý xử thế ấy, từ đó rút ra bài học đạo đức, kinh
nghiệm sống, triết lý sống cho con người.
+ Lời quy châm có khi được diễn đạt một cách trực tiếp qua nhan đề của câu
chuyện, cũng có khi được tổng kết lại qua câu văn cuối bài, nhưng thường xuyên
là được diễn đạt một cách kín đáo, ý nhỉ, ẩn giấu dưới lớp ngôn từ thông qua
phương pháp ẩn dụ, người đọc phải tự suy ngẫm và rút ra. Nói cách khác, truyện
ngụ ngôn bao giờ cũng có hai phần: phần nghĩa đen và phần nghĩa bóng, phần
xác và phần hồn, phần truyện kể và phần bài học kinh nghiệm. Mục đích của
truyện ngụ ngôn là hướng người đọc đến việc lĩnh hội những bài học kinh nghiệm đó.
+ Ẩn dụ là một căn cứ rất quan trọng để nhận biết truyện ngụ ngôn. Mỗi truyện
ngụ ngôn là một câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng, trong đó nhân vật có thể là
con vật, đồ vật hay con người với những hành động có thể không có thật và tưởng
như vô l, bởi tất cả điều đó có thể tạo ra một không gian ẩn dụ để truyện ngụ
ngôn che giấu một ngụ ý mà người đọc phải có nhiệm vụ tìm ra
+ Ở truyện ngụ ngôn cốt truyện chỉ là phương tiện, lời quy châm rút ra từ cốt
truyện mới là mục đích
+ Vai trò của những nhân vật khác thường trong truyện ngụ ngôn là tạo ra môi
trường ẩn dụ, logic tâm lý nhận thức kéo theo là cần tìm ra cái gì ẩn đằng sau
+ Ở truyện ngụ ngôn, hiện tượng kỳ lạ đồng nghĩa với một hiện tượng có ẩn ý.
Điểm đến của người đọc là hiện thực có ẩn ý, vì vậy họ chấp nhận tự nguyện đặt
mình vào cái hiện thực kỳ lạ của câu chuyện. - Tính Phức thể của truyện ngụ ngôn Việt Nam
+ Khi phân tích truyện ngụ ngôn Việt Nam cần chú ý đến tính phức thể. Có truyện
ngắn có truyện dài, có truyện ngụ ngôn văn xuôi lại có cả truyện ngụ ngôn văn
vần, có truyện ngụ ngôn dân gian vô danh lại có truyện ngụ ngôn thành văn có
tác giả, có tính dân tộc và có tính quốc tế, có sự tự nảy sinh và cả sự vay mượn ngoại lai.
* Nội dung của truyện ngụ ngôn lOMoAR cPSD| 58950985
- Truyện ngụ ngôn nêu lên những bài học triết lý ứng xử kinh nghiệm sống sâu sắc
+ Đằng sau một cốt truyện ẩn dụ, truyện ngụ ngôn luôn ngụ ý những bài học
triết lý ứng xử, kinh nghiệm sống sâu sắc cho con người. Nội dung này nằm
trong lĩnh vực nhận thức, do đó cùng với tục ngữ, truyện ngụ ngôn được xếp
vào những nhóm thể loại triết lý dân gian.
+ Truyện ngụ ngôn thường dẫn người ta đến những nhận thức đúng đắn bằng
cách nêu lên những kết quả tai hại do nhận thức sai lầm gây ra, dẫn dắt người ta
đến với chân lý bằng cách chỉ ra cái nghịch lý mà người ta dễ mắc phải trong
cuộc sống. Cách làm này có hiệu quả mạnh mẽ trong công việc tác động trực
tiếp vào quá trình tự nhận thức, tự đốn ngộ bài học của người đọc.
+ Truyện ngụ ngôn chỉ ra sự mâu thuẫn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái chủ
quan và khách quan, giữa cái dại, và cái khôn trong nhận thức của con người,
qua đó chuyện ngụ ngôn giúp người đọc nhận ra được cái tốt, cái khôn đúc kết
cho mình những bài học triết lý ứng xử và kinh nghiệm sống sâu sắc
- Truyện ngụ ngôn phản ánh cuộc đấu tranh xã hội
+ Một trong những nội dung khác của truyện ngụ ngôn là phản ánh cuộc đấu
tranh xã hội, đặc biệt trong thời phong kiến có sự phân hóa giai cấp thống trị -bị
trị. Xung đột giữa các nhân vật trong truyện là hình ảnh khúc xạ cho sự xung
đột giữa kẻ áp bức và người bị áp bức. Bằng cách nói ẩn dụ bóng gió kín đáo
truyện ngụ ngôn đã giúp nhân dân vạch mặt chỉ tên những bản chất, đặc điểm
tính cách, của bọn thống trị, từ đó phần nào rút ra kinh nghiệm ứng xử đối phó cho nhân dân.
Truyện cười
* Khái niệm: Đặc trưng của truyện cười * Đặc trưng:
- Truyện cười luôn có yếu tố gây cười
+ Cái cười có thể có mặt trong nhiều thể loại dân gian, nhưng cái cười trong
những thể loại đó là hệ quả của việc sử dụng ngôn ngữ hoặc việc xử lý tình huống
bất ngờ tạo nên tiếng cười. Chỉ có trong truyện cười, cái cười vừa là phương tiện
vừa là mục đích, vừa là hình thức, vừa là nội dung của chính bản thân thể loại.
Để đảm bảo yếu tố hài hước luôn xuất hiện. các đối tượng của truyện cười bị hạn
định lại cho một phạm vi nhất định. đồng thời việc lựa chọn đối tượng truyện
cười sử dụng tổng hợp nhiều thủ pháp gây cười như nói lái, chơi chữ, kết thúc bất
ngờ, sử dụng yếu tố tục
+ Truyện cười nhằm mục đích gây cười hay cái cười là mục đích của sự sáng tác. lOMoAR cPSD| 58950985
- Truyện cười xây dựng các tình huống đối thoại ngắn gọn
+ Truyện cười là thể loại truyện ngắn gọn bậc nhất, chỉ qua vài dòng đối thoại đã
hoàn thiện một câu chuyện. Truyện cười không có nhiệm vụ kể lại số phận cuộc
đời nhân vật, không quan tâm đến trước và sau việc xảy ra thì cuộc đời nhân vật ra sao.
+ Truyện cười thường khai thác những nhầm lẫn từ phía người nghe. Điều quan
trọng của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười nó tự bộc
lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe, người đọc tự mình phát
hiện ra và bật cười. Cái đáng cười có thể là một thói xấu nhưng bản thân thói xấu
chưa đủ gây ra cái cười và người ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu
thuẫn tiềm tàng bộc lộ dưới cái ngược đời. Vì cái đáng cười là hiện tượng có mâu
thuẫn - một loại mâu thuẫn đặc biệt, cho nên truyện cười được cấu tạo như một
màn kịch có các dẫn đến theo trình tự: giới thiệu hiện tượng của mâu thuẫn tiềm
tàng, mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới điểm đỉnh, mâu thuẫn được giải quyết. *
Nội dung của truyện cười:

- Truyện cười đem đến tiếng cười giải trí hài hước
+ Nhu cầu giải trí của con người luôn thường trực và cách thức đơn giản hiệu quả
nhất là được kể, được nghe các câu truyện cười. Xuất phát từ mục đích mua vui
giải trí đó, truyện khôi hài ra đời, những câu chuyện đó được kể không nhằm mục
đích ác ý, mà trái lại để tạo không khí tươi vui, cởi mở giữa những người lao động
để tìm thấy niềm vui, sự sảng khoái, lại có những bài học nhẹ nhàng, góp ý giáo dục tinh tế.
+ Một chuyện hài hước thường không đề cập đến cái xấu xa, đến những người
xấ, mà xoay quanh những chuyện đời thường. Vì thế loại truyện này thường
mang tính chế giễu nhắm vào cộng đồng, các dân tộc khác, tìm ra điểm khác
thường để tạo nên tiếng cười. Nhân dân phê phán những thói hư tật xấu trong nội
bộ với ý nghĩa xây dựng hơn là loại trừ bởi vì những tật xấu ấy không gây nguy
hại đến xã hội, ít làm hại đến người khác.
+ Nội dung của truyện hài hước đề cập đến ba nhóm đề tài quen thuộc: phê phán
tính khoác lác, chế giễu thói tham ăn tục uống, truyện về những anh chàng sợ vợ.
+ Nhìn chung chuyện hài hước có tính giải trí cao. Sau nụ cười sảng khoái, thỏa
mãn, người đọc, người nghe dường như quên đi những cái xấu của nhân vật, sự
giáo dục, phê phán nhẹ nhàng cũng tạo nên không khí vui tươi, hồn nhiên trong bản thân mỗi truyện.
- Truyện cười châm biếm đả kích những cái xấu trong xã hội lOMoAR cPSD| 58950985
+ Các nhà lý luận mỹ học đã nhận ra vai trò đấu tranh xã hội của tiếng cười. Vũ
khí tiếng cười có một tác dụng chiến đấu to lớn. Tiếng cười áp đảo kẻ thù bằng
cách tạo nên dư luận rộng rãi trong cộng đồng, không sợ hãi trước thế lực nào. Vì
tính chất vô danh, truyền miệng, cho nên nếu những loại hình văn học truyền
thống khác kiêng kỵ, né tránh, thì truyện cười lại thẳng thắn phê phán nêu danh
những cái xấu trong đời sống.
+ Đối với các thói hư tật xấu, tiếng cười có tác dụng giáo dục. Người ta cười cái
xấu, cái xấu là nguồn gốc của cái hài. Cái xấu trở thành đối tượng của cái cười
khi nó không biết mình xấu lại muốn tô vẽ thành đẹp. Văn học trào phúng là một
phương tiện đắc lực để tác động vào tư tưởng thẩm mỹ của người đọc bởi vì văn
học có hình thức phản ánh hiện thực đặc trưng là xây dựng những hình tượng có
sức khái quát cao. Các thể loại văn học trào phúng dân gian đều nhằm đến những
đối tượng nhất định để đả kích châm biếm. Ở đây cái xấu không đành phận xấu
do đó nảy sinh mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức có tính chất hài kịch. Bóc
trần mâu thuẫn ấy thì chúng trở thành trò cười.
+ Truyện trào phúng hướng tới những nhân vật thuộc tầng lớp trên như vua quan,
tầng lớp trí thức, ông thầy. Những nhóm người này vốn được xã hội trọng vọng
nhưng bản thân thì lại chứa đựng những thứ xấu xa, tầm thườn. Truyện cười cũng
ẩn ý đám người đó qua những hình tượng như Diêm Vương, trời những ông vua của thế giới kỳ ảo.
+ Đối với thể loại truyện trạng thì đám vua chúa không xuất hiện gián tiếp mà đã
xuất hiện một cách trực tiếp, dân gian đã chỉ đích danh đâu là vua là chúa xấu xa.
+ Do đối tượng đả kích không phải là các cá nhân mà là tính cách, các thói xấu,
nêu truyện cười thường mang tính vô danh, khái quát cao. Tóm lại truyện cười
không chỉ đơn thuần là câu chuyện giải trí mua vui mà còn có vai trò đấu tranh
xã hội, hướng tới những giá trị tốt đẹp, sau mỗi tiếng cười là chân dung của những
người dân hồn hậu đầy thông minh trí tuệ, vì mỗi câu chuyện đã có tầng lớp ý nghĩa sâu xa. 5. Ca Dao * Khái niệm: -
Ca dao – là thuật ngữ Hán Việt, chiết tự thì “ca” có nghĩa là bài hát có
chươngkhúc hoặc âm nhạc kèm theo, còn “dao”là bài hát suông không cần nhạc đệm.