ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐÔ ̣ LÊN CNXH VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975-2018)

Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Đảng phải lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đón đọc xem!

lOMoARcPSD|45650917
Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯC QUÁ ĐÔ LÊN CNXH VÀ
TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MI (1975-2018)
1. Khái quát các kỳ Đại hội thời kỳ cả nước quá độ lên CNXH và tiến
hành đổi mới của Đảng CSVN
Đại hội IV: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Thời gian: Từ 14 đến 20/12/1976 ; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 1.550.000; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.008; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Lê Duẩn
Nhiệm vụ chính: Hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển đất nước.
Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua Điều lệ mới gồm 11 chương và 59 điều, đặt lại chức vụ Tổngthư thay chức Bí thư
thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.
Ðại hội V: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân
Thời gian: từ 27 đến 31/3/1982; Địa điểm: Thủ đô Nội; Số lượng Đảng viên trong cả
nước: 1.727.000; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.033; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Lê Duẩn
Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Đảng phải lãnh
đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn
sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tquốc Việt Nam hội chủ nghĩa. Đại hội đánh dấu một
bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội VI: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
Thời gian: Từ 15 đến 18/12/1986; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 2.109.613; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.129; Tổng Bí tđược bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nguyễn Văn Linh
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc
đổi mới);
Đại hội VI khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách
mạng và khoa học. Đại hội đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN, trong đó, phải xây dựng
quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản
lý và chế độ phân phối XHCN.
lOMoARcPSD|45650917
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải
đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội
ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên sức
mạnh chiến đấu của tổ chức sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng nhiệm vụ quan
trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
Đại hội VII: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN
Thời gian: từ 24 đến 27/6/1991; Địa điểm: Thủ đô Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 2.155.022; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176 ; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Đỗ Mười.
Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mi. Đại
hội khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, nguyên tắc bước đi vững chắc, đó là mệnh
lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.
Với nhiệm vụ “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới”, Đại
hội VII lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, xác định CNXH mà nhân dân ta xây dựng gồm 6 đặc trưng.
Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội VIII: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Thời gian: từ 28/6 đến 1/7/1996; Địa điểm: Thủ đô Nội; Số lượng Đảng viên trong cả
nước: 2.130.000; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.198 đại biểu; Tổng Bí thư được bầu tại
Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-hội, nhưng một số mặt
còn chưa vững chắc. Đại hội đã đưa ra các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khoá VIII,
tháng 12/1997) bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội IX: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thời gian: Từ 19-22/4/2001; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả nước:
2.479.719; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.168; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng
chí Nông Đức Mạnh
Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội chỉ mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà
nước, theo định hướng XHCN.
Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó nhiệm
vụ then chốt, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm
lOMoARcPSD|45650917
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực thế giới, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đại hội X: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển
Thời gian: T18 đến 25/4/2006; Địa điểm: Thủ đô Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 3,1 triệu; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176; Tổng tđược bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nông Đức Mạnh.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển.
Đại hội đánh giá sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn ý nghĩa
lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.
Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy
động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển
văn hóa; thực hiện tiến bộ công bằng hội; tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-
xã hội; sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XI: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới đất nước
Thời gian: Từ 12 đến 19/1/2011; Địa điểm: Thủ đô Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 3,6 triệu; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.377; Tổng thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê
bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu yếu
kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội X.
Đại hội đã thảo luận sôi nổi, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý
nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát
triển kinh tế - hội 2011 - 2020, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 - 2015 và Điều lệ Đảng
(bổ sung, sửa đổi).
Đại hội XII: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại
Thời gian: Từ 20 đến 28/1/2016; Địa điểm: Thủ đô Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 4,5 triệu; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.510; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đánh giá thành tựu hạn chế sau
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
lOMoARcPSD|45650917
Đại hội này cũng lần đầu tiên Đảng thực hiện Đề án Quy hoạch Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước
nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Theo đó công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà
nước nhiệm kỳ 2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, thận
trọng và thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao của các đại
biểu dự Đại hội.
Đại hội XIII: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Thời gian: khai mạc 26/1/2021; Địa điểm: Thủ đô Nội; Dự Đại hội 1.587 đại biểu
thay mặt cho hơn 5,2 triệu đảng viên toàn Đảng; Tổng tđược bầu tại Đại hội: Đồng chí
Nguyễn Phú Trọng.
Nhiệm vụ chính: Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh
năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển
kinh tế - hội 10 năm 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2021 - 2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 tầm nhìn phát triển đất
nước đến năm 2045.
Công tác kiểm tra, giám t đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết qu
cụ thể, rệt. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong
Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.
Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt
hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết
quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng
trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những
nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. …
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội
con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta ngày càng được hoàn thiện từng bước được
hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có
thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế như
ngày nay”.
2. LÃNH ĐẠO CẢ NƯC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC (1975-1986)
2.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-1981)
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn thành
thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa xây dựng chủ nghĩa
hội. Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của Nhân dân cả nước, vừa là quy luật
khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cần xúc tiến việc
lOMoARcPSD|45650917
thống nhất nước nhà một cách tích cực khẩn trương. Thống nhất càng sớm thì càng mau chóng
phát huy sức mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực
phản động trong nước và trên thế giới.
Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Bắc,
Nam đã họp tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà
cần được sớm thống nhất về mặt nhà nước. Tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu
ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976 theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung
của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri đi bầu (đạt tỉ lệ 98,77% tổng số
cử tri), đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng
trang, đại biểu tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo... trên cả
nước.
Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất
đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc
huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố
Hồ Chí Minh. Quốc hội đã bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước; Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn
Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước; Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội Phạm Văn Đồng làm
Thủ tướng Chính phủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc (1976-1981)
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Nội. Đại hội đã
thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu kế hoạch 5 năm
(1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt
Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban chấp hành Trung ương gồm
101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư.
Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khẳng định thắng lợi của Nhân
dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công đại của thế kỷ XX, một
sự kiện ý nghĩa quốc tế quan trọng, tính thời đại sâu sắc. Đại hội đã phân tích tình hình thế
giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, nước ta đang trong quá trình từ một hội nền kinh tế còn phổ biến sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa hội với
nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ
nghĩa thực dân mi gây ra
1
.
1
Qua hàng chục năm chiến tranh, đế quốc Mỹ ném xuống nước ta 7.850.000 tấn bom đạn, trong đó có 451.260 tấn
chất độc hoá học, 338 tấn bom napan làm gần 2 triệu người bị chết, hơn 2 triệu người bị tàn tật, 2 triệu người, trong đó
có khoảng 5 vạn trẻ em dị dạng do bị nhiễm chất độc màu da cam.
lOMoARcPSD|45650917
Ba là, cách mạng hội chủ nghĩa nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi,
song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng thế lực phản cách mạng trên thế giới
còn gay go, quyết liệt”
1
.
Ba đặc điểm chra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và Nhân dân ta phải phát huy
cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm trên, đặc điểm
đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của
nước ta là: “Nắm vững chuyên chính sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của Nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn hội chủ
nghĩa , xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố
quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của Nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
2
. Trong đường lối chung thể hiện
nhận thức mới của Đảng vchủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ
làm chủ tập thể hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hoá mới, con người mới hội chủ
nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của Nhân dân lao động là công c
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công
nghiệp hoáhội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp l
Ā trên cơ sở
phát triển nông nghiệp công nghiệp nhẹ, xây dựng cấu kinh tế công - nông nghiệp; kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan
hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước
khác.
Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá giai đoạn này nhằm hai
mục tiêu cơ bản cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống Nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tưởng văn hoá, xây dựng và phát
triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước hội chủ nghĩa, phát huy vai tcủa các đoàn thể;
coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc
tế chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào Campuchia, đẩy mạnh
hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, khẳng định xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa hội. Đại hội đã cổ vũ,
động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tập 37, tr.988.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tập 37, tr.998.
lOMoARcPSD|45650917
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban chấp hành Trung ương đã họp nhiều lần,
tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông:
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi Bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của
Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra
quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được miễn thuế,
trả thù lao được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người
sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi
tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã
viên nhận mức khoán theo diện tích tự mình làm các khâu cấy, chăm sóc thu hoạch, còn những
khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.
Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng.
Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm
thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng
kể.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” giá vào lương Tp.Hồ Chí
Minh và Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản
xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số
26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương trên đã tạo nên
động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương
vượt kế hoạch 7,5%.
Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng thiết tha
của Nhân dân Việt Nam là hoà bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ để xây dựng đất nước. Song chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã cấu kết với nhau ra sức chống phá, buộc Việt Nam phải tiến
hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Từ tháng 4-1975, Pôn Pốt đã thi hành chính sách diệt chủng Campuchia tăng
cường chống Việt Nam. Ngày 3-5-1975, chúng cho quân đổ bộ chiếm Thổ Chu, Phú Quốc, sau
đó tiến hành hàng ngàn vụ tấn công lấn chiếm đất đai, giết hại Nhân dân Việt Nam trên toàn tuyến
biên giới Tây Nam bằng những hình thức vô cùng dã man. Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều
lần đề nghị đàm phán bất cứ cấp nào, thời gian nào, ở mọi nơi để giải quyết xung đột nhưng tập
đoàn Pôn Pốt đều từ chối. Cuối tháng 12-1978, chính quyền Pôn Pốt huy động tổng lực tiến công
xâm lược quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam với mục tiêu nhanh chóng tiến sâu
vào nội địa Việt Nam.
Để bảo vđộc lập và chủ quyền Tổ quốc, quân và dân Việt Nam đã đánh trả, tiến công đánh
đuổi bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi. Thể theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu ớc
Campuchia, từ ngày 26-12-1978, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp và giúp đỡ Campuchia
tổng tiến công, đến ngày 7-1-1979 giải phóng Phnôm Pênh, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.
Ngày 18-2-1979, Việt Nam Campuchia Hiệp ước hòa bình, hữu nghị hợp tác. Theo
Hiệp ước, quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia để giúp bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và hồi sinh đất nước. Hành động đó của Việt Nam là chính nghĩa và cũng xuất phát từ nhu
cầu tự vệ chính đáng được ghi nhận trong Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc đã được Nhân
dân Campuchia và thế giới ghi nhận.
lOMoARcPSD|45650917
Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố rút chuyên gia, cắt viện trợ cho Việt Nam, liên tiếp lấn
chiếm dẫn đến xung đột trên tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam từ năm 1978 đã làm cho quan h
Trung Quốc - Việt Nam xấu đi rệt. Ngày 17-2-1979, Trung Quốc huy động hơn 60 vạn quân đồng
loạt tấn công toàn tuyến biên giới nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh, gây ra những thiệt hại rất
nặng nề. Ngày 5-3-1979, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ra lệnh Tổng động viện toàn quốc. Quân dân Việt
Nam, nhất quân dân các tỉnh biên giới phía Bắc, được Nhân dân thế giới ủng hộ đã kiên cường
chiến đấu bảo vệ đất nước. Ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng chưa từ bỏ hoạt
động chống phá trên tuyến biên giới, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân, dân ta vẫn
diễn ra trong nhiều năm sau đó, đặc biệt là trên mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang ngày 12-7-1984. Từ
ngày 18-4-1979 về sau, Việt Nam Trung Quốc đã đàm phán, từng bước giải quyết những tranh
chấp về biên giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khôi phục hoà b
nh, quan hệ hữu nghị truyền thống
giữa Nhân dân hai nước.
Sau 6 năm (1975-1981), quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống nhất nước nhà v
mặt nhà nước, chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới đã khắc phục một phần hậu quả
chiến tranh và thiên tai liên tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu
ruộng đất của đế quốc, phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến đưa nông nghiệp từng bước
lên sản xuất lớn với các đội chuyên, làm khoán. Tuy nhiên, kết quả nh
n chung đã không đạt chỉ
tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần
xuất khẩu. Từ cuối năm 1979, một số địa phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”,
”khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng...
Những khó khăn trên nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nề liên
tiếp xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù
địch. Tuy nhiên về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo
quản l
Ā kinh tế, hội làm trầm trọng thêm những khó khăn trên. Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã tự phê b
nh về những khuyết điểm và sai lầm của đó trước Đại hội V của Đảng.
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh
tế (1982-1986)
Đại hội V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thế
giới trong nước một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới. Hoa Ktiếp tục
thực hiện chính sách bao vây cấm vận “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc các thế lực
phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc
tế Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương. Trong nước, tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích nguyên
nhân thắng lợi khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới; khẳng định tiếp
tục thực hiện đường lối chung đường lối kinh tế do Đại hội IV đề ra. Ngoài thông qua những
nhiệm vụ kinh tế, văn hóa xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại, xây
dựng Đảng...
Đại hội V đề ra những quan điểm mới: Khẳng định nước ta đang chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn
hoá, hội. Đó thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng
đường trước mắt bao gồm thời k5 năm 1981-1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng
thời gian tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt ổn định tiến lên
cải thiện một bước đời sống vật chất văn hóa của Nhân dân. Tiếp tục xây dựng sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu
dùng và xuất khẩu.
lOMoARcPSD|45650917
Cách mạng Việt Nam hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ nghĩa
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
mật thiết với nhau. “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta và Nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”
1
.
Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng
tiêu dùng tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp l
Ā.
Đại hội V đã những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn nhưng
khuyết điểm là trong khâu tchức thực hiện, nên đã không được những sửa chữa đúng mức
và cần thiết. Đại hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác
định những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về công tác quản lưu thông, phân
phối; vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về bản cải tạo xã hội chủ nghĩa miền Nam trong
vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng
một cách tràn lan; không dứt khoát dành thêm vốn vật cho phát triển nông nghiệp
công nghiệp hàng tiêu dùng... Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế
Sau Đại hội V, Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết:
Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách v
phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một , phải đẩy mạnh thu mua nắm nguồn
hàng, quản chặt chẽ thị trường tự do; Hai , thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho
phù hợp với thực tế.
Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận
sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm.
Nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là Bước đột phá thứ hai
trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, TW chủ trương xoá bỏ chế
tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp, lấy Giá - Lương - Tiền khâu đột phá để chuyển sang
cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xoá bỏ chế quan liêu, bao cấp trong gvà lương là tính đủ chi phí hợp trong
giá thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả
đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xoá bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ;
thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc phục tình trạng thả nổi trong việc định giá và
quản giá. Thực hiện chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hoạch toán kinh doạnh hội chủ nghĩa. Giá - Lương -
Tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm,
xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Xoá bỏ các khoản chi của
ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển hẳn công
tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hoá
những quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình tổ chức thực hiện
1
Đảng C ng sn Vi t Nam (1982) Văn kiện Đại hội đại biu toàn quc ln th V, Nxb S th t, H
N i, tr.42.
lOMoARcPSD|45650917
lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền tổng điều chỉnh giá, lương trong tình nh chưa chuẩn
bị đủ mọi mặt. Cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế hội trầm
trọng sâu sắc hơn.
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế”. Đây là Bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết
định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản
xuất cấu đầu theo hướng thật sự lấy nông nghiệp mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển
công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải lựa chọn cả về quy nhịp độ, chú
trọng quy mô vừa nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện
cho được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu
hàng xuất khẩu.
Về cải tạo hội chủ nghĩa, Hội nghị khẳng định: phải biết lựa chọn bước đi hình thức
thích hợp trên quy cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung
gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức
đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng,
tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội
chủ nghĩa không chỉ sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân
phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể
làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.
Về cơ chế quản l
Ā kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất
phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch
hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tếhội chủ nghĩa, đồng thời sử
dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự
chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản hành chính của Nhà nước với chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền
tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương
trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh
giữa quan điểm mới quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được
trình bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội
VI của Đảng.
Tổng kết 10 năm (1975-1986), Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện thắng lợi
chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu quan trọng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế. Sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và
Đại hội V của Đảng đề ra: Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - hội kéo dài; sản xuất tăng
chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng
cao kéo dài; đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống Nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - hội do xây dựng đất nước từ
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện
lOMoARcPSD|45650917
trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh ở biên giới hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quan do những sai
lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh
tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội
và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển
nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến nguyện vọng lợi ích
của Nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.
3.
3. Đường lối lãnh đạo của Đảng thời kỳ đổi mới
GV giới thiệu 5 trọng tâm:
- Đường lối Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
- Đường lối xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Cương lĩnh 1991, bổ sung sửa đổi 2011
- Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa
- Đường lối đối ngoại
3.1. Đường lối Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
- Khái niệm CNH, HĐH (TW7 khóa VII)
- Mục tiêu CNH, HĐH
- Quan điểm CNH, HĐH (Tr.130 TLHT 2021; tr.287- Giáo trình của Bộ GD&DT,
2021)
- Kết quả CNH, HĐH (Tr.181- TLHT 2021; tr.396 Giáo trình Bộ GD&DT, 2021)
Đảng CSVN lần đầu tiên đề cập đến công nghiệp hoá trong văn kiện Đại hội III năm 1960,
tuy nhiên Việt Nam tiến hành CNH khi chưa có đủ những tiền đề và điều kiện cần thiết nên mặc dù
đạt được những kết quả nhất định (chủ yếu là phục vụ cho chiến tranh, thống nhất Tổ quốc) nhưng
hiệu quả kinh tế, xã hội thấp.
- Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trìnhchuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (Hội nghị Trung
ương 7- khóa VII (tháng 1-1994)
- Mục tiêu của CNH:
Mục tiêu lâu dài: là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
lOMoARcPSD|45650917
Đại hội XII (2016): sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
- Quan điểm CNH, HĐH: (Xem Đại hội VIII)
- Quan điểm về công nghiệp hóa trong thời kỳ mới gồm:
1) Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hquốc tế, đa phương hoá, đa dạng
hoáquan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực
bên ngoài.
2) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trongđó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
3) Lấy việc phát huy nguồn lực con người yếu tố bản cho sự phát triển nhanh
bềnvững.
4) Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp công
nghệtruyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
5) Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự
ánđầu tư và công nghệ.
6) Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
là vấn đề ý nghĩa quyết định hàng đầu. Đảng phải tiếp tục sự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn
nữa sức chiến đấu năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các biểu hiện tiêu cực yếu
kém. Cần phải giữ vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất năng lực cán bộ, đảng viên; củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức
sở Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đổi mới công tác kiểm tra kỷ
luật của Đảng
1
.
- Kết quả CNH, HĐH
Năm 1991, GDP đầu người của Việt Nam là 143 USD/năm và chúng ta đứng ở vị trí 184, thấp
nhất thế giới. Đến năm 2012, GDP đạt khoảng 1.600 USD/người/năm, Việt Nam đứng vị trí thứ
155 và năm 2013, GDP đạt bình quân 1.911 USD/người, đứng thứ 132. Như vậy, đã có sự cải thiện
về thứ hạng.
GDP 2020: 271,2 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 2,779 USD
2
Quy GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ
USD. GDP nh quân đầu người năm 2022 theo ghiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương
đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Theo Tổng cục Thống kê, GDP Việt
Nam trong m 2022 đạt 409 tỷ USD. Còn theo IMF, con số này nhỉnh hơn một chút 413,81 tỷ
USD.
1
Xem: Bộ Giáo dục đào tạo: Giáo tr
nh Lịch sử Đảng CSVN, Nxb. Chính trị quốc gia,
Nội, 2021, tr.287.
2
Xem: Bộ Giáo dục đào tạo: Giáo tr
nh Lịch sử Đảng CSVN, Nxb. Chính trị quốc gia,
Nội, 2021, tr.396
lOMoARcPSD|45650917
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 5. Việt Nam xếp sau Indonesia (1,29 nghìn tỷ
USD), Thái Lan (534,76 tỷ USD), Malaysia (434,06 tỷ USD), Singapore (423,63 tUSD) xếp
ngay trên Philippines (401,66 tỷ USD).
Trên thế giới, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 37 về quy mô kinh tế. Indonesia đứng thứ 17, Thái
Lan đứng thứ 26, Malaysia đứng thứ 35, Singapore đứng thứ 36.
Năm 2022, IMF đã đưa ra dự báo quy GDP cho các nước trên thế giới. Trong đó, quy
GDP Việt Nam năm 2022 được dự báo đạt khoảng 413,81 tỷ USD, xếp thứ 37 trên thế giới.
Đại hội XIII (2021) đánh giá: tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều của VN dưới 3%.
1
3.2. Đường lối xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
- KTTT định hướng XHCN là gì?
- Mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
- Tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
- Kết quả xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
- Quan điểm chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở VN
- Khái niệm: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền kinh
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; sự quản của Nhà nước pháp
quyền hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (Đại hội XII, 2016)
- Mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
KTTT định hướng XHCN nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động chủ yếu. Tăng
trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Về mục đích phát triển: Nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh”
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền KT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân một
động lực quan trọng của nền kinh tế
1
Xem: Bộ Giáo dục đào tạo: Giáo tr
nh Lịch sử Đảng CSVN, Nxb. Chính trị quốc gia,
Nội, 2021, tr.398-399.
lOMoARcPSD|45650917
Về định hướng XH phân phối: Tăng trưởng KT gắn với phát triển XH. Phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh XH, phúc lợi XH
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, vai trò quản của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Kết quả xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Năm 1996: chấm dứt khủng hoảng KTXH; năm 2008 ra khỏi tình trạng nước nghèo và
kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Năm 2012 36 nước công nhận chế kinh tế thị trường Việt Nam
1
; Đến 2017, Việt
Nam đã có 64 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường
2
.
ĐH XIII (2021): Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển; kinh tế
ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế bản được bảo đảm,
tốc độ tăng trưởng duy tr
mức khá cao; quy tiềm lực nền kinh tế tăng lên,
chất lượng tăng trưởng được cải thiện
3
.
Quy GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương
409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu
đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. - Quan điểm chỉ
đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở VN
4
:
Hội nghi Trung ương 6 khoá X ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 về tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, với các quan điểm chỉ đạo là:
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế
thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố
thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa
Nhà nước, thị trường và xã hội.
Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn
hoá và bảo vệ môi trường.
Kế thừa chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại kinh nghiệm
tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực hiệu quả quản của Nhà nước, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.3. Cương lĩnh 1991, bổ sung sửa đổi 2011
- 8 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam
1
Giáo trình LSD 2021, tr.365
2
Ban Tuyên giáo trung ương: Hội nhập quốc tế, nxb Chính trị quốc gia, 2017, tr.40
3
Giáo trình, 2021, tr.394
4
Giáo trình, 2021, tr.316
lOMoARcPSD|45650917
- 8 phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam
- 8 mối quan hệ lớn cần giải quyết trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta
- 8 đăc trưng:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do Nhân dân làm chủ;
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp;
có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển;
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
- 8 phương hướng:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao
đời sống Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- 8 mối quan hệ:
Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất
hội chủ nghĩa;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
lOMoARcPSD|45650917
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
3.4. Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa
Khái niệm Văn hóa, văn hóa Việt Nam
Mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
Quan điểm xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
- Khái niệm văn hoá
Văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong thực tiễn
Văn hoá Việt Nam là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước
- Mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người như sau:
Xây dựng nền văn hóa con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc của hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. - Quan
điểm xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ mới
1
Văn hóa nền tảng tinh thần của hội, mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
(Nội dung, bản chất của nền văn hóa VN)
Phát triển văn hóa sự hoàn thiện nhân cách con người xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách,
lối sống tốt đẹp, với các đặc tính bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo.
Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, công đồng; phát triể hài
hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người mới. (Xác định mối quan hệ giữa con người và văn
hóa)
Xây dựngphát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. (Xác định chủ thể của văn hóa)
- Kết quả xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ mới
2
Phát triển văn hoá, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng
Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá được kế thừa, bảo tồn và phát
huy
Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo dưới 3%.
3.5. Đường lối đối ngoại
Kết quả
lOMoARcPSD|45650917
1 Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, tr.361_ Giáo trình 2021
2 Tr.398- Giáo trình 2021
Thuật ngữ đối ngoại và công tác đối ngoại
Theo từ điển Tiếng Việt thì Đối ngoại là khái niệm nói chính sách đối với nước ngoài, còn Ngoại
giao việc giao hữu giữa nước này với nước kia . Như vậy, thể hiểu đối ngoại những công
việc chung thuộc đường lối, chủ trương trong giải quyết mối quan hệ với nước ngoài, còn ngoại giao
là những công việc cụ thể giữa Đảng này với Đảng kia, nước này với nước kia.
Công tác đối ngoại là khái niệm dùng để chỉ “một chuỗi” các công việc, các quan hệ và các hoạt
động của một nước đối với một hoặc một số nước khác các tổ chức quốc tế. Sau cách mạng Tháng
Tám năm 1945, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam được tiến hành dưới sự lãnh đạo toàn diện,
tuyệt đối của Đảng, bao gồm cả đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Đối ngoại Đảng là mối quan hệ của Đảng ta với các đảng phái, các tổ chức chính trị ở các nước
trên thế giới; cũng đồng thời mối quan hệ giữa các lãnh đạo Đảng ta với lãnh đạo các đảng, các
chính khách, các tổ chức chính trị của các nước. Đối ngoại Đảng do lãnh đạo Đảng, lãnh đạo các
ban của Đảng, của các tổ chức của Đảng tTrung ương đến địa phương tiến hành trong quan hệ
song phương với các tổ chức, nhân nước ngoài hoặc tại các diễn đàn, tổ chức chính trị đa phương.
Ngoại giao Nhà nước mối quan hệ giữa Nhà nước ta với các Nhà nước khác; giữa lãnh đạo
của Nhà nước ta với lãnh đạo các nước, các tổ chức chính thức của các nước, các tổ chức quốc tế,
các diễn đàn đa phương; hoạt động chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Bộ
Ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao, và các cơ quan quan hệ đối ngoại khác.
Đối ngoại nhân dân là hoạt động đối ngoại sự tham gia rộng rãi của các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; các cơ quan, đơn vị
trong hệ thống chính trị ở các cấp không nhân danh Đảng, Nhà nước và chính phủ; của các nhân sỹ,
trí thức, các nhà khoa học, các văn nghệ sỹ, nhà báo, đồng bào các tôn giáo, các dân tộc, các doanh
nhân thuộc các thành phần kinh tế; của các tổ chức từ thiện, nhân đạo, bảo vệ môi trường; của nhân
dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài .
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới.
- Tư tưởng chỉ đạo đối ngoại
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính xây dựng thành công bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN,
đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Thuật ngữ đối ngoại và công tác đối ngoại
Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Tư tưởng chỉ đạo
Chủ trương đối ngoại
Kết quả
lOMoARcPSD|45650917
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị xã hội.
Giữ vững ổn định kinh tế- hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài;
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản của Nhà nước với các hoạt động đối
ngoại.
- Chủ trương đối ngoại
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
Bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy
định của WTO.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc
tế.
Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân;
chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản của Nhà nước đối với các hoạt động
đối ngoại.
- Kết quả đối ngoại
Nhận thức về đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn
Đến Đại hội VII khái niệm hội nhập vẫn chưa xuất hiện trong các văn kiện của Đảng, nhưng
nhận thức của Đảng về quá trình “quốc tế hoá” đã tạo tiền đề quan trọng để phát huy tư duy về hội
nhập quốc tế.
Thuật ngữ “hội nhập” được đề cập đầu tiên trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng
(6/1996):”Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Đại hội IX của Đảng (4/2001) và tiếp đó Bộ Chính trị ban hành nghị quyết số 07-NQ/TW ngày
27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội X (4/2006) đra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Đại hội XI( 2011), chủ trương của Đảng ta đã có thêm một bước phát triển quan trọng với việc
chuyển t“hội nhập kinh tế quốc tế” sang “tích cực chủ động hội nhập quốc tế”. Hội nghị Trung
ương 4 khoá XII (2016) xác định “hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế”
1
.
1
Tr.373, giáo trình 2021
lOMoARcPSD|45650917
Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung
khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác
1
Với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Trinidad và Tobago (ngày 01/2/2023), Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã gia nhập ASEAN năm 1995, APEC
năm 1998, trở thành thành viên sáng lập của nhiều diễn đàn, liên kết khu vực và quốc tế quan trọng
như Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), ký Hiệp định
Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên minh Châu Âu…
Tới nay, 5 nước quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là: Trung Quốc
(2008), Nga (2012), Nhật bản (2014), Ấn Độ (2016) Hàn Quốc (2022); Việt Nam đã Hiệp
định Đối tác Chiến lược với 11 quốc gia bao gồm 5 nước ASEAN các nước Anh, Pháp, Italy,
Tây Ban Nha, Australia (2018); New Zealand (2020).
----------------------------------------
1
Tr.400, giáo trình 2021
| 1/19

Preview text:

lOMoARcPSD| 45650917 Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐÔ ̣ LÊN CNXH VÀ
TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975-2018)
1. Khái quát các kỳ Đại hội thời kỳ cả nước quá độ lên CNXH và tiến
hành đổi mới của Đảng CSVN
Đại hội IV: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Thời gian: Từ 14 đến 20/12/1976 ; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 1.550.000; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.008; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Nhiệm vụ chính: Hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển đất nước.
Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và
thông qua Điều lệ mới gồm 11 chương và 59 điều, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư
thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.
Ðại hội V: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân
Thời gian: từ 27 đến 31/3/1982; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng Đảng viên trong cả
nước: 1.727.000; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.033; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Đảng phải lãnh
đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn
sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đánh dấu một
bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội VI: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
Thời gian: Từ 15 đến 18/12/1986; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 2.109.613; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.129; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nguyễn Văn Linh
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi mới);
Đại hội VI khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách
mạng và khoa học. Đại hội đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN, trong đó, phải xây dựng
quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản
lý và chế độ phân phối XHCN. lOMoARcPSD| 45650917
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải
đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội
ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức
mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan
trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
Đại hội VII: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN
Thời gian: từ 24 đến 27/6/1991; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 2.155.022; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176 ; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười.
Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới. Đại
hội khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh
lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.
Với nhiệm vụ “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới”, Đại
hội VII lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, xác định CNXH mà nhân dân ta xây dựng gồm 6 đặc trưng.

Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đại hội VIII: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Thời gian: từ 28/6 đến 1/7/1996; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng Đảng viên trong cả
nước: 2.130.000; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.198 đại biểu; Tổng Bí thư được bầu tại
Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt
còn chưa vững chắc. Đại hội đã đưa ra các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khoá VIII,
tháng 12/1997) bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội IX: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thời gian: Từ 19-22/4/2001; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả nước:
2.479.719; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.168; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh
Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội chỉ rõ mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng XHCN.

Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là nhiệm
vụ then chốt, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm lOMoARcPSD| 45650917
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và thế giới, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Đại hội X: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển
Thời gian: Từ 18 đến 25/4/2006; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 3,1 triệu; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nông Đức Mạnh.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đánh giá sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.
Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy
động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
phát triển
văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-
xã hội; sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XI: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới đất nước
Thời gian: Từ 12 đến 19/1/2011; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 3,6 triệu; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.377; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê
bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu
kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X.

Đại hội đã thảo luận sôi nổi, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý
nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 - 2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).
Đại hội XII: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại
Thời gian: Từ 20 đến 28/1/2016; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Số lượng đảng viên trong cả
nước: 4,5 triệu; Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.510; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội:
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đánh giá thành tựu và hạn chế sau
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
lOMoARcPSD| 45650917
Đại hội này cũng là lần đầu tiên Đảng thực hiện Đề án Quy hoạch Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước
nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo
. Theo đó công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà
nước nhiệm kỳ 2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, thận
trọng và thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao của các đại biểu dự Đại hội.
Đại hội XIII: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Thời gian: khai mạc 26/1/2021; Địa điểm: Thủ đô Hà Nội; Dự Đại hội có 1.587 đại biểu
thay mặt cho hơn 5,2 triệu đảng viên toàn Đảng; Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng.
Nhiệm vụ chính: Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh
năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2021 - 2025, xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.
Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả
cụ thể, rõ rệt.
Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong
Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.
Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt
hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết
quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng
trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những
nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. …

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được
hiện thực hóa
. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có
thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

2. LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-1986)
2.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-1981)
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn thành
thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của Nhân dân cả nước, vừa là quy luật
khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cần xúc tiến việc lOMoARcPSD| 45650917
thống nhất nước nhà một cách tích cực và khẩn trương. Thống nhất càng sớm thì càng mau chóng
phát huy sức mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực
phản động trong nước và trên thế giới.
Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Bắc,
Nam đã họp tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà
cần được sớm thống nhất về mặt nhà nước. Tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu
ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976 theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung
của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri đi bầu (đạt tỉ lệ 98,77% tổng số
cử tri), đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ
trang, đại biểu tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo... trên cả nước.
Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất
đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc
huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố
Hồ Chí Minh. Quốc hội đã bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước; Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn
Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước; Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội và Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc (1976-1981)
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà Nội. Đại hội đã
thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm
(1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt
Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban chấp hành Trung ương gồm
101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư.
Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khẳng định thắng lợi của Nhân
dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một
sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc. Đại hội đã phân tích tình hình thế
giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với
nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ
nghĩa thực dân mới gây ra1.
1 Qua hàng chục năm chiến tranh, đế quốc Mỹ ném xuống nước ta 7.850.000 tấn bom đạn, trong đó có 451.260 tấn
chất độc hoá học, 338 tấn bom napan làm gần 2 triệu người bị chết, hơn 2 triệu người bị tàn tật, 2 triệu người, trong đó
có khoảng 5 vạn trẻ em dị dạng do bị nhiễm chất độc màu da cam. lOMoARcPSD| 45650917
Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi,
song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới
còn gay go, quyết liệt”1.
Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và Nhân dân ta phải phát huy
cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm trên, đặc điểm
đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của
nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của Nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa , xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố
quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của Nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”2. Trong đường lối chung thể hiện
nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa;
coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của Nhân dân lao động là công cụ
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lĀ trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan
hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước
khác.
Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá giai đoạn này nhằm hai
mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống Nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát
triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể;
coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc
tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh
hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ vũ,
động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tập 37, tr.988.̣
2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tập 37, tr.998.̣ lOMoARcPSD| 45650917
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban chấp hành Trung ương đã họp nhiều lần,
tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông:
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi là Bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của
Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra
quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được miễn thuế,
trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người
sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi
tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Theo Chỉ thị, mỗi xã
viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những
khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.
Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng.
Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm
thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Tp.Hồ Chí
Minh và Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ động sản
xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số
26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước
. Những chủ trương trên đã tạo nên
động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng thiết tha
của Nhân dân Việt Nam là hoà bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ để xây dựng đất nước. Song chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã cấu kết với nhau ra sức chống phá, buộc Việt Nam phải tiến
hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Từ tháng 4-1975, Pôn Pốt đã thi hành chính sách diệt chủng ở Campuchia và tăng
cường chống Việt Nam. Ngày 3-5-1975, chúng cho quân đổ bộ chiếm Thổ Chu, Phú Quốc, sau
đó tiến hành hàng ngàn vụ tấn công lấn chiếm đất đai, giết hại Nhân dân Việt Nam trên toàn tuyến
biên giới Tây Nam bằng những hình thức vô cùng dã man. Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều
lần đề nghị đàm phán ở bất cứ cấp nào, thời gian nào, ở mọi nơi để giải quyết xung đột nhưng tập
đoàn Pôn Pốt đều từ chối. Cuối tháng 12-1978, chính quyền Pôn Pốt huy động tổng lực tiến công
xâm lược quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam với mục tiêu nhanh chóng tiến sâu
vào nội địa Việt Nam.

Để bảo vệ độc lập và chủ quyền Tổ quốc, quân và dân Việt Nam đã đánh trả, tiến công đánh
đuổi bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi. Thể theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia, từ ngày 26-12-1978, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp và giúp đỡ Campuchia
tổng tiến công, đến ngày 7-1-1979 giải phóng Phnôm Pênh, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.
Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Theo
Hiệp ước, quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia để giúp bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và hồi sinh đất nước. Hành động đó của Việt Nam là chính nghĩa và cũng xuất phát từ nhu
cầu tự vệ chính đáng được ghi nhận trong Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc và đã được Nhân
dân Campuchia và thế giới ghi nhận. lOMoARcPSD| 45650917
Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố rút chuyên gia, cắt viện trợ cho Việt Nam, liên tiếp lấn
chiếm dẫn đến xung đột trên tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam từ năm 1978 đã làm cho quan hệ
Trung Quốc - Việt Nam xấu đi rõ rệt. Ngày 17-2-1979, Trung Quốc huy động hơn 60 vạn quân đồng
loạt tấn công toàn tuyến biên giới nước ta từ Lai Châu đến Quảng Ninh, gây ra những thiệt hại rất
nặng nề. Ngày 5-3-1979, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ra lệnh Tổng động viện toàn quốc. Quân dân Việt
Nam, nhất là quân dân các tỉnh biên giới phía Bắc, được Nhân dân thế giới ủng hộ đã kiên cường
chiến đấu bảo vệ đất nước. Ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng chưa từ bỏ hoạt
động chống phá trên tuyến biên giới, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân, dân ta vẫn
diễn ra trong nhiều năm sau đó, đặc biệt là trên mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang ngày 12-7-1984. Từ

ngày 18-4-1979 về sau, Việt Nam và Trung Quốc đã đàm phán, từng bước giải quyết những tranh
chấp về biên giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khôi phục hoà b
nh, quan hệ hữu nghị truyền thống
giữa Nhân dân hai nước.

Sau 6 năm (1975-1981), quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống nhất nước nhà về
mặt nhà nước, chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã khắc phục một phần hậu quả
chiến tranh và thiên tai liên tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu
ruộng đất của đế quốc, phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến đưa nông nghiệp từng bước
lên sản xuất lớn với các đội chuyên, làm khoán. Tuy nhiên, kết quả nhn chung đã không đạt chỉ
tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần
xuất khẩu. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”,
”khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng...

Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nề liên
tiếp xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù
địch. Tuy nhiên về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và
quản l
Ā kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn trên. Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã tự phê b
nh về những khuyết điểm và sai lầm của đó trước Đại hội V của Đảng.
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế (1982-1986)
Đại hội V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thế
giới trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới. Hoa Kỳ tiếp tục
thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc
tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương. Trong nước, tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích nguyên
nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới; khẳng định tiếp
tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV đề ra. Ngoài thông qua những
nhiệm vụ kinh tế, văn hóa xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại, xây dựng Đảng...
Đại hội V đề ra những quan điểm mới: Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu
tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội. Đó là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng
đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng
thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến lên
cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của Nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
lOMoARcPSD| 45650917
Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
mật thiết với nhau. “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta và Nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”1.

Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng

tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp l
Ā.
Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn nhưng
khuyết điểm là trong khâu tổ chức thực hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức
và cần thiết. Đại hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác
định những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về công tác quản lý lưu thông, phân
phối; vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam trong
vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng
một cách tràn lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển nông nghiệp và
công nghiệp hàng tiêu dùng... Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế

Sau Đại hội V, Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết:
Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách về
phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu mua nắm nguồn
hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận
sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm.
Nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là Bước đột phá thứ hai
trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, TW chủ trương xoá bỏ cơ chế
tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp, lấy Giá - Lương - Tiền là khâu đột phá để chuyển sang
cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Nội dung xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp lý trong
giá thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả
đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xoá bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ;
thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc phục tình trạng thả nổi trong việc định giá và
quản lý giá. Thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hoạch toán kinh doạnh xã hội chủ nghĩa. Giá - Lương -
Tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm,
xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Xoá bỏ các khoản chi của
ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển hẳn công
tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và
những quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình tổ chức thực hiện
1 Đảng C ⌀ng sản Vi ⌀t Nam (1982) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự th ⌀t, H 愃 N ⌀i, tr.42. lOMoARcPSD| 45650917
lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn
bị đủ mọi mặt. Cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng sâu sắc hơn.
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế”. Đây là Bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết
định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản
xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển
công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện
cho được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị khẳng định: phải biết lựa chọn bước đi và hình thức
thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung
gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức
đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng,
tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội
chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân
phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể
làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.
Về cơ chế quản lĀ kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất
phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch
hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử
dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự
chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền
tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương
trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh
giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được
trình bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội VI của Đảng.
Tổng kết 10 năm (1975-1986), Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện thắng lợi
chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu quan trọng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế. Sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và
Đại hội V của Đảng đề ra: Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng
chậm và không ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng
cao và kéo dài; đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống Nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội do xây dựng đất nước từ
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện lOMoARcPSD| 45650917
trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh ở biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quan là do những sai
lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh
tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội
và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển
nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích
của Nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.
3.
3. Đường lối lãnh đạo của Đảng thời kỳ đổi mới
GV giới thiệu 5 trọng tâm:
- Đường lối Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
- Đường lối xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Cương lĩnh 1991, bổ sung sửa đổi 2011
- Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa
- Đường lối đối ngoại 3.1.
Đường lối Công nghiệp hóa, hiện đại hoá
- Khái niệm CNH, HĐH (TW7 khóa VII)
- Mục tiêu CNH, HĐH
- Quan điểm CNH, HĐH (Tr.130 TLHT 2021; tr.287- Giáo trình của Bộ GD&DT, 2021)
- Kết quả CNH, HĐH (Tr.181- TLHT 2021; tr.396 Giáo trình Bộ GD&DT, 2021)
Đảng CSVN lần đầu tiên đề cập đến công nghiệp hoá trong văn kiện Đại hội III năm 1960,
tuy nhiên Việt Nam tiến hành CNH khi chưa có đủ những tiền đề và điều kiện cần thiết nên mặc dù
đạt được những kết quả nhất định (chủ yếu là phục vụ cho chiến tranh, thống nhất Tổ quốc) nhưng
hiệu quả kinh tế, xã hội thấp.
- Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trìnhchuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (Hội nghị Trung
ương 7- khóa VII (tháng 1-1994)

- Mục tiêu của CNH:
Mục tiêu lâu dài: là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. lOMoARcPSD| 45650917
Đại hội XII (2016): sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Quan điểm CNH, HĐH: (Xem Đại hội VIII)
- Quan điểm về công nghiệp hóa trong thời kỳ mới gồm: 1)
Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng
hoáquan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. 2)
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trongđó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3)
Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bềnvững. 4)
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp công
nghệtruyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. 5)
Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự
ánđầu tư và công nghệ. 6)
Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng đầu. Đảng phải tiếp tục sự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn
nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các biểu hiện tiêu cực và yếu
kém. Cần phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và đổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng1. - Kết quả CNH, HĐH
Năm 1991, GDP đầu người của Việt Nam là 143 USD/năm và chúng ta đứng ở vị trí 184, thấp
nhất thế giới. Đến năm 2012, GDP đạt khoảng 1.600 USD/người/năm, Việt Nam đứng ở vị trí thứ
155 và năm 2013, GDP đạt bình quân 1.911 USD/người, đứng thứ 132. Như vậy, đã có sự cải thiện về thứ hạng.
GDP 2020: 271,2 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 2,779 USD2
Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương 409 tỷ
USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương
đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Theo Tổng cục Thống kê, GDP Việt
Nam trong năm 2022 đạt 409 tỷ USD. Còn theo IMF, con số này nhỉnh hơn một chút là 413,81 tỷ USD.
1 Xem: Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trnh Lịch sử Đảng CSVN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.287.
2 Xem: Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trnh Lịch sử Đảng CSVN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.396 lOMoARcPSD| 45650917
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 5. Việt Nam xếp sau Indonesia (1,29 nghìn tỷ
USD), Thái Lan (534,76 tỷ USD), Malaysia (434,06 tỷ USD), Singapore (423,63 tỷ USD) và xếp
ngay trên Philippines (401,66 tỷ USD).
Trên thế giới, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 37 về quy mô kinh tế. Indonesia đứng thứ 17, Thái
Lan đứng thứ 26, Malaysia đứng thứ 35, Singapore đứng thứ 36.
Năm 2022, IMF đã đưa ra dự báo quy mô GDP cho các nước trên thế giới. Trong đó, quy mô
GDP Việt Nam năm 2022 được dự báo đạt khoảng 413,81 tỷ USD, xếp thứ 37 trên thế giới.
Đại hội XIII (2021) đánh giá: tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều của VN dưới 3%.1 3.2.
Đường lối xây dựng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN -
KTTT định hướng XHCN là gì? -
Mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam -
Tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam -
Kết quả xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam -
Quan điểm chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở VN -
Khái niệm: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh
tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (Đại hội XII, 2016) -
Mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
KTTT định hướng XHCN nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Tăng
trưởng kinh tế gắn với phát triển xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng -
Tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Về mục đích phát triển: Nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền KT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế
1 Xem: Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trnh Lịch sử Đảng CSVN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.398-399. lOMoARcPSD| 45650917
Về định hướng XH và phân phối: Tăng trưởng KT gắn với phát triển XH. Phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh XH, phúc lợi XH
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, vai trò quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. -
Kết quả xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Năm 1996: chấm dứt khủng hoảng KTXH; năm 2008 ra khỏi tình trạng nước nghèo và
kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Năm 2012 có 36 nước công nhận cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam1; Đến 2017, Việt
Nam đã có 64 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường2.
ĐH XIII (2021): Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển; kinh tế
vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm,
tốc độ tăng trưởng duy tr
ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên,
chất lượng tăng trưởng được cải thiện3
.
Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương
409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu
đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. - Quan điểm chỉ
đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở VN4:
Hội nghi Trung ương 6 khoá X ra nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 về tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, với các quan điểm chỉ đạo là:
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế
thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố
thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa
Nhà nước, thị trường và xã hội.
Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn
hoá và bảo vệ môi trường.
Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm
tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.3.
Cương lĩnh 1991, bổ sung sửa đổi 2011 -
8 đặc trưng của CNXH ở Việt Nam
1 Giáo trình LSD 2021, tr.365
2 Ban Tuyên giáo trung ương: Hội nhập quốc tế, nxb Chính trị quốc gia, 2017, tr.40 3 Giáo trình, 2021, tr.394 4 Giáo trình, 2021, tr.316 lOMoARcPSD| 45650917 -
8 phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam -
8 mối quan hệ lớn cần giải quyết trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta - 8 đăc trưng:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp;
có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. - 8 phương hướng:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao
đời sống Nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. - 8 mối quan hệ:
Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; lOMoARcPSD| 45650917
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. 3.4.
Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa
Khái niệm Văn hóa, văn hóa Việt Nam
Mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
Quan điểm xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế Kết quả - Khái niệm văn hoá
Văn hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong thực tiễn
Văn hoá Việt Nam là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước -
Mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người như sau:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thực sự trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
- Quan
điểm xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ mới1

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
(Nội dung, bản chất của nền văn hóa VN)
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách,
lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, công đồng; phát triểṇ hài
hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây dựng con người mới. (Xác định mối quan hệ giữa con người và văn hóa)
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. (Xác định chủ thể của văn hóa) -
Kết quả xây dựng nền văn hoá Việt Nam thời kỳ mới2
Phát triển văn hoá, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng
Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá được kế thừa, bảo tồn và phát huy
Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo dưới 3%. 3.5.
Đường lối đối ngoại lOMoARcPSD| 45650917
Thuật ngữ đối ngoại và công tác đối ngoại
1 Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, tr.361_ Giáo trình 2021 2 Tr.398- Giáo trình 2021
Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại Tư tưởng chỉ đạo Chủ trương đối ngoại Kết quả
Thuật ngữ đối ngoại và công tác đối ngoại
Theo từ điển Tiếng Việt thì Đối ngoại là khái niệm nói chính sách đối với nước ngoài, còn Ngoại
giao là việc giao hữu giữa nước này với nước kia . Như vậy, có thể hiểu đối ngoại là những công
việc chung thuộc đường lối, chủ trương trong giải quyết mối quan hệ với nước ngoài, còn ngoại giao
là những công việc cụ thể giữa Đảng này với Đảng kia, nước này với nước kia.
Công tác đối ngoại là khái niệm dùng để chỉ “một chuỗi” các công việc, các quan hệ và các hoạt
động của một nước đối với một hoặc một số nước khác và các tổ chức quốc tế. Sau cách mạng Tháng
Tám năm 1945, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam được tiến hành dưới sự lãnh đạo toàn diện,
tuyệt đối của Đảng, bao gồm cả đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Đối ngoại Đảng là mối quan hệ của Đảng ta với các đảng phái, các tổ chức chính trị ở các nước
trên thế giới; cũng đồng thời là mối quan hệ giữa các lãnh đạo Đảng ta với lãnh đạo các đảng, các
chính khách, các tổ chức chính trị của các nước. Đối ngoại Đảng do lãnh đạo Đảng, lãnh đạo các
ban của Đảng, của các tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương tiến hành trong quan hệ
song phương với các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc tại các diễn đàn, tổ chức chính trị đa phương.
Ngoại giao Nhà nước là mối quan hệ giữa Nhà nước ta với các Nhà nước khác; giữa lãnh đạo
của Nhà nước ta với lãnh đạo các nước, các tổ chức chính thức của các nước, các tổ chức quốc tế,
các diễn đàn đa phương; là hoạt động chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Bộ
Ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao, và các cơ quan quan hệ đối ngoại khác.
Đối ngoại nhân dân là hoạt động đối ngoại có sự tham gia rộng rãi của các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; các cơ quan, đơn vị
trong hệ thống chính trị ở các cấp không nhân danh Đảng, Nhà nước và chính phủ; của các nhân sỹ,
trí thức, các nhà khoa học, các văn nghệ sỹ, nhà báo, đồng bào các tôn giáo, các dân tộc, các doanh
nhân thuộc các thành phần kinh tế; của các tổ chức từ thiện, nhân đạo, bảo vệ môi trường; của nhân
dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài .
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
- Tư tưởng chỉ đạo đối ngoại
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN,
đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. lOMoARcPSD| 45650917
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội.
Giữ vững ổn định kinh tế- xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài;
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý của Nhà nước với các hoạt động đối ngoại.
- Chủ trương đối ngoại
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân;
chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
- Kết quả đối ngoại
Nhận thức về đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn
Đến Đại hội VII khái niệm hội nhập vẫn chưa xuất hiện trong các văn kiện của Đảng, nhưng
nhận thức của Đảng về quá trình “quốc tế hoá” đã tạo tiền đề quan trọng để phát huy tư duy về hội nhập quốc tế.
Thuật ngữ “hội nhập” được đề cập đầu tiên trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng
(6/1996):”Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Đại hội IX của Đảng (4/2001) và tiếp đó Bộ Chính trị ban hành nghị quyết số 07-NQ/TW ngày
27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội X (4/2006) đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Đại hội XI( 2011), chủ trương của Đảng ta đã có thêm một bước phát triển quan trọng với việc
chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”. Hội nghị Trung
ương 4 khoá XII (2016) xác định “hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế”1. 1 Tr.373, giáo trình 2021 lOMoARcPSD| 45650917
Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung
khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác1
Với việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Trinidad và Tobago (ngày 01/2/2023), Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã gia nhập ASEAN năm 1995, APEC
năm 1998, trở thành thành viên sáng lập của nhiều diễn đàn, liên kết khu vực và quốc tế quan trọng
như Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP), Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), ký Hiệp định
Thương mại tự do và Hiệp định Bảo hộ đầu tư với Liên minh Châu Âu…
Tới nay, có 5 nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là: Trung Quốc
(2008), Nga (2012), Nhật bản (2014), Ấn Độ (2016) và Hàn Quốc (2022); Việt Nam đã ký Hiệp
định Đối tác Chiến lược với 11 quốc gia bao gồm 5 nước ASEAN và các nước Anh, Pháp, Italy,
Tây Ban Nha, Australia (2018); New Zealand (2020).
---------------------------------------- 1 Tr.400, giáo trình 2021