-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
NỘI DUNG
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, bước phát triển mới về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ………………………………………. 1
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982) thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm (1981 – 1985) …………………………………………... 4
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982) mạnh dạn đối
mặt với những khó khăn, thử thách đã và đang tồn tại ……………………..... 8
4. Các bước đột phá quan trọng làm đổi mới nền kinh tế nước ta giai đoạn (1979 – 1986)
a) Bước đột phá thứ nhất ( 8/1979 ) ……………………………………... 14
b) Bước đột phá thứ hai ( 6/1985 ) ………………………………………. 15
c) Bước đột phá thứ ba ( 8/1986 ) ………………………………………... 19 0
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, bước phát triển mới về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Đại hội lần thứ V của Đảng tiến hành từ ngày 27-3 đến ngày 31-3-1982 tại
Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên
trong cả nước, có 47 đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức
cách mạng trên thế giới.
Đại hội đã thảo luận thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng
nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm 1981-1985, Báo cáo
về xây dựng Đảng và bổ sung điều lệ Đảng, Bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá
V gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương, khoá V đã bầu ra Ban Bí thư, Tổng Bí thư và Ủy ban kiểm
tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm, sai lầm của Đảng,
phân tích nguyên nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của
tình hình thế giới; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh
tế do Đại hội lần thứ IV đề ra. Đại hội V đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa
xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của thời 1
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là thời
kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Hiện nay nước ta
đang ở chặng đường đầu tiên với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội rất
nặng nề. Đây chính là sự nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ vào điều kiện thực tiễn nước ta. Đại hội xác
định: Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến
những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Việc khẳng định trên thực tế cách mạng nước ta đang ở chặng đường nào trên
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quyết định việc tìm ra và nắm vững
quy luật khách quan và là cơ sở để cụ thể hoá đường lối, xác định chủ trương,
chính sách phù hợp với thực tiễn cách mạng; chống chủ quan, nôn nóng, đốt cháy
giai đoạn. Đại hội V chỉ rõ: “Kinh nghiệm của 5 năm 1976 - 1980 cho thấy phải cụ
thể hoá đường lối của Đảng - đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và
đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vạch ra chiến lược kinh
tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa”. Chặng đường trước mắt trong những năm 80 là ổn định và cải thiện một
bước đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và
xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến
đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Về xây dựng chủ 2
nghĩa xã hội, Đại hội đã vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát
triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp thực thi trong từng chặng
đường. Chặng đường trước mắt bao gồm những năm 1980. Những mục tiêu kinh
tế và xã hội tổng quát cho những năm đó là:
Ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ
yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam,
hoàn thiện quan hệ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta
mạnh lên về mọi mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi
cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Mỗi nhiệm vụ chiến lược có vị trí riêng: “Trong khi không một phút lơi lỏng
nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đi, cách làm
của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
Đại hội V xác định: Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ 3
nghĩa; ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành
công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp nặng trong một cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý.
Nội dung đó phản ánh đúng bước đi của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,
phù hợp với thực tiễn nước ta; nhằm khai thác, phát huy thế mạnh, tiềm năng của
đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề, ... giải quyết đúng đắn mối quan hệ
công nghiệp với nông nghiệp làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng
đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng
cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại. Tiếp tục nâng cao tính
giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa
học, một Đảng thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982) thực hiện kế
hoạch nhà nước 5 năm (1981 – 1985) a) Bối cảnh:
Nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam được Đại hội lần thứ
V của Đảng xác định là phải phấn đấu để ổn định tình hình, tiến lên cải thiện một
bước về đời sống của nhân dân. Từ sau Đại hội tình hình khủng hoảng kinh tế - xã
hội vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng nghiêm trọng và có mặt gay gắt.
Bên cạnh đó kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của việc Việt Nam đang
đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979 và quan 4
hệ Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc. Trung
Quốc rút bỏ viện trợ chuyên gia và vận động Hoa kiều về nước đồng thời cũng tiến
hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên. Đồng thời
Mỹ cũng chấp dứt nguồn viện trợ 1 tỷ Đô la mỗi năm cho miền Nam Việt Nam kể
từ khi chấp dứt chiến tranh năm 1975.
Từ đây, nhằm thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của chặng đường
đầu tiên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế hoạch nhà nước 5 năm 1981-1985 và
quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế hoạch. b) Nhiệm vụ:
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12 – 1982) đã xác
định phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đặt mức phấn đấu cụ thể từ năm 1983 đến năm 1985:
Tập trung giải quyết nhu cầu ăn và mặc
Hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng một số công trình quan trọng
Kiện toàn và nâng cao chất lượng của kinh tế quốc doanh
Củng cổ hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và thủ công nghiệp
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng
Nhanh chóng ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước
hết là đời sống của công nhân, cán bộ, các lực lượng vũ trang c) Thực hiện: 5
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, thời gian thực tế còn lại cho kế
hoạch 5 năm (1981 - 1985) chỉ là hơn ba năm. Vì vậy, mức độ về mục tiêu, chủ
trương và biện pháp cần rất thiết thực và vững chắc.
Về nông nghiệp:
Tháng 12 – 1984, Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
đề ra nhiệm vụ chủ yếu là tập trung cố gắng cho mặt trận nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, trọng tâm là sản xuất lương thức, thực phẩm.
Sản lượng lương thực năm 1985 tăng 400.000 tấn, tốc độ sản xuất nông
nghiệp tăng 7,4%. Quan hệ sản xuất mới ở nông thôn được củng cố và tăng cường một bước.
Công tác cải tạo ở các tỉnh Nam Bộ tiến triển thuận lợi, sản xuất nông
nghiệp phát triển, đời sống nông dân ổn định và có mặt được cải thiện; lương thực
cung cấp cho Nhà nước và nông sản xuất khẩu ngày càng tăng.
Về công nghiệp:
Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,5% so với 0,6% trong những năm
1976 – 1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm là 6,4% so với 0,4%
trong 5 năm trước. Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, ta hoàn thành hàng trăm
công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ. Dầu mỏ bắt đầu được
khai thác, công trình thuỷ điện Sông Đà, thuỷ điện Trị An được khẩn trương xây
dựng, chuẩn bị đi vào hoạt động. Các hoạt động khoa học - kĩ thuật được triển
khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong công nghiệp cũng như trong xây dựng cơ bản và giao thông vận tải,
việc mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, việc áp dụng
các hình thức lương sản phẩm, lương khoán, tiền thưởng cùng với các chính sách 6
kích thích sản xuất khác đang thúc đẩy những người lao động ở nhiều cơ sở, nhiều
ngành và địa phương phát huy năng lực sáng tạo.
Về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… đã có những tiến bộ góp phần xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới.
Về quốc phòng, an ninh:
Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã giành những thắng lợi to lớn. Nghĩa vụ
quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt, góp phần tăng
cường quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa thêm chặt chẽ.
d) Một vài hạn chế và khó khăn chung về nền kinh tế:
Đất nước thời kỳ này đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội:
Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn
thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể vẫn
bị ngăm cấm triệt để. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được
củng cố, vao trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu
Đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm
không đạt được, thu nhập quốc dân giảm, năng suất thấp Tài nguyên bị lãng phí
Nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà
ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn
Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm 7
Quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước
Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về
chủ trường, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước:
Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi
trọng khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách
Nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu
Muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm
Chưa biết kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa – tiền tệ
Mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông.
Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách
lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Thực trạng của đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và
bức thiết là phải đối mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học
để ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khủng hoảng để tiến lên.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982) mạnh dạn đối
mặt với những khó khăn, thử thách đã và đang tồn tại
a) Những khó khăn trong sự lãnh đạo của Đảng
Chúng ta khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống trong tình hình
cách mạng chuyển biến nhanh chóng nhưng nhiều mặt công tác, cả về tư tưởng và
về tổ chức, lại chưa được chuẩn bị tốt. Trong khi chúng ta bắt tay vào quản lý đất
nước đang mang nặng trên mình vết thương do hơn 30 năm chiến tranh để lại, thì 8
chiến tranh xâm lược mới lại xảy ra. Chúng ta phải vừa xây dựng đất nước, vừa
bảo vệ Tổ quốc; quân thù đã thất bại, nhưng âm mưu, quỷ kế của chúng còn tiếp
tục; cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. Chúng ta vừa ổn định và phát triển kinh tế, vừa
xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh mạnh mẽ để đối phó với một kiểu chiến
tranh phá hoại nhiều mặt mà kẻ địch đang tiến hành, và để sẵn sàng tiêu diệt địch
nếu chúng lại liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh xâm lược mới.
Tuy Đảng ta là đảng cầm quyền từ trên 35 năm nay, nhưng thời gian chưa có
bao nhiêu để tập trung lãnh đạo kinh tế, lại thiếu tổng kết công tác kinh tế nên kinh
nghiệm về mặt này của chúng ta còn rất ít.
Đường lối chính trị và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta do Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra là đúng
đắn. Nhưng chúng ta đã chậm cụ thể hoá và mắc phải những khuyết điểm, sai lầm
trong việc cụ thể hoá đường lối và chấp hành đường lối của Đại hội.
Trong việc đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm (1976 -
1980), chúng ta đã đánh giá tình hình chưa sát với thực tế, thấy chưa hết các khó
khăn, đã phạm chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch
nhà nước quá cao so với khả năng; việc bố trí về đầu tư chung và cho từng ngành
đã có những khuyết điểm lớn. Mặt khác, cần nhấn mạnh là chúng ta cũng bảo thủ,
trì trệ trong việc đề ra và chấp hành những chủ trương chính sách cụ thể để thực
hiện đường lối, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của chúng ta.
Chúng ta có khuyết điểm, sai lầm lớn về tổ chức thực hiện, có nhiều mặt yếu
kém về quản lý kinh tế. Tình trạng quan liêu, bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, phân
tán trong tổ chức thực hiện là nghiêm trọng. Chúng ta đã để kéo dài tình trạng quản
lý kinh tế theo lối quan liêu, bao cấp; chậm đổi mới phương pháp làm kế hoạch, 9
chậm đề ra các chính sách kinh tế phù hợp làm đòn bẩy cho kinh tế phát triển,
chậm chuyển sang hạch toán kinh tế và không biết kinh doanh.
Trên nhiều mặt, ở nhiều nơi, nhiều lúc chúng ta đã phạm khuyết điểm buông
lỏng trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, trong công tác tư tưởng, công tác an
ninh, đã không tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để giữ vững kỷ cương xã
hội, làm cho mặt tiêu cực phát triển kéo dài và chậm được khắc phục.
b) Những khó khăn trong công tác tư tưởng về xây dựng Đảng
* Trên mặt trận tư tưởng: công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu kịp thời
và kém tính chiến đấu. Có những mặt còn giản đơn, một chiều, kém tính linh hoạt,
chưa bám chắc những vấn đề nóng hổi do cuộc sống đặt ra nên hiệu quả thấp.
Chỗ yếu trước hết của công tác tư tưởng là chưa làm thấu suốt được đường lối
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn Đảng, toàn dân và chưa tạo ra được sự nhất
trí cao trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn đầy đủ của đường lối đúng đắn
của Đảng. Tính giai cấp trong nội dung giáo dục tư tưởng còn chưa được coi trọng.
Sau chiến thắng chống Mỹ, chúng ta đã thiếu giáo dục sâu rộng về
chuyển biến giai đoạn, chưa đánh giá đúng tình hình, chưa lường hết
các khó khăn và những diễn biến về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và
quần chúng để bằng mọi biện pháp chủ động ngăn chặn các mặt tiêu cực.
Việc giáo dục về cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa chưa được tiến hành thường xuyên và sâu sắc.
Trong đấu tranh chống địch, sự hiểu biết của đông đảo cán bộ, đảng
viên và nhân dân lao động về bản chất và tư tưởng phản động, ...của
đế quốc Mỹ còn chưa sâu sắc.
Tình hình thiếu cảnh giác cách mạng là nghiêm trọng. 10
Bên cạnh tư tưởng nóng vội, tình trạng thiếu nhạy bén, quan liêu, bảo thủ
nặng nề đang là một nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trì trệ hiện nay. Tình hình
đó đang hạn chế việc tiếp thu sâu sắc và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính
sách, kìm hãm sức sáng tạo của quần chúng, của cán bộ, đảng viên, cản trở việc đổi
mới cơ chế quản lý, việc sửa đổi các chính sách, chế độ đã lạc hậu. Những năm
gần đây, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi không được chấp hành triệt để,
tình trạng vô tổ chức vô kỷ luật, cục bộ, địa phương với mức độ khác nhau phát
triển phổ biến. Tình trạng sa sút phẩm chất, giảm sút ý chí chiến đấu trong một bộ
phận cán bộ phụ trách ở các cấp, các ngành từ trên xuống dưới và một bộ phận
đảng viên đang gây tác hại lớn. Nhiều người từ sai lầm trong sinh hoạt, quan liêu
hoá trong tác phong, đã đi đến chỗ bị biến chất trong lối sống, thoái hoá về chính
trị. Đến nay, số này vẫn chưa được sàng lọc hết.
c) Khó khăn trong khâu tổ chức, cơ cấu bộ máy Đảng cộng sản Việt Nam
Về mặt tổ chức: công tác tổ chức cũng rất trì trệ, chậm chuyển hướng, không
đi kịp tình hình và nhiệm vụ, đồng thời chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức
đồng bộ và mạnh từ trung ương cho đến cơ sở:
Tổ chức đảng có nơi chưa trong sạch. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu
kém kéo dài. Chất lượng sinh hoạt chi bộ thấp, tính năng động chủ
quan của nhiều đảng bộ cơ sở yếu.
Các cơ sở sản xuất - kinh doanh, tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi
trực tiếp phát huy các tiềm năng về mọi mặt, nơi trực tiếp tạo ra mọi
của cải vật chất cho xã hội, chưa có cơ chế đồng bộ để hoạt động theo
phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Chỗ yếu kém trong cơ cấu tổ chức của Đảng và Nhà nước từ trung
ương đến cơ sở nói chung hiện nay là bộ máy tổ chức cồng kềnh, nặng 11
nề mà hiệu lực lại thấp, chế độ trách nhiệm không rõ ràng; sự phân
định về chức năng, trách nhiệm, quyền hạn giữa cơ quan đảng, cơ
quan nhà nước và các đoàn thể, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cơ
quan quản lý với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, giữa cá
nhân và tập thể đều chưa thật rõ. Việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức,
thành lập tổ chức mới trong nhiều trường hợp còn tuỳ tiện.
Công tác cán bộ còn bảo thủ, trì trệ về nhiều mặt: đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí, sử dụng, đề bạt cũng như chính sách, chế độ đãi ngộ. Đó là một
nguyên nhân hết sức trọng yếu của sự trì trệ trong công tác tổ chức và nhiều việc khác.
Chúng ta chưa xây dựng được phong cách và chế độ làm việc cách
mạng và khoa học. Bệnh sự vụ, thủ công, phân tán, họp hành, giấy tờ
quá nhiều từ trên xuống dưới, đều còn rất nặng là một nguyên nhân
quan trọng của những khuyết điểm trong việc ra những quyết định
thiếu chính xác, thiếu cụ thể.
d) Những khó khắn, bất ổn trong nền kinh tế - xã hội Việt Nam thời kì hậu chiến
Tất cả những khó khăn kể trên đã phần nào vẽ nên bức tranh nền kinh tế tồi
tàn của nước ta sau khi chiến tranh kết thúc. Trong những năm (1976 - 1980), kết
quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất
cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được
tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá, tài chính, tiền
tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, nhất là đời
sống của công nhân, viên chức và nông dân những vùng bị thiên tai, địch hoạ. 12
Tình hình kinh tế và xã hội của nước ta đang có những vấn đề gay gắt: đời
sống nhân dân, nhất là đời sống công nhân, viên chức có nhiều khó khăn; nguồn
cung ứng năng lượng và nguyên liệu, lực lượng giao thông vận tải không bảo đảm
phát huy các năng lực sản xuất sẵn có; xuất khẩu không bù đắp được nhập khẩu;
thị trường, giá cả diễn biến phức tạp; trên một số mặt, trận địa xã hội chủ nghĩa bị
những nhân tố tư bản chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa xâm lấn; cơ chế quản lý và
kế hoạch hoá còn mang nặng tính chất quan liêu, bao cấp; hiện tượng tiêu cực
trong đời sống kinh tế và xã hội kéo dài.
Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hoà bình, vừa phải đương đầu với một
kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt ..., đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó
với tình huống địch có thể gây chiến tranh xâm lược lớn. Tình thế ấy đòi hỏi chúng
ta phải luôn luôn cảnh giác, hết sức chú trọng củng cố quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu cao.
Kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa trong những năm 80 tiếp tục biến động.
Cuộc khủng hoảng năng lượng và nguyên liệu, đà tăng vọt của giá cả quốc tế,
chính sách phá hoại, cấm vận của đế quốc Mỹ và phản động... làm cho nền kinh tế
nước ta thêm những khó khăn mới. 13
4. Các bước đột phá quan trọng làm đổi mới nền kinh tế nước ta giai đoạn (1979 – 1986)
a) Bước đột phá thứ nhất ( 8/1979 )
Ở phần trên chúng ta đã nêu lên những khó khăn xoay quanh nền kinh tế mà
Đảng ta phải đối mặt. Do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc
chúng ta không còn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu
tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979) là bước đột phá đầu tiên
của quá trình đổi mới ở nước ta với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai
lầm trong quản lí kinh tế, trong cải tạo chủ nghĩa xã hội, phá bỏ những rào cản để “sản xuất bung ra”.
Về nông nghiệp:
Hội đồng chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để
khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm.
Ban hành chỉ thị số 100-CT/TW về khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Mỗi xã viên được
toàn quyền quyết định trong các khâu chăm sóc và thu hoạch. Nếu thu
hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương
này được nông dân cả nước ủng hộ và nhanh chóng trở thành phong
trào quần chúng sâu rộng.
Ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho
Nhà nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao
hồ, ruộng đất hoang hoá.
Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình). 14
Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất.
Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối
phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực
của người lao động,...
Quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền
tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
Về công nghiệp:
Chính phủ quyết định ban hành Quyết định số 25-CP về quyền chủ
động sản xuất kinh doanh, quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh
Tiếp tục ban hành Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả
lương khoán, lương sản phẩm, vận dụng hình thức tiền thưởng trong
các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
Về chính trị:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo thảo luận Dự thảo Hiến
pháp mới và quyết định những biện pháp đảm bảo việc thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua.
b) Bước đột phá thứ hai ( 6/1985 )
Bước đột phá thứ hai của Đảng trong quá trình cải cách kinh tế tại Việt Nam
là sự thay đổi về tư duy trong việc quản lý kinh tế, cụ thể là đưa ra những kiến nghị
liên quan đến vấn đề giá lương tiền (hay cải cách giá - lương - tiền hoặc tổng điều
chỉnh giá - lương - tiền) thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 8 khóa V, Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhằm thay đổi mô hình kinh tế của miền Bắc đang được áp
dụng để tiến hành kế hoạch 5 năm 1976-1980 vốn đang tồn đọng rất nhiều khuyết
điểm, gây khó khăn cho các đơn vị và nhân dân. 15
Bối cảnh: Các nguồn viện trợ bị cắt giảm sau chiến tranh. Mỹ duy trì quan hệ
thù địch với Việt Nam, bao vây cấm vận về kinh tế.
Mục tiêu cải cách: Chủ trương xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế một
giá, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thừa nhận quy luật của
sản xuất hàng hóa. Tập trung kéo giá thị trường xuống, điều chỉnh mặt bằng giá
mới, điều chỉnh lượng tiền lưu thông bên ngoài.
Phương án cải cách: Đề cập ba nội dung quan trọng của cải cách: Giá cả,
tiền lương, tiền tệ (giá - lương - tiền) Giá cả:
Thực hiện cơ chế một giá thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi
phí cho giá thành sản phẩm. Phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng
Nhà nước cung cấp và giá các mặt hàng Nhà nước mua của nông dân,
thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản xuất. Để thuận tiện cho tính
toán, các mức giá sẽ được quy ra giá thóc (bình quân 25 đồng/kg).
Nhà nước cũng đã thực hiện ban hành giá mới của một số vật tư như
xăng, dầu, xi măng, sắt,… T
iền lương: Xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương
tiền tệ gắn với xóa bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo cho
người lao động tái tạo sức lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả
lao động. Thực hiện theo quy tắc nâng giá đến đâu thì tăng lương theo đó. T
iền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ; thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh
nhịp độ quay vòng đồng tiền; chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Thực hiện in thêm tiền để đáp ứng giá mới
và lương mới, bảo đảm tổng tiền lưu thông trong cuộc điều chỉnh
năm 1985 là 120 tỷ đồng. Tuy nhiên, do cần in ít tiền nhưng vẫn có
sức mua lớn và không thể tự in tiền, Ban chỉ đạo đã đưa ra chủ 16
trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như
vậy, 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành.
Hình: Cuộc đổi tiền năm 1985
Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng
định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế...”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết và cấp bách. Thực tế:
Tình trạng khan hiếm tiền xảy ra khi nhiều người có nhu cầu đổi
nhiều tiền hơn mức ấn định là 2000 đồng tiền mới. Có những cơ quan
phải trả lương bằng chính loại hàng sản xuất vì không có tiền trả cho
nhân công. Để trả lương, nhà nước lại phải in thêm tiền với khối
lượng 1,38 lần so với trước nên hậu quả là vật giá lại tăng mạnh. Đến
năm 1986, lạm phát lên đến 774,7% làm nền kinh tế rối loạn và tiếp
tục ở mức trên 100% trong những năm kế tiếp cho đến năm 1989 mới 17
giảm xuống dưới 100%. Vật giá các loại nông sản của năm 1986
cũng tăng 2000% so với năm 1976.
Hình: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1980-2010
Chính sách Giá-Tiền-Lương tạo ra lạm phát sau khi đổi tiền vì vật giá
tăng là do thiếu hàng hóa và năng lực sản xuất thấp không đáp ứng nổi
việc tăng lương, lạm phát không giảm mà tăng cao hơn trước.
Nguyên nhân thất bại: Nguyên nhân chính là do sự chắp vá giữa tư tưởng cải
cách với mô hình, cơ chế quản lý cũ đã lạc hậu… Những chủ trương được đề ra và
thực hiện trong tình hình kinh tế đang biến động mạnh, song lại thiếu biện pháp
đồng bộ và các giải pháp cụ thể, tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp
với tình hình thực tế nên khi triển khai nghị quyết vào cuộc sống đã phạm sai lầm
nghiêm trọng. Tuy nhiên, thất bại này đã giúp ĐCS Việt Nam có thêm những căn
cứ, cơ sở quan trọng để đưa ra quyết định lịch sử tại Đại hội VI.
Kết quả và ý nghĩa: 18
Năm 1985 là năm cuối trong kế hoạch năm năm lần thứ hai của Đảng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn đứng
trước những khó khăn như lương thực, năng lượng, ngoại tệ, vật tư, tài
chính. Cơ cấu kinh tế chưa chuyển biến đáng kể, cơ chế quản lý mới
hình thành chưa rõ rệt. Tổ chức và quản lý sản xuất chưa thoát khỏi
tình trạng sản xuất nhỏ. Đặc biệt sau cải cách giá, lương, tiền với
những hậu quả nặng nề mà nó gây ra, một trong những điểm cơ bản là
cải cách này không đi liền với động lực thúc đẩy sản xuất nên hàng hóa không có thêm.
Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt,
từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước
chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
c) Bước đột phá thứ ba ( 8/1986 )
Đánh giá cuộc cải cách giá, lương, tiền của nghị quyết Trung ương 8, Hội
nghị lần thứ 9, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương cho rằng: sự đúng
đắn của chủ trương bù giá, thực hiện chính sách bán lẻ theo một giá là cần thiết,
phù hợp với quy luật của sản xuất hàng hoá. Nhưng tổ chức thực hiện lại mắc
những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình
chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt. Hậu quả lớn nhất của cuộc điều chỉnh giá, tiền,
lương, lần này đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng sâu sắc hơn.
Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá V (12-1985) bàn về kế
hoạch Nhà nước năm 1986, nhận định: Sau các Nghị quyết sáu, bảy, tám của Ban
Chấp hành Trung ương, nền kinh tế đạt được một số tiến bộ. Song nền kinh tế nước
ta vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Hội nghị chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của
tình hình trên là do nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn 19
chưa rõ. Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 5-
1986) đã phân tích những khuyết điểm, sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá,
lương, tiền; khẳng định quyết tâm chiến lược xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986 đưa ra bản
“Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá
thứ ba, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới.
Về cơ cấu sản xuất, chúng ta đã chủ quan, nóng vội trong việc đề ra một số
chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển
sản xuất. Điều này làm cho cho sản xuất trong 5 năm gần đây như dẫm chân tại
chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình
kinh tế-xã hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của
tình trạng chậm giải quyết căn bản các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Bởi vậy, hội nghị cho rằng: 20
Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu
đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng
phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và
nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu.
Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được
ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã
hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy:
Phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước
cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung
gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn
Phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự
cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các
tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động
Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ
nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế
độ quản lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi
bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể làm một lần
hay trong một thời gian ngắn là xong. 21
Về cơ chế quản lý kinh tế, cần bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc
đẩy sản xuất phát triển. Hội nghị nêu ra những nội dung chủ yếu của cơ chế quản
lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là:
Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của
các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các
quy luật của quan hệ hàng hoá-tiền tệ;
Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh;
Phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức năng
quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế
Phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của
Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa
phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở. 22 23