lOMoARcPSD| 58950985
3. hệ thng thể loại văn học dân gian
Văn học dân gian Việt Nam bao gồm 12 thể loại chính: thần thoại,
truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu
đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo.
Thần thoại:
+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Thường kể về các vị thần nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát
vọng chinh phục tự nhiên của con người thời cổ đại.
Sử thi:
+ Tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn.
+ Sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành
tráng.
+ Kể về một hoặc nhiều biến cố diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân cổ
đại.
Truyền thuyết:
+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Kể về các sự kiện hoặc các nhân vật lịch sử có thật theo hướng lí tưởng hóa.
+ Thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân.
Truyện cổ tích:
+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định.
+ Kể về số phận người dân lao động trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và
tinh thần lạc quan của người lao động.
lOMoARcPSD| 58950985
Truyện ngụ ngôn:
+ Tác phẩm tự sự dân gian ngắn.
+ Kết cấu chặt chẽ.
+ Thông qua các ẩn dụ để kể về những sự việc liên quan đến con người.
+ Nêu lên các bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc triết lí
nhân sinh.
Truyện cười:
+ Tác phẩm tự sự dân gian ngắn.
+ Kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ.
+ Kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên để gây cười nhằm mục đích giải trí, phê
phán.
Tục ngữ:
+ Câu nói ngắn gọn, hàm súc.
+ Có hình ảnh, vần, nhịp.
+ Đúc kết kinh nghiệm thực tiễn.
Câu đố:
+ Bài văn vần hoặc câu nói có vần.
+ tđồ vật bằng cách ám chỉ để người nghe giải, nhằm rèn luyện tư duy,
khả năng liên tưởng, suy đoán.
Ca dao, dân ca:
+ Tác phẩm trữ tình dân gian.
+ Thường kết hợp giữa lời thơ và điệu nhạc.
+ Thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người.
lOMoARcPSD| 58950985
Vè:
+ Tác phẩm tự sự dân gian bằng vần.
+ Kể lại hoặc bình luận những sự kiện có tính thời sự hoặc những sự kiện lịch sử
đương thời.
Truyện thơ:
+ Tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ.
+ Giàu chất trữ tình.
+ Phản ánh sphận khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi sự công
bằng bị tước đoạt.
Chèo:
+ Tác phẩm sân khấu dân gian.
+ Kết hợp các yếu ttrữ tình trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức
và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.
4. Phân biệt văn học dân gian và văn học viết
Điểm tương đồng: VHDG và văn học viết đều là nghệ thuật ngôn từ.
Nghĩa chúng đều cùng sử dụng ngôn từ làm phương tiện quan trọng nhất để
sáng tạo hình tượng nghệ thuật, thể hiện tưởng, quan niệm, thái độ tình cảm
của các tác giả qua những hình tượng nghệ thuật đó.
Điểm khác biệt:
+ VHDG nghệ thuật ngôn từ truyền miệng của tập thể nhân dân lao động, trong
đó, tỉnh nguyên hợp, tập thể, truyền miệng, tính dị bản những đặc trưng nổi
bật.
VHDG chưa phải nghệ thuật ngôn từ thuần túy được chuyên môn hóa cao
hoàn toàn độc lập như VH viết chỉ thành phần nghệ thuật ngôn ttính
độc lập tương đối ở trong những sáng tác dân gian mang tính nguyên hợp. Do đó,
VHDG không chỉ là bộ phận của văn học dân tộc mà còn là bộ phận của văn hóa
dân gian.
VHDG tác động trực tiếp đến thực tiễn và tham gia vào đời sống thực tiễn như
một thành tố không thể tách rời. VHDG được công chúng, tập thể tham gia sáng
tạo, chỉnh sửa, thêm bớt liên tục trong quá trình sáng tác và thưởng thức.
lOMoARcPSD| 58950985
+ VH viết nghệ thuật ngôn từ gắn với tự do nhân của nhà văn hoặc những
người có học thức chuyên môn, sáng tác xuất bản, lưu hành, do đó, tính thành
văn, tính cá thể, hữu danh và tính ổn định là đặc trưng của văn học viết.
VH viết tác động đến đời sống thực tiễn một cách gián tiếp. VH viết chỉ ra mắt
công chúng sau khi được hoàn chỉnh.
Vai trò của VHDG: VHDG vừa "nguồn gốc" vừa "nền tảng" của văn học
mỗi dân tộc.
5. khái niệm tiến trình văn học dân gian, cách phân chia tiến trình lịch sử văn học
dân gian của đỗ bình trị
Tiển trình VHDG là một tổng thể phức tạp bao gồm toàn bộ các hoạt động sáng
tác, diễn xướng tiếp nhận (thường thức); lịch sử VHDG lịch sử cuộc sống
của các diễn bản trong đời sống nhân dân, gắn liền với các hoạt động thực tiễn
của nhân dân như lao động sản xuất, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt tập thể- cộng
đồng và các hoạt động xã hội khác. (GT VHDGVN T1- ĐBT- tr 91).
Phân biệt tiến trình VHDG với tiến trình VH viết:
+ Tiến trình văn học lịch sử các tác giả sự nghiệp sáng tác của họ, lịch
sử của các xu hướng văn học, các trào lưu văn học. + Tiến trình văn học dân
gian không những bước ngoặt, những chuyển hướng đột ngột, những bước
lùi và bước nhảy vọt.. như VHI viết. Sự biến đổi của VHDG theo thời gian vita
có tính chất rộng lớn, liên tục vừa có tính chất chậm chạp, trầm lặng.
VHDG trong quá trình lịch sử thể được cải tác một cách ý thức, thể bị
hiểu lại một cách không tự giác. Do đó không thể phân kỳ lịch sVHDG một
cách chi lĩ như phân kì lịch sử VH.
1.4.2. Phân kỳ lịch sử VHDG
Theo ĐBình Trị, thể phân chia lịch sử VHDGVN thành 5 chặng lớn, chủ yếu
dựa vào đặc điểm lịch scủa tiến trình tiến hóa của dân tộc các hình thái
hội:
+ Thời kỳ dựng nước
+ Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của các triều đại Hán,
Đường (Thời kỳ Bắc thuộc)
+ Thời kỳ xã hội phong kiến
+ Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp
và giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức phong kiến.
+ Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám.
Khung phân kỳ này mang dáng dấp con đường phát triển lịch sử, phải lấp đầy
bằng các thể loại, các tác phẩm cụ thể. Cách phân kỳ này của Đỗ Bình Trị là cách
phần kỳ lịch sử văn học.
lOMoARcPSD| 58950985
5. Diện mạo, nội dung VHDG thời Bắc thuộc, phong kiến tự chủ6. Chức
năng cúa thân thoại và truyền thuyết, truyền thuyết và truyện có tích.
6. Quá trình nh thành truyện cổ tích; về nguồn gốc sự hình thành của
truyện cổ tích thường được hiểu xét đoán theo nhiều góc độ bình diện khác
nhau, trong đó có ba phương diện đáng quan tâm:
S phát sinh đầu tiền của truyện cổ tích, nguồn gốc trực tiếp của các bộ phận, các
tiểu loại, thức hội).loại, nguồn gốc thúc đầy sự phát sinh, phát triển của thể
loại (nguyên nhân tư tưởng, ý
Ba phương diện trên gắn với nhau trong một thể thống nhất. Tuy nhiên, tìm
hiểu về nguồn gốc sự hình thành truyện cổ tích một vấn dề hết sức phức tạp,
không phải lúc nào cũng có thể giải quyết một cách triệt để.
Nguồn gốc ban đầu hay là nơi phát sinh đầu tiên của truyện cổ tích có thể thần
thoại thời kbắt dầu tan của hội thị tộc nguyên thủy. Ngoài ra, còn
yếu tố nữa là nhu câu nhận thức và lý giải hiện thực xã hội của con người trong
thời kỳ lịch sử nói trên. Cổ tích nảy sinh, kế thừa từ thần thoại nhưng đồng thời
cũng phủ pháp sáng tác, thi pháp... nhận, đổi mới thần thoại về nhiều phương
diện quan trọng: đề tài, chức năng, phương
Nguồn gốc trực tiếp của các tiểu loại, các kiểu truyện cổ tích như kiểu truyện
người mồ côi, người em út, người con riêng... cũng xuất phát từ hệ quả tất yếu
sản sinh ra từ chế độ xã hội mới.
Nói về nguồn gốc nguyên nhân trực tiếp của các bộ phận truyện cổ tích, các
nhà nghiên cứu còn chú ý tới phong tục tín ngưỡng, cảnh vật thiên nhiên, những
câu nói vẫn vè, những nhân vật lịch sử.... điều kiện hình thành thể loại truyện
cười;
Quả trình hình thành, phát triển
Truyện cười dân gian chỉ thể hình thành và phát triển với hai điều kiện bản:
Một là, trong đời sống hội đã xuất hiện cái xấu, cái đáng cười (tức cái hài)
tương đối rõ nét phổ biến. Hai là, nhân dân (chủ thế sáng tạo truyện cười) đã
nhu cầu khả năng sử dụng tiếng cười phê phần đề phát hiện tổng tiễn
cáixấu, cái đáng cười ấy đi. Hai điều kiện khách quan và chủ quan ấy có quan hệ
với nhau rất mật thiết, thường xuất hiện ít nhiều khác nhau tùy từng giai đoạn lịch
sử.
Xét về mặt liệu, hầu hết truyện cười đã được sưu tầm còn lại đến nay đều
thuộc về thời kỳ phong kiến tự chủ, chủ yếu giai đoạn phong kiến suy tàn (thế kỷ
17, 18, 19).
quá trình hình thành thể loại truyền thuyết
7. Biểu hiện của hai tính chất thần thoại và truyền thuyết trong truyện:
lOMoARcPSD| 58950985
Sơn Tinh Thủy Tinh *truyền
thuyết
a)Cốt lõi lịch sử
- Đời Vua Hùng thứ 18 có người con gái nhan sắc tuyệt trần tên là Mỵ Nương.
- Khi Mỵ Nương đến tuổi cập kê, Vua Hùng ban truyền trong dân gian tìm
nhân tài kén phò mã.
- Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 7 âm lịch là lũ lụt lại kéo về.
- Từ xưa, nhân dân ta đã truyền thống chống chống lụt.b)Yếu tố ởng
ợng kì ảo
- Sơn Tinh: "vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây,
phía tây mọc lên từng dãy núi đồi". Sơn Tinh có thể "dùng phép lạ bốc từng
quđồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước
sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu"..
- Thủy Tinh: "gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về"; có thể "hô mưa, gọi gió làm
thành giông bão rung chuyển cả đất trời". c)Ý nghĩa
-Sơn Tinh: là nhân vật tượng trưng cho sức mạnh, khát vọng chống thiên tai
và ước mơ chiến thắng lũ lụt của nhân dân ta
- Thủy Tinh: Đây nhân vật tượng trưng cho mưa bão, lũ lụt, thiên tai uy hiếp
cuộc sống của con người
*thần thoại
- Đề cao con người ( tự hào hồn nhiên về nguồn gốc con người, đề cao sứclao
động của con người).
- Thể hiện ước mơ, khát vọng của con người ( Ước mơ có cuộc sống nhẹ nhàng,
no đủ; ước mơ giải phóng con người khỏi sự chi phối của tự nhiên, chiến thắng
tự nhiên..)
- Thể hiện trí tưởng tượng phóng khoáng, hồn nhiên và thơ mộng của con người
nguyên thủy...
- Tạo nên những hình tượng thần mang nét nguyên của sự sáng tạo nghệ thuật,
vừa hồn nhiên, mộc mạc, vừa kì lạ, kì vĩ và đầy lãng mạn
8. phân tích
lOMoARcPSD| 58950985
*thần trụ trời
Từ trước đến nay, tôi đã học được rất nhiều câu chuyện thần thoại hay và thú v,
nhưng câu chuyện tôi thích nhất vẫn Thần Trụ Trời. Đọc câu chuyện đó, tôi
không khỏi suy nghĩ và không khỏi xúc động. Truyện kể rằng vào thời trời đất
còn hỗn loạn, tăm tối, một vthần khổng lồ. Thần dựng trời cao, rồi đào đất,
nặn đá, dựng cột chống trời, khi trời đất phân tranh thì thần phá trụ. Sau khi hoàn
thành công việc, xác bay lên trời để các vthần khác tiếp tục xây dựng thế giới.
Ồ! Tôi thích thân hình to ln của thần rất nhiều tôi thấp gầy. Tôi đã nhìn
thấy những người to cao, nhưng không ai giống nthần. Tôi cứ ước, giá như
mình có một thân hình đôi tay như thần thánh, tôi sẽ một cầu thủ xuất sắc,
chcần một bước chân tôi thể sút bóng vào khung thành đối phương. Tht
thú vị! Không những thế, tôi còn ngưỡng mChúa cùng. Chúa rất nhiều
đức tính tốt tôi không có. Trước hết, tôi yêu tất cả các loài động vật. Nếu
không tình yêu, tôi đã không nhọc công ngẩng đầu lên trời, kiên nhẫn đào đất,
dựng cột chống trời. Làm công việc đó, thần vừa thể hiện tình yêu thương muôn
loài, vừa thể hiện sự quyết tâm, cần cù, chịu khó. Khi xong việc, thần không đợi
muôn loài báo đáp, lặng lẽ bay về trời, để lại những công việc còn lại cho các vị
thần khác tiếp tục xây dựng cho thế giới, cho muôn loài cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tôi nghĩ không ai trên thế giới này những đức tính tốt như Chúa. Câu
chuyện về Thần Trụ Trời. một câu chuyện thần thoại em thích, giúp em hiểu
được quan niệm cổ xưa về sự hình thành của trời và đất.
*thánh gióng
Thánh Gióng một tượng đài tiêu biểu về người anh hùng chống giặc ngoại xâm.
Nhân vật được xây dựng với sự ra đời lạ, khác thường. Một hôm, người mẹ
của Gióng đi ra đồng trông thấy một bàn chân to, liền ướm thử vào để xem thua
kém bao nhiêu. Không ngvề nhà mang thai, sau ời hai tháng thì sinh ra
một câu bé. Gióng sinh ra nhưng lên ba tuổi mà vẫn không biết nói biết cười, đặt
đâu thì nằm đấy. Không chỉ sự ra đời, quá trình trưởng thành của Gióng cũng
khác thường. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, nhà vua bèn sai sgiđi khắp nơi
tìm người tài giỏi cứu nước. Đến làng Gióng, cậu nghe tiếng của sgithì liền
cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ givào đây cho con”. Gióng đã yêu cầu sứ gi
về nói với nhà vua chuẩn b“một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt một tấm áo
lOMoARcPSD| 58950985
giáp sắt” với lời hứa sẽ phá tan giặc này. Từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh
như thổi, con trong làng cùng góp gạo nuôi lớn. Gióng lớn lên trong snuôi
ỡng của nhân dân, đại diện cho sức mạnh của nhân dân. Khi giặc đến gần bờ
cõi, Gióng bỗng vươn vai trở thành tráng - mình cao hơn trượng, oai phong lẫm
liệt. Thánh Gióng đã đánh tan quân giặc, bảo vệ đất nước khỏi kẻ thù xâm lược.
Sau khi đánh giặc xong, Gióng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi áo giáp st
bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa bay lên trời. Thánh Gióng được bất tử hóa, thể hin
lòng tôn kính, quan điểm của nhân dân vngười anh hùng. Nhân vật Thánh Gióng
được xây dựng những nét đẹp tiêu biểu của con người Việt Nam, đại diện cho dân
tộc Việt Nam
*chân tay mắt miệng
Trong vàn truyện ngụ ngôn ý nghĩa của Việt Nam, câu chuyện "Chân, Tay, Tai,
Mắt, Miệng" đem đến một cái nhìn hóm hỉnh vmối quan hệ giữa các bộ phn
cơ thể con người: Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai và lão Miệng.
Ban đầu, họ sống hòa thuận phthuộc lẫn nhau để tồn tại. Tuy nhiên, khi
Mắt quyết định tẩy chay lão Miệng chỉ biết ăn không làm việc, cuộc sống
của họ bắt đầu rối ren. Sau vài ngày, họ thấy mệt mỏi khó chịu hơn. Mt
mất hứng, cậu Chân, cậu Tay không còn vui vẻ như xưa, và bác Tai luôn ù ù như
xay lúa. Đến ngày thứ bảy, tất cả đều không thể chịu đựng được nữa. Trong khi
đó, lão Miệng cũng không còn sức sống như trước, môi khô rát.
Cuối cùng, hnhận ra rằng mỗi bộ phận đều cần nhau đhoàn thành công vic
chung. Cậu Tay đưa thức ăn cho lão Miệng, khiến mọi người đều cảm thấy đ
mệt mỏi khoan khoái hơn. Từ đó, họ học được bài học qgiá về sphthuộc
hợp tác cần thiết trong cuộc sống. Không ai quan trọng hơn ai, mỗi nhân
đều có vai trò quan trọng để cùng nhau hòa hợp và mưu cầu hạnh phúc.
lOMoARcPSD| 58950985
Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự hòa hợp phụ
thuộc lẫn nhau trong một cộng đồng, giống như các bộ phận thcần nhau để
thể hoạt động tốt. Bài học sâu sắc từ truyện cùng sống hòa hợp để mỗi
người có thể tồn tại và tìm kiếm hạnh phúc
9. phân tích
*cổ tích
Tấm Cám kvcâu chuyện của một gái tên Tấm, cha mẹ mất sớm, phải
sống cùng ghẻ người em cùng cha khác mCám. Trong khi Tấm
gái hiền lành, tốt bụng thì Cám lại người tham ăn lười làm, luôn cùng
ghẻ tìm cách hãm hại, đối xử bất công với Tấm.
Mặc dù bị mẹ con Cám ngăn cấm đi chơi hội, thế nhưng với sự giúp đỡ của Bụt,
Tấm đã đến có quần áo đến lễ hội và nhờ chiếc giày được ban cho, Tấm trở
thành hoàng hậu. Trải qua bao khó khăn bởi bị mẹ con Cám hãm hại, cuối
cùng Tấm đã được đoàn tụ với vua và sống hạnh phúc.
Ý nghĩa nhân văn của truyện
Truyện đcao những phẩm hạnh tốt của con người như lòng vị tha, sự chăm chỉ
và nỗ lực, đồng thời truyện cũng là minh chứng cho câu “ở hiền thì gặp lành”.
lOMoARcPSD| 58950985
Tấm Cám dạy cho trẻ phân biệt phải trái, đúng sai, cho trẻ thấy những điều tốt
đẹp trong cuộc sống nhắc nhở trrằng hãy luôn tốt bụng, giúp đbạn
luôn chăm chỉ.
*ngụ ngôn
Đó là truyện Ếch ngồi đáy giếng. Vì sống lâu ngày trong đáy giếng, xung quanh
ếch lâu nay chỉ có một vài con vật nhỏ bé, mà tiếng ếch kêu “ồm p” vang động
trong giếng nên ếch ta cứ ởng ”bầu trời trên đầu bé chỉ bằng chiếc vung và nó
thì oai như một vchúa tể”. Điều đó chứng tỏ môi trường, hoàn cảnh sống của
ếch rất nhỏ hẹp, tầm nhìn, shiểu biết của ếch cũng rất nông cạn, thiếu chính xác.
Bầu trời bao la, rộng mênh mông như thế ếch ta tưởng chỉ bằng chiếc vung.
Thế giới bên ngoài cũng vô cùng rộng lớn, phong phú như thế mà ếch ngỡ ch
vài con vật nhỏ bé, yếu đuối hơn mình. Ở trong đáy giếng lâu ngày, do tầm nhìn,
sự hiểu biết hạn chế, lại một chút năng lực kêu “ồm ộp” trong giếng, được
thành giếng cộng hưởng khiến tiếng kêu âm vang lên một chút nên chú ếch kia
nhiễm bệnh chủ quan, kiêu ngạo, huênh hoang, cho mình chúa tmuôn loài.
Đúng là kẻ “coi trời bằng vung” như thành ngữ cha ông ta thường nói. Nhưng
rồi, hoàn cảnh sống của ếch thay đổi. Sau một trận mưa to, nước giếng dềnh lên,
đưa ếch lên khỏi đáy giếng tiếp xúc với thế gii bao la. Vậy mà chú ta vẫn không
thay đổi tính tình. c“nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm đ
ý đến xung quanh”. Hậu quả là ếch “bị một con trâu đi qua giẫm bẹp”. Chao ơi !
Chú ếch đốn kia đã phải trả giá, một cái giá quá đắt bằng chính mạng sống của
mình.
Từ câu chuyện một chú ếch ngồi trong đáy giếng, nhân dân ta ngụ ý phê phán
những kẻ hiểu biết cạn hẹp mà lại huênh hoang, đồng thời khuyên nhủ chúng ta
phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không được chủ quan, kiêu ngạo.
Những thành ng“Coi trời bằng vung”, “Ếch ngồi đáy giếng” chúng ta thưng
được nghe nhiều người nói, phải chăng bắt nguồn từ truyện ngụ ngôn này cũng
ngụ ý phê phán, răn dạy tương tự
10. vai trò của yếu tố thần kỳ
lOMoARcPSD| 58950985
tích
* Vai trò hình thành thế giới cổ tích
Trong truyện cổ ch thần kì, yếu tố thần vai trò rất quan trọng vic
hình thành thế giới cổ tích. Yếu tố thần trong truyện cổ tích thần yếu tố
vai trò biến thực tế cuộc sống thành thế giới cổ tích. Bằng ttưởng tượng
phong phú của mình, những tác giả dân gian thể xây dựng những chi tiết
cùng đặc sắc mới lạ. Trong truyện Tấm Cám, tác giả đã hình tượng hóa cái
chết của Tấm, khi để nàng hóa thân vào những svật khác nhau, khẳng định sự
đấu tranh không ngừng nghỉ của người dân lao động. Trong truyện Cây khế,
ththấy tuy chỉ sự kiện chim ăn khế, nhưng tác giđã lồng ghép rất khéo léo
yếu tố thần kì để nó trở thành một skiện đặc biệt, thử thách lòng người và trừng
phạt kẻ tham lam. Yếu tố thần thể hiện ý chí của đa số những người dân lao
động, có mô típ được lặp lại nhiều lần nên ta có thể thấy những điểm giống nhau
những tác phẩm cổ tích. Tuy nhiên đồng thời cũng mang những dấu ấn nhân
sâu sắc của các tác giả, vì có rất nhiều tình tiết được hư cấu rất đặc biệt, nhất là ở
những giai đoạn nhân dân ta bắt đầu có sự đấu tranh giai cấp. Chính sự ảo này
đã tạo nên sức hút rất riêng của truyện cổ tích, vẽ nên một thế giới mơ mộng nơi
người lương thiện luôn chiến thắng đã làm say lòng biết bao thế hệ, đặc biệt
gắn liền với tuổi thơ của mỗi người.
* Giải quyết những xung đột, mâu thuẫn của tác phẩm
Truyện cổ tích phản ánh xung đột, mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội. khi đi vào
thế giới cổ tích trở thành xung đột, mâu thuẫn truyện và yếu tố thần kì có vai trò
lOMoARcPSD| 58950985
to lớn, không thể thiếu, trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột, mâu
thuẫn của truyện. Trong truyện cổ tích Tấm Cám cũng như nhiều truyện cổ tích
thần kì khác xung đột trong truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ
sự can thiệp của các lực lượng thần kì. Ví dụ, khi nhân vật chính gặp khó khăn,
ông Bụt sẽ xuất hiện giải quyết hết những khó khăn đó, ta ththấy rất
trong truyện “cây tre trăm đốt”, khi anh Khoai không thđáp ứng được yêu cầu
của phú ông, ông Bụt liền xuất hiện chỉ cho anh cách tạo ra cây tre trăm đốt.
Yếu tố hoang đường kì ảo xuất hiện xen kẽ song hành với những yếu tố thần kì,
được lồng ghép vừa đủ, chỉ xuất hiện vào những lúc cao trào để gỡ rối cho nhân
vật.
ờng như mọi tác phẩm cổ tích đều giải quyết mâu thuẫn bằng yếu tố kì ảo, đc
trưng này vừa những ưu điểm nhưng cũng những khuyết điểm. Việc đưa
các lực lượng thuộc thế giới thần tiên vào trong truyện khiến mâu thuẫn được giải
quyết quá dễ dàng, nhân vật không có sự đấu tranh mạnh mẽ, không có ý thức cá
nhân và chưa biết cách tự mình vượt qua khó khăn. Đôi khi dễ khiến độc giả lầm
ởng vào sự dễ dàng này, tuy nhiên, trên tất cả, các yếu tố thần chỉ giúp những
nhân vật chính diện. Chi tiết này thể hiện niềm tin to lớn và mãnh liệt của người
dân vào chân lý hiền chắc chắn sẽ gặp lành. Sự giúp đỡ này là tất yếu, là phần
thưởng xứng đáng cho tấm lòng lương thiện và nỗ lực chiến đấu với khó khăn
của học. Nhờ sự phù trợ của lực lượng thần kì, xung đột được giải quyết bao giờ
cũng theo hướng người tốt, thật thà, lương thiện chiến thắng, hạnh phúc; kẻ xấu,
tham lam, độc ác thất bại, bị trừng trị đích đáng. Sự chiến thắng hạnh phúc của
lOMoARcPSD| 58950985
nhân vật hiền lành, lương thiện trong truyện cổ tích thần gần như chỉ biểu
hiện của niềm tin vào triết lí ở hin gặp lành
Nhìn chung, yếu tố thần vừa là đặc trưng nghệ thuật, vừa tưởng của nhng
người sáng tác nên tác phẩm. biểu hiện ràng nhất cho ước công
của người dân Việt Nam, sự đấu tranh không ngừng cho công bằng của xã hội.
12. truyện cổ tích có kết thúc có hậu
Truyện cổ tích là một thloại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư
cấu, bao gồm cố tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật.
Loại chuyện này chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh,
thần tiên, quỷ, người lùn, người khổng lồ, người cá, hay thần giữ của, vò thường
là có phép thuật, hay bùa mê. Về nội dung tư tưởng, truyện cổ tích thường mang
tinh thần lạc quan, hậu, trong đó kết thúc truyện bao giờ cái ác bị tiễu trừ hoc
bị chế giu.
Truyện cổ tích thường là kể, đọc cho trẻ em nghe nên những cái kết có hậu nó sẽ
có tác động, ảnh hưởng tới tâm lý của trẻ. Vì vậy các
Truyện cổ tích kết cục rất đẹp như: Hoàng tử công chúa sống bên nhau hnh
phúc, kẻ lương thiện tốt bụng luôn gặp may măn, hạnh phúc, kẻ xấu nhất đnh
phải bị trừng trị. Do đó qua truyển cổ tích thể giáo dục đạo đức, lối sống và
hình thành nhân cách cho trẻ.
17. khái niệm ca dao, tục ngữ. ví dụ
*ca dao: một thuật ngn Trung Quốc theo nghĩa gốc ca bài hát
trương khúc giai điệu được quy định ràng người hát không được tự do thay đổi
giao là bài hát ngắn không có quy định chặt chẽ về ra rượu trung khúc còn gọi là
lOMoARcPSD| 58950985
bài hát trên thể hát tdo. Trên sở đó trước đây ca dao tôi hiểu như sau ca
dao những bài hát hoặc không trương khúc sáng tác bằng thể văn vần dân
tộc thường là lục bát để miêu tả tự sự ngụ Ý và diễn đạt tình cảm.
ví dụ: bán anh em xa, mua láng giềng gần
*tục ngữ: hình thái tổng hợp đặc biệt của tri thức dân gian trong đó thẩm mỹ
nên chúng ta không thể gạt ra ngoài kho tàng văn học dân gian được tục ngữ
là thể loại văn học dân gian chức năng chủ yếu nhầm đúc kết kinh nghiệm
trí thức của nhân dân ới hình thức những câu nói ngắn gọn súc tích nhịp
điệu sẽ nhớ dễ truyền.
ví dụ tốt gỗ hơn tốt nước sơn
18. Phân tích sự khác biệt giữa biện pháp từ ẩn dụ trong câu đố và ca dao
19. Lớp xưng danh, các loại vai trong chèo cổ; vở chèo Quan âm Thị Kính
20. Các nhóm câu tục ngữ theo nội dung, nghthuật; phương thức tạo nghĩa trong
tục ngữ
4.1.3.1. Phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất
Những kinh nghiệm về lao động sản xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên
nhiên của nhân dân lao động được đúc kết trong tục ngngày càng trở nên phổ
biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học kỹ thuật dân gian.
Trong quá trình lao động sản xuất sinh hoạt, nhân dân tích lũy được nhiều kinh
nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết khí hậu
lOMoARcPSD| 58950985
- Chuôn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì năng, bay vừa thì râm.
- Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa- Dày sao thì năng, văng sao thì mưa..
Trong quá trình lao động sản xuất các ngành nghề nông nghiệp, ngư nghiệp,
một số nghthcông lâu đời, nhân dân cũng đã đúc kết được rất nhiều kinh
nghiệm.
Trong đó, những kinh nghiệm về làm ruộng chiếm đa số.
-Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
-Cơm quanh rá, mạ quanh bờ:
- Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân-Khoai ruộng lạ, mruộng quen
ong tác phẩm văn học sc ngoài.
Tục ngữ về nghề đánh cá và chăn nuôi có số ợng ít hơn:
- Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông
- Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua
lOMoARcPSD| 58950985
Gà trắng chân chì mua chi giống ấy
ir.
Tục ngữ về lao động sản xuất thế hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân trong lao
١y, y dep duroc truyin
động. Song chủ yếu những tri thức về sản xuất của nhân dân mới dừng li trình
độ kinh nghiệm thực tiễn. Nhiều kinh nghiệm chỉ phản ánh những biểu hiện cụ
thể của những quy luật tự nhiên ở địa phương, từng thời điểm nhất định.
ột câu tục ngữ tự nó ngữ chỉ là lời nỏi cỏ и mè"
c ngữ là một câu tự lân lý, một công lý, à nhiều người quen
4.1.3.2. Ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội
Tục ngữ nói về các hiện tượng lịch shội là bộ phận chủ yếu, phản ánh những
tập quán, thị hiếu, cuộc đấu tranh của nhân dân ...Một vàiức của thời kỳ lịch
sử xa xưa của dân tộc:
- Ăn lông ở lỗ.
- Con dại cái mang.
lOMoARcPSD| 58950985
- Năm cha ba mẹ.
Một số hiện tượng và nhân vật lịch sử đặc biệt, một số biến đổi vkinh tế. nh
ởng đến đời sống của nhân dân:
-Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
-Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.
- Thời vua Thái tổ, Thái tông
Con dắt, con bồng, con bế con mang
Tục ngữ Việt Nam chủ yếu phản ánh những đặc điểm sinh hoạt gia đình
hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân trong thời phong kiến.
Những tập quán, phong tục trong đời sống nhân dân:
- Dưa La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.
- Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam
- Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mổng chín đâu đâu trở về hội Dóng.
lOMoARcPSD| 58950985
Tục ngữ ghi lại những đặc điểm trong tổ chức và tập tục của thôn- đơn vị
sở của quốc gia phong kiến Việt Nam - Phép vua thua lệ làng.
- Đất có lề, quê có thói.
- Sống lâu lên lão làng
Tục ngữ cũng phản ánh tổ chức gia đình những quan điểm thân tộc của
nhândân ta trong xã hội phong kiến:.
- Một người làm quan cả họ được nhờ.
- Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì.
Phản ánh đời sống của các giai cấp, tầng lớp trong hội nhất của người lao
động và những quan hệ xã hội trong xã hội phong kiến:
- Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm.
- Bà chúa đứt tay bằng ăn mày xô ruột.
- Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
4.1.3.3. Phản ánh truyền thống tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao động
lOMoARcPSD| 58950985
Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm sống lối sống của nhân dân, phản ánh
truyền thống tưởng đạo đức của nhân dân lao động, trong đó bao hàm cả
những tư tưởng chính trị xã hội và tư tưởng triết học.
+ Coi trọng con người và những đức tính tốt đẹp của con người
- Người ta là hoa của đất
- Người còn thì của còn
- Đói cho sạch, rách cho thơm
- Chthấy sóng cả mà ngã tay chèo
+ Coi trọng lao động
- Của một đồng, công một nén
- Có làm, có ăn
- Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ...
Tục ngữ phản ánh niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương đất nước giàu đẹp,
con người tài hoa:
- Nhất Kinh kỳ, nhì phố Hiến
lOMoARcPSD| 58950985
- Chẳng thơm cũng thê hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
(Chẳng lịch cũng thể là người Tràng An)
20. Câu đố, phương thức độc đáo trong câu đố
*câu đố: hình thức sáng tác dân gian xuất hiện rất sm hầu hết các dân tộc
trên thế giới chức năng chủ yếu của nó là miêu tả phản ánh đặc điểm sự vật hiện
ợng trong tnhiên và đời sống hội bằng phương pháp giấu tên nghthuật
ẩn dụ đặc biệt để thtài suy đoán kiểm tra sợi hiểu biết và mua vui giải trí câu đố
một loại sáng tác phản ánh sự vật hiện tượng của thế giới khách quan theo li
nói chch Nói một đằng hiểu một nẻo câu đối được xây dựng nhằm mục đích mô
tả bằng hình tượng hoặc từ ngnhững dấu hiệu đặc trưng chức năng của những
câu đố cá biệt cụ thể *thi pháp
4.2.3.1. Cấu trúc
Xét về cấu trúc nội dung cũng như cấu trúc ngữ pháp, đơn vị tác phẩm câu đố
gồm rất nhiều loại với quy mô và cấu trúc khác nhau: cấu trúc theo kiểu tục ngữ,
kiểu ca dao, kiểu thơ.
được cấu tạo theo kiều nào thì câu đvẫn mang tính chất đổi thoại giữa người
đồ và người bị đố. Có thể có những câu đỗ thhiện dưới hình thức lời độc thoại
(chphần tường thuật hoặc miêu tđặc điểm) thi bản chất câu đố vẫn đối
thoại, người đặt câu đố luôn phải hướng tới, nghĩ tới người bị đố.
4.2.3.2. Biện pháp tu từ ẩn dụ

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58950985
3. hệ thống thể loại văn học dân gian

Văn học dân gian Việt Nam bao gồm 12 thể loại chính: thần thoại,
truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu
đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo. Thần thoại:
+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Thường kể về các vị thần nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát
vọng chinh phục tự nhiên của con người thời cổ đại. Sử thi:
+ Tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn.
+ Sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng.
+ Kể về một hoặc nhiều biến cố diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân cổ đại. Truyền thuyết:
+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Kể về các sự kiện hoặc các nhân vật lịch sử có thật theo hướng lí tưởng hóa.
+ Thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân.
Truyện cổ tích:
+ Tác phẩm tự sự dân gian.
+ Cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định.
+ Kể về số phận người dân lao động trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và
tinh thần lạc quan của người lao động. lOMoAR cPSD| 58950985
Truyện ngụ ngôn:
+ Tác phẩm tự sự dân gian ngắn. + Kết cấu chặt chẽ.
+ Thông qua các ẩn dụ để kể về những sự việc liên quan đến con người.
+ Nêu lên các bài học kinh nghiệm về cuộc sống hoặc triết lí nhân sinh. Truyện cười:
+ Tác phẩm tự sự dân gian ngắn.
+ Kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ.
+ Kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên để gây cười nhằm mục đích giải trí, phê phán. Tục ngữ:
+ Câu nói ngắn gọn, hàm súc.
+ Có hình ảnh, vần, nhịp.
+ Đúc kết kinh nghiệm thực tiễn. Câu đố:
+ Bài văn vần hoặc câu nói có vần.
+ Mô tả đồ vật bằng cách ám chỉ để người nghe lí giải, nhằm rèn luyện tư duy,
khả năng liên tưởng, suy đoán. Ca dao, dân ca:
+ Tác phẩm trữ tình dân gian.
+ Thường kết hợp giữa lời thơ và điệu nhạc.
+ Thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người. lOMoAR cPSD| 58950985 Vè:
+ Tác phẩm tự sự dân gian bằng vần.
+ Kể lại hoặc bình luận những sự kiện có tính thời sự hoặc những sự kiện lịch sử đương thời. Truyện thơ:
+ Tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ. + Giàu chất trữ tình.
+ Phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng bị tước đoạt. Chèo:
+ Tác phẩm sân khấu dân gian.
+ Kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức
và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.
4. Phân biệt văn học dân gian và văn học viết
Điểm tương đồng: VHDG và văn học viết đều là nghệ thuật ngôn từ.
Nghĩa là chúng đều cùng sử dụng ngôn từ làm phương tiện quan trọng nhất để
sáng tạo hình tượng nghệ thuật, thể hiện tư tưởng, quan niệm, thái độ tình cảm
của các tác giả qua những hình tượng nghệ thuật đó. Điểm khác biệt:
+ VHDG là nghệ thuật ngôn từ truyền miệng của tập thể nhân dân lao động, trong
đó, tỉnh nguyên hợp, tập thể, truyền miệng, tính dị bản là những đặc trưng nổi bật.
VHDG chưa phải là nghệ thuật ngôn từ thuần túy được chuyên môn hóa cao và
hoàn toàn độc lập như VH viết mà chỉ là thành phần nghệ thuật ngôn từ có tính
độc lập tương đối ở trong những sáng tác dân gian mang tính nguyên hợp. Do đó,
VHDG không chỉ là bộ phận của văn học dân tộc mà còn là bộ phận của văn hóa dân gian.
VHDG tác động trực tiếp đến thực tiễn và tham gia vào đời sống thực tiễn như
một thành tố không thể tách rời. VHDG được công chúng, tập thể tham gia sáng
tạo, chỉnh sửa, thêm bớt liên tục trong quá trình sáng tác và thưởng thức. lOMoAR cPSD| 58950985
+ VH viết là nghệ thuật ngôn từ gắn với tự do cá nhân của nhà văn hoặc những
người có học thức chuyên môn, sáng tác và xuất bản, lưu hành, do đó, tính thành
văn, tính cá thể, hữu danh và tính ổn định là đặc trưng của văn học viết.
VH viết tác động đến đời sống thực tiễn một cách gián tiếp. VH viết chỉ ra mắt
công chúng sau khi được hoàn chỉnh.
Vai trò của VHDG: VHDG vừa là "nguồn gốc" vừa là "nền tảng" của văn học mỗi dân tộc.
5. khái niệm tiến trình văn học dân gian, cách phân chia tiến trình lịch sử văn học
dân gian của đỗ bình trị
Tiển trình VHDG là một tổng thể phức tạp bao gồm toàn bộ các hoạt động sáng
tác, diễn xướng và tiếp nhận (thường thức); lịch sử VHDG là lịch sử cuộc sống
của các diễn bản trong đời sống nhân dân, gắn liền với các hoạt động thực tiễn
của nhân dân như lao động sản xuất, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt tập thể- cộng
đồng và các hoạt động xã hội khác. (GT VHDGVN T1- ĐBT- tr 91).
Phân biệt tiến trình VHDG với tiến trình VH viết:
+ Tiến trình văn học là lịch sử các tác giả và sự nghiệp sáng tác của họ, là lịch
sử của các xu hướng văn học, các trào lưu văn học. + Tiến trình văn học dân
gian không có những bước ngoặt, những chuyển hướng đột ngột, những bước
lùi và bước nhảy vọt.. như VHI viết. Sự biến đổi của VHDG theo thời gian vita
có tính chất rộng lớn, liên tục vừa có tính chất chậm chạp, trầm lặng.
VHDG trong quá trình lịch sử có thể được cải tác một cách có ý thức, có thể bị
hiểu lại một cách không tự giác. Do đó không thể phân kỳ lịch sử VHDG một
cách chi lĩ như phân kì lịch sử VH.
1.4.2. Phân kỳ lịch sử VHDG
Theo Đỗ Bình Trị, có thể phân chia lịch sử VHDGVN thành 5 chặng lớn, chủ yếu
dựa vào đặc điểm lịch sử của tiến trình tiến hóa của dân tộc và các hình thái xã hội: + Thời kỳ dựng nước
+ Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của các triều đại Hán,
Đường (Thời kỳ Bắc thuộc)
+ Thời kỳ xã hội phong kiến
+ Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp
và giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức phong kiến.
+ Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám.
Khung phân kỳ này mang dáng dấp con đường phát triển lịch sử, phải lấp đầy
bằng các thể loại, các tác phẩm cụ thể. Cách phân kỳ này của Đỗ Bình Trị là cách
phần kỳ lịch sử văn học. lOMoAR cPSD| 58950985 5.
Diện mạo, nội dung VHDG thời kì Bắc thuộc, phong kiến tự chủ6. Chức
năng cúa thân thoại và truyền thuyết, truyền thuyết và truyện có tích. 6.
Quá trình hình thành truyện cổ tích; về nguồn gốc và sự hình thành của
truyện cổ tích thường được hiểu và xét đoán theo nhiều góc độ và bình diện khác
nhau, trong đó có ba phương diện đáng quan tâm:
S phát sinh đầu tiền của truyện cổ tích, nguồn gốc trực tiếp của các bộ phận, các
tiểu loại, thức xã hội).loại, nguồn gốc thúc đầy sự phát sinh, phát triển của thể
loại (nguyên nhân tư tưởng, ý
Ba phương diện trên gắn bó với nhau trong một thể thống nhất. Tuy nhiên, tìm
hiểu về nguồn gốc và sự hình thành truyện cổ tích là một vấn dề hết sức phức tạp,
không phải lúc nào cũng có thể giải quyết một cách triệt để.
Nguồn gốc ban đầu hay là nơi phát sinh đầu tiên của truyện cổ tích có thể là thần
thoại và thời kỳ bắt dầu tan rã của xã hội thị tộc nguyên thủy. Ngoài ra, còn có
yếu tố nữa là nhu câu nhận thức và lý giải hiện thực xã hội của con người trong
thời kỳ lịch sử nói trên. Cổ tích nảy sinh, kế thừa từ thần thoại nhưng đồng thời
cũng phủ pháp sáng tác, thi pháp... nhận, đổi mới thần thoại về nhiều phương
diện quan trọng: đề tài, chức năng, phương
Nguồn gốc trực tiếp của các tiểu loại, các kiểu truyện cổ tích như kiểu truyện
người mồ côi, người em út, người con riêng... cũng xuất phát từ hệ quả tất yếu
sản sinh ra từ chế độ xã hội mới.
Nói về nguồn gốc và nguyên nhân trực tiếp của các bộ phận truyện cổ tích, các
nhà nghiên cứu còn chú ý tới phong tục tín ngưỡng, cảnh vật thiên nhiên, những
câu nói vẫn vè, những nhân vật lịch sử.... điều kiện hình thành thể loại truyện cười;
Quả trình hình thành, phát triển
Truyện cười dân gian chỉ có thể hình thành và phát triển với hai điều kiện cơ bản:
Một là, trong đời sống xã hội đã xuất hiện cái xấu, cái đáng cười (tức cái hài)
tương đối rõ nét và phổ biến. Hai là, nhân dân (chủ thế sáng tạo truyện cười) đã
có nhu cầu và khả năng sử dụng tiếng cười phê phần đề phát hiện và tổng tiễn
cáixấu, cái đáng cười ấy đi. Hai điều kiện khách quan và chủ quan ấy có quan hệ
với nhau rất mật thiết, thường xuất hiện ít nhiều khác nhau tùy từng giai đoạn lịch sử.
Xét về mặt tư liệu, hầu hết truyện cười đã được sưu tầm và còn lại đến nay đều
thuộc về thời kỳ phong kiến tự chủ, chủ yếu giai đoạn phong kiến suy tàn (thế kỷ 17, 18, 19).
quá trình hình thành thể loại truyền thuyết
7. Biểu hiện của hai tính chất thần thoại và truyền thuyết trong truyện: lOMoAR cPSD| 58950985
Sơn Tinh Thủy Tinh *truyền thuyết
a)Cốt lõi lịch sử
- Đời Vua Hùng thứ 18 có người con gái nhan sắc tuyệt trần tên là Mỵ Nương.
- Khi Mỵ Nương đến tuổi cập kê, Vua Hùng ban truyền trong dân gian tìm
nhân tài kén phò mã.
- Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 7 âm lịch là lũ lụt lại kéo về.
- Từ xưa, nhân dân ta đã có truyền thống chống lũ chống lụt.b)Yếu tố tưởng tượng kì ảo
- Sơn Tinh: "vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây,
phía tây mọc lên từng dãy núi đồi". Sơn Tinh có thể "dùng phép lạ bốc từng
quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước
sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu"..

- Thủy Tinh: "gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về"; có thể "hô mưa, gọi gió làm
thành giông bão rung chuyển cả đất trời". c)Ý nghĩa
-Sơn Tinh: là nhân vật tượng trưng cho sức mạnh, khát vọng chống thiên tai
và ước mơ chiến thắng lũ lụt của nhân dân ta
- Thủy Tinh: Đây là nhân vật tượng trưng cho mưa bão, lũ lụt, thiên tai uy hiếp
cuộc sống của con người *thần thoại
- Đề cao con người ( tự hào hồn nhiên về nguồn gốc con người, đề cao sứclao động của con người).
- Thể hiện ước mơ, khát vọng của con người ( Ước mơ có cuộc sống nhẹ nhàng,
no đủ; ước mơ giải phóng con người khỏi sự chi phối của tự nhiên, chiến thắng tự nhiên..)
- Thể hiện trí tưởng tượng phóng khoáng, hồn nhiên và thơ mộng của con người nguyên thủy...
- Tạo nên những hình tượng thần mang nét nguyên sơ của sự sáng tạo nghệ thuật,
vừa hồn nhiên, mộc mạc, vừa kì lạ, kì vĩ và đầy lãng mạn 8. phân tích lOMoAR cPSD| 58950985 *thần trụ trời
Từ trước đến nay, tôi đã học được rất nhiều câu chuyện thần thoại hay và thú vị,
nhưng câu chuyện tôi thích nhất vẫn là Thần Trụ Trời. Đọc câu chuyện đó, tôi
không khỏi suy nghĩ và không khỏi xúc động. Truyện kể rằng vào thời trời đất
còn hỗn loạn, tăm tối, có một vị thần khổng lồ. Thần dựng trời cao, rồi đào đất,
nặn đá, dựng cột chống trời, khi trời đất phân tranh thì thần phá trụ. Sau khi hoàn
thành công việc, xác bay lên trời để các vị thần khác tiếp tục xây dựng thế giới.
Ồ! Tôi thích thân hình to lớn của thần rất nhiều vì tôi thấp và gầy. Tôi đã nhìn
thấy những người to cao, nhưng không ai giống như thần. Tôi cứ ước, giá như
mình có một thân hình và đôi tay như thần thánh, tôi sẽ là một cầu thủ xuất sắc,
chỉ cần một bước chân là tôi có thể sút bóng vào khung thành đối phương. Thật
thú vị! Không những thế, tôi còn ngưỡng mộ Chúa vô cùng. Chúa có rất nhiều
đức tính tốt mà tôi không có. Trước hết, tôi yêu tất cả các loài động vật. Nếu
không có tình yêu, tôi đã không nhọc công ngẩng đầu lên trời, kiên nhẫn đào đất,
dựng cột chống trời. Làm công việc đó, thần vừa thể hiện tình yêu thương muôn
loài, vừa thể hiện sự quyết tâm, cần cù, chịu khó. Khi xong việc, thần không đợi
muôn loài báo đáp, lặng lẽ bay về trời, để lại những công việc còn lại cho các vị
thần khác tiếp tục xây dựng cho thế giới, cho muôn loài có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tôi nghĩ không có ai trên thế giới này có những đức tính tốt như Chúa. Câu
chuyện về Thần Trụ Trời. là một câu chuyện thần thoại mà em thích, giúp em hiểu
được quan niệm cổ xưa về sự hình thành của trời và đất. *thánh gióng
Thánh Gióng là một tượng đài tiêu biểu về người anh hùng chống giặc ngoại xâm.
Nhân vật được xây dựng với sự ra đời kì lạ, khác thường. Một hôm, người mẹ
của Gióng đi ra đồng trông thấy một bàn chân to, liền ướm thử vào để xem thua
kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà mang thai, sau mười hai tháng thì sinh ra
một câu bé. Gióng sinh ra nhưng lên ba tuổi mà vẫn không biết nói biết cười, đặt
đâu thì nằm đấy. Không chỉ là sự ra đời, quá trình trưởng thành của Gióng cũng
khác thường. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi
tìm người tài giỏi cứu nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng của sứ giả thì liền
cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ giả vào đây cho con”. Gióng đã yêu cầu sứ giả
về nói với nhà vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một tấm áo lOMoAR cPSD| 58950985
giáp sắt” với lời hứa sẽ phá tan lũ giặc này. Từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh
như thổi, bà con trong làng cùng góp gạo nuôi lớn. Gióng lớn lên trong sự nuôi
dưỡng của nhân dân, đại diện cho sức mạnh của nhân dân. Khi giặc đến gần bờ
cõi, Gióng bỗng vươn vai trở thành tráng sĩ - mình cao hơn trượng, oai phong lẫm
liệt. Thánh Gióng đã đánh tan quân giặc, bảo vệ đất nước khỏi kẻ thù xâm lược.
Sau khi đánh giặc xong, Gióng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt
bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa bay lên trời. Thánh Gióng được bất tử hóa, thể hiện
lòng tôn kính, quan điểm của nhân dân về người anh hùng. Nhân vật Thánh Gióng
được xây dựng những nét đẹp tiêu biểu của con người Việt Nam, đại diện cho dân tộc Việt Nam *chân tay mắt miệng
Trong vô vàn truyện ngụ ngôn ý nghĩa của Việt Nam, câu chuyện "Chân, Tay, Tai,
Mắt, Miệng" đem đến một cái nhìn hóm hỉnh về mối quan hệ giữa các bộ phận
cơ thể con người: Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai và lão Miệng.
Ban đầu, họ sống hòa thuận và phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại. Tuy nhiên, khi cô
Mắt quyết định tẩy chay lão Miệng vì chỉ biết ăn mà không làm việc, cuộc sống
của họ bắt đầu rối ren. Sau vài ngày, họ thấy mệt mỏi và khó chịu hơn. Cô Mắt
mất hứng, cậu Chân, cậu Tay không còn vui vẻ như xưa, và bác Tai luôn ù ù như
xay lúa. Đến ngày thứ bảy, tất cả đều không thể chịu đựng được nữa. Trong khi
đó, lão Miệng cũng không còn sức sống như trước, môi khô rát.
Cuối cùng, họ nhận ra rằng mỗi bộ phận đều cần nhau để hoàn thành công việc
chung. Cậu Tay đưa thức ăn cho lão Miệng, khiến mọi người đều cảm thấy đỡ
mệt mỏi và khoan khoái hơn. Từ đó, họ học được bài học quý giá về sự phụ thuộc
và hợp tác cần thiết trong cuộc sống. Không ai quan trọng hơn ai, mà mỗi cá nhân
đều có vai trò quan trọng để cùng nhau hòa hợp và mưu cầu hạnh phúc. lOMoAR cPSD| 58950985
Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự hòa hợp và phụ
thuộc lẫn nhau trong một cộng đồng, giống như các bộ phận cơ thể cần nhau để
cơ thể hoạt động tốt. Bài học sâu sắc từ truyện là cùng sống và hòa hợp để mỗi
người có thể tồn tại và tìm kiếm hạnh phúc 9. phân tích *cổ tích
Tấm Cám kể về câu chuyện của một cô gái tên Tấm, cha mẹ mất sớm, cô phải
sống cùng dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám. Trong khi Tấm là cô
gái hiền lành, tốt bụng thì Cám lại là người tham ăn lười làm, luôn cùng dì
ghẻ tìm cách hãm hại, đối xử bất công với Tấm.
Mặc dù bị mẹ con Cám ngăn cấm đi chơi hội, thế nhưng với sự giúp đỡ của Bụt,
Tấm đã đến có quần áo đến lễ hội và nhờ chiếc giày được ban cho, Tấm trở
thành hoàng hậu. Trải qua bao khó khăn bởi bị mẹ con Cám hãm hại, cuối
cùng Tấm đã được đoàn tụ với vua và sống hạnh phúc.
Ý nghĩa nhân văn của truyện
Truyện đề cao những phẩm hạnh tốt của con người như lòng vị tha, sự chăm chỉ
và nỗ lực, đồng thời truyện cũng là minh chứng cho câu “ở hiền thì gặp lành”. lOMoAR cPSD| 58950985
Tấm Cám dạy cho trẻ phân biệt phải trái, đúng sai, cho trẻ thấy những điều tốt
đẹp trong cuộc sống và nhắc nhở trẻ rằng hãy luôn tốt bụng, giúp đỡ bạn bè và luôn chăm chỉ. *ngụ ngôn
Đó là truyện Ếch ngồi đáy giếng. Vì sống lâu ngày trong đáy giếng, xung quanh
ếch lâu nay chỉ có một vài con vật nhỏ bé, mà tiếng ếch kêu “ồm ộp” vang động
trong giếng nên ếch ta cứ tưởng ”bầu trời trên đầu bé chỉ bằng chiếc vung và nó
thì oai như một vị chúa tể”. Điều đó chứng tỏ môi trường, hoàn cảnh sống của
ếch rất nhỏ hẹp, tầm nhìn, sự hiểu biết của ếch cũng rất nông cạn, thiếu chính xác.
Bầu trời bao la, rộng mênh mông như thế mà ếch ta tưởng nó chỉ bằng chiếc vung.
Thế giới bên ngoài cũng vô cùng rộng lớn, phong phú như thế mà ếch ngỡ chỉ có
vài con vật nhỏ bé, yếu đuối hơn mình. Ở trong đáy giếng lâu ngày, do tầm nhìn,
sự hiểu biết hạn chế, lại có một chút năng lực là kêu “ồm ộp” trong giếng, được
thành giếng cộng hưởng khiến tiếng kêu âm vang lên một chút nên chú ếch kia
nhiễm bệnh chủ quan, kiêu ngạo, huênh hoang, cho mình là chúa tể muôn loài.
Đúng là kẻ “coi trời bằng vung” như thành ngữ cha ông ta thường nói. Nhưng
rồi, hoàn cảnh sống của ếch thay đổi. Sau một trận mưa to, nước giếng dềnh lên,
đưa ếch lên khỏi đáy giếng tiếp xúc với thế giới bao la. Vậy mà chú ta vẫn không
thay đổi tính tình. Nó cứ “nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm để
ý đến xung quanh”. Hậu quả là ếch “bị một con trâu đi qua giẫm bẹp”. Chao ơi !
Chú ếch hư đốn kia đã phải trả giá, một cái giá quá đắt bằng chính mạng sống của mình.
Từ câu chuyện một chú ếch ngồi trong đáy giếng, nhân dân ta ngụ ý phê phán
những kẻ hiểu biết cạn hẹp mà lại huênh hoang, đồng thời khuyên nhủ chúng ta
phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không được chủ quan, kiêu ngạo.
Những thành ngữ “Coi trời bằng vung”, “Ếch ngồi đáy giếng” mà chúng ta thường
được nghe nhiều người nói, phải chăng bắt nguồn từ truyện ngụ ngôn này và cũng
ngụ ý phê phán, răn dạy tương tự
10. vai trò của yếu tố thần kỳ lOMoAR cPSD| 58950985 tích
* Vai trò hình thành thế giới cổ tích
Trong truyện cổ tích thần kì, yếu tố thần kì có vai trò rất quan trọng ở việc
hình thành thế giới cổ tích. Yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì là yếu tố
có vai trò biến thực tế cuộc sống thành thế giới cổ tích. Bằng trí tưởng tượng
phong phú của mình, những tác giả dân gian có thể xây dựng những chi tiết vô
cùng đặc sắc và mới lạ. Trong truyện Tấm Cám, tác giả đã hình tượng hóa cái
chết của Tấm, khi để nàng hóa thân vào những sự vật khác nhau, khẳng định sự
đấu tranh không ngừng nghỉ của người dân lao động. Trong truyện Cây khế, có
thể thấy tuy chỉ là sự kiện chim ăn khế, nhưng tác giả đã lồng ghép rất khéo léo
yếu tố thần kì để nó trở thành một sự kiện đặc biệt, thử thách lòng người và trừng
phạt kẻ tham lam. Yếu tố thần kì thể hiện ý chí của đa số những người dân lao
động, có mô típ được lặp lại nhiều lần nên ta có thể thấy những điểm giống nhau
ở những tác phẩm cổ tích. Tuy nhiên đồng thời cũng mang những dấu ấn cá nhân
sâu sắc của các tác giả, vì có rất nhiều tình tiết được hư cấu rất đặc biệt, nhất là ở
những giai đoạn nhân dân ta bắt đầu có sự đấu tranh giai cấp. Chính sự kì ảo này
đã tạo nên sức hút rất riêng của truyện cổ tích, vẽ nên một thế giới mơ mộng nơi
mà người lương thiện luôn chiến thắng đã làm say lòng biết bao thế hệ, đặc biệt
gắn liền với tuổi thơ của mỗi người.
* Giải quyết những xung đột, mâu thuẫn của tác phẩm
Truyện cổ tích phản ánh xung đột, mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội. khi đi vào
thế giới cổ tích trở thành xung đột, mâu thuẫn truyện và yếu tố thần kì có vai trò lOMoAR cPSD| 58950985
to lớn, không thể thiếu, trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột, mâu
thuẫn của truyện. Trong truyện cổ tích Tấm Cám cũng như nhiều truyện cổ tích
thần kì khác xung đột trong truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ
sự can thiệp của các lực lượng thần kì. Ví dụ, khi nhân vật chính gặp khó khăn,
ông Bụt sẽ xuất hiện và giải quyết hết những khó khăn đó, ta có thể thấy rất rõ
trong truyện “cây tre trăm đốt”, khi anh Khoai không thể đáp ứng được yêu cầu
của phú ông, ông Bụt liền xuất hiện và chỉ cho anh cách tạo ra cây tre trăm đốt.
Yếu tố hoang đường kì ảo xuất hiện xen kẽ song hành với những yếu tố thần kì,
được lồng ghép vừa đủ, chỉ xuất hiện vào những lúc cao trào để gỡ rối cho nhân vật.
Dường như mọi tác phẩm cổ tích đều giải quyết mâu thuẫn bằng yếu tố kì ảo, đặc
trưng này vừa có những ưu điểm nhưng cũng có những khuyết điểm. Việc đưa
các lực lượng thuộc thế giới thần tiên vào trong truyện khiến mâu thuẫn được giải
quyết quá dễ dàng, nhân vật không có sự đấu tranh mạnh mẽ, không có ý thức cá
nhân và chưa biết cách tự mình vượt qua khó khăn. Đôi khi dễ khiến độc giả lầm
tưởng vào sự dễ dàng này, tuy nhiên, trên tất cả, các yếu tố thần kì chỉ giúp những
nhân vật chính diện. Chi tiết này thể hiện niềm tin to lớn và mãnh liệt của người
dân vào chân lý ở hiền chắc chắn sẽ gặp lành. Sự giúp đỡ này là tất yếu, là phần
thưởng xứng đáng cho tấm lòng lương thiện và nỗ lực chiến đấu với khó khăn
của học. Nhờ sự phù trợ của lực lượng thần kì, xung đột được giải quyết bao giờ
cũng theo hướng người tốt, thật thà, lương thiện chiến thắng, hạnh phúc; kẻ xấu,
tham lam, độc ác thất bại, bị trừng trị đích đáng. Sự chiến thắng và hạnh phúc của lOMoAR cPSD| 58950985
nhân vật hiền lành, lương thiện trong truyện cổ tích thần kì gần như chỉ là biểu
hiện của niềm tin vào triết lí ở hiền gặp lành
Nhìn chung, yếu tố thần kì vừa là đặc trưng nghệ thuật, vừa là tư tưởng của những
người sáng tác nên tác phẩm. Nó là biểu hiện rõ ràng nhất cho ước mơ công lý
của người dân Việt Nam, sự đấu tranh không ngừng cho công bằng của xã hội.
12. truyện cổ tích có kết thúc có hậu
Truyện cổ tích là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư
cấu, bao gồm cố tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật.
Loại chuyện này chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh,
thần tiên, quỷ, người lùn, người khổng lồ, người cá, hay thần giữ của, vò thường
là có phép thuật, hay bùa mê. Về nội dung tư tưởng, truyện cổ tích thường mang
tinh thần lạc quan, có hậu, trong đó kết thúc truyện bao giờ cái ác bị tiễu trừ hoặc bị chế giễu.
Truyện cổ tích thường là kể, đọc cho trẻ em nghe nên những cái kết có hậu nó sẽ
có tác động, ảnh hưởng tới tâm lý của trẻ. Vì vậy các
Truyện cổ tích kết cục rất là đẹp như: Hoàng tử và công chúa sống bên nhau hạnh
phúc, kẻ lương thiện tốt bụng luôn gặp may măn, hạnh phúc, kẻ xấu nhất định
phải bị trừng trị. Do đó qua truyển cổ tích có thể giáo dục đạo đức, lối sống và
hình thành nhân cách cho trẻ.
17. khái niệm ca dao, tục ngữ. ví dụ
*ca dao: Là một thuật ngữ mượn ở Trung Quốc theo nghĩa gốc ca là bài hát có
trương khúc giai điệu được quy định rõ ràng người hát không được tự do thay đổi
giao là bài hát ngắn không có quy định chặt chẽ về ra rượu trung khúc còn gọi là lOMoAR cPSD| 58950985
bài hát trên có thể hát tự do. Trên cơ sở đó trước đây ca dao tôi hiểu như sau ca
dao là những bài hát có hoặc không có trương khúc sáng tác bằng thể văn vần dân
tộc thường là lục bát để miêu tả tự sự ngụ Ý và diễn đạt tình cảm.
ví dụ: bán anh em xa, mua láng giềng gần
*tục ngữ: là hình thái tổng hợp đặc biệt của tri thức dân gian trong đó có thẩm mỹ
nên chúng ta không thể gạt nó ra ngoài kho tàng văn học dân gian được tục ngữ
là thể loại văn học dân gian có chức năng chủ yếu là nhầm đúc kết kinh nghiệm
trí thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn súc tích có nhịp
điệu sẽ nhớ dễ truyền.
ví dụ tốt gỗ hơn tốt nước sơn
18. Phân tích sự khác biệt giữa biện pháp từ ẩn dụ trong câu đố và ca dao
19. Lớp xưng danh, các loại vai trong chèo cổ; vở chèo Quan âm Thị Kính
20. Các nhóm câu tục ngữ theo nội dung, nghệ thuật; phương thức tạo nghĩa trong tục ngữ
4.1.3.1. Phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất
Những kinh nghiệm về lao động sản xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên
nhiên của nhân dân lao động được đúc kết trong tục ngữ ngày càng trở nên phổ
biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học kỹ thuật dân gian.
Trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt, nhân dân tích lũy được nhiều kinh
nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết khí hậu lOMoAR cPSD| 58950985
- Chuôn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì năng, bay vừa thì râm.
- Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa- Dày sao thì năng, văng sao thì mưa..
Trong quá trình lao động sản xuất ở các ngành nghề nông nghiệp, ngư nghiệp,
một số nghề thủ công lâu đời, nhân dân cũng đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm.
Trong đó, những kinh nghiệm về làm ruộng chiếm đa số.
-Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
-Cơm quanh rá, mạ quanh bờ:
- Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân-Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen
ong tác phẩm văn học sc ngoài.
Tục ngữ về nghề đánh cá và chăn nuôi có số lượng ít hơn:
- Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông
- Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua lOMoAR cPSD| 58950985
Gà trắng chân chì mua chi giống ấy ir.
Tục ngữ về lao động sản xuất thế hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân trong lao ١y, y dep duroc truyin
động. Song chủ yếu những tri thức về sản xuất của nhân dân mới dừng lại ở trình
độ là kinh nghiệm thực tiễn. Nhiều kinh nghiệm chỉ phản ánh những biểu hiện cụ
thể của những quy luật tự nhiên ở địa phương, từng thời điểm nhất định.
ột câu tục ngữ tự nó ngữ chỉ là lời nỏi cỏ и mè"
c ngữ là một câu tự lân lý, một công lý, à nhiều người quen
4.1.3.2. Ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội
Tục ngữ nói về các hiện tượng lịch sử xã hội là bộ phận chủ yếu, phản ánh những
tập quán, thị hiếu, cuộc đấu tranh của nhân dân ...Một vài ký ức của thời kỳ lịch
sử xa xưa của dân tộc: - Ăn lông ở lỗ. - Con dại cái mang. lOMoAR cPSD| 58950985 - Năm cha ba mẹ.
Một số hiện tượng và nhân vật lịch sử đặc biệt, một số biến đổi về kinh tế. ảnh
hưởng đến đời sống của nhân dân:
-Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
-Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.
- Thời vua Thái tổ, Thái tông
Con dắt, con bồng, con bế con mang
Tục ngữ Việt Nam chủ yếu phản ánh những đặc điểm sinh hoạt gia đình và xã
hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân trong thời phong kiến.
Những tập quán, phong tục trong đời sống nhân dân:
- Dưa La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.
- Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam
- Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mổng chín đâu đâu trở về hội Dóng. lOMoAR cPSD| 58950985
Tục ngữ ghi lại những đặc điểm trong tổ chức và tập tục của xã thôn- đơn vị cơ
sở của quốc gia phong kiến Việt Nam - Phép vua thua lệ làng.
- Đất có lề, quê có thói. - Sống lâu lên lão làng
Tục ngữ cũng phản ánh tổ chức gia đình và những quan điểm thân tộc của
nhândân ta trong xã hội phong kiến:.
- Một người làm quan cả họ được nhờ.
- Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì.
Phản ánh đời sống của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhất là của người lao
động và những quan hệ xã hội trong xã hội phong kiến:
- Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm.
- Bà chúa đứt tay bằng ăn mày xô ruột.
- Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ
4.1.3.3. Phản ánh truyền thống tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao động lOMoAR cPSD| 58950985
Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm sống và lối sống của nhân dân, phản ánh
truyền thống tư tưởng và đạo đức của nhân dân lao động, trong đó bao hàm cả
những tư tưởng chính trị xã hội và tư tưởng triết học.
+ Coi trọng con người và những đức tính tốt đẹp của con người
- Người ta là hoa của đất
- Người còn thì của còn
- Đói cho sạch, rách cho thơm
- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo + Coi trọng lao động
- Của một đồng, công một nén - Có làm, có ăn
- Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ...
Tục ngữ phản ánh niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương đất nước giàu đẹp, con người tài hoa:
- Nhất Kinh kỳ, nhì phố Hiến lOMoAR cPSD| 58950985
- Chẳng thơm cũng thê hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
(Chẳng lịch cũng thể là người Tràng An)
20. Câu đố, phương thức độc đáo trong câu đố
*câu đố: Là hình thức sáng tác dân gian xuất hiện rất sớm ở hầu hết các dân tộc
trên thế giới chức năng chủ yếu của nó là miêu tả phản ánh đặc điểm sự vật hiện
tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật
ẩn dụ đặc biệt để thử tài suy đoán kiểm tra sợi hiểu biết và mua vui giải trí câu đố
là một loại sáng tác phản ánh sự vật hiện tượng của thế giới khách quan theo lối
nói chệch Nói một đằng hiểu một nẻo câu đối được xây dựng nhằm mục đích mô
tả bằng hình tượng hoặc từ ngữ những dấu hiệu đặc trưng và chức năng của những
câu đố cá biệt cụ thể *thi pháp 4.2.3.1. Cấu trúc
Xét về cấu trúc nội dung cũng như cấu trúc ngữ pháp, đơn vị tác phẩm câu đố
gồm rất nhiều loại với quy mô và cấu trúc khác nhau: cấu trúc theo kiểu tục ngữ, kiểu ca dao, kiểu thơ.
Dù được cấu tạo theo kiều nào thì câu đố vẫn mang tính chất đổi thoại giữa người
đồ và người bị đố. Có thể có những câu đỗ thể hiện dưới hình thức lời độc thoại
(chỉ có phần tường thuật hoặc miêu tả đặc điểm) thi bản chất câu đố vẫn là đối
thoại, người đặt câu đố luôn phải hướng tới, nghĩ tới người bị đố.
4.2.3.2. Biện pháp tu từ ẩn dụ