lOMoARcPSD| 58950985
ĐỀ CƯƠNG VĂN HỌC DÂN GIAN
I. KHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN
A. Các khái niệm:
1. Văn học dân gian là một thành tố trong chỉnh thể nguyên hợp VHDG
- Folklore: nghĩa rộng là VHDg, hẹp hơn là văn nghệ dân gian, hẹp hơn nữa là văn học DG-
Folklore trải qua 2 giai đoạn:
TK 19:
Những điệu múa, bài ca, TCT, TT, thành ngữ, tục ngữ, các truyền thông địa phương của thời
kì trước, của những người nông dân nông thôn chưa chịu ảnh hưởng của XH văn minh. - Dân
gian: Cái nhìn lãng mạn về văn hóa của CNTD; ngôn ngữ, thơ ca, dân gian “dấuchỉ” của
hồn cốt dân tộc.
Folklore:
+Folk: người nông dân chữ, sống thôn quê, không bị ảnh hưởng bởi văn minh +
Folklore học: ngành KHLS, phục dựng lại một quá khứ đã qua đang dần biến mất khi
hội tiến vào hiện đại.
Ø Folklore thế kỉ XX- đến nay:
- ĐN VHDG của hiệp hội VHDG Hoa Kỳ:
Văn học DG là nghệ thuật, văn học, tri thức và thực hành truyền thống được phổ biến phần
lớn thông qua truyền khẩu gương ứng xử. Mỗi nhóm ý thức về chia sẻ bản sắc riêng
của mình như một phần trung tâm của bản sắc đó. Truyền thống DG- những điều mọi
người thường tin ( tập quán, truyền thống gia đình,..) , làm ( khiêu vũ, làm nhạc,..), biết ( cách
xây dựng đập thủy lợi,..) và nói ( câu chuyện, kinh nghiệm,..) Ø Folklore tại VN:
- Folklore du nhập vào VN cùng với việc thành lập Viện Viễn đông Bác cổ đầu TK XX
2. KN
a. Văn hóa dân gian:
−Văn hóa dân gian tương ứng với khái niệm folklore nghĩa rộng , bao gồm toàn bộ các giá
trị văn hóa, vật chất, văn hóa tinh thần được nhân dân sáng tạo, bảo tồn lưu chuyển qua
các thế hệ, trở thành các giá trị truyền thống của một dân tộc, trong đó văn hóa nghệ thuật
phi chính thống ở mọi thời đại
−Văn nghệ dân gian tương ứng với khái niệm folklore nghệ thuật, bao gồm các thành tố nghệ
thuật ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian trong tư
cách là một hình thái ý thức xã hội đặc trưng của nhận thức nguyên hợphợp thành chỉnh
thể các hoạt động sinh động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp có tính truyền thống của nhân dân
−Văn học dân gian tương ứng với khái niệm folklore ngôn từ, là thành phần ngữ văn dân gian
trong chỉnh thể folklore nghệ thuật được tiếp cận dưới góc độ thẩm mỹ. VHDG làbộ phận cốt
lõi tương đối ổn định, dễ nắm bắt quá trình phát triển mạnh mẽ, lâu bền nhất của nghệ
thuật diễn xướng dân gian
*Văn học dân gian trong nhà trường
- Trong nhà trường Việt Nam, thuật ngữ VHDG định danh một của khoa học
ngữ văn. Có thể định nghĩa: VHDG cổ truyền là toàn bộ các thể loại sáng c nghệ
thuật ngôn từ truyền miệng, được sáng tạo không ngừng tái tạo theo phương
thức tập thể qua nhiều đời chọn lọc gọt giũa của nhân dân vị trí như một
thành tố quan trọng trong chỉnh thể văn hóa, văn nghệ dân gian của cộng đồng dân
tộc, có tình nguyên hợp.
B. ĐẶC TRƯNG VHDG
1. Đặc trưng nguyên hợp : −VHDG vừa
là văn học vừa là văn hóa:
lOMoARcPSD| 58950985
−VHDG là một loại của nghệ thuật ngôn từ
−VHDG một thành tố của văn nghệ dân gian, là một hiện tượng đặc biệt của văn hóa dân
gian, được sáng tạo một cách thẩm mỹ, mang thuộc tính văn a, các biểu hiện giá trị
văn hóa
−Tính nguyên hợ p của VHDG không chỉ thhin ợ% sừ kết hợ p nhiều loại phừợng tiện
chất liệu nghệ thuật khác nhau mà còn xen nhiều loại hình thái chưa phân hóa rõ rệt
−Khái niệm:
−Xét về mặt ngữ nghĩa, “nguyên” là đầu tiên, gốc, khởi nguồn ; còn “ hợp” là kết hợp,
tích tụ lại, gặp gỡ nhau, skết hợp ngay từ khởi nguồn, lúc tác phẩm bắt đầu sinh ra.
Xét về nguồn gốc 3 phương tiện, 3 yếu tố thì tính nguyên hợp là sự kết hợp của 3 yếu
tố cốt lõi loại hình nghệ thuật, quá trình thưởng thức tiếp nhận và thành phần sáng
tác, biểu diễn,....
−Hay nói một cách khác, tính nguyên hợp của văn học dân gian sự tổng hợp một
cách tự nhiên nhiều thành phần nghệ thuật, chức năng, ý thức,...trong một chỉnh thể
nghệ thuật không thể chia cắt.
−Ví dụ, để tạo ra một tác phẩm chèo cần hội tụ nhiều yếu tố có: ngôn từ văn bản như
tác phẩm “Quan âm Thị Kính”, âm nhạc trống phách, đàn,...mỹ thuật thì các
nguyên tắc về trang phục, đạo cụ mang thông điệp,...Hay hát ru sẽ 2 thành tố là phần
lời và phần nhạc.
−Biểu hiện đặc trưng:
−Phân loại đặc trưng 1:
−Thứ nhất , tính nguyên hợp có thuộcnh đa chức năng, đa yếu tố thể hiện rõ ở việc tính
nguyên hợp của văn học dân gian tồn tại và phát triển theo từng giai đoạn lịch sử. Bởi chức
năng của văn học dân gian không phải chức năng thẩm mỹ chức năng sinh hoạt,
thực hành xã hội.
Ví dụ: Nhân vật Sơn Tinh hình tượng gốc xa xưa được xem là thần núi, thần đá của núi Tam
Đảo, tại vùng núi cao nhiều sét nên được xem thần lửa, truyện lại xem thần
nông nghiệp họ tin chính Sơn Tinh đã dạy con người biết trồng trọt,...các lớp nghĩa văn
hóa của nhân vật hình tượng nhân vật sự biến đổi qua từng thời kỳ. −Thứ hai, tính
nguyên hợp thể hiện ở sự đa thành phần trong một tác phẩm văn học dân gian:
−Thứ ba, tính nguyên hợp văn học thể hiện trên phương diện thể loại :
Ví dụ: Thần thoại vừa là đối tượng của ngành thiên văn học khám phá những tri thức nguyên
của con người về vũ trụ, vừa là đối tượng của ngành triết học tìm hiểu về quan niệm duy
tâm, duy vật…
dụ: tục ngữ vừa đối tượng của ngành học học quan tâm đến những kinh nghiệm
về xem xét, đánh giá, quan hệ ứng xử của con người… vừa là đối tượng của ngành nông
nghiệp chú ý về kinh nghiệm sản xuất… Việc trở thành đối tượng nghiên cứu cùng lúc của
nhiều khoa học, thể loại đã củng cố đặc trưng nguyên hợp
−Thứ tư, tính nguyên hợp thể hiện ở quá trình sáng tác và diễn xướng tác phẩm văn học
dân gian.
dụ: Trong những lúc lao động mệt nhọc, người ta thể cất lên một câu để xua tan
những nỗi nhọc nhằn, vất vả bằng cách điều tiết nhịp điệu lao động của tập thể: Hò giã gạo,
Hò giựt chì, đi cấy… −Tay ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ca tay cấy mà lòng nhợ/ ai
− Giai điệu của câu hát cho thấy bước chân nhịp nhàng, háo hức của người nông dân khi
đem mạ xuống đồng cấy vụ mùa mới. Đồng thời biểu lộ đời sống riêng với nỗi nhớ
người bạn cùng phường cấy.
lOMoARcPSD| 58950985
−Tính nguyên hợp còn được xem là một hiện tượng văn hóa.
Ví dụ: loại hình nghi lễ Then của người Tày, xuất phát từ thực tiễn mà nghi lễ này được chia
làm nhiều loại khác nhau, tương ứng với nó là lời ca, âm nhạc, vũ điệu… phùhợp. Đó chính
chức năng sinh hoạt thực hành của Văn a dân gian nói chung, VHDG nói riêng. Then
cầu mong (cầu thọ, cầu đường tình duyên, con cái), Then chữa bệnh (giải sầu, đuổi ma),
Then tống tiễn (đưa linh hồn người chết về với tổ tiên), Then cầu mùa (đón
“nàng Hai” xuống ăn cơm mới), Then chúc tụng (mừng thọ, sinh con), Then đại lễ cấp sắc
(phong chức cho người hành nghề Then)… −Phân
loại đặc trưng 2:
- Tính nguyên hợp về hình thái ý thức văn học dân gian
- Tính nguyên hợp về ngoại hình nghệ thuật
- Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện sự chưa tách rời với đờisống thực tiễn
−Phân loại đặc trưng 3: - Nguồn gốc:
+ VHDG một hình thái ý thức hội mang nh nguyên hợp nên vẫn còn
nguyên một khối, điều này nguồn gốc từ sự nhận thức nguyên hợp của người
nguyên thủy, đây cần lưu ý, không chỉ nhận thức đời sống nói chung
bao gồm cả nhận thức thẩm nghệ thuật. Nhận thức thời nguyên thủy chưa
có sự phân hóa rõ rệt thành những hình thức cụ thể như đạo đức, tôn giáo, triết
học, nghệ thuật, khoa học… Chính thế, VHDG “có sự hòa lẫn những hình
thức khác nhau của ý thức hội đó bản chất chung của toàn bộ cấu
văn học dân gian cổ truyền” .
+ Ban đầu, VHDG nói riêng không tách rời đời sống sinh hoạt, lao động của con
người. Sau một ngày săn bắt, hái lượm… mệt mỏi, đêm xuống mọi người ngồi
quây quần bên bếp lửa, họ vừa kể vừa diễn lại cảnh săn bắt, hái lượm ban ngày
họ thể hiện niềm vui bằng cách nhảy múa bên những thành quả lao động ấy.
Vô hình chung, các hình thức nghệ thuật cứ thế ra đời một cách hết sức tự nhiên,
không có “chủ định làm nghệ thuật” từ trước, nó ra đời và tồn tại Biểu hiện:
+ Tác phẩm VHDG là chỉnh thể chưa bị chia cắt, phản ánh toàn bộ đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân. dụ: Thần thoại về “Thần Nước” đã kể rằng
thần có một hình thù rất vĩ đại, cho thấy tín ngưỡng thờ thần tự nhiên của người
nguyên thủy. Thần làm vua tất c3.600 giống thủy tộc. một số giống thủy
tộc được làm tướng bộ hạ của thần. Mỗi tướng bọ hạ chia nhau cai quản
một khu vực. Chức của mỗi vị bộ hạ lớn hay bé tùy theo pham vi địa phương
rộng hay hẹp của vị đó. Những chi tiết này tri thức về lịch sử hội, biểu
hiện những nét đầu tiên của sự phân hóa hội gắn với hệ thống tổ chức nhà
nước từ trên xuống dưới. Người đứng đầu vua, người giúp vua cai quản là các
tướng tá bộ hạ phân chia theo các khu vực quản lý, chức
vụ to hay nhỏ tùy vào phạm vi cai quản. Ngoài ra còn khoa học về địa thủy
văn, giải thích hiện tượng tại sao sông, suối lại có mùa nước to, mùa lũ, vì mỗi
năm vào khoảng tháng tám, thần dâng nước để lấy gỗ chò. Bất kỳ gỗ ấy ở đâu:
đã làm vào nhà cửa trần gian hoặc còn nguyên cả cây, thần Nước đều lấy tất.
−Ví như: truyện Sự tích trầu cau cùng việc phản ánh phong tục ăn trầu của nhân dân ta là sự
phản ánh tình trạng xã hội chuyển từ chế độ quần hôn sang chế độ hôn nhân gia đình nên có
nhiều mâu thuẫn và sự lạ lẫm. Truyện Tấm cám lại phản ánh tình trạng hội phân hóa
giai cấp, có xung đột và đấu tranh xã hội thông qua phạm vi gia đình. Truyện Sự tích ba ông
đầu rau, lớp lịch sử gần phản ánh tục thờ thần Bếp, tập quán đưa tiễn Táo Quân vào
ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Nhưng lớp lịch sử xa hơn, sớm hơn là phản ánh công cuộc vĩ
lOMoARcPSD| 58950985
đại khi loài người tìm ra lửa, gắn với tín ngưỡng thờ thần Lửa. −+ VHDG kết tinh trí tuệ
và tâm hồn của tập thể nhân dân ở những thời đại khác nhau và địa phương khác nhau
− Ví dụ: Nếu ở chương 1, từ điểm xuất phát khoa học hoàn toàn khách quan, đưa tư liệu lên
trước và mô tả chân thành tư liệu, tác giả làm nổi bật phương diện đồng đại khi xem xét đối
tượng thì đến chương 2 Từ chuyện anh hùng bộ lạc đến chuyện anh ng dân tộc, c giả
làm nổi bật phương diện lịch đại, không chỉ kể chuyện mà còn tóm tắt cốt truyện bằng cách
sơ đồ hóa cốt truyện. Đó chính là phương pháp cấu trúc, nghiên cứu theo cách quy nạp – con
đường đi đúng phù hợp với việc nghiên cứu VHDG. Tác giả đưa ra 2 kết cấu lịch sử của
truyện ông Dóng:
−1- Sóc Sợn i Trâu Sóc Sợn −2- Phù Đổng
– Núi Trâu – Hồ Tây – Sóc Sơn
− Như vậy, từ việc sơ đồ hóa đến việc so sánh hai kết cấu, Cao Huy Đỉnh đi đến kết luận:
kết cấu 1 ít tình tiết hơn thì cổ hơn, đúng với nguyên tắc kết cấu truyền thống của truyện
anh hùng bộ lạc. kết hợp với kết cấu 2, giúp tác giả cái nhìn lịch đại để khẳng định
truyện ông Dóng đi từ chuyện anh hùng bộ lạc đến chuyện anh hùng dân tộc. −Kết luận, vai
trò: Là một yêu cầu có nh nguyên tắc
2. Tính truyền miệng
−Sự truyền miệng các ng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân đã trở thành tập quán sinh
hoạt, là một nhu cầu văn hóa tự nhiên mà văn học viết không thể thay thế −Trải qua hàng ngàn
năm tồn tại song hành với văn học viết, trong các di sản VHDG truyền miệng được ghi chép
lại có không ít những sáng tác văn học dân gian của các nho sĩ,trí thức
=> Đó là kết quả của quá trình dân gian hóa có tính quy luật
loại. Thế nên truyền thuyết vẫn thường xuyên hiện ra trong các nghi thức thờ cúng thần thành
hoàng, trong các lễ hội thường niên, được gợi nhắc trong các phong tục, hèm kị,…
+Thực tế này đã từng diễn ra giữa đời sống dân gian từ đời này qua đời khác, đã có tính phổ
biến đến mức thể nói “sự gắn sống động, sâu sắc bền vững giữa truyền thuyết, tín
ngưỡng và lễ hội cũng có thể được xem là một đặc điểm đặc trưng của thể loại” .
3. Tính tập thể
−Cùng nhau thừ c hành, cùng nhau sáng tạo, cùng nhau trình diễn thừợ%ng thừ/c, người
sáng tạo cũng là người tình diễn và thưởng thức văn hóa ấy
−Là phừợng thừ/c sáng tác của VHDG
−Trong sáng tác DG, mọi sự sáng tạo của các cá nhân đều phải tuân theo những quy luật
tâm lí sáng tác tập thể
−Khoa học VHDG có thể xem xét nội dung đặc trưng tính tập thể của VHDG trên 2 mối
quan hệ: quan hệ giữa cá nhân với tập thể và quan hệ giữa truyền thống với ứng tác
Nhừ một hệ quả tất yếu của nh tập thể, VHDG có nh dị bản
−Khác với văn học viết, văn học DG là một hệ thống mở
−Do trong quá trình tham gia sáng tạo tập thể ợ% nhừGng không gian khác nhau, bợ%i những
dị bản khác nhau, tạo nên nét dị biệt
4. Tính dị bản
−Dị bản hệ qucủa quá trình tập thể - truyền miệng, nhừng việc nhận thừ/c về nguyên
nhân và biểu hiện của tính dị bản trước nay giữa các thành tựu nghiên cứu văn học dân gian
trong quá trình vận hành của một tác phẩm truyền miệng tập thể giữa đời sống, người ta
đã chỉ ra những nét đặc thù của văn bản một tác phẩm VHDG −Những đặc tính cơ bản nhất
của VHDG:
lOMoARcPSD| 58950985
+ Là một liên văn bản
+ Chứa đựng hai yếu tố: bất biến và khả biến
+ Là một hệ thống mở
+ Không mang cá tính sáng tạo
−Văn bản VHDG là tác phẩm VHDG tồn tại ở dạng cố định
−Tính dị bản của văn học dân gian phải dựa trên cơ sở thừa nhận các đặc điểm văn học dân
gian nói trên, có ý nghĩa khác biệt với văn bản tác phẩm văn học viết
−Đặc trưng tính dị bản có nguồn gốc sâu xa ở đặc điểm thứ hai và được biểu hiện ra ở đặc
điểm thứ nhất
C. VAI TRÒ CỦA THỂ LOẠI TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN
Thể loại hiện ra nhừ một nhu cầu và một thao tác làm việc của nhà nghiên cừ/u nhằm
xử lí tư liệu vốn dĩ thường rối rắm, đa tạp bằng cách sắp xếp chúng theo những tiêu chí nhất
định do nhà nghiên cứu lựa chọn
−sừ phân loại và sắp xếp khiến cho từ liệu hiện ra nhừ một hệ thống và ngành học nghiên cứu
về nó trở thành một KH thực sự.
3. TỰ SỰ DÂN GIAN
A. TRUYỀN THUYẾT *ĐẶC
TRƯNG THỂ LOẠI:
Tính cấu lịch sử (Tính cấu lịch sử đặc điểm nổi bật của thể loại TT): Trong truyền
thuyết dân gian, “sự thật lịch sử” chỉ “cái lõi” để từ đó nhân dân sáng tạo thành truyện,
nghĩa đã sự cấu, cùng với thời gian “ở đây duy lịch sử và duy nghệ thuật,
chân thực lịch sử và chân thực nghệ thuật xen lẫn nhau, hòa tan vào nhau hết sức phức tạp”.
- TT phản ánh lịch sử một cách độc đáo
+ Truyền thuyết một thể loại văn học dân gian được khởi đầu bởi chức năng kể sử truyền
đời, được sáng tạo kế thừa trong lòng “thần thoại đời sau”. Trong quá trình vận động đổi
mới có sự giao thoa với các thể loại khác (sử thi, cổ tích), truyền thuyết trở thành “lịch sử
cấu”và khi phát triển đến đỉnh cao trên cả 2 phương diện nội dung tư tưởng hình thức nghệ
thuật, truyền thuyết đã trở thành thể loại văn học tự sự dân gian “hư cấu lịch sử” theo quan
điểm tư tưởng-thẩm mĩ của nhân dân.
+ Theo ý kiến của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Những truyền thuyết dân gian thường có
một cái lõi sự thật lịch sử nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hóa, gửi gắm vào đó
tâm tình thiết tha của mình với thơ mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng nghệ
thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích”. Như ý kiến
trên, trong TTDG, : “sự thật lịch sử” chỉ là “cái lõi” để từ đó nhân dân sáng tạo thành truyện,
nghĩa là đã có sự hư cấu, kì ảo.
+ Trong TT, người kể chuyện không hướng tới mục đích phản ánh lịch sử xác thực chỉ
mong muốn giải thích lịch sử theo quan điểm chủ quan của người kể để thể hiện tình cảm của
cộng đồng đối với chiến công lẫy lừng của các bậc tiền nhân trong quá khứ. Người kể chuyện
cũng không ghi chép biên niên, chính xác từng sự kiện lịch sử.
+ TT là thể loại văn học nên sử dụng phương tiện của văn học để tạo nên, tức là sử dụng thế
giới hư cấu, yếu tố tưởng tượng ảo, nghệ thuật ngôn từ để phản ánh lịch sử một cách độc
đáo.
=> Trần Thị An tóm gọn lại “Cái thiêng liêng lịch sử được tôn vinh trong cảm hứng tưởng
tượng”. Tóm lại, truyền thuyết đã phản ánh lịch sử theo cách của riêng mình, do đó, các yếu tố
tính lịch sử, chất sử trong truyền thuyết nên coi những chi tiết nghệ thuật, một biện
pháp nghệ thuật hơn là những chi tiết lịch sử xác thực.
lOMoARcPSD| 58950985
- Đặc trưng về môi trường diễn xướng, phương thức lưu hành của truyền thuyết:
+Truyền thuyết là sản phẩm sáng tạo bởi sự kết hợp một cách độc đáo giữa sự thật và hư cấu,
giữa cấu sự thật trong mối quan hệ Folklore với thực tại biểu hiện đặc trưng thể loại.
Thế nên truyền thuyết vẫn thường xuyên hiện ra trong các nghi thức thờ cúng thần thành
hoàng, trong các lễ hội thường niên, được gợi nhắc trong các phong tục, hèm kỵ,… +Thực tế
này đã từng diễn ra giữa đời sống dân gian từ đời này qua đời khác, đã tính phổ biến đến
mức có thể nói “sự gắn bó sống động, sâu sắc và bền vững giữa truyền thuyết, tín ngưỡng và
lễ hội cũng có thể được xem là một đặc điểm đặc trưng của thể loại”
*ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRONG TRUYỀN THUYẾT
−Hình thừ/c cấu tạo cốt truyn:
Kết cấu 3 chặng thành chuỗi gồm những mẩu chuyện có thể hư ảo thần kỳ hay đời thường thế
tục nhưng được sắp xếp lại theo một trình tự thời gian cụ thể trong một không gian xác định để
kể về cuộc đời nhân vật: Từ hoàn cảnh ra đời và đặc điểm khác thường của nhân vật đến chặng
trung tâm là kể về hành trạng và những chiến công khác thường của nhân vật, và cuối cùng là
chuyện nhân vật hóa thân hiển linh âm phù.
−Nghệ thuật xây dừ ng nhân vật:
+Đặc điểm nổi bật của nhân vật truyền thuyết là sự kết hợp kỳ lạ giữa những nét đời thường
thế tục với những nét kỳ ảo phi thường.
+Truyền thuyết thường sử dụng ba loại motif ứng với ba chặng diễn biến cuộc đời một nhân
vật
●Chặng thứ nhất kể về hoàn cảnh xuất hiện nhận vật ở dạng đầy đủ - Motif sự thụ thai thần
kỳ, sự sinh nở thần kỳ, motif về những đặc điểm kỳ lạ của nhân vật
●Chặng thứ 2 kể về hành trạng và sự nghiệp hiển hách của nhân vật – Motif trung tâm thường
là “chiến công phi thường”, là lý do tồn tại của truyền thuyết. Sự lý giải của nhân dân mang ý
nghĩa biểu tượng thấm nhuần tinh thần và bản sắc dân tộc.
●Chặng thứ 3 xuất hiện các motif về “sự hóa thân” “sự hiển linh”. Trong đó, motif “hóa
thân” đã trở thành công thức kết thúc, biểu hiện nổi bật đặc điểm hư cấu lịch sử của thể loại.
B. TRUYỆN CỔ TÍCH
B1: ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH
1. TRUYỆN CỔ TÍCH LÀ TRUYỆN KỂ HOÀN TOÀN HƯ CẤU VÀ KÌ ẢO
−Puskin: “ Truyện cổ tích bịa đặt nhưng trong mỗi câu chuyện bịa đặt đó những bài học
cho các cô cậu bé”
-Truyện cố tích dạng truyện kể thể hiện cái nhìn nghệ thuật về cuộc sống của người lao
động, để họ vẽ ra một thế giới lung linh, đẹp đẽ, giúp họ vượt qua những khó khăn, đau khổ
của cuộc đời thực
lOMoARcPSD| 58950985
Thế giới truyện cổ tích cũng hấp dẫn chính ở sự sáng tạo, kì ảo đó.
−Bản chất của truyện cổ ch xây dừ ng một thế giợ/i nghệ thuật trong trí từợ%ng tượng,
kì ảo, phi hiện thực để thực hiện lí tưởng về một xã hội công bằng, một thế giới có và cần có
cho con người
−Trong ngôn ngữ đời sống “ truyện cổ tích đồng nghĩa với truyện bịa đặt”
−Một trong những đặc điểm của truyện cổ tích truyện không thể và không bao giờ xảy ra
được lại kể bằng một phong cách, giọng kể, điệu bộ, nét mặt làm như tất cả những điều được
kể lại, mặc tính chất khác thường nhưng lại thể xảy ra trong thực tế, tuy rằng cả
người kể người nghe đều không tin vào câu chuyện, sự không tương ứng đó lẽ đã tạo
nên tính hài hước của truyện cổ tích
2. Truyện cổ tích những truyện kể đã hoàn tất ( hoàn tất về mặt cốt truyện) −TCT
câu chuyện vsự thưởng phạt công bằng theo quan điểm của nhân dân. thế mỗi
truyện cổ tích đều đã hoàn thành về cốt truyện, tức là có sự kết thúc ấn định theo quan
điểm của nhân dân
−Đặc trưng về sự hoàn thành của cốt truyện cổ tích liên quan chặt chẽ với đặc trưng thứ
nhất về tính chất hư cấu, kì ảo của bản thân câu chuyện.
−“ không nên bằng cách bình luận văn học và thậm chí cả bằng cách “sửa chữa” truyện cổ
tích theo hướng hợp hóa cho phù hợp với duy logic của con người hiện nay làm
mất đi cái ấy của truyện cổ tích. Vấn đgiải thích được cái ấy, phát hiện ra cái
hợp của bản thân truyện cổ tích” ( Xuân Diên, Văn hóa dân gian, những vấn đề phương
pháp luận nghiên cứu của thể loại, Sđd,tr.344)
3. Tính giáo huấn, triết lí của truyện cổ tích
−TCT lúc nào cũng khuyên nhủ, dạy bảo con người dưới một hình thức lí thú và nhiều khi
ngụ ý một cách bóng bẩy.
−Truyện cổ ch khái quát nhừGng kinh nghiệm sống của nhân dân dừợ/i một hình thừ/c
mọi người có thể tiếp thu được và có hiệu lực về mặt thẩm mỹ đồng thời trong đời sống của
bản thân nhân dân, nó là một phương tiện quan trọng đối với thế hệ trẻ”
−TCT ca ngợi và bênh vực cho đạo đức của con người thông qua nhân vật lí tưởng.
−Nhân vật lí tưởng: Có tài năng và nhân cách vượt trội
+ thân phận thấp kém
+ có tư cách đạo đức không thể phủ nhận
+ mang đạo đức và tài năng của nhân dân, những giá trị đạo đức được thừa nhận
+ nhận được sự giúp đỡ của các thế lực thần kì
+ thử thách đạo đức và tài năng
+ được nhận phần thưởng
−Để làm nổi bật lên phẩm chất của nhân vật lí tưởng, TCT xây dựng truyện theo sự xung đột
của hai tuyến nhân vật rõ rệt: thiện – ác, tốt – xấu, người anh – người em… đối lập với nhau
một cách quyết liệt
−Phần miêu tả xung động trong truyện cổ tích thần kì về cơ bản chính là sự giới thiệu, mô
tả đạo đức, tài năng của nhân vật lí tưởng để bày tỏ ước mơ của nhân dân
B2: ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TCT
* ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CHUNG:
−Thể hiện ở phương diện xây dựng thế giới nghệ thuật đặc thù; “ thế giới cổ tích”
−Là phản ảnh của TG thừ c tại, TG cổ ch chừ/a không ít yếu tố của TG thừ c tại
−Đặc trưng cơ bản của TCT nằm ở sự hoang đường. Những yếu tố thực tế khi đi vào TCT
đã được trí tưởng tượng dân gian nhào nặn lại, cấu, sắp xếp lại theo một trật tự khác,
lOMoARcPSD| 58950985
nguyên tắc khác với thế giới thực tại => TCT đã sáng tạo ra một TG khác hẳn TG thực tại
ban đầu.
−Những điều tưởng chừng như vô lí nhất trong những điều vô lí lại có thể tồn tại : tự nhiên
nhi nhiên” trong thế giới của TCT
−TCT hướng về những điều “ nên có và có thể có” như ước mơ, quan niệm của Nhân dân
về cái lẽ phải cần xảy ra.
1. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TCT THẦN KÌ
a. Thi pháp nhân vật * Nhân
vật chính là “người”
−Gồm một số kiểu: người em út, người mồ côi, người đội lốt vật, ng dũng sĩ, ng tài lại
−Đều mang trong mình những đạo đức tiêu biểu cho quan niệm về con người của nhân dân.
Về số phận họ phải trải qua những diễn biến giống nhau ( sống khổ cực – thử thách – đc đền
bù) => kiểu nhân vật chung cho thể loại
−Kiểu nhân vật “ ngừợi mồ côi” là phổ biến nhất
−Tên gọi những kiểu nhân vật nói trên tự ns đã gợi nhắc đến bối cảnh quan hệ gia đình và
hội mà trong đó số phận nhân vật diễn tiến; cũng từ đó ta cthe hình dung được hệ thống nhân
vật phụ - những nhân vật thù địch của NV chính
−NV chính có điểm chung là nghèo khổ, bất hạnh
−Cũng thể phân chia nhân vật chính thành 2 loại: nhân vật bất hạnh và nhân vật kì tài −Các
nhân vật chia làm hai tuyến thiện- ác, tốt – xấu rành mạch
=> Những nhân vật nguyên phiến, bất biến, đảm nhiệm chức năng làm biểu tượng cho hai
hạng người nghèo – giàu, bị trị - thống trị, thiện -ác,,, trong xã hội
=> Mô hình hóa cấu trúc loại người của xh đã phân hóa giai cấp của TCT
* Lực lượng thần kì – một kiểu nhân vật đặc biệt của TCT thần kì
- Lực lượng thần kì đc coi như một kiểu nhân vật đặc trưng cho thể loại TCT
- Xét về nguồn gốc:
+ NV thần kì, siêu nhiên: ngọc hoàng, diêm vương..
+ vật có phép màu: cung tên thần…
+ sự biến hóa siêu tự nhiên: người hóa thành vật… =>
Không có ở TG thực, gắn với tín ngưỡng dân gian
- Xét về chức năng, nhiệm vụ:
lOMoARcPSD| 58950985
+ LL thần kì thực hiện chức năng, nvu trợ thủ cho NV chính nghĩa, nhân danh công lí, lẽ phải
để giúp đỡ NV chính
+ LLTK thực hiện chức năng. Nvu làm đối thủ cho Nv chính, thuộc phía ác – phi nghĩa.
b. Thi pháp lựa chọn và xây dựng xung đột của TCT TK
2 loại xung đột:
− Xung đột giữa nhân vật (chính) với những trở lực đến từ phía thiên nhiên
+Trong thời cổ đại, con người quan tâm nhiều hơn đến việc chinh phục thiên nhiên để tổ chức
đời sống văn minh buổi đầu => xung đột hàng đầu: con người vs tự nhiên
+Để chiến thắng tự nhiên NV chủ yếu chỉ cần sử dụng sức mạnh bắp. Đôi khi, sức mạnh
đó khi đi vào Tg cổ tích => hoang đường, thần kì
+Mối xung đột giữa con người với con ng trong TG thực tại được phản ánh trong TG cổ tích
+TG thực tại là xung đột giai cấp => TG cổ tích: xung đột đạo đức giữa cái hiền lành vs cái
ác,..
+TG thực tại là xung đột hội => TG cổ tích: mâu thuẫn, xung đột trong phạm vi gia đình
=> Xung đột mới mẻ đối vs nhận thức của ND về xã hội => cần đến sức mạnh nằm ngoài và
vượt lên cao hơn những tầm năng lực mình có được c. Thi pháp kết cấu truyện
- Một số sơ đồ phổ biến của TCT TK VN ( Đỗ Bình Trị):
+ Phần đầu: Nhân vật chính xuất hiện: sự xuất thân thấp hèn, sự ra đời thần kì
+ phần giữa: cuộc phiêu lưu của NV chính trong TG cổ tích: ra đi – gặp thử thách,
LL thù địch – chiến thắng thử thách, LL thù địch
+ phần kết:đổi đời hay là sự thay đổi trong Tg cổ tích: thưởng và phạt, được đền bù, giải
thoát,..
=> đồ kết cấu gồm 3 phần nthe chính sự tóm tắt trọn vẹn đầy tính ước lệ cho diễn
tiến một số phận
d. Không gian thời gian nghệ thuật Xét
về phương diện bản thể:
- TCT hai không gian: không gian cuộc sống trần thế không gian ảo phi trần
thế.+ KG cuộc sống trần thế trong TCT Vn chủ yếu Kg làng quê; Kg trần thế đem
lại
cho Tg cổ tích có hơi ấm nhân sinh và màu sắc dân tộc, dân dã.
+ KG kì ảo đa dạng: Kg Thiên phủ, Kg Thủy phủ, KG Âm phủ => Sự phân chia chịu ảnh
hưởng rõ rệt của những quan niệm tín ngưỡng dân gian
=> Hai loại KG hợp thành một Kg riêng của TCt với những đặc trưng riêng biệt. Đó là KG
nghệ thuật của thể loại, nó thể hiện quan niệm về thuộc tại con người của thể loại. - Thời
gian trong TCT thời gian quá khứ, luôn luôn thời gian của ngày xủa ngày xưa”, không
vận động, không biến đổi.
- Tiết tấu của lời kể:
Là một biện pháp Nt gợi cảm giác, ấn tượng về Tgian nơi ng nghe truyện. sự trùng lặp của
những từ ngữ tạo nên tiết tấu đó.
e. Những công thức cố định trong lời kể chuyện
lOMoARcPSD| 58950985
−TCT thần kì, bắt đầu từ “ ngày xửa ngày xưa”,… -> mơ hồ, k xác định và kết thúc bằng
một sự tốt đẹp chỉ có trong TG cổ tích
−Lời kể của người kể phải đảm bảo chất cổ kính và sự nhẹ nhàng
−Sự gạn lọc không mệt mỏi ấy bao hàm tính chất không thể có văn bản lời kể cuối cùng của
TCt
Công Thức mở đầu:
TCT ng Việt: “ ngày xửa ngày xưa, có một…”, TCT người H’Mông “ ngày xưa, cái thuở
chiếc bánh giầy còn biết đánh trống thổi kèn…” => khung không gian – thời gian của
câu chuyện CT kết thúc:
- TCT Châu Âu thường KT bằng cách đnhân vật kể tự giới thiệu mìn tận mắt chứng kiến
những điều vừa kể
- TCT ng việt kết thúc bằng cách đưa ra một “ dấu vết”Công thức trần thuật:
- Miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật: “ nhà nghèo đến nỗi”…
- Ct về thời gian: “ một hôm, dì bảo,…”
- Ct miêu tả đặc điểm nhân vật: không đi sâu tả diễn biến tâm trạng, chủ yếu tả phương
diện hình thức
2. Đặc điểm thi pháp TCT sinh hoạt:
a. Thi pháp nhân vật: Hệ
thống nhân vật:
−Nhân vật chủ yếu là : ngừợi
−Các kiểu NV chính: ng đức hạnh, ng xấu xa. Ng mưu trí, ng khờ khạo,..
−Có hai cặp Nv chính: ng đức hạnh – ng xấu xa, ng mưu trí = ng khờ khạo
=> Khái quát toàn bộ mọi người trong xã hội thành những kiểu ng đối ứng nhau => một cách
quan niệm về thực tại – con người Nguyên tắc xây dựng NV
−Lựa chọn điển hình hóa nhân vật sao cho “ đắt” nhất
−ở truyện đề cao trí khôn -> tiêu chuẩn đánh giá là trí khôn
hiểu nhân vật ch cừ c” nhân vật êu cừ c” b. Thi
pháp lựa chọn và xây dựng xung đột
-Nhóm truyện thể hiện đề tài đạo đức
- Khai thác đề tài từ những câu chuyện gần với đời sống thường ngày và hầu như chỉ có một
NV chính
=> Câu chuyện thường đơn tuyến, hầu như k có xung đột; ý nghĩa: ca ngợi, khẳng định hoặc
phê phán, phủ định
Nhóm truyện thể hiện đề tài trí khôn
- Xung đột xã hội nổi lên hàng đầu
- chủ yếu quay quanh những mặt thứ yếu, những câu chuyện vặt vãnh của đời thườngc. Thi
pháp kết cấu cốt truyện
+ Kiểu kết cấu “truyện lẻ”
Mỗi truyện thường rất ngắn, nội dung hoặc kể về một tấm gương tốt, hoặc kể về một tấm
gương, phản diện xấu, truyện ít tình tiết – thường chỉ kể về một hành động – một sự việc.
tuy là kể về số phận con người nhưng chỉ bao hàm một đoạn ngắn của số phận, diện mạo
nvat không rõ ràng
+ Kiểu kết cấu “ xâu chuỗi”
Mỗi chuỗi gồm nhiều “ hạt”. Mỗi “hạt” là một truyện nhỏ, kể về một sự việc trọn vẹn, xoay
quanh một nhân vật chính.
d. Không gian và thời gian nghệ thuật
Có tính hai mặt
lOMoARcPSD| 58950985
- Một mặt chúng rất gần gũi với đời sống diễn ra hàng ngày của người kể, ng nghe
- Mặt khác, không gian thời gian ấy vẫnsáng tạo nghệ thuật của truyện cổ tích3.
Đặc điểm thi pháp TCT loài vật
a. Nhân vật chính
NV chính là các con vật: Thú, chim, cá, côn trùng,..
- TCT của ng Việt phần lớn là các gia súc, gia cầm gần gũi với con ng
- Tct các DTTS phần phong phú cổ xưa hơn, các con vật hoang dã, sống trong rừng
chiếm vị trí đáng kể
Nhân vật Thỏ: có tính hai mặt
- Tinh khôn, hiểu biết nhiều lĩnh vực,..
- “ nhân vật tích cực” khi dùng mưu trí cứu nạn các con vật yếu đuối chống lại những con
vật hung tợn, nhưng cũng là nhân vật tiêu cực khi nó chơi khăm bạn bè…
- TCT loài vật nói về loài vật: cung cấp, tả cho người nghe những hiểu biết về chúng,
vang lên “ dư âm của cái thời con người bắt thú về nuôi làm gia súc”
- “ TG cổ tích” trong TCT loài vật TG của những con vật được nhìn theo mắt, theo quan
niệm của con người về thực tại về chính loài người. - NV chính của TCT loài vật mang
tính hai mặt b. Xung đột trong TCT loài vật
- TCT về loài vật có thái độ không giống nhau đối vs những NV gia súc, gia cầm và vs nvat
là đvat hoang dã
Bóng dáng của xung đột giữa con người với loài vật với đủ cả hai mặt biểu hiện của nó:
thứ nhất sự xung đột còn chưa điều hòa được giữa người với Đv hoang dã, thứ hai sự
xung đột đã được điều hòa giữa ng với ĐV đã được thuần hóa
- TCT loài vật chọn mối xung đột giữa kẻ yếu với kẻ mạnh. Xung đột đó còn được hiểu
xung đột giai cấp trong một xã hội
TCT về loài vật ở V phát triển theo hướng ngày càng tăng cường yếu tố hiện thực c.
Kết cấu của TCT loài vật
Nội dung thường ít sự kiện. phổ biến là motip sự gặp gỡ của các con vật
−Hình thức kết cấu: truyện ngắn – đối thoại
−Xét về tình tiết hợp thành truyện: kết cấu đơn tình tiết, kcau đa tình tiết, kết cấu xâu chuỗi
−Kết thúc: 2 kiểu
+ Nêu ra một đặc điểm sinh học của con vật
+ Kết thúc bằng một câu vần vè
d. Không gian và tgian trong TCT:
- Kg sinh tồn: Kgian tự nhiên vốn tự như thế từ thuở xưa, Kg sinh hoạt của con vật, K
Gian sinh hoạt – XH của con ng.
C. TRUYỆN NGỤ NGÔN
*ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI:
- Truyện ngụ ngôn là loại truyện mượn một cốt truyện ẩn dụ để ngụ ý một lời quy châm: +
Nội dung của hầu hết các truyện ngụ ngôn thể hiện một nguyên đạo đức hay nguyên tắc
xử thế nào đó, kèm theo hệ quả tốt hay xấu của việc vận dụng nguyên tắc, nguyên
xử thế ấy, từ đó rút ra bài học đạo đức, kinh nghiệm sống, triết lí sống,… cho con người. tất
cả những điều này gọi là lời quy châm
+Tính ẩn dụ một căn cứ quan trọng để nhận biết truyện ngụ ngôn. Mỗi truyện ngụ ngôn
hoàn toàn câu chuyện tưởng tượng, trong đó nhân vật thể con vật, đồ vật hay con
người với những hành động có thể không có thật và tưởng như vô – gọi chung là nhân vật
khác thường
lOMoARcPSD| 58950985
+ Vai trò của nhân vật khác thường trong truyện ngụ ngôn chính tạo ra môi trường ẩn dụ,
môi trường “không cần tin thật”. Ấn tượng truyện ngụ ngôn tạo ra cho người đọc
chính là cái quyền uy thu hút hấp dẫn người đọc vào việc tìm ra một lớpn ý đằng sau câu
chuyện.
+ truyện ngụ ngôn, hiện thực lạ đồng nghĩa với một hiện thực. Đến với truyện NN, người
đọc hoàn toàn quen với điều kì lạ, như một quy ước phong cách, như một thủ pháp văn học,
do đó không cần thiết và không khi nào họ ngạc nhiên vì nó.
(lấy dụ TÌNH TIẾT VÔ LÍ TRONG TRUYỆN ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG HOẶC THẦY
BÓI XEM VOI,…)
=> Như vậy, khác với truyện cổ tích về động vật-những nhân vật con vật thường là đối tượng
trực tiếp của sự nhận thức giải thì truyện ngụ ngôn, nhân vật con vật thường 2 tín
hiệu biểu thị: Thứ nhất, chúng là dấu hiệu của ẩn ý; Thứ 2 chúng là yêu cầu bắt buộc phải tìm
ra ẩn ý quy châm. Một câu chuyện không khả năng ngụ ý, ẩn giấu thì đó không phải
truyện ngụ ngôn.
-Tính phức thể của truyện ngụ ngôn Việt Nam
+ Khi phân tích đến truyện ngụ ngôn Việt Nam, cần chú ý đến tính phức thể: có truyện ngắn,
có truyện khá dài, có truyện ngụ ngôn văn xuôi, có truyện ngụ ngôn văn vần; có truyện ngụ
ngôn dân gian, danh lại cả truyện ngụ ngôn thành văn, tác giả; tính dân tộc
tính quốc tế, sự tự nảy sinh cả sự vay mượn ngoại lai trong truyện ngụ ngôn Việt
Nam.
*ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA TRUYỆN NGỤ NGÔN
1: Kết cấu
1.1: Kết cấu hai phần, hai lớp:
- Theo cách gọi của La Fontaine thì kết cấu nội dung của mỗi truyện ngụ ngôn gồm 2
lớp(hai phần): phần hồn và phần xác. Trong đó, phần xác là câu chuyện được kể- lớp nổi của
truyện, phần hồn là điều răn dạy-lớp chìm của truyện, thường phải ngẫm nghĩ mới thấy được.
- Có hai hình thức biểu hiện của kết cấu đầy đủ 2 phần này, tương ứng với hai phương
thứctư duy là diễn dịch và quy nạp.
1.2: Tính kịch của kết cấu
- Hai phần (hai lớp) của kết cấu truyện ngụ ngôn còn được tạo ra nhờ phương thức xây
dựngkịch tính. Thông thường, nhiều truyện ngụ ngôn chất kịch rệt, thường cấu
tạo bằng một đoạn đối thoại và trong đó luôn hàm chứa những xung đột giữa các hoàn cảnh,
sự việc, tính cách của nhân vật, và đặc biệt ở phần kết thúc truyện bao giờ cũng có yếu tố bất
ngờ, rất “kịch”
2: Nhân vật
Thi pháp truyện ngụ ngôn dành một khoảng không thật rộng lớn cho nhân vật, “là bất cứ thứ
gì trong vũ trụ” (Đinh Gia Khánh), “là đủ mọi thứ trên đời” ( Phạm Minh Hạnh) Mặc dù vậy,
nhân vật thường xuyên xuất hiện trong truyện ngụ ngôn nhất là các con con vật. Các nhân vật
này xuất hiện trong một tình huống giả định được định trước theo một chủ kiến, một ý đồ,
một mục đích nhất định trên hết vẫn mục đích vẫn mục đích đồ chiếu vào quan hệ
xã hội của con người, rút ra cho con người bài học đạo đức, kinh nghiệm sống.
Khả năng đồ chiếu đó được tạo ra bởi phương thức tỉ dụ. Phương thức tỉ dụ có nghĩa những
con vật, đồ vật,… luôn luôn được xuất hiện với những công lệ, những quy ước ngầm ý
nghĩa phổ biến và được mọi người công nhận.
Các nhân vật con vật trong truyện ngụ ngôn có những khả năng tỉ dụ sau đây: -Tỉ
dụ tính cách
lOMoARcPSD| 58950985
+ Lessing nhận thấy một trong 2 nguyên nhân của việc sử dụng động vật trong truyện ngụ
ngôn là các con vật tính cách rõ ràng và cố định hơn cả, chỉ cần gọi ra con vật này hay con
vật khác là chúng ta lập tức hình dung ra cái khái niệm hay sức mạnh mà nó ám chỉ.
- Tỉ dụ cho một phương thức hành động và hành vi sinh tồn:
+ Vygovsky cho rằng “ Mỗi con vật đại biểu cho một phương thức hành động và hành vi biết
trước, là một nhân vật không phải do tính này hay nh khác, mà trước hết do
những thuộc tính sinh tồn chung của nó”. Điều này có thể nguyên do tiền thân của truyện
ngụ ngôn truyện cổ tích về động vật. Nhưng khác với truyện cổ tích động vật, truyện ngụ
ngôn không chỉ cung cấp cho người đọc đặc điểm về loài mà còn cung cấp cho chúng ta một
bài học kinh nghiệm sống.
- Tỉ dụ cảm xúc
+ Theo Vygovsky, nhân vật con vật trong truyện ngụ ngôn còn có khả năng tỉ dụ cảm xúc khi
nó có khảng tác động vào tình cảm của độc giả. Ví dụ khi Kylov kể về con chim câu, ngay
lập tức tác giả muốn gợi lên cho người đọc sự cảm thông đối với loài chim bất hạnh này
D. TRUYỆN CƯỜI
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
a. Truyện cười luôn có yếu tố gây cười
Trong truyện cười, cái cười vừa là phương tiện, vừa là mục đích, vừa là hình thức, vừa là nội
dung của chính nội dung thể loại
Để đảm bảo cho yếu tố hài hước luôn xuất hiện, các đối tượng của truyện cười bị hạn định lại
trong phạm vi nhất định.
· Ví dụ: Loại nhân vật thầy đồ và thầy thuốc có số lượng khá lớn nhưng không phải ai cũng
có thể là đối tượng của truyện cười, mà chỉ có số lượng rất ít, những loại người xấu, mang
những đặc điểm xấu trái với lẽ thường….mới bị truyện cười vạch mặt
Với việc lựa chọn đối tượng, truyện cười sử dụng tổng hợp nhiều thủ pháp gây cười như nói
lái, chơi chữ, kết thúc bất ngờ, sử dụng yếu tố tục…
b. Truyện cười xây dựng các tình huống đối thoại ngắn gọn
−Truyện cười là thể loại truyện ngắn gọn bậc nhất. Chỉ qua vài dòng đối thoại đã hoàn
thiện một câu chuyện.
−Truyện cười không có nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời của nhân vật, không quan tâm
đến trước và sau việc xảy ra thì cuộc đời nhân vật rồi sẽ ra sao
Ví dụ: nghe truyện “Thà chết còn hơn”, người ta không đặt câu hỏi “Anh nhà giàu keo kiệt
rồi sẽ thế nào?Có chết hay không?” chỉ quan tâm đến sự keo kiệt quá đáng của anh ta
được phóng đại đến nỗi mặc cả với ngay cả mạng sống của mình
−Truyện cừợi chỉ chú trọng xây dừ ng các nh huống, nắm bắt lấy nhừGng lát cắt trong
cuộc đời con người, sghi lại nhanh những hiện tượng của cuộc sống trong đó
những cái thuộc về bản chất, hoàn cảnh và bối cảnh xã hội nhất định
−Truyện cừợi thừợng khai thác nhừGng nhầm lẫn từ phía ngừợi nghe
−Điều quan trọng của nghệ thuật gây cười chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự
bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe/đọc tự mình phát hiện ra
bật cười
−Cái đáng cười thể một thói xấu nào đó, nhưng bản thân thói xấu chưa đủ gây ra cái
cười, người ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu thuẫn tiềm tàng, bộc lộ cái n
vật
−Nhân vật trong truyện cừợi không tên, không có kết cục số phận ra sao, họ chxuất hiện
thoáng qua, làm một hành động, nói một vài câu −Truyện cừợi thừợng có hai loại nhân vật:
lOMoARcPSD| 58950985
−Một loại nhân vật trực tiếp gây ra cái cười nhưng không phải là đối tượng thực sự của cái
cười phê phán (ví dụ chú Tiểu trong Đậu phụ, người thầy thuốc trong Diêm Vương xử
kiện,…)
Một loại nhân vật gây ra cái cười và đồng thời bị phê phán (Lá hung, lười gì mà lười thế….)
b. Biện pháp gây cười
Truyện cười thường sử dụng hai biện pháp gây cười bản phóng đại kịch tính Ngoài
ra, truyện cười còn sử dụng các yếu tố tục như một biện pháp hữu hiệu để gây cười. Yếu tố
tục không chỉ trong truyện tiếu lâm mà còn nhiều truyện khôi hài, những truyện trào
phúng khác
III TRỮ TÌNH DÂN GIAN
1. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI( không biết mò ở đâu. huhu)
1. Tác giả và nội dung
a. Tác giả
−Được sáng tác, lưu truyền bởi tập thể nhân dân lao động
−Đầu tiên đó là sáng tác của một cá nhân thể hiện một cảnh ngộ, một nỗi niềm −Được
nhân dân lưu truyền, gìn giữ, sửa chữa, trình diễn khi phù hợp với tâm tư, nguyện
vọng, xúc cảm thẩm mỹ của họ
−Nhân vật trữ tình: con người bình dị, đa số không được học hành, thể không biết
chữ nhưng lại là chủ nhân chân chính của các sáng tác nghệ thuật có giá trị trường cửu
−Các nhà trí thức vai trò đồng sáng tạo, nhuận sắc, cải biên làm giàu, đẹp thêm rất
nhiều cho kho tàng văn hóa dân gian dân tộc b. Nội dung
−ND phản ánh biểu đạt rộng lớn: tình cảm của nhân dân đối với thiên nhiên, đất nước,
những mối quan htình cảm gia đình, những mối quan hệ hội cùng phong phú, đa
chiều...
−Cách thừ/c biểu hiện của ND thợ ca dân gian trợ% thành hthống thẩm mỹ nghệ thuật
dân gian
−Tâm trạng, nh cảm của và cách thể hiện thế giợ/i tâm hồn của các kiểu nhân vật trừG
tình mang tính chất chung, phù hợp với tâm trạng, nỗi niềm, cảnh ngộ của nhiều người thuộc
nhiều lứa tuổi khác nhau ở các vùng miền trên đất nước
−Có nét độc đáo riêng trong mỗi bài
2. CHỨC NĂNG
a. Là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc:
−Biểu đạt những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc của nhân dân
−Bản chất trừG nh: diễn tả tâm trạng, nh cảm của một số kiểu nhân vật trừG nh : người
mẹ, người vợ, người con v v… trong quan hệ gia đình; chàng trai, cô gái trong quan hệ tình
bạn, tình yêu; người dân trong quan hệ xã hội
−Kiểu nhân vật trữ nh: nhân vật không mang dấu ấn nhân tác giả thể hiện cảm xúc,
tình cảm của cả một tập thể. Với tư cách là chủ thể trữ tình, cái tiếng nói qua đó (qua ca dao)
biểu hiện cảm hứng trữ tình của đời sống dân tộc b. Đặc điểm dân tộc trong ca dao: trong các
bài hát trữ tình dân gian “ sự tạo thành tâm hồn dân tộc chúng ta chứa đựng Nỗi đau tâm
hồn”
Trong các bài hát dân gian người ta nhận thấy sự diễn đạt sáng rõ nhất tất cả những khởi đầu
thơ ca, cuộc du ngoạn trong tâm hồn nhân dân −Lừu ý:
Ca dao dạng thơ trữ tình, khác với các thể loại thơ ca tự sự (sử thi, truyện thơ...) về nguyên
tắc cảm nhận nghệ thuật
Trong thơ ca trữ tình, sự biểu hiện mối quan hệ giữa các hiện tượng sự kiện cuộc sống, sự
biểu đạt những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc đóng vai trò đặc biệt quan trọng o Tất cả những
lOMoARcPSD| 58950985
tưởng, tình cảm được biểu đạt trong bài hát trữ tình dân gian không trừu tượng bằng
phương thức nghệ thuật cụ thể. Mỗi người nghe, từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh đều soi
được, tìm thấy ở ca dao một mảnh hồn mình trong đó 3. THI PHÁP CA DAO Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca giản dị, đẹp đẽ, trong sáng
- Được gọt giũa, trau chuốt, chắt lọc qua nhiều thế hệ
- Là sự kết hợp hài hoà giữa tính chất dân tộc và tính chất địa phương, giữa lời ăn tiếng nói
hàng ngày của nhân dân và ngôn ngữ thơ ca bác học
BPNT: sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tu từ như so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, nhân
hoá… và thể hiện chức năng giãi bày các trạng thái tình cảm của con người Kết
cấu:
- Ngắn gọn, thể hiện dấu ấn của lối đối đáp, trò chuyện giữa nhân vật trữ nh đốitượng
trữ tình
- Chứa đựng những công thức truyền thống dân gian đặc thù: CT mở đầu, CT miêu tả, kể
chuyện Thể thơ:
- Lục bát
- Song thất lục bát, thơ ba chữ, bốn chữ, năm chữ, thơ hỗn hợp tự do…4. Đặc điểm diễn
xướng
a. Hát cuộc
- Hát tập thể trong lao động, hội hè
- Diễn ra quy mô
- Địa điểm: phổ biến trên khắp mọi miền đất nước từ Bắc chí Nam: hát Ghẹo Phú Thọ,
hát
Quan họ Bắc Ninh, hát Trống quân Thanh Hóa, hát phường vải Nghệ Tĩnh; hát giã gạo
Quwảng Nam, hát đối đáp Công Nam bộ... thể diễn ra trong lao động nghề nghiệp hoặc
trong các lễ hội mùa xuân
- Hình thức: đối ca nam nữ theo 3 chặng:
· Hát chào, mời trầu, mời nước, đố hỏi thử tài
· Hát xe kết: gồm tầng tầng lớp lớp, đầy ắp các cung bậc tình cảm của đôi lứa yêu đương:
nhớ mong, thề nguyền, ước hẹn , trách móc, giận hờn · Hát xa cách b. Hát lẻ:
- Hình thức hát tự do, ngẫu hứng
- Địa điểm: phát triển trong dân ca của một số dân
tộc như Cơtu, Vân Kiều hoặc nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên
2. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP
a, Tình hình phổ quát toàn dân và những nhân vật trữ tình của ca dao a.1.
Nội dung trữ tình ca dao mang tính phổ quát dân tộc
- nói như Hêghen: thơ ca dân gian là nơi “ đặc điểm dân tộc biểu lộ nhiều nhất” người tacó
thể hoàn toàn dựa vào đó để “cố gắng khám phá tâm hồn các dân tộc, cách các dân tộc nhìn
thế giới và nhìn cuộc đời”.
- Cảm xúc trữ tình trong thơ bao giờ cũng mang màu sắc nhân riên biệt , nhưng ca
daocảm xúc đó chưa phải là cửa một cái tôi cá nhân – cá biệt mà vẫn là cảm xúc chung của
cộng động, quần thể.
a.2. Nhân vật trữ tình
· Ca dao truyền thống được cất lên trong cuộc hò hát, lời ca điệu hát thì đã sẵn trong
cái quá khứ truyền lại nhưng người hát người của bây giờ của thời điểm lời điệu
được cất lên. Người sáng tác người diễn xướng nhân vật trữ tình được nội dung lời ca
thể hiện bao giờ cũng một. Chủ thể bài ca (tác giả) luôn đồng nhất với nhân vật trtình
của bài ca, tính phổ biến toàn dân trong nội dung trữ tình của ca dao được biểu hiện ra một
lOMoARcPSD| 58950985
cách khác: biểu hiện hệ thống nhân vật trữ tình. NHững nhân vật này thuộc một số kiểu
nhất định:
- chàng trai và cô gái trong quan hệ bạn bè giáo duyên
- người vợ và người chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình
- người mẹ và người con trong sinh hoạt gia đình
- người phụ nữ đi làm dâu trong quan hệ với nhà chồng
- người lính và người vợ lính trong quan hệ hạnh phúc riêng với nghĩa vụ nhà nước- người
lao động nói chung….
· Nhân vật trữ tình ai đi chăng nữa mỗi khi cất lên tiếng hát hướng về cuộc đời chính
mình chỉ thấy buồn, thấy khổ, thấy tủi khi tiếng ca cất lên sẽ thành tiếng hát than thân,
phản kháng tràn ngập thcảm xúc tâm buồn bã, đau thương oán trách. Nhưng khi cảm
xúc trữ tình đó hướng về người thân trong gia đình, cảnh vật kỉ niệm làng xóm quê
hương,…lại cất thành tiếng hát yêu thương. b. Thời gian và không gian nghệ thuật
b.1. Thời gian nghệ thuật
· tính độc đáo của ca dao ngoài đặc biệt ở nhân vật trữ tình còn độc đáo ở cách xử lý thời
gian của ca dao
· Trong ca dao, thời gian của tác giả và thời gian của người diễn xướng và cả thời gian của
người thưởng thức hòa lẫn là một. Thời gian đó luôn là thời gian hiện tại.
· Ca dao thường sử dụng hàng loạt các cụm từ như “đêm đêm”, “bao giờ”, “khi xưa”, chiều
chiều”,… Thời gian nghệ thuật vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa thời gian của sự
tưởng tượng, hư cấu mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình.
b.2. Không gian nghệ thuật
· Không gian nghệ thuật tính hai mặt: vừa không gian thực tại khách quan như nó tồn
tại vừa không gian chỉ có trong cấu, tưởng tượng của nhân vật trữ nh. · Khi không
gian được phản ánh trực tiếp thì sẽ khớp với không gian ngoài thực tại những “ xứ Huế”,
“xứ nghệ”, “xứ quảng”,…những địa danh đó vang lên như “âm thanh của đấtgợi nhớ
đến những địa danh, mảnh đất phong cảnh… nổi tiếng.
· “Không gian hội” Nơi diễn ra mọi sinh hoạt đời sống , mọi mối quan hệ giữa người
với người. Trong những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa nhất là những câu hát giao
duyên , không gian trở thành “không gian của tâm trạng”:
“qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”….
· Không gian nhiều khi còn được sắp xếp cho khớp tâm trạng:
“Chiều nay có kẻ thất tình
Tựa mai – mai ngả, tựa đình – đình xiêu” Không
gian xã hội cũng có thể sắp xếp lại được:
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”
· phần lớn không gian mang phiếm chỉ: “cầu”, “quán”, “cây đa”, bến đò”,.. c.
Kết cấu ca dao
c.1. Lối đối đáp
· Là những lối trò chuyện bằng thơ ca chủ thể là những chàng trai, cô gái trong câu hát
giao duyên, những mẹ hát ru con,…Kết cấu đối đáp hai vế đối đáp 1 vế. · Hát
ru cũng là lối đối đáp 1 vế c.2. Lối kể chuyện
lOMoARcPSD| 58950985
· Lối kể chuyện được vận dụng như một sự đáp ứng cần thiết của ca dao trước yêu cầu
của con người và cuộc sống. d. Thể thơ trong ca dao:
d.1. Thể thơ lục bát
Gồm những cặp câu với hai dòng (vế), dòng (vế) trên có 6 âm tiết, dòng (vế) dưới có 8
âm tiết.
Cách gieo vần,… nhịp phổ biến nhịp chẵn 2/2/2 hoặc thay đổi theo cảm xúc tâm lí 3/3,
4/4…
Thể lục bát là một cống hiến lớn của ca dao cho văn chương bác học, lối gieo vần và vị trí
gieo vần bắt dính liên tiếp câu (lục bát) trên với câu (lục bát ) tiếp theo đã mở đường cho
sự hình thành những truyện thơ dài hơi của nền văn học dân tộc ( dụ truyện kiều) d.2.
Thể song thất lục bát
Tuy ko phổ biến bằng lục bát nhưng cũng một thể bắt nguồn từ dân ca . Thể song thất
lục bát tạo ra một biến thể mới cho thể lục bát rất thích hợp để diễn đạt một tâm trạng nhiều
khúc mắc. d.3. Thể vãn
Tùy theo số tiếng trong câu từ 2,3 đến 4,5 thể vãn hai, vãn ba, vãn bốn, vãn
năm…Thể vãn 2,3,4 thường dùng cho trẻ em hát vè , vừa hát vừa chơi. Ca dao trữ tình chỉ
sử dụng thể vãn năm, đôi khi có vãn bốn: “ Hỡi trời cao đất dày
Thuế sao nặng thế này
Làng xóm đành bóp bụng
Bán đìa nộp thuế tây” d.4. Thể hỗn hợp
Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngon sớm, ngọt chiều với anh.
e. Những thủ pháp nghệ thuật chủ yếu trong việc xây dựng hình ảnh của ca dao
e.1. Thủ pháp xây dựng hình tượng so sánh
· so sánh trực tiếp : thường sử dụng các từ so sánh “như”, “là’,…đặt giữa hai vế làm nổi
bật lên thuộc tính đặc điểm sự vật hiện tượng,…
· Ẩn dụ còn gọi là ss ngầm kiểu ss ko sử dụng đại từ quan hệ
· Ca dao sử dụng không ít lối so sánh đơn, nhưng cách “nói” của ca dao là cách “nói” liên
hợp nhiều tầng bậc
Tiếc thay quả hồng ngâm mà mang cho chuột vọc
Tiếc thay người ngọc mà để cho ngâu vầy”
· Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong ca dao ý nghĩa khái quát cao đã trở thành những tượng
trưng, ước lệ giúp cho sự biểu đạt ý tình trở nên sắc sảo, hàm súc: trúc mia, thuyền – bến,
mận – đào,…
e.2. Thủ pháp xây dựng bằng lối miêu tả:
để gây ấn tượng mạnh cần làm cho hình ảnh được xây dựng nổi bật hẳn lên, ca dao thường
kết hợp với lối so sánh miêu tả.
Ngoài ra còn có những biện pháp nghệ thuật như tương phản, trùng điệp, đối xứng,…
IV LỜI ĂN TIẾNG NÓI
1. PHÂN BIỆT TỤC NGỮ VỚI THÀNH NGỮ VÀ CA DAO
Phân biệt Tục Ngữ - Thành ngữ
lOMoARcPSD| 58950985
- Sự khác nhau bản giữa thành ngữ tục ngữ skhác nhau về chức năng cấu trúcngữ
pháp.
- Thành ngữ đơn vị sẵn mang chức năng định danh, dùng để gọi tên sự vật, tính chất,hành
động. => là những đơn vị tương đương như từ hoặc cụm từ.
- Thành ngữ đưa đến cho chúng ta một hình ảnh
Ví dụ “Trắng như vôi”, “Xấu như ma”,
- cần phải thêm các yếu tố khác mới diễn đạt được một phán đoán, một kết luận, nghĩa làmới
trở thành tục ngữ.
Vd thành ngữ: Đẹp như tiên, tục ngữ Đẹp như tiên không tiền cũng xấu
- tục ngữ thông báo một nhận định, một kết luận về một phương diện nào đó của thế giớikhách
quan. Mỗi câu tục ngữ là một câu hoàn chỉnh diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng.
Phân biệt Tục ngữ - Ca dao
- Tục ngữ thiên về lý trí, ca dao thiên về tình cảm.
- Tục ngữ có chức năng đúc kết, truyền bá kinh nghiệm, nhằm nêu lên những nhận xétkhách
quan.
- Còn ca dao thể loại bản chất trữ nh; thiên về bộc lộ tình cảm, phô diễn thế giới tâmhồn
con người.
- Tuy nhiên vẫn có sự xâm nhập giữa hai thể loại này khi có một bộ phận nhỏ trong chúngcó
tính chất trung gian.
- Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ vừa ra khỏi, người mong chui vào.
- Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư ĐẶC
TRƯNG THỂ LOẠI TỤC NGỮ.
a. Về đề tài và nội dung của tục ngữ
- thể nói rằng, tục ngữ thể loại văn học dân gian phạm vi phản ánh rộng lớn
nhất sovới các thể loại văn học dân gian.
- Nếu như thần thoại thiên giải thích nguồn gốc của trụ, các hiện tượng tự nhiên;
truyềnthuyết phản ánh những sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử;... thì tục ngữ bao quát một
phạm vi phản ánh rộng lớn nhất cả về tự nhiên, xã hội.
- Phạm vi phản ánh rộng lớn ấy khiến cho tục ngữ điều kiện sinh sôi, phát triển,
lưutruyền ngày càng phong phú về số lượng và có tác dụng to lớn trong quá khứ và cả trong
cuộc sống hiện nay.
b. Về Thi pháp thể loại:
- Tục ngữ là câu nói có kết cấu ngắn gọn, phần lớn có tính đa nghĩa
Tục ngữ có hình thức kết cấu “gọn nhẹ” nhất trong các thể loại văn học dân gian. Kết cấu tục
ngữ bao giờ cũng rất gọn chắc. Câu tục ngữ ngắn nhất chỉ có ba tiếng:
Tham thì thâm”
Chiếm số lượng lớn những câu tục ngữ cấu tạo 4 - 11 từ. Câu tục ngữ dài nhất một
cặp lục bát:
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì dâm
Tục ngữ những khuôn mẫu mang tính mẫu mực về việc chọn lọc, sử dụng từ ngữ tiết kiệm
đến mức tối đa đạt hiệu quả nghthuật cao. Sự đúc, súc tích khiến cho tục ngữ dễ
nhớ, dễ lưu truyền, dễ vận dụng trong lời nói hàng ngày b. Tính đa nghĩa:
- tục ngữ sự kết hợp hài hoà giữa cái cụ thể cái khái quát. Cái cụ thể là
nghĩađen còn cái khái quát là nghĩa bóng. Nghĩa đen nghĩa trực tiếp, gắn với sự việc
lOMoARcPSD| 58950985
hiện tượng ban đầu. Nghĩa bóng là nghĩa gián tiếp, nghĩa biểu trưng, hàm ẩn. - Trừ một bộ
phận tục ngữ phản ánh kinh nghiệm thiên nhiên lao động sản xuất “khoai ưa lạ, mạ ưa
quen”, “Nhất nước nhì phân, tam cần tứ giống” …, còn phần lớn các câu tục ngữ đều mang
tính đa nghĩa.
- Bản chất của nh đa nghĩa trong tục ngữ việc tìm được nêu ra nét tương
đồngnào đó giữa hiện tượng, sự vật kinh nghiệm sống được khái quát. Những câu tục
ngữ đa nghĩa đã thể hiện phép chuyển nghĩa tài tình trong nghệ thuật dân gian, buộc người
nghe liên tưởng và tưởng tượng.
Trong câu tục ngữ ‘Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” “Tốt gỗ” được hiểu trong schuyển hoá ngữ
nghĩa sang “bản chất con người”, “nước sơn’ được chuyển hoá thành “bề ngoài của con
người”
- Nói đến tục ngữ nói đến sự vận dụng chúng vào rất nhiều trường hợp cụ thể.
Lớpnghĩa cụ thể ban đầu đã tạo nên lớp nghĩa mới, rồi câu tục ngữ được ứng dụng trong
nhiều hoàn cảnh lại mang thêm các ý nghĩa phát sinh. Cứ mỗi lần được sử dụng những
hoàncảnh nhất định thì nội dung, ý nghĩa, những lớp nghĩa khác nhau của tục ngữ lại dược
mở rộng và phong phú thêm. Nội dung ý nghĩa của mỗi câu tục ngữ không chỉ lệ thuộc vào
người sáng tác ban đầu, mà còn lệ thuộc rất nhiều vào quan niệm và cách dùng của những
người sử dụng về sau c. Về chức năng:
Tục ngữ cẩm nang đa năng của nhân dân lao động về những tri thức dân gian quý báu
muôn mặt trong cuộc đời. kinh nghiệm của cả một cộng đồng, nói mang sức mạnh
của bề dày truyền thống văn hoá lịch sử dân tộc , một hành vi ngôn ngữ tính hội
được truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ vùng này sang vùng khác. Sự đúc kết đạo
của cuộc sống được tiến hành thông qua những kinh nghiệm đã được thử thách, thông
qua thế giới quan, nhân sinh quan trình độ nhận thức của nhân dân về các khía cạnh trong
đời sống xã hội nên tục ngữ có sức mạnh thuyết phục lớn lao
Trong các thể loại văn học dân gian thì tục ngữ là thể loại chức năng thực hành triệt đ
hơn cả. Trong nhiều trường hợp, chức năng thực hành - sinh hoạt dường như là chức năng
nổi bật.. Khi đi chợ, đi mua giống gà, giống chó, giống trâu bò, người dân vận dụng những
kinh nghiệm dân gian một cách hết sức tự nhiên chứ chưa hẳn do nhu cầu thẩm mỹ. “Gà
đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua, trắng chân chì, mua chi giống ấy” chọn chân giò
“Ăn chân sau, cho nhau chân trước...
Lý do cơ bản giúp cho tục ngữ tồn tại và phát triển rộng rãi chính là ở sự ứng dụng trực
tiếp vào cuộc sống của nó. Mở rộng ra, biết bao kinh nghiệm đối nhân xử thế trong quan
hệ gia đình và xã hội “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, “Máu chảy ruột mềm”, “Môi
hở răng lạnh” đã giúp con người nguồn trí khôn tận trong cuộc sống. d. Diễn
xướng
Tục ngữ được diễn xướng trong ngôn ngữ giao tiếp, trong lời ăn tiếng nói của nhânn, đặc
biệt xuất hiện nhiều trên ngôn ngữ của những người từng trải. Càng qua nhiều trải nghiệm
cuộc đời, người ta càng tìm thấy ở tục ngữ cái lý của một thứ tư duy logic thực tiễn sắc sảo
được diễn đạt một cách ngắn gọn, có tính nghệ thuật, có sức thuyết phục nhất.
V. SÂN KHẤU DÂN GIAN – CHÈO
1. KỊCH BẢN
2. NHÂN VẬT
- Nhân vật trong chèo thường là những tính cách đã định hình mang tính chất phiếm chỉ.
Tính cách nhân vật thường giản đơn, biểu hiện tập trung một nét tính cách tiêu biểu nào đó
(nhẫn nhục, hiếu thảo, thủy chung/ nanh ác, lẳng lơ, nhu nhược,…) Nhân vật chèo nhân
vật có tính toàn dân, chứ không phải là cá nhân riêng biệt.
lOMoARcPSD| 58950985
- Chèo có 4 vai diễn chính:
+ Vai Đào
· Đào thương (nữ chín) (Thị Kính, Thị Phương, Châu Long, Giáng Hương,…)
· Đào lệch (nữ lệch) (Súy Vân, Thị Mầu, Thiệt Thê,…)
+ Vai Sinh: Thư sinh được đi học, học, từ nếp nghĩ, cử chỉ, lời nói phải tỏ ra là người
học, chính nhân quân tử (Trương Viên, Lưu Bình, Dương Lễ, Từ Thức) Bên cạnh đó
nhữngnhược điểm dễ thấy của họ tính nhu nhược, thiếu quyết đoán, ít vốn sống thực tế
(Thiện
Sỹ, Từ Thức, Lưu Bình)
+ Vai Lão: Sự xuất hiện vai lão trong chèo không nhiều nhưng cũng để lại ấn tượng khó quên
cho người xem: Mãng Ông, Sùng Ông (vở “Quan âm Thị Kính”), Lão huyện tế (vở “Kim
Nham”) + Vai Mụ:
· loại vai Mụ thể hiện rất rõ quan niệm của nhân dân về một người mẹ hiền hậu thống nhất
với những chuẩn mực đạo đức Từ Mẫu của Thánh hiền (Trương Mẫu trong vở Trương Viên)
· Có các vai Mụ là những bà mẹ độc ác, nanh nọc, bất lương được thể hiện ở cách nói năng,
động tác, hóa trang như kiểu chống tay vào mạng sườn, hông đung đưa, cách quệt quết trầu
hay chỉ tay đay nghiến (mụ Sùng, mụ Mối, mụ Dầu)
- Nhân vật hề: Chèo dùng các vai hề để thể hiện yếu tố hài. Hề chèo chế giễu tất thảy, trước
hết để pha trò, mua vui, sau tự cười mình, cười các thói tật xấu của nội bộ nhân dân
và cao hơn là phê phán, đả kích giai cấp thống trị. Ngta thường chia hề chèo thành 2 loại
+ Hề áo ngắn (tích cực): Đại diện cho những người lao động nghèo khổ, địa vị thấp kém
nhưng thông minh, thường đứng trên quan điểm của nhân dân để trào lộng, phê phán giai cấp
thống trị (hề mồi, hề gậy, mẹ mõ)
+ Hề áo dài (tiêu cực): Loại nhân vật ít nhiều đại diện cho tầng lớp trên (quan lại, hào lý, thầy
đồ, thầy bói, thầy cúng, thầy phù thủy) thường tự bộc lộc bản chất tham lam, ngu ngốc, giả
dối của mình, tự giễu mình trên sân khấu.
3. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CHÈO CỔ
- Chèo thể hiện quan điểm đúng đắn trong cách đánh giá phẩm chất người lao động:
Những người lao động nghèo khổ, những cố nông, những “cùng đinh”, những người ở địa vị
thấp bị lép vế như mẹ Đốp, Mãng Ông, Thị Kính,… là những người có phẩm chất tốt, lương
tâm trong sạch.
- Chèo thể hiện lòng yêu mến, quý trọng con người, đặc biệt đề cao người phụ nữ:
Nhữngnhân vật chính trong các tích chèo thường là nhân vật người phụ nữ có phẩm chất cao
đẹp:
Thị Kính lòng c ái cao cả, cao thượng, dịu ng; Thị Phương hiếu thảo thủy chung; Châu
Long nghĩa tình trọn vẹn,…
- Vấn đề trọng tâm trong chèo là vấn đề đạo đức: Chèo phê phán những người phụ nữ
kémđạo đức như Xúy Vân, Thị Mầu, Thiệt Thê, song người xem vẫn thấy ẩn sau thái độ phê
phán là một niềm thương xót, chia sẻ, cảm thông với những số phận ấy qua nghệ thuật biểu
diễn mang tính tổng hợp cao của chèo truyền thống, chung quy họ cũng là nạn nhân của chế
độ phong kiến. Khao khát hạnh phúc thứ tình cảm chính đáng của con người nhưng luôn
bị kiềm chế bởi những quan niệm hôn nhân phong kiến vô lý và nghiệt ngã.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58950985
ĐỀ CƯƠNG VĂN HỌC DÂN GIAN
I. KHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN A. Các khái niệm:
1. Văn học dân gian là một thành tố trong chỉnh thể nguyên hợp VHDG
- Folklore: nghĩa rộng là VHDg, hẹp hơn là văn nghệ dân gian, hẹp hơn nữa là văn học DG-
Folklore trải qua 2 giai đoạn: TK 19:
Những điệu múa, bài ca, TCT, TT, thành ngữ, tục ngữ, các truyền thông địa phương của thời
kì trước, của những người nông dân nông thôn chưa chịu ảnh hưởng của XH văn minh. - Dân
gian: Cái nhìn lãng mạn về văn hóa của CNTD; ngôn ngữ, thơ ca, dân gian là “dấuchỉ” của hồn cốt dân tộc. Folklore:
+Folk: người nông dân mù chữ, sống ở thôn quê, không bị ảnh hưởng bởi văn minh +
Folklore học: ngành KHLS, phục dựng lại một quá khứ đã qua và đang dần biến mất khi xã
hội tiến vào hiện đại.
Ø Folklore thế kỉ XX- đến nay:
- ĐN VHDG của hiệp hội VHDG Hoa Kỳ:
“ Văn học DG là nghệ thuật, văn học, tri thức và thực hành truyền thống được phổ biến phần
lớn thông qua truyền khẩu và gương ứng xử. Mỗi nhóm có ý thức về chia sẻ bản sắc riêng
của mình như một phần trung tâm của bản sắc đó. Truyền thống DG- những điều mà mọi
người thường tin ( tập quán, truyền thống gia đình,..) , làm ( khiêu vũ, làm nhạc,..), biết ( cách
xây dựng đập thủy lợi,..) và nói ( câu chuyện, kinh nghiệm,..) Ø Folklore tại VN:
- Folklore du nhập vào VN cùng với việc thành lập Viện Viễn đông Bác cổ đầu TK XX 2. KN a. Văn hóa dân gian:
−Văn hóa dân gian tương ứng với khái niệm folklore nghĩa rộng , bao gồm toàn bộ các giá
trị văn hóa, vật chất, văn hóa tinh thần được nhân dân sáng tạo, bảo tồn và lưu chuyển qua
các thế hệ, trở thành các giá trị truyền thống của một dân tộc, trong đó có văn hóa nghệ thuật
phi chính thống ở mọi thời đại
−Văn nghệ dân gian tương ứng với khái niệm folklore nghệ thuật, bao gồm các thành tố nghệ
thuật ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật tạo hình dân gian trong tư
cách là một hình thái ý thức xã hội đặc trưng của “ nhận thức nguyên hợp” hợp thành chỉnh
thể các hoạt động sinh động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp có tính truyền thống của nhân dân
−Văn học dân gian tương ứng với khái niệm folklore ngôn từ, là thành phần ngữ văn dân gian
trong chỉnh thể folklore nghệ thuật được tiếp cận dưới góc độ thẩm mỹ. VHDG làbộ phận cốt
lõi tương đối ổn định, dễ nắm bắt và có quá trình phát triển mạnh mẽ, lâu bền nhất của nghệ
thuật diễn xướng dân gian
*Văn học dân gian trong nhà trường
- Trong nhà trường Việt Nam, thuật ngữ VHDG là định danh một của khoa học
ngữ văn. Có thể định nghĩa: VHDG cổ truyền là toàn bộ các thể loại sáng tác nghệ
thuật ngôn từ truyền miệng, được sáng tạo và không ngừng tái tạo theo phương
thức tập thể qua nhiều đời chọn lọc và gọt giũa của nhân dân có vị trí như một
thành tố quan trọng trong chỉnh thể văn hóa, văn nghệ dân gian của cộng đồng dân
tộc, có tình nguyên hợp. B. ĐẶC TRƯNG VHDG
1. Đặc trưng nguyên hợp : −VHDG vừa
là văn học vừa là văn hóa: lOMoAR cPSD| 58950985
−VHDG là một loại của nghệ thuật ngôn từ
−VHDG là một thành tố của văn nghệ dân gian, là một hiện tượng đặc biệt của văn hóa dân
gian, được sáng tạo một cách thẩm mỹ, mang thuộc tính văn hóa, có các biểu hiện giá trị văn hóa
−Tính nguyên hợ p của VHDG không chỉ thể hiện ợ% sừ kết hợ p nhiều loại phừợng tiện và
chất liệu nghệ thuật khác nhau mà còn xen nhiều loại hình thái chưa phân hóa rõ rệt −Khái niệm:
−Xét về mặt ngữ nghĩa, “nguyên” là đầu tiên, gốc, khởi nguồn ; còn “ hợp” là kết hợp,
tích tụ lại, gặp gỡ nhau, sự kết hợp ngay từ khởi nguồn, lúc tác phẩm bắt đầu sinh ra.
Xét về nguồn gốc 3 phương tiện, 3 yếu tố thì tính nguyên hợp là sự kết hợp của 3 yếu
tố cốt lõi là loại hình nghệ thuật, quá trình thưởng thức tiếp nhận và thành phần sáng tác, biểu diễn,....
−Hay nói một cách khác, tính nguyên hợp của văn học dân gian là sự tổng hợp một
cách tự nhiên nhiều thành phần nghệ thuật, chức năng, ý thức,...trong một chỉnh thể
nghệ thuật không thể chia cắt.
−Ví dụ, để tạo ra một tác phẩm chèo cần hội tụ nhiều yếu tố có: ngôn từ văn bản như
tác phẩm “Quan âm Thị Kính”, âm nhạc là có trống phách, đàn,...mỹ thuật thì có các
nguyên tắc về trang phục, đạo cụ mang thông điệp,...Hay hát ru sẽ có 2 thành tố là phần lời và phần nhạc.
−Biểu hiện đặc trưng:
−Phân loại đặc trưng 1:
−Thứ nhất , tính nguyên hợp có thuộc tính đa chức năng, đa yếu tố thể hiện rõ ở việc tính
nguyên hợp của văn học dân gian tồn tại và phát triển theo từng giai đoạn lịch sử. Bởi chức
năng của văn học dân gian không phải là chức năng thẩm mỹ mà là chức năng sinh hoạt, thực hành xã hội.
Ví dụ: Nhân vật Sơn Tinh hình tượng gốc xa xưa được xem là thần núi, thần đá của núi Tam
Đảo, tại vì ở vùng núi cao có nhiều sét nên được xem là thần lửa, có truyện lại xem là thần
nông nghiệp vì họ tin chính Sơn Tinh đã dạy con người biết trồng trọt,...các lớp nghĩa văn
hóa của nhân vật và hình tượng nhân vật có sự biến đổi qua từng thời kỳ. −Thứ hai, tính
nguyên hợp thể hiện ở sự đa thành phần trong một tác phẩm văn học dân gian:
−Thứ ba, tính nguyên hợp văn học thể hiện trên phương diện thể loại :
Ví dụ: Thần thoại vừa là đối tượng của ngành thiên văn học khám phá những tri thức nguyên
sơ của con người về vũ trụ, vừa là đối tượng của ngành triết học tìm hiểu về quan niệm duy tâm, duy vật…
Ví dụ: tục ngữ vừa là đối tượng của ngành xã học học quan tâm đến những kinh nghiệm
về xem xét, đánh giá, quan hệ và ứng xử của con người… vừa là đối tượng của ngành nông
nghiệp chú ý về kinh nghiệm sản xuất… Việc trở thành đối tượng nghiên cứu cùng lúc của
nhiều khoa học, thể loại đã củng cố đặc trưng nguyên hợp
−Thứ tư, tính nguyên hợp thể hiện ở quá trình sáng tác và diễn xướng tác phẩm văn học dân gian.
Ví dụ: Trong những lúc lao động mệt nhọc, người ta có thể cất lên một câu hò để xua tan
những nỗi nhọc nhằn, vất vả bằng cách điều tiết nhịp điệu lao động của tập thể: Hò giã gạo,
Hò giựt chì, đi cấy… −Tay ôm bó mạ xuống đồng
−Miệng ca tay cấy mà lòng nhợ/ ai
− Giai điệu của câu hát cho thấy bước chân nhịp nhàng, háo hức của người nông dân khi
đem mạ xuống đồng cấy vụ mùa mới. Đồng thời biểu lộ đời sống riêng tư với nỗi nhớ
người bạn cùng phường cấy. lOMoAR cPSD| 58950985
−Tính nguyên hợp còn được xem là một hiện tượng văn hóa.
Ví dụ: loại hình nghi lễ Then của người Tày, xuất phát từ thực tiễn mà nghi lễ này được chia
làm nhiều loại khác nhau, tương ứng với nó là lời ca, âm nhạc, vũ điệu… phùhợp. Đó chính
là chức năng sinh hoạt thực hành của Văn hóa dân gian nói chung, VHDG nói riêng. Then
cầu mong (cầu thọ, cầu đường tình duyên, con cái), Then chữa bệnh (giải sầu, đuổi tà ma),
Then tống tiễn (đưa linh hồn người chết về với tổ tiên), Then cầu mùa (đón
“nàng Hai” xuống ăn cơm mới), Then chúc tụng (mừng thọ, sinh con), Then đại lễ cấp sắc
(phong chức cho người hành nghề Then)… −Phân loại đặc trưng 2:
- Tính nguyên hợp về hình thái ý thức văn học dân gian
- Tính nguyên hợp về ngoại hình nghệ thuật
- Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở sự chưa tách rời với đờisống thực tiễn
−Phân loại đặc trưng 3: - Nguồn gốc:
+ VHDG là một hình thái ý thức xã hội mang tính nguyên hợp nên vẫn còn
nguyên một khối, điều này có nguồn gốc từ sự nhận thức nguyên hợp của người
nguyên thủy, ở đây cần lưu ý, không chỉ có nhận thức đời sống nói chung mà
bao gồm cả nhận thức thẩm mĩ nghệ thuật. Nhận thức thời nguyên thủy chưa
có sự phân hóa rõ rệt thành những hình thức cụ thể như đạo đức, tôn giáo, triết
học, nghệ thuật, khoa học… Chính vì thế, VHDG “có sự hòa lẫn những hình
thức khác nhau của ý thức xã hội và đó là bản chất chung của toàn bộ cơ cấu
văn học dân gian cổ truyền” .
+ Ban đầu, VHDG nói riêng không tách rời đời sống sinh hoạt, lao động của con
người. Sau một ngày săn bắt, hái lượm… mệt mỏi, đêm xuống mọi người ngồi
quây quần bên bếp lửa, họ vừa kể vừa diễn lại cảnh săn bắt, hái lượm ban ngày
và họ thể hiện niềm vui bằng cách nhảy múa bên những thành quả lao động ấy.
Vô hình chung, các hình thức nghệ thuật cứ thế ra đời một cách hết sức tự nhiên,
không có “chủ định làm nghệ thuật” từ trước, nó ra đời và tồn tại Biểu hiện:
+ Tác phẩm VHDG là chỉnh thể chưa bị chia cắt, phản ánh toàn bộ đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Ví dụ: Thần thoại về “Thần Nước” đã kể rằng
thần có một hình thù rất vĩ đại, cho thấy tín ngưỡng thờ thần tự nhiên của người
nguyên thủy. Thần làm vua tất cả 3.600 giống thủy tộc. Có một số giống thủy
tộc được làm tướng tá bộ hạ của thần. Mỗi tướng tá bọ hạ chia nhau cai quản
một khu vực. Chức của mỗi vị bộ hạ lớn hay bé tùy theo pham vi địa phương
rộng hay hẹp của vị đó. Những chi tiết này là tri thức về lịch sử – xã hội, biểu
hiện những nét đầu tiên của sự phân hóa xã hội gắn với hệ thống tổ chức – nhà
nước từ trên xuống dưới. Người đứng đầu là vua, người giúp vua cai quản là các
tướng tá bộ hạ phân chia theo các khu vực quản lý, chức
vụ to hay nhỏ tùy vào phạm vi cai quản. Ngoài ra còn có khoa học về địa lý thủy
văn, giải thích hiện tượng tại sao sông, suối lại có mùa nước to, mùa lũ, vì mỗi
năm vào khoảng tháng tám, thần dâng nước để lấy gỗ chò. Bất kỳ gỗ ấy ở đâu:
đã làm vào nhà cửa trần gian hoặc còn nguyên cả cây, thần Nước đều lấy tất.
−Ví như: truyện Sự tích trầu cau cùng việc phản ánh phong tục ăn trầu của nhân dân ta là sự
phản ánh tình trạng xã hội chuyển từ chế độ quần hôn sang chế độ hôn nhân gia đình nên có
nhiều mâu thuẫn và sự lạ lẫm. Truyện Tấm cám lại phản ánh tình trạng xã hội có phân hóa
giai cấp, có xung đột và đấu tranh xã hội thông qua phạm vi gia đình. Truyện Sự tích ba ông
đầu rau, có lớp lịch sử gần là phản ánh tục thờ thần Bếp, tập quán đưa tiễn Táo Quân vào
ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Nhưng lớp lịch sử xa hơn, sớm hơn là phản ánh công cuộc vĩ lOMoAR cPSD| 58950985
đại khi loài người tìm ra lửa, gắn với tín ngưỡng thờ thần Lửa. −+ VHDG là kết tinh trí tuệ
và tâm hồn của tập thể nhân dân ở những thời đại khác nhau và địa phương khác nhau
− Ví dụ: Nếu ở chương 1, từ điểm xuất phát khoa học hoàn toàn khách quan, đưa tư liệu lên
trước và mô tả chân thành tư liệu, tác giả làm nổi bật phương diện đồng đại khi xem xét đối
tượng thì đến chương 2 – Từ chuyện anh hùng bộ lạc đến chuyện anh hùng dân tộc, tác giả
làm nổi bật phương diện lịch đại, không chỉ kể chuyện mà còn tóm tắt cốt truyện bằng cách
sơ đồ hóa cốt truyện. Đó chính là phương pháp cấu trúc, nghiên cứu theo cách quy nạp – con
đường đi đúng và phù hợp với việc nghiên cứu VHDG. Tác giả đưa ra 2 kết cấu lịch sử của truyện ông Dóng:
−1- Sóc Sợn – Núi Trâu – Sóc Sợn −2- Phù Đổng
– Núi Trâu – Hồ Tây – Sóc Sơn
− Như vậy, từ việc sơ đồ hóa đến việc so sánh hai kết cấu, Cao Huy Đỉnh đi đến kết luận:
kết cấu 1 ít tình tiết hơn thì cổ hơn, đúng với nguyên tắc kết cấu truyền thống của truyện
anh hùng bộ lạc. Và kết hợp với kết cấu 2, giúp tác giả có cái nhìn lịch đại để khẳng định
truyện ông Dóng đi từ chuyện anh hùng bộ lạc đến chuyện anh hùng dân tộc. −Kết luận, vai
trò: Là một yêu cầu có tính nguyên tắc 2. Tính truyền miệng
−Sự truyền miệng các sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân đã trở thành tập quán sinh
hoạt, là một nhu cầu văn hóa tự nhiên mà văn học viết không thể thay thế −Trải qua hàng ngàn
năm tồn tại song hành với văn học viết, trong các di sản VHDG truyền miệng được ghi chép
lại có không ít những sáng tác văn học dân gian của các nho sĩ,trí thức
=> Đó là kết quả của quá trình dân gian hóa có tính quy luật
loại. Thế nên truyền thuyết vẫn thường xuyên hiện ra trong các nghi thức thờ cúng thần thành
hoàng, trong các lễ hội thường niên, được gợi nhắc trong các phong tục, hèm kị,…
+Thực tế này đã từng diễn ra giữa đời sống dân gian từ đời này qua đời khác, đã có tính phổ
biến đến mức có thể nói “sự gắn bó sống động, sâu sắc và bền vững giữa truyền thuyết, tín
ngưỡng và lễ hội cũng có thể được xem là một đặc điểm đặc trưng của thể loại” . 3. Tính tập thể
−Cùng nhau thừ c hành, cùng nhau sáng tạo, cùng nhau trình diễn và thừợ%ng thừ/c, người
sáng tạo cũng là người tình diễn và thưởng thức văn hóa ấy
−Là phừợng thừ/c sáng tác của VHDG
−Trong sáng tác DG, mọi sự sáng tạo của các cá nhân đều phải tuân theo những quy luật
tâm lí sáng tác tập thể
−Khoa học VHDG có thể xem xét nội dung đặc trưng tính tập thể của VHDG trên 2 mối
quan hệ: quan hệ giữa cá nhân với tập thể và quan hệ giữa truyền thống với ứng tác
−Nhừ một hệ quả tất yếu của tính tập thể, VHDG có tính dị bản
−Khác với văn học viết, văn học DG là một hệ thống mở
−Do trong quá trình tham gia sáng tạo tập thể ợ% nhừGng không gian khác nhau, bợ%i những
dị bản khác nhau, tạo nên nét dị biệt 4. Tính dị bản
−Dị bản là hệ quả của quá trình tập thể - truyền miệng, nhừng việc nhận thừ/c về nguyên
nhân và biểu hiện của tính dị bản trước nay giữa các thành tựu nghiên cứu văn học dân gian
trong quá trình vận hành của một tác phẩm truyền miệng – tập thể giữa đời sống, người ta
đã chỉ ra những nét đặc thù của văn bản một tác phẩm VHDG −Những đặc tính cơ bản nhất của VHDG: lOMoAR cPSD| 58950985 + Là một liên văn bản
+ Chứa đựng hai yếu tố: bất biến và khả biến + Là một hệ thống mở
+ Không mang cá tính sáng tạo
−Văn bản VHDG là tác phẩm VHDG tồn tại ở dạng cố định
−Tính dị bản của văn học dân gian phải dựa trên cơ sở thừa nhận các đặc điểm văn học dân
gian nói trên, có ý nghĩa khác biệt với văn bản tác phẩm văn học viết
−Đặc trưng tính dị bản có nguồn gốc sâu xa ở đặc điểm thứ hai và được biểu hiện ra ở đặc điểm thứ nhất
C. VAI TRÒ CỦA THỂ LOẠI TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN
−Thể loại hiện ra nhừ một nhu cầu và một thao tác làm việc của nhà nghiên cừ/u nhằm
xử lí tư liệu vốn dĩ thường rối rắm, đa tạp bằng cách sắp xếp chúng theo những tiêu chí nhất
định do nhà nghiên cứu lựa chọn
−sừ phân loại và sắp xếp khiến cho từ liệu hiện ra nhừ một hệ thống và ngành học nghiên cứu
về nó trở thành một KH thực sự. 3. TỰ SỰ DÂN GIAN A. TRUYỀN THUYẾT *ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI:
Tính hư cấu lịch sử (Tính hư cấu lịch sử là đặc điểm nổi bật của thể loại TT): Trong truyền
thuyết dân gian, “sự thật lịch sử” chỉ là “cái lõi” để từ đó nhân dân sáng tạo thành truyện,
nghĩa là đã có sự hư cấu, và cùng với thời gian “ở đây tư duy lịch sử và tư duy nghệ thuật,
chân thực lịch sử và chân thực nghệ thuật xen lẫn nhau, hòa tan vào nhau hết sức phức tạp”.
- TT phản ánh lịch sử một cách độc đáo
+ Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian được khởi đầu bởi chức năng kể sử truyền
đời, được sáng tạo và kế thừa trong lòng “thần thoại đời sau”. Trong quá trình vận động và đổi
mới có sự giao thoa với các thể loại khác (sử thi, cổ tích), truyền thuyết trở thành “lịch sử hư
cấu”và khi phát triển đến đỉnh cao trên cả 2 phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật, truyền thuyết đã trở thành thể loại văn học tự sự dân gian “hư cấu lịch sử” theo quan
điểm tư tưởng-thẩm mĩ của nhân dân.
+ Theo ý kiến của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Những truyền thuyết dân gian thường có
một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hóa, gửi gắm vào đó
tâm tình thiết tha của mình với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ
thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích”. Như ý kiến
trên, trong TTDG, : “sự thật lịch sử” chỉ là “cái lõi” để từ đó nhân dân sáng tạo thành truyện,
nghĩa là đã có sự hư cấu, kì ảo.
+ Trong TT, người kể chuyện không hướng tới mục đích phản ánh lịch sử xác thực mà chỉ
mong muốn giải thích lịch sử theo quan điểm chủ quan của người kể để thể hiện tình cảm của
cộng đồng đối với chiến công lẫy lừng của các bậc tiền nhân trong quá khứ. Người kể chuyện
cũng không ghi chép biên niên, chính xác từng sự kiện lịch sử.
+ TT là thể loại văn học nên sử dụng phương tiện của văn học để tạo nên, tức là sử dụng thế
giới hư cấu, yếu tố tưởng tượng kì ảo, nghệ thuật ngôn từ để phản ánh lịch sử một cách độc đáo.
=> Trần Thị An tóm gọn lại “Cái thiêng liêng lịch sử được tôn vinh trong cảm hứng tưởng
tượng”. Tóm lại, truyền thuyết đã phản ánh lịch sử theo cách của riêng mình, do đó, các yếu tố
có tính lịch sử, chất sử trong truyền thuyết nên coi là những chi tiết nghệ thuật, là một biện
pháp nghệ thuật hơn là những chi tiết lịch sử xác thực. lOMoAR cPSD| 58950985
- Đặc trưng về môi trường diễn xướng, phương thức lưu hành của truyền thuyết:
+Truyền thuyết là sản phẩm sáng tạo bởi sự kết hợp một cách độc đáo giữa sự thật và hư cấu,
giữa hư cấu và sự thật trong mối quan hệ Folklore với thực tại biểu hiện đặc trưng thể loại.
Thế nên truyền thuyết vẫn thường xuyên hiện ra trong các nghi thức thờ cúng thần thành
hoàng, trong các lễ hội thường niên, được gợi nhắc trong các phong tục, hèm kỵ,… +Thực tế
này đã từng diễn ra giữa đời sống dân gian từ đời này qua đời khác, đã có tính phổ biến đến
mức có thể nói “sự gắn bó sống động, sâu sắc và bền vững giữa truyền thuyết, tín ngưỡng và
lễ hội cũng có thể được xem là một đặc điểm đặc trưng của thể loại”
*ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRONG TRUYỀN THUYẾT
−Hình thừ/c cấu tạo cốt truyện:
Kết cấu 3 chặng thành chuỗi gồm những mẩu chuyện có thể hư ảo thần kỳ hay đời thường thế
tục nhưng được sắp xếp lại theo một trình tự thời gian cụ thể trong một không gian xác định để
kể về cuộc đời nhân vật: Từ hoàn cảnh ra đời và đặc điểm khác thường của nhân vật đến chặng
trung tâm là kể về hành trạng và những chiến công khác thường của nhân vật, và cuối cùng là
chuyện nhân vật hóa thân hiển linh âm phù.
−Nghệ thuật xây dừ ng nhân vật:
+Đặc điểm nổi bật của nhân vật truyền thuyết là sự kết hợp kỳ lạ giữa những nét đời thường
thế tục với những nét kỳ ảo phi thường.
+Truyền thuyết thường sử dụng ba loại motif ứng với ba chặng diễn biến cuộc đời một nhân vật
●Chặng thứ nhất kể về hoàn cảnh xuất hiện nhận vật ở dạng đầy đủ - Motif sự thụ thai thần
kỳ, sự sinh nở thần kỳ, motif về những đặc điểm kỳ lạ của nhân vật
●Chặng thứ 2 kể về hành trạng và sự nghiệp hiển hách của nhân vật – Motif trung tâm thường
là “chiến công phi thường”, là lý do tồn tại của truyền thuyết. Sự lý giải của nhân dân mang ý
nghĩa biểu tượng thấm nhuần tinh thần và bản sắc dân tộc.
●Chặng thứ 3 xuất hiện các motif về “sự hóa thân” và “sự hiển linh”. Trong đó, motif “hóa
thân” đã trở thành công thức kết thúc, biểu hiện nổi bật đặc điểm hư cấu lịch sử của thể loại. B. TRUYỆN CỔ TÍCH
B1: ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH
1. TRUYỆN CỔ TÍCH LÀ TRUYỆN KỂ HOÀN TOÀN HƯ CẤU VÀ KÌ ẢO
−Puskin: “ Truyện cổ tích là bịa đặt nhưng trong mỗi câu chuyện bịa đặt đó có những bài học cho các cô cậu bé”
-Truyện cố tích là dạng truyện kể thể hiện cái nhìn nghệ thuật về cuộc sống của người lao
động, để họ vẽ ra một thế giới lung linh, đẹp đẽ, giúp họ vượt qua những khó khăn, đau khổ của cuộc đời thực lOMoAR cPSD| 58950985
Thế giới truyện cổ tích cũng hấp dẫn chính ở sự sáng tạo, kì ảo đó.
−Bản chất của truyện cổ tích là xây dừ ng một thế giợ/i nghệ thuật trong trí từợ%ng tượng,
kì ảo, phi hiện thực để thực hiện lí tưởng về một xã hội công bằng, một thế giới có và cần có cho con người
−Trong ngôn ngữ đời sống “ truyện cổ tích đồng nghĩa với truyện bịa đặt”
−Một trong những đặc điểm của truyện cổ tích là truyện không thể và không bao giờ xảy ra
được lại kể bằng một phong cách, giọng kể, điệu bộ, nét mặt làm như tất cả những điều được
kể lại, mặc dù có tính chất khác thường nhưng lại có thể xảy ra trong thực tế, tuy rằng cả
người kể và người nghe đều không tin vào câu chuyện, sự không tương ứng đó có lẽ đã tạo
nên tính hài hước của truyện cổ tích
2. Truyện cổ tích là những truyện kể đã hoàn tất ( hoàn tất về mặt cốt truyện) −TCT là
câu chuyện về sự thưởng phạt công bằng theo quan điểm của nhân dân. Vì thế mỗi
truyện cổ tích đều đã hoàn thành về cốt truyện, tức là có sự kết thúc ấn định theo quan điểm của nhân dân
−Đặc trưng về sự hoàn thành của cốt truyện cổ tích liên quan chặt chẽ với đặc trưng thứ
nhất về tính chất hư cấu, kì ảo của bản thân câu chuyện.
−“ không nên bằng cách bình luận văn học và thậm chí cả bằng cách “sửa chữa” truyện cổ
tích theo hướng hợp lý hóa cho phù hợp với tư duy logic của con người hiện nay mà làm
mất đi cái vô lí ấy của truyện cổ tích. Vấn đề giải thích được cái vô lí ấy, phát hiện ra cái
hợp lí của bản thân truyện cổ tích” ( Xuân Diên, Văn hóa dân gian, những vấn đề phương
pháp luận nghiên cứu của thể loại, Sđd,tr.344)
3. Tính giáo huấn, triết lí của truyện cổ tích
−TCT lúc nào cũng khuyên nhủ, dạy bảo con người dưới một hình thức lí thú và nhiều khi
ngụ ý một cách bóng bẩy.
−Truyện cổ tích khái quát nhừGng kinh nghiệm sống của nhân dân dừợ/i một hình thừ/c
mọi người có thể tiếp thu được và có hiệu lực về mặt thẩm mỹ đồng thời trong đời sống của
bản thân nhân dân, nó là một phương tiện quan trọng đối với thế hệ trẻ”
−TCT ca ngợi và bênh vực cho đạo đức của con người thông qua nhân vật lí tưởng.
−Nhân vật lí tưởng: Có tài năng và nhân cách vượt trội + thân phận thấp kém
+ có tư cách đạo đức không thể phủ nhận
+ mang đạo đức và tài năng của nhân dân, những giá trị đạo đức được thừa nhận
+ nhận được sự giúp đỡ của các thế lực thần kì
+ thử thách đạo đức và tài năng
+ được nhận phần thưởng
−Để làm nổi bật lên phẩm chất của nhân vật lí tưởng, TCT xây dựng truyện theo sự xung đột
của hai tuyến nhân vật rõ rệt: thiện – ác, tốt – xấu, người anh – người em… đối lập với nhau một cách quyết liệt
−Phần miêu tả xung động trong truyện cổ tích thần kì về cơ bản chính là sự giới thiệu, mô
tả đạo đức, tài năng của nhân vật lí tưởng để bày tỏ ước mơ của nhân dân
B2: ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TCT
* ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CHUNG:
−Thể hiện ở phương diện xây dựng thế giới nghệ thuật đặc thù; “ thế giới cổ tích”
−Là phản ảnh của TG thừ c tại, TG cổ tích chừ/a không ít yếu tố của TG thừ c tại
−Đặc trưng cơ bản của TCT nằm ở sự hoang đường. Những yếu tố thực tế khi đi vào TCT
đã được trí tưởng tượng dân gian nhào nặn lại, hư cấu, sắp xếp lại theo một trật tự khác, lOMoAR cPSD| 58950985
nguyên tắc khác với thế giới thực tại => TCT đã sáng tạo ra một TG khác hẳn TG thực tại ban đầu.
−Những điều tưởng chừng như vô lí nhất trong những điều vô lí lại có thể tồn tại : tự nhiên
nhi nhiên” trong thế giới của TCT
−TCT hướng về những điều “ nên có và có thể có” như ước mơ, quan niệm của Nhân dân
về cái lẽ phải cần xảy ra.
1. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TCT THẦN KÌ
a. Thi pháp nhân vật * Nhân
vật chính là “người”
−Gồm một số kiểu: người em út, người mồ côi, người đội lốt vật, ng dũng sĩ, ng có tài lại
−Đều mang trong mình những đạo đức tiêu biểu cho quan niệm về con người của nhân dân.
Về số phận họ phải trải qua những diễn biến giống nhau ( sống khổ cực – thử thách – đc đền
bù) => kiểu nhân vật chung cho thể loại
−Kiểu nhân vật “ ngừợi mồ côi” là phổ biến nhất
−Tên gọi những kiểu nhân vật nói trên tự ns đã gợi nhắc đến bối cảnh quan hệ gia đình và xã
hội mà trong đó số phận nhân vật diễn tiến; cũng từ đó ta cthe hình dung được hệ thống nhân
vật phụ - những nhân vật thù địch của NV chính
−NV chính có điểm chung là nghèo khổ, bất hạnh
−Cũng có thể phân chia nhân vật chính thành 2 loại: nhân vật bất hạnh và nhân vật kì tài −Các
nhân vật chia làm hai tuyến thiện- ác, tốt – xấu rành mạch
=> Những nhân vật nguyên phiến, bất biến, đảm nhiệm chức năng làm biểu tượng cho hai
hạng người nghèo – giàu, bị trị - thống trị, thiện -ác,,, trong xã hội
=> Mô hình hóa cấu trúc loại người của xh đã phân hóa giai cấp của TCT
* Lực lượng thần kì – một kiểu nhân vật đặc biệt của TCT thần kì
- Lực lượng thần kì đc coi như một kiểu nhân vật đặc trưng cho thể loại TCT - Xét về nguồn gốc:
+ NV thần kì, siêu nhiên: ngọc hoàng, diêm vương..
+ vật có phép màu: cung tên thần…
+ sự biến hóa siêu tự nhiên: người hóa thành vật… =>
Không có ở TG thực, gắn với tín ngưỡng dân gian
- Xét về chức năng, nhiệm vụ: lOMoAR cPSD| 58950985
+ LL thần kì thực hiện chức năng, nvu trợ thủ cho NV chính nghĩa, nhân danh công lí, lẽ phải để giúp đỡ NV chính
+ LLTK thực hiện chức năng. Nvu làm đối thủ cho Nv chính, thuộc phía ác – phi nghĩa.
b. Thi pháp lựa chọn và xây dựng xung đột của TCT TK 2 loại xung đột:
− Xung đột giữa nhân vật (chính) với những trở lực đến từ phía thiên nhiên
+Trong thời cổ đại, con người quan tâm nhiều hơn đến việc chinh phục thiên nhiên để tổ chức
đời sống văn minh buổi đầu => xung đột hàng đầu: con người vs tự nhiên
+Để chiến thắng tự nhiên NV chủ yếu chỉ cần sử dụng sức mạnh cơ bắp. Đôi khi, sức mạnh
đó khi đi vào Tg cổ tích => hoang đường, thần kì
+Mối xung đột giữa con người với con ng trong TG thực tại được phản ánh trong TG cổ tích
+TG thực tại là xung đột giai cấp => TG cổ tích: xung đột đạo đức giữa cái hiền lành vs cái ác,..
+TG thực tại là xung đột xã hội => TG cổ tích: mâu thuẫn, xung đột trong phạm vi gia đình
=> Xung đột mới mẻ đối vs nhận thức của ND về xã hội => cần đến sức mạnh nằm ngoài và
vượt lên cao hơn những tầm năng lực mình có được c. Thi pháp kết cấu truyện
- Một số sơ đồ phổ biến của TCT TK VN ( Đỗ Bình Trị):
+ Phần đầu: Nhân vật chính xuất hiện: sự xuất thân thấp hèn, sự ra đời thần kì
+ phần giữa: cuộc phiêu lưu của NV chính trong TG cổ tích: ra đi – gặp thử thách,
LL thù địch – chiến thắng thử thách, LL thù địch
+ phần kết:đổi đời hay là sự thay đổi trong Tg cổ tích: thưởng và phạt, được đền bù, giải thoát,..
=> Sơ đồ kết cấu gồm 3 phần nthe chính là sự tóm tắt trọn vẹn và đầy tính ước lệ cho diễn tiến một số phận
d. Không gian và thời gian nghệ thuật Xét
về phương diện bản thể:
- TCT có hai không gian: không gian cuộc sống trần thế và không gian kì ảo phi trần
thế.+ KG cuộc sống trần thế trong TCT Vn chủ yếu là Kg làng quê; Kg trần thế đem lại
cho Tg cổ tích có hơi ấm nhân sinh và màu sắc dân tộc, dân dã.
+ KG kì ảo đa dạng: Kg Thiên phủ, Kg Thủy phủ, KG Âm phủ => Sự phân chia chịu ảnh
hưởng rõ rệt của những quan niệm tín ngưỡng dân gian
=> Hai loại KG hợp thành một Kg riêng của TCt với những đặc trưng riêng biệt. Đó là KG
nghệ thuật của thể loại, nó thể hiện quan niệm về thuộc tại và con người của thể loại. - Thời
gian trong TCT là thời gian quá khứ, luôn luôn là thời gian của “ ngày xủa ngày xưa”, không
vận động, không biến đổi.
- Tiết tấu của lời kể:
Là một biện pháp Nt gợi cảm giác, ấn tượng về Tgian nơi ng nghe truyện. sự trùng lặp của
những từ ngữ tạo nên tiết tấu đó.
e. Những công thức cố định trong lời kể chuyện lOMoAR cPSD| 58950985
−TCT thần kì, bắt đầu từ “ ngày xửa ngày xưa”,… -> mơ hồ, k xác định và kết thúc bằng
một sự tốt đẹp chỉ có trong TG cổ tích
−Lời kể của người kể phải đảm bảo chất cổ kính và sự nhẹ nhàng
−Sự gạn lọc không mệt mỏi ấy bao hàm tính chất không thể có văn bản lời kể cuối cùng của TCt Công Thức mở đầu:
TCT ng Việt: “ ngày xửa ngày xưa, có một…”, TCT người H’Mông “ ngày xưa, cái thuở
chiếc bánh giầy còn biết đánh trống thổi kèn…” => Có khung không gian – thời gian của câu chuyện CT kết thúc:
- TCT Châu Âu thường KT bằng cách để nhân vật kể tự giới thiệu mìn tận mắt chứng kiến những điều vừa kể
- TCT ng việt kết thúc bằng cách đưa ra một “ dấu vết”Công thức trần thuật:
- Miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật: “ nhà nghèo đến nỗi”…
- Ct về thời gian: “ một hôm, dì bảo,…”
- Ct miêu tả đặc điểm nhân vật: không đi sâu mô tả diễn biến tâm trạng, chủ yếu mô tả phương diện hình thức
2. Đặc điểm thi pháp TCT sinh hoạt:
a. Thi pháp nhân vật: Hệ thống nhân vật:
−Nhân vật chủ yếu là : ngừợi
−Các kiểu NV chính: ng đức hạnh, ng xấu xa. Ng mưu trí, ng khờ khạo,..
−Có hai cặp Nv chính: ng đức hạnh – ng xấu xa, ng mưu trí = ng khờ khạo
=> Khái quát toàn bộ mọi người trong xã hội thành những kiểu ng đối ứng nhau => một cách
quan niệm về thực tại – con người Nguyên tắc xây dựng NV
−Lựa chọn điển hình hóa nhân vật sao cho “ đắt” nhất
−ở truyện đề cao trí khôn -> tiêu chuẩn đánh giá là trí khôn
−hiểu nhân vật “ tích cừ c” và “ nhân vật tiêu cừ c” b. Thi
pháp lựa chọn và xây dựng xung đột
-Nhóm truyện thể hiện đề tài đạo đức
- Khai thác đề tài từ những câu chuyện gần với đời sống thường ngày và hầu như chỉ có một NV chính
=> Câu chuyện thường đơn tuyến, hầu như k có xung đột; ý nghĩa: ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ định
Nhóm truyện thể hiện đề tài trí khôn
- Xung đột xã hội nổi lên hàng đầu
- chủ yếu quay quanh những mặt thứ yếu, những câu chuyện vặt vãnh của đời thườngc. Thi
pháp kết cấu cốt truyện
+ Kiểu kết cấu “truyện lẻ”
Mỗi truyện thường rất ngắn, nội dung hoặc kể về một tấm gương tốt, hoặc kể về một tấm
gương, phản diện xấu, truyện ít tình tiết – thường chỉ kể về một hành động – một sự việc.
tuy là kể về số phận con người nhưng chỉ bao hàm một đoạn ngắn của số phận, diện mạo nvat không rõ ràng
+ Kiểu kết cấu “ xâu chuỗi”
Mỗi chuỗi gồm nhiều “ hạt”. Mỗi “hạt” là một truyện nhỏ, kể về một sự việc trọn vẹn, xoay
quanh một nhân vật chính.
d. Không gian và thời gian nghệ thuật Có tính hai mặt lOMoAR cPSD| 58950985 -
Một mặt chúng rất gần gũi với đời sống diễn ra hàng ngày của người kể, ng nghe -
Mặt khác, không gian và thời gian ấy vẫn là sáng tạo nghệ thuật của truyện cổ tích3.
Đặc điểm thi pháp TCT loài vật a. Nhân vật chính
NV chính là các con vật: Thú, chim, cá, côn trùng,..
- TCT của ng Việt phần lớn là các gia súc, gia cầm gần gũi với con ng
- Tct các DTTS có phần phong phú và cổ xưa hơn, các con vật hoang dã, sống trong rừng chiếm vị trí đáng kể
Nhân vật Thỏ: có tính hai mặt
- Tinh khôn, hiểu biết nhiều lĩnh vực,..
- Là “ nhân vật tích cực” khi dùng mưu trí cứu nạn các con vật yếu đuối chống lại những con
vật hung tợn, nhưng cũng là nhân vật tiêu cực khi nó chơi khăm bạn bè…
- TCT loài vật nói về loài vật: cung cấp, mô tả cho người nghe những hiểu biết về chúng,
vang lên “ dư âm của cái thời con người bắt thú về nuôi làm gia súc”
- “ TG cổ tích” trong TCT loài vật là TG của những con vật được nhìn theo mắt, theo quan
niệm của con người về thực tại và về chính loài người. - NV chính của TCT loài vật mang
tính hai mặt b. Xung đột trong TCT loài vật
- TCT về loài vật có thái độ không giống nhau đối vs những NV gia súc, gia cầm và vs nvat là đvat hoang dã
Bóng dáng của xung đột giữa con người với loài vật và với đủ cả hai mặt biểu hiện của nó:
thứ nhất là sự xung đột còn chưa điều hòa được giữa người với Đv hoang dã, thứ hai là sự
xung đột đã được điều hòa giữa ng với ĐV đã được thuần hóa
- TCT loài vật chọn mối xung đột giữa kẻ yếu với kẻ mạnh. Xung đột đó còn được hiểu là
xung đột giai cấp trong một xã hội
TCT về loài vật ở V phát triển theo hướng ngày càng tăng cường yếu tố hiện thực c.
Kết cấu của TCT loài vật
Nội dung thường ít sự kiện. phổ biến là motip sự gặp gỡ của các con vật
−Hình thức kết cấu: truyện ngắn – đối thoại
−Xét về tình tiết hợp thành truyện: kết cấu đơn tình tiết, kcau đa tình tiết, kết cấu xâu chuỗi −Kết thúc: 2 kiểu
+ Nêu ra một đặc điểm sinh học của con vật
+ Kết thúc bằng một câu vần vè
d. Không gian và tgian trong TCT:
- Kg sinh tồn: Kgian tự nhiên vốn tự nó như thế từ thuở xưa, Kg sinh hoạt của con vật, K
Gian sinh hoạt – XH của con ng. C. TRUYỆN NGỤ NGÔN *ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI:
- Truyện ngụ ngôn là loại truyện mượn một cốt truyện ẩn dụ để ngụ ý một lời quy châm: +
Nội dung của hầu hết các truyện ngụ ngôn là thể hiện một nguyên lí đạo đức hay nguyên tắc
xử thế nào đó, kèm theo nó là hệ quả tốt hay xấu của việc vận dụng nguyên tắc, nguyên lí
xử thế ấy, từ đó rút ra bài học đạo đức, kinh nghiệm sống, triết lí sống,… cho con người. tất
cả những điều này gọi là lời quy châm
+Tính ẩn dụ là một căn cứ quan trọng để nhận biết truyện ngụ ngôn. Mỗi truyện ngụ ngôn
hoàn toàn là câu chuyện tưởng tượng, trong đó nhân vật có thể là con vật, đồ vật hay con
người với những hành động có thể không có thật và tưởng như vô lí – gọi chung là nhân vật khác thường lOMoAR cPSD| 58950985
+ Vai trò của nhân vật khác thường trong truyện ngụ ngôn chính là tạo ra môi trường ẩn dụ,
môi trường “không cần tin là có thật”. Ấn tượng mà truyện ngụ ngôn tạo ra cho người đọc
chính là cái quyền uy thu hút và hấp dẫn người đọc vào việc tìm ra một lớp ẩn ý đằng sau câu chuyện.
+ Ở truyện ngụ ngôn, hiện thực kì lạ đồng nghĩa với một hiện thực. Đến với truyện NN, người
đọc hoàn toàn quen với điều kì lạ, như một quy ước phong cách, như một thủ pháp văn học,
do đó không cần thiết và không khi nào họ ngạc nhiên vì nó.
(lấy ví dụ TÌNH TIẾT VÔ LÍ TRONG TRUYỆN ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG HOẶC THẦY BÓI XEM VOI,…)
=> Như vậy, khác với truyện cổ tích về động vật-những nhân vật con vật thường là đối tượng
trực tiếp của sự nhận thức và lí giải thì ở truyện ngụ ngôn, nhân vật con vật thường có 2 tín
hiệu biểu thị: Thứ nhất, chúng là dấu hiệu của ẩn ý; Thứ 2 chúng là yêu cầu bắt buộc phải tìm
ra ẩn ý quy châm. Một câu chuyện không có khả năng ngụ ý, ẩn giấu thì đó không phải là truyện ngụ ngôn.
-Tính phức thể của truyện ngụ ngôn Việt Nam
+ Khi phân tích đến truyện ngụ ngôn Việt Nam, cần chú ý đến tính phức thể: có truyện ngắn,
có truyện khá dài, có truyện ngụ ngôn văn xuôi, có truyện ngụ ngôn văn vần; có truyện ngụ
ngôn dân gian, vô danh lại có cả truyện ngụ ngôn thành văn, có tác giả; có tính dân tộc và
tính quốc tế, có sự tự nảy sinh và có cả sự vay mượn ngoại lai trong truyện ngụ ngôn Việt Nam.
*ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA TRUYỆN NGỤ NGÔN 1: Kết cấu
1.1: Kết cấu hai phần, hai lớp: -
Theo cách gọi của La Fontaine thì kết cấu nội dung của mỗi truyện ngụ ngôn gồm 2
lớp(hai phần): phần hồn và phần xác. Trong đó, phần xác là câu chuyện được kể- lớp nổi của
truyện, phần hồn là điều răn dạy-lớp chìm của truyện, thường phải ngẫm nghĩ mới thấy được. -
Có hai hình thức biểu hiện của kết cấu đầy đủ 2 phần này, tương ứng với hai phương
thứctư duy là diễn dịch và quy nạp.
1.2: Tính kịch của kết cấu -
Hai phần (hai lớp) của kết cấu truyện ngụ ngôn còn được tạo ra nhờ phương thức xây
dựngkịch tính. Thông thường, nhiều truyện ngụ ngôn có chất kịch rõ rệt, vì nó thường cấu
tạo bằng một đoạn đối thoại và trong đó luôn hàm chứa những xung đột giữa các hoàn cảnh,
sự việc, tính cách của nhân vật, và đặc biệt ở phần kết thúc truyện bao giờ cũng có yếu tố bất ngờ, rất “kịch” 2: Nhân vật
Thi pháp truyện ngụ ngôn dành một khoảng không thật rộng lớn cho nhân vật, “là bất cứ thứ
gì trong vũ trụ” (Đinh Gia Khánh), “là đủ mọi thứ trên đời” ( Phạm Minh Hạnh) Mặc dù vậy,
nhân vật thường xuyên xuất hiện trong truyện ngụ ngôn nhất là các con con vật. Các nhân vật
này xuất hiện trong một tình huống giả định được định trước theo một chủ kiến, một ý đồ,
một mục đích nhất định mà trên hết vẫn là mục đích vẫn là mục đích đồ chiếu vào quan hệ
xã hội của con người, rút ra cho con người bài học đạo đức, kinh nghiệm sống.
Khả năng đồ chiếu đó được tạo ra bởi phương thức tỉ dụ. Phương thức tỉ dụ có nghĩa là những
con vật, đồ vật,… luôn luôn được xuất hiện với những công lệ, những quy ước ngầm có ý
nghĩa phổ biến và được mọi người công nhận.
Các nhân vật con vật trong truyện ngụ ngôn có những khả năng tỉ dụ sau đây: -Tỉ dụ tính cách lOMoAR cPSD| 58950985
+ Lessing nhận thấy một trong 2 nguyên nhân của việc sử dụng động vật trong truyện ngụ
ngôn là các con vật có tính cách rõ ràng và cố định hơn cả, chỉ cần gọi ra con vật này hay con
vật khác là chúng ta lập tức hình dung ra cái khái niệm hay sức mạnh mà nó ám chỉ.
- Tỉ dụ cho một phương thức hành động và hành vi sinh tồn:
+ Vygovsky cho rằng “ Mỗi con vật đại biểu cho một phương thức hành động và hành vi biết
trước, nó là một nhân vật không phải do cá tính này hay cá tính khác, mà trước hết là do
những thuộc tính sinh tồn chung của nó”. Điều này có thể nguyên do tiền thân của truyện
ngụ ngôn là truyện cổ tích về động vật. Nhưng khác với truyện cổ tích động vật, truyện ngụ
ngôn không chỉ cung cấp cho người đọc đặc điểm về loài mà còn cung cấp cho chúng ta một
bài học kinh nghiệm sống. - Tỉ dụ cảm xúc
+ Theo Vygovsky, nhân vật con vật trong truyện ngụ ngôn còn có khả năng tỉ dụ cảm xúc khi
nó có khả năng tác động vào tình cảm của độc giả. Ví dụ khi Kylov kể về con chim câu, ngay
lập tức tác giả muốn gợi lên cho người đọc sự cảm thông đối với loài chim bất hạnh này D. TRUYỆN CƯỜI ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
a. Truyện cười luôn có yếu tố gây cười
Trong truyện cười, cái cười vừa là phương tiện, vừa là mục đích, vừa là hình thức, vừa là nội
dung của chính nội dung thể loại
Để đảm bảo cho yếu tố hài hước luôn xuất hiện, các đối tượng của truyện cười bị hạn định lại
trong phạm vi nhất định.
· Ví dụ: Loại nhân vật thầy đồ và thầy thuốc có số lượng khá lớn nhưng không phải ai cũng
có thể là đối tượng của truyện cười, mà chỉ có số lượng rất ít, những loại người xấu, mang
những đặc điểm xấu trái với lẽ thường….mới bị truyện cười vạch mặt
Với việc lựa chọn đối tượng, truyện cười sử dụng tổng hợp nhiều thủ pháp gây cười như nói
lái, chơi chữ, kết thúc bất ngờ, sử dụng yếu tố tục…
b. Truyện cười xây dựng các tình huống đối thoại ngắn gọn
−Truyện cười là thể loại truyện ngắn gọn bậc nhất. Chỉ qua vài dòng đối thoại đã hoàn thiện một câu chuyện.
−Truyện cười không có nhiệm vụ kể lại số phận cuộc đời của nhân vật, không quan tâm
đến trước và sau việc xảy ra thì cuộc đời nhân vật rồi sẽ ra sao
Ví dụ: nghe truyện “Thà chết còn hơn”, người ta không đặt câu hỏi “Anh nhà giàu keo kiệt
rồi sẽ thế nào?Có chết hay không?” mà chỉ quan tâm đến sự keo kiệt quá đáng của anh ta
được phóng đại đến nỗi mặc cả với ngay cả mạng sống của mình
−Truyện cừợi chỉ chú trọng xây dừ ng các tình huống, nắm bắt lấy nhừGng lát cắt trong
cuộc đời con người, là sự ghi lại nhanh những hiện tượng của cuộc sống mà trong đó có
những cái thuộc về bản chất, hoàn cảnh và bối cảnh xã hội nhất định
−Truyện cừợi thừợng khai thác nhừGng nhầm lẫn từ phía ngừợi nghe
−Điều quan trọng của nghệ thuật gây cười là ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười tự nó
bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động, nực cười để người nghe/đọc tự mình phát hiện ra mà bật cười
−Cái đáng cười có thể là một thói xấu nào đó, nhưng bản thân thói xấu chưa đủ gây ra cái
cười, và người ta phải tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để mâu thuẫn tiềm tàng, bộc lộ cái n vật
−Nhân vật trong truyện cừợi không có tên, không có kết cục số phận ra sao, họ chỉ xuất hiện
thoáng qua, làm một hành động, nói một vài câu −Truyện cừợi thừợng có hai loại nhân vật: lOMoAR cPSD| 58950985
−Một loại nhân vật trực tiếp gây ra cái cười nhưng không phải là đối tượng thực sự của cái
cười phê phán (ví dụ chú Tiểu trong Đậu phụ, người thầy thuốc trong Diêm Vương xử kiện,…)
Một loại nhân vật gây ra cái cười và đồng thời bị phê phán (Lá hung, lười gì mà lười thế….) b. Biện pháp gây cười
Truyện cười thường sử dụng hai biện pháp gây cười cơ bản là phóng đại và kịch tính Ngoài
ra, truyện cười còn sử dụng các yếu tố tục như một biện pháp hữu hiệu để gây cười. Yếu tố
tục không chỉ có trong truyện tiếu lâm mà còn nhiều ở truyện khôi hài, những truyện trào phúng khác III TRỮ TÌNH DÂN GIAN
1. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI( không biết mò ở đâu. huhu) 1. Tác giả và nội dung a. Tác giả
−Được sáng tác, lưu truyền bởi tập thể nhân dân lao động
−Đầu tiên đó là sáng tác của một cá nhân thể hiện một cảnh ngộ, một nỗi niềm −Được
nhân dân lưu truyền, gìn giữ, sửa chữa, trình diễn khi nó phù hợp với tâm tư, nguyện
vọng, xúc cảm thẩm mỹ của họ
−Nhân vật trữ tình: con người bình dị, đa số không được học hành, có thể không biết
chữ nhưng lại là chủ nhân chân chính của các sáng tác nghệ thuật có giá trị trường cửu
−Các nhà trí thức có vai trò đồng sáng tạo, nhuận sắc, cải biên làm giàu, đẹp thêm rất
nhiều cho kho tàng văn hóa dân gian dân tộc b. Nội dung
−ND phản ánh và biểu đạt rộng lớn: tình cảm của nhân dân đối với thiên nhiên, đất nước,
những mối quan hệ tình cảm gia đình, những mối quan hệ xã hội vô cùng phong phú, đa chiều...
−Cách thừ/c biểu hiện của ND thợ ca dân gian trợ% thành hệ thống thẩm mỹ nghệ thuật dân gian
−Tâm trạng, tình cảm của và cách thể hiện thế giợ/i tâm hồn của các kiểu nhân vật trừG
tình mang tính chất chung, phù hợp với tâm trạng, nỗi niềm, cảnh ngộ của nhiều người thuộc
nhiều lứa tuổi khác nhau ở các vùng miền trên đất nước
−Có nét độc đáo riêng trong mỗi bài 2. CHỨC NĂNG
a. Là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc:
−Biểu đạt những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc của nhân dân
−Bản chất trừG tình: diễn tả tâm trạng, tình cảm của một số kiểu nhân vật trừG tình : người
mẹ, người vợ, người con v v… trong quan hệ gia đình; chàng trai, cô gái trong quan hệ tình
bạn, tình yêu; người dân trong quan hệ xã hội
−Kiểu nhân vật trữ tình: nhân vật không mang dấu ấn cá nhân tác giả mà thể hiện cảm xúc,
tình cảm của cả một tập thể. Với tư cách là chủ thể trữ tình, cái tiếng nói qua đó (qua ca dao)
biểu hiện cảm hứng trữ tình của đời sống dân tộc b. Đặc điểm dân tộc trong ca dao: trong các
bài hát trữ tình dân gian “ sự tạo thành tâm hồn dân tộc chúng ta ” chứa đựng “ Nỗi đau tâm hồn”
Trong các bài hát dân gian người ta nhận thấy sự diễn đạt sáng rõ nhất tất cả những khởi đầu
thơ ca, cuộc du ngoạn trong tâm hồn nhân dân −Lừu ý:
Ca dao là dạng thơ trữ tình, khác với các thể loại thơ ca tự sự (sử thi, truyện thơ...) về nguyên
tắc cảm nhận nghệ thuật
Trong thơ ca trữ tình, sự biểu hiện mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự kiện cuộc sống, sự
biểu đạt những tư tưởng, tình cảm và cảm xúc đóng vai trò đặc biệt quan trọng o Tất cả những lOMoAR cPSD| 58950985
tư tưởng, tình cảm được biểu đạt trong bài hát trữ tình dân gian không trừu tượng mà bằng
phương thức nghệ thuật cụ thể. Mỗi người nghe, từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh đều soi
được, tìm thấy ở ca dao một mảnh hồn mình trong đó 3. THI PHÁP CA DAO Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ nghệ thuật thơ ca giản dị, đẹp đẽ, trong sáng
- Được gọt giũa, trau chuốt, chắt lọc qua nhiều thế hệ
- Là sự kết hợp hài hoà giữa tính chất dân tộc và tính chất địa phương, giữa lời ăn tiếng nói
hàng ngày của nhân dân và ngôn ngữ thơ ca bác học
BPNT: sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tu từ như so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, nhân
hoá… và thể hiện chức năng giãi bày các trạng thái tình cảm của con người Kết cấu:
- Ngắn gọn, thể hiện rõ dấu ấn của lối đối đáp, trò chuyện giữa nhân vật trữ tình và đốitượng trữ tình
- Chứa đựng những công thức truyền thống dân gian đặc thù: CT mở đầu, CT miêu tả, kể chuyện Thể thơ: - Lục bát
- Song thất lục bát, thơ ba chữ, bốn chữ, năm chữ, thơ hỗn hợp tự do…4. Đặc điểm diễn xướng a. Hát cuộc -
Hát tập thể trong lao động, hội hè - Diễn ra quy mô -
Địa điểm: phổ biến trên khắp mọi miền đất nước từ Bắc chí Nam: hát Ghẹo Phú Thọ, hát
Quan họ Bắc Ninh, hát Trống quân Thanh Hóa, hát ví phường vải Nghệ Tĩnh; hát giã gạo
Quwảng Nam, hát đối đáp Gò Công Nam bộ... có thể diễn ra trong lao động nghề nghiệp hoặc
trong các lễ hội mùa xuân -
Hình thức: đối ca nam nữ theo 3 chặng:
· Hát chào, mời trầu, mời nước, đố hỏi thử tài
· Hát xe kết: gồm tầng tầng lớp lớp, đầy ắp các cung bậc tình cảm của đôi lứa yêu đương:
nhớ mong, thề nguyền, ước hẹn , trách móc, giận hờn · Hát xa cách b. Hát lẻ: -
Hình thức hát tự do, ngẫu hứng -
Địa điểm: phát triển trong dân ca của một số dân
tộc như Cơtu, Vân Kiều hoặc nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên 2. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP
a, Tình hình phổ quát toàn dân và những nhân vật trữ tình của ca dao a.1.
Nội dung trữ tình ca dao mang tính phổ quát dân tộc
- nói như Hêghen: thơ ca dân gian là nơi “ đặc điểm dân tộc biểu lộ nhiều nhất” và người tacó
thể hoàn toàn dựa vào đó để “cố gắng khám phá tâm hồn các dân tộc, cách các dân tộc nhìn
thế giới và nhìn cuộc đời”.
- Cảm xúc trữ tình trong thơ bao giờ cũng mang màu sắc cá nhân riên biệt , nhưng ở ca
daocảm xúc đó chưa phải là cửa một cái tôi cá nhân – cá biệt mà vẫn là cảm xúc chung của cộng động, quần thể. a.2. Nhân vật trữ tình
· Ca dao truyền thống được cất lên trong cuộc hò hát, lời ca và điệu hát thì đã có sẵn trong
cái quá khứ truyền lại nhưng người hát là người của bây giờ của thời điểm mà lời mà điệu
được cất lên. Người sáng tác – người diễn xướng – nhân vật trữ tình được nội dung lời ca
thể hiện bao giờ cũng là một. Chủ thể bài ca (tác giả) luôn đồng nhất với nhân vật trữ tình
của bài ca, tính phổ biến toàn dân trong nội dung trữ tình của ca dao được biểu hiện ra một lOMoAR cPSD| 58950985
cách khác: biểu hiện ở hệ thống nhân vật trữ tình. NHững nhân vật này thuộc một số kiểu nhất định:
- chàng trai và cô gái trong quan hệ bạn bè giáo duyên
- người vợ và người chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình
- người mẹ và người con trong sinh hoạt gia đình
- người phụ nữ đi làm dâu trong quan hệ với nhà chồng
- người lính và người vợ lính trong quan hệ hạnh phúc riêng tư với nghĩa vụ nhà nước- người lao động nói chung….
· Nhân vật trữ tình dù là ai đi chăng nữa mỗi khi cất lên tiếng hát hướng về cuộc đời chính
mình chỉ thấy buồn, thấy khổ, thấy tủi và khi tiếng ca cất lên sẽ thành tiếng hát than thân,
phản kháng tràn ngập thứ cảm xúc – tâm lí buồn bã, đau thương oán trách. Nhưng khi cảm
xúc trữ tình đó hướng về người thân trong gia đình, cảnh vật kỉ niệm làng xóm quê
hương,…lại cất thành tiếng hát yêu thương. b. Thời gian và không gian nghệ thuật
b.1. Thời gian nghệ thuật
· tính độc đáo của ca dao ngoài đặc biệt ở nhân vật trữ tình còn độc đáo ở cách xử lý thời gian của ca dao
· Trong ca dao, thời gian của tác giả và thời gian của người diễn xướng và cả thời gian của
người thưởng thức hòa lẫn là một. Thời gian đó luôn là thời gian hiện tại.
· Ca dao thường sử dụng hàng loạt các cụm từ như “đêm đêm”, “bao giờ”, “khi xưa”, “ chiều
chiều”,… Thời gian nghệ thuật vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa là thời gian của sự
tưởng tượng, hư cấu mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình.
b.2. Không gian nghệ thuật
· Không gian nghệ thuật có tính hai mặt: vừa là không gian thực tại khách quan như nó tồn
tại vừa là không gian chỉ có trong hư cấu, tưởng tượng của nhân vật trữ tình. · Khi không
gian được phản ánh trực tiếp thì sẽ khớp với không gian ngoài thực tại là những “ xứ Huế”,
“xứ nghệ”, “xứ quảng”,…những địa danh đó vang lên như là “âm thanh của đất” gợi nhớ
đến những địa danh, mảnh đất phong cảnh… nổi tiếng.
· “Không gian xã hội” Nơi diễn ra mọi sinh hoạt đời sống , mọi mối quan hệ giữa người
với người. Trong những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa nhất là những câu hát giao
duyên , không gian trở thành “không gian của tâm trạng”:
“qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”….
· Không gian nhiều khi còn được sắp xếp cho khớp tâm trạng:
“Chiều nay có kẻ thất tình
Tựa mai – mai ngả, tựa đình – đình xiêu” Không
gian xã hội cũng có thể sắp xếp lại được:
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”
· phần lớn không gian mang phiếm chỉ: “cầu”, “quán”, “cây đa”, bến đò”,.. c. Kết cấu ca dao c.1. Lối đối đáp
· Là những lối trò chuyện bằng thơ ca chủ thể là những chàng trai, cô gái trong câu hát
giao duyên, những bà mẹ hát ru con,…Kết cấu đối đáp hai vế và đối đáp 1 vế. · Hát
ru cũng là lối đối đáp 1 vế c.2. Lối kể chuyện lOMoAR cPSD| 58950985
· Lối kể chuyện được vận dụng như một sự đáp ứng cần thiết của ca dao trước yêu cầu
của con người và cuộc sống. d. Thể thơ trong ca dao: d.1. Thể thơ lục bát
Gồm những cặp câu với hai dòng (vế), dòng (vế) trên có 6 âm tiết, dòng (vế) dưới có 8 âm tiết.
Cách gieo vần,… nhịp phổ biến nhịp chẵn 2/2/2 hoặc thay đổi theo cảm xúc tâm lí 3/3, 4/4…
Thể lục bát là một cống hiến lớn của ca dao cho văn chương bác học, lối gieo vần và vị trí
gieo vần bắt dính liên tiếp câu (lục bát) trên với câu (lục bát ) tiếp theo đã mở đường cho
sự hình thành những truyện thơ dài hơi của nền văn học dân tộc ( ví dụ truyện kiều) d.2. Thể song thất lục bát
Tuy ko phổ biến bằng lục bát nhưng cũng là một thể bắt nguồn từ dân ca . Thể song thất
lục bát tạo ra một biến thể mới cho thể lục bát rất thích hợp để diễn đạt một tâm trạng nhiều khúc mắc. d.3. Thể vãn
Tùy theo số tiếng trong câu từ 2,3 đến 4,5 mà có thể vãn hai, vãn ba, vãn bốn, vãn
năm…Thể vãn 2,3,4 thường dùng cho trẻ em hát vè , vừa hát vừa chơi. Ca dao trữ tình chỉ
sử dụng thể vãn năm, đôi khi có vãn bốn: “ Hỡi trời cao đất dày Thuế sao nặng thế này
Làng xóm đành bóp bụng
Bán đìa nộp thuế tây” d.4. Thể hỗn hợp Yến sào Hòn Nội Vịt lội Ninh Hòa Tôm hùm Bình Ba Nai khô Diên Khánh Cá tràu Võ Cạnh Sò huyết Thủy Triều
Đời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngon sớm, ngọt chiều với anh.
e. Những thủ pháp nghệ thuật chủ yếu trong việc xây dựng hình ảnh của ca dao
e.1. Thủ pháp xây dựng hình tượng so sánh
· so sánh trực tiếp : thường sử dụng các từ so sánh “như”, “là’,…đặt giữa hai vế làm nổi
bật lên thuộc tính đặc điểm sự vật hiện tượng,…
· Ẩn dụ còn gọi là ss ngầm kiểu ss ko sử dụng đại từ quan hệ
· Ca dao sử dụng không ít lối so sánh đơn, nhưng cách “nói” của ca dao là cách “nói” liên hợp nhiều tầng bậc
“ Tiếc thay quả hồng ngâm mà mang cho chuột vọc
Tiếc thay người ngọc mà để cho ngâu vầy”
· Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong ca dao có ý nghĩa khái quát cao đã trở thành những tượng
trưng, ước lệ giúp cho sự biểu đạt ý tình trở nên sắc sảo, hàm súc: trúc – mia, thuyền – bến, mận – đào,…
e.2. Thủ pháp xây dựng bằng lối miêu tả:
để gây ấn tượng mạnh cần làm cho hình ảnh được xây dựng nổi bật hẳn lên, ca dao thường
kết hợp với lối so sánh miêu tả.
Ngoài ra còn có những biện pháp nghệ thuật như tương phản, trùng điệp, đối xứng,… IV LỜI ĂN TIẾNG NÓI
1. PHÂN BIỆT TỤC NGỮ VỚI THÀNH NGỮ VÀ CA DAO
Phân biệt Tục Ngữ - Thành ngữ lOMoAR cPSD| 58950985
- Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau về chức năng và cấu trúcngữ pháp.
- Thành ngữ là đơn vị có sẵn mang chức năng định danh, dùng để gọi tên sự vật, tính chất,hành
động. => là những đơn vị tương đương như từ hoặc cụm từ.
- Thành ngữ đưa đến cho chúng ta một hình ảnh
Ví dụ “Trắng như vôi”, “Xấu như ma”,
- cần phải thêm các yếu tố khác mới diễn đạt được một phán đoán, một kết luận, nghĩa làmới trở thành tục ngữ.
Vd thành ngữ: Đẹp như tiên, tục ngữ Đẹp như tiên không tiền cũng xấu
- tục ngữ thông báo một nhận định, một kết luận về một phương diện nào đó của thế giớikhách
quan. Mỗi câu tục ngữ là một câu hoàn chỉnh diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng.
Phân biệt Tục ngữ - Ca dao
- Tục ngữ thiên về lý trí, ca dao thiên về tình cảm.
- Tục ngữ có chức năng đúc kết, truyền bá kinh nghiệm, nhằm nêu lên những nhận xétkhách quan.
- Còn ca dao là thể loại có bản chất trữ tình; thiên về bộc lộ tình cảm, phô diễn thế giới tâmhồn con người.
- Tuy nhiên vẫn có sự xâm nhập giữa hai thể loại này khi có một bộ phận nhỏ trong chúngcó tính chất trung gian.
- Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ vừa ra khỏi, người mong chui vào.
- Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư ĐẶC
TRƯNG THỂ LOẠI TỤC NGỮ.
a. Về đề tài và nội dung của tục ngữ -
Có thể nói rằng, tục ngữ là thể loại văn học dân gian có phạm vi phản ánh rộng lớn
nhất sovới các thể loại văn học dân gian. -
Nếu như thần thoại thiên giải thích nguồn gốc của vũ trụ, các hiện tượng tự nhiên;
truyềnthuyết phản ánh những sự kiện, biến cố, nhân vật lịch sử;... thì tục ngữ bao quát một
phạm vi phản ánh rộng lớn nhất cả về tự nhiên, xã hội. -
Phạm vi phản ánh rộng lớn ấy khiến cho tục ngữ có điều kiện sinh sôi, phát triển,
lưutruyền ngày càng phong phú về số lượng và có tác dụng to lớn trong quá khứ và cả trong cuộc sống hiện nay.
b. Về Thi pháp thể loại:
- Tục ngữ là câu nói có kết cấu ngắn gọn, phần lớn có tính đa nghĩa
Tục ngữ có hình thức kết cấu “gọn nhẹ” nhất trong các thể loại văn học dân gian. Kết cấu tục
ngữ bao giờ cũng rất gọn chắc. Câu tục ngữ ngắn nhất chỉ có ba tiếng: “ Tham thì thâm”
Chiếm số lượng lớn là những câu tục ngữ có cấu tạo 4 - 11 từ. Câu tục ngữ dài nhất là một cặp lục bát:
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì dâm
Tục ngữ là những khuôn mẫu mang tính mẫu mực về việc chọn lọc, sử dụng từ ngữ tiết kiệm
đến mức tối đa mà đạt hiệu quả nghệ thuật cao. Sự cô đúc, súc tích khiến cho tục ngữ dễ
nhớ, dễ lưu truyền, dễ vận dụng trong lời nói hàng ngày b. Tính đa nghĩa: -
Ở tục ngữ có sự kết hợp hài hoà giữa cái cụ thể và cái khái quát. Cái cụ thể là
nghĩađen còn cái khái quát là nghĩa bóng. Nghĩa đen là nghĩa trực tiếp, gắn với sự việc và lOMoAR cPSD| 58950985
hiện tượng ban đầu. Nghĩa bóng là nghĩa gián tiếp, nghĩa biểu trưng, hàm ẩn. - Trừ một bộ
phận tục ngữ phản ánh kinh nghiệm thiên nhiên và lao động sản xuất “khoai ưa lạ, mạ ưa
quen”, “Nhất nước nhì phân, tam cần tứ giống” …, còn phần lớn các câu tục ngữ đều mang tính đa nghĩa. -
Bản chất của tính đa nghĩa trong tục ngữ là việc tìm được và nêu ra nét tương
đồngnào đó giữa hiện tượng, sự vật và kinh nghiệm sống được khái quát. Những câu tục
ngữ đa nghĩa đã thể hiện phép chuyển nghĩa tài tình trong nghệ thuật dân gian, buộc người
nghe liên tưởng và tưởng tượng.
Trong câu tục ngữ ‘Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” “Tốt gỗ” được hiểu trong sự chuyển hoá ngữ
nghĩa sang “bản chất con người”, “nước sơn’’ được chuyển hoá thành “bề ngoài của con người” -
Nói đến tục ngữ là nói đến sự vận dụng chúng vào rất nhiều trường hợp cụ thể.
Lớpnghĩa cụ thể ban đầu đã tạo nên lớp nghĩa mới, rồi câu tục ngữ được ứng dụng trong
nhiều hoàn cảnh lại mang thêm các ý nghĩa phát sinh. Cứ mỗi lần được sử dụng ở những
hoàncảnh nhất định thì nội dung, ý nghĩa, những lớp nghĩa khác nhau của tục ngữ lại dược
mở rộng và phong phú thêm. Nội dung ý nghĩa của mỗi câu tục ngữ không chỉ lệ thuộc vào
người sáng tác ban đầu, mà còn lệ thuộc rất nhiều vào quan niệm và cách dùng của những
người sử dụng về sau c. Về chức năng:
Tục ngữ là cẩm nang đa năng của nhân dân lao động về những tri thức dân gian quý báu
muôn mặt trong cuộc đời. Nó là kinh nghiệm của cả một cộng đồng, nói mang sức mạnh
của bề dày truyền thống văn hoá lịch sử dân tộc , là một hành vi ngôn ngữ có tính xã hội
được truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ vùng này sang vùng khác. Sự đúc kết đạo
lý của cuộc sống được tiến hành thông qua những kinh nghiệm đã được thử thách, thông
qua thế giới quan, nhân sinh quan và trình độ nhận thức của nhân dân về các khía cạnh trong
đời sống xã hội nên tục ngữ có sức mạnh thuyết phục lớn lao
Trong các thể loại văn học dân gian thì tục ngữ là thể loại có chức năng thực hành triệt để
hơn cả. Trong nhiều trường hợp, chức năng thực hành - sinh hoạt dường như là chức năng
nổi bật.. Khi đi chợ, đi mua giống gà, giống chó, giống trâu bò, người dân vận dụng những
kinh nghiệm dân gian một cách hết sức tự nhiên chứ chưa hẳn do nhu cầu thẩm mỹ. “Gà
đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua, gà trắng chân chì, mua chi giống ấy” chọn chân giò
“Ăn chân sau, cho nhau chân trước...
Lý do cơ bản giúp cho tục ngữ tồn tại và phát triển rộng rãi chính là ở sự ứng dụng trực
tiếp vào cuộc sống của nó. Mở rộng ra, biết bao kinh nghiệm đối nhân xử thế trong quan
hệ gia đình và xã hội “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, “Máu chảy ruột mềm”, “Môi
hở răng lạnh” đã giúp con người nguồn trí khôn vô tận trong cuộc sống. d. Diễn xướng
Tục ngữ được diễn xướng trong ngôn ngữ giao tiếp, trong lời ăn tiếng nói của nhân dân, đặc
biệt xuất hiện nhiều trên ngôn ngữ của những người từng trải. Càng qua nhiều trải nghiệm
cuộc đời, người ta càng tìm thấy ở tục ngữ cái lý của một thứ tư duy logic thực tiễn sắc sảo
được diễn đạt một cách ngắn gọn, có tính nghệ thuật, có sức thuyết phục nhất.
V. SÂN KHẤU DÂN GIAN – CHÈO 1. KỊCH BẢN 2. NHÂN VẬT
- Nhân vật trong chèo thường là những tính cách đã định hình mang tính chất phiếm chỉ.
Tính cách nhân vật thường giản đơn, biểu hiện tập trung một nét tính cách tiêu biểu nào đó
(nhẫn nhục, hiếu thảo, thủy chung/ nanh ác, lẳng lơ, nhu nhược,…) Nhân vật chèo là nhân
vật có tính toàn dân, chứ không phải là cá nhân riêng biệt. lOMoAR cPSD| 58950985
- Chèo có 4 vai diễn chính: + Vai Đào
· Đào thương (nữ chín) (Thị Kính, Thị Phương, Châu Long, Giáng Hương,…)
· Đào lệch (nữ lệch) (Súy Vân, Thị Mầu, Thiệt Thê,…)
+ Vai Sinh: Thư sinh được đi học, có học, từ nếp nghĩ, cử chỉ, lời nói phải tỏ ra là người có
học, chính nhân quân tử (Trương Viên, Lưu Bình, Dương Lễ, Từ Thức) Bên cạnh đó
nhữngnhược điểm dễ thấy của họ là tính nhu nhược, thiếu quyết đoán, ít vốn sống thực tế (Thiện
Sỹ, Từ Thức, Lưu Bình)
+ Vai Lão: Sự xuất hiện vai lão trong chèo không nhiều nhưng cũng để lại ấn tượng khó quên
cho người xem: Mãng Ông, Sùng Ông (vở “Quan âm Thị Kính”), Lão huyện tế (vở “Kim Nham”) + Vai Mụ:
· Có loại vai Mụ thể hiện rất rõ quan niệm của nhân dân về một người mẹ hiền hậu thống nhất
với những chuẩn mực đạo đức Từ Mẫu của Thánh hiền (Trương Mẫu trong vở Trương Viên)
· Có các vai Mụ là những bà mẹ độc ác, nanh nọc, bất lương được thể hiện ở cách nói năng,
động tác, hóa trang như kiểu chống tay vào mạng sườn, hông đung đưa, cách quệt quết trầu
hay chỉ tay đay nghiến (mụ Sùng, mụ Mối, mụ Dầu)
- Nhân vật hề: Chèo dùng các vai hề để thể hiện yếu tố hài. Hề chèo chế giễu tất thảy, trước
hết để pha trò, mua vui, sau là tự cười mình, cười các thói hư tật xấu của nội bộ nhân dân
và cao hơn là phê phán, đả kích giai cấp thống trị. Ngta thường chia hề chèo thành 2 loại
+ Hề áo ngắn (tích cực): Đại diện cho những người lao động nghèo khổ, địa vị thấp kém
nhưng thông minh, thường đứng trên quan điểm của nhân dân để trào lộng, phê phán giai cấp
thống trị (hề mồi, hề gậy, mẹ mõ)
+ Hề áo dài (tiêu cực): Loại nhân vật ít nhiều đại diện cho tầng lớp trên (quan lại, hào lý, thầy
đồ, thầy bói, thầy cúng, thầy phù thủy) thường tự bộc lộc bản chất tham lam, ngu ngốc, giả
dối của mình, tự giễu mình trên sân khấu.
3. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CHÈO CỔ -
Chèo thể hiện quan điểm đúng đắn trong cách đánh giá phẩm chất người lao động:
Những người lao động nghèo khổ, những cố nông, những “cùng đinh”, những người ở địa vị
thấp bị lép vế như mẹ Đốp, Mãng Ông, Thị Kính,… là những người có phẩm chất tốt, lương tâm trong sạch. -
Chèo thể hiện lòng yêu mến, quý trọng con người, đặc biệt đề cao người phụ nữ:
Nhữngnhân vật chính trong các tích chèo thường là nhân vật người phụ nữ có phẩm chất cao đẹp:
Thị Kính có lòng bác ái cao cả, cao thượng, dịu dàng; Thị Phương hiếu thảo thủy chung; Châu
Long nghĩa tình trọn vẹn,… -
Vấn đề trọng tâm trong chèo là vấn đề đạo đức: Chèo phê phán những người phụ nữ
kémđạo đức như Xúy Vân, Thị Mầu, Thiệt Thê, song người xem vẫn thấy ẩn sau thái độ phê
phán là một niềm thương xót, chia sẻ, cảm thông với những số phận ấy qua nghệ thuật biểu
diễn mang tính tổng hợp cao của chèo truyền thống, chung quy họ cũng là nạn nhân của chế
độ phong kiến. Khao khát hạnh phúc là thứ tình cảm chính đáng của con người nhưng luôn
bị kiềm chế bởi những quan niệm hôn nhân phong kiến vô lý và nghiệt ngã.