-
Thông tin
-
Quiz
Đánh giá kết quả triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954 | Tiểu luận Lịch sử ngoại giao và chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại của một quốc gia, còn được gọi là chính sách ngoại giao, bao gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và đạt được các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế. Vì lợi ích quốc gia là tối quan trọng, các chính sách đối ngoại được chính phủ thiết kế thông qua các quy trình ra quyết định cấp cao. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử ngoại giao Việt Nam 16 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.2 K tài liệu
Đánh giá kết quả triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954 | Tiểu luận Lịch sử ngoại giao và chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại của một quốc gia, còn được gọi là chính sách ngoại giao, bao gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và đạt được các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế. Vì lợi ích quốc gia là tối quan trọng, các chính sách đối ngoại được chính phủ thiết kế thông qua các quy trình ra quyết định cấp cao. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử ngoại giao Việt Nam 16 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.2 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ ------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Đề tài: Đánh giá kết quả triển khai chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954
GV HƯỚNG DẪN: PGS,TS. NGUYỄN THỊ QUẾ
Sinh viên: NGUYỄN THỊ LAN ANH
Mã số sinh viên: 2156110006
Lớp tín chỉ: QT02615_K41.1
Lớp hành chính: QHCT&TTQT K41
Hà nội, tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................3
1. Khái quát bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước giai đoạn 1945-
1954:.......................................................................................................................3
1.1. Tình hình thế giới và khu vực:........................................................................3
1.2. Tình hình trong nước:......................................................................................5
2. Đánh giá việc triển khai các chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai
đoạn 1945-1954:.....................................................................................................7
2.1. Thành tựu:.......................................................................................................7
2.2. Hạn chế:.........................................................................................................28
2.3. Bài học kinh nghiệm:....................................................................................30
3. Đánh giá kết quả triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945
– 1954...................................................................................................................32
KẾT LUẬN.............................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................35 1 MỞ ĐẦU
Chính sách đối ngoại của một quốc gia, còn được gọi là chính sách ngoại
giao, bao gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia
mình và đạt được các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế. Vì lợi ích quốc
gia là tối quan trọng, các chính sách đối ngoại được chính phủ thiết kế thông qua
các quy trình ra quyết định cấp cao. Chính sách đối ngoại nhắm đến các chủ thể
bên ngoài phạm vi của hệ thống chính trị trong nước, nhằm đạt được những mục
tiêu khác nhau, phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Chính sách đối ngoại của bất
cứ quốc gia nào cũng đều nhằm ba mục tiêu cơ bản, đó là góp phần bảo vệ độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia; tranh thủ những điều kiện quốc tế
thuận lợi nhất để phát triển đất nước và nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng trên
trường quốc tế. Chính sách đối ngoại của Việt Nam là một ví dụ điển hình. Trong
70 năm dựng nước và giữ nước, ngoại giao luôn có mặt và đóng vai trò quan trong
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như đời sống của nhân dân. Việt
Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị, xã hội cơ
bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn.
Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế
với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Những
phương châm, đường lối đối ngoại của ta bắt đầu cùng với sự hình thành của nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến nay, những chính sách đó vẫn là những
công cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát
triển về các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội . Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của
Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt động ngoại giao của nước nhà. Từ đó, ta rút ra
được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng, sáng tạo góp phần phát triển đất 2
nước. Đồng thời, những kiến thức mà ta thu được qua tìm hiểu các chính sách
ngoại giao, hoạt động ngoại giao cũng giúp ích cho ta trong việc ứng xử, trong
công việc hàng ngày. Trong giai đoạn 1945-1954, tình hình trong nước và quốc tế
diễn biến rất phức tạp. Ngoại giao Việt Nam lúc này phải phát huy hết khả năng để
giữ vững độc lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà ngoại giao
Việt Nam được thể hiện rất rõ nét với những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và đặc biệt
là việc triển khai các chính sách đối ngoại một cách khôn khéo nhất. Vì những lý
do trên đây, người viết chọn đề tài: Đánh giá kết quả triển khai chính sách đối
ngoại của Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954. Trong phạm vi của đề tài, người viết
tập trung vào những vấn đề chính sau:
1. Khái quát bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945 – 1954
2. Đánh giá kết quả việc triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1954. 3 NỘI DUNG
1. Khái quát bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước giai đoạn 1945-1954:
1.1. Tình hình thế giới và khu vực: 1.1.1. Thuận lợi:
Trên phạm vi quốc tế, cục diện thế giới cũng đang có những sự thay đổi lớn.
Tại Hội nghị Ianta (ở Crưm – Liên Xô, 12/ 2/1945) và Hội nghị Pốt-xđam (ở Đức,
17/ 7/1945), Nguyên thủ 3 nước Liên Xô, Mỹ và Anh nhất trí: thành lập Liên hợp
quốc (trong đó 5 cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc là 5 ủy viên
thường trực Hội đồng Bảo an có quyền phủ quyết); nước Đức bại trận bị chia cắt
thành nhiều khu vực dưới sự quản lý của Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp; Đông Âu thuộc
phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô; Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ.
Khuôn khổ một trật tự thế giới mới - trật tự thế giới hai cực được hình thành. Sau
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, phong trào cách mạng trên thế giới có bước phát
triển mạnh mẽ; Uy tín và ảnh hưởng của Liên Xô không ngừng được mở rộng. Sau
khi giải phóng khỏi chủ nghĩa phát xít, một số nước ở Đông Âu được sự ủng hộ và
giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội và sau
đó phe xã hội chủ nghĩa dần hình thành do Liên Xô làm trụ cột và trở thành hệ
thống đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Chiến tranh thế giới lần
thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít thế giới bị tiêu diệt, chủ nghĩa đế quốc lâm vào
tình trạng suy yếu, đã tạo ra điều kiện cho phong trào chống đế quốc, thực dân giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa ở khắp các nước châu Á, châu Phi và cả Mỹ
Latinh dâng cao, trở thành một dòng thác cách mạng đánh đổ chủ nghĩa thực dân.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư
bản chủ nghĩa đòi tự do, dân chủ, đòi cải thiện đời sống đã diễn ra sôi nổi và rộng 4
lớn. Ở một số nước như: Pháp, Italia, Đảng Cộng sản có vị trí quan trọng trong đời
sống chính trị của đất nước.Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, sự thảm bại của
phát xít Nhật và các thế lực tay sai đã tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc, trong đó Việt Nam
là một nước đi tiên phong. 1.1.2. Khó khăn:
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc cũng là lúc các nước lớn, phe đế
quốc chủ nghĩa bộc lộ rõ âm mưu mới trong việc “chia lại hệ thống thuộc địa thế
giới”, bắt tay, dàn xếp với nhau, một mặt tìm cách liên kết phục hồi chủ nghĩa thực
dân, duy trì ảnh hưởng và sự thống trị của mình đối với các nước thuộc địa, phụ
thuộc, mặc khác ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó,
có cách mạng Việt Nam. Mặc dù Việt Minh có được những mối quan hệ ban đầu
tốt đẹp với nước Mỹ và Đồng minh chống phát xít từ trước năm 1945, nhưng sau
khi Việt Nam giành được chính quyền tháng 8-1945, vì lợi ích cục bộ của mình và
phe đế quốc, các nước đồng minh chống phát xít, nhất là Mỹ lại không ủng hộ lập
trường độc lập của Việt Nam. Không có nước nào công nhận địa vị pháp lý của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan hệ của Đảng Cộng sản Đông Dương
với các Đảng Cộng sản thế giới, với phong trào giải phóng dân tộc cũng gặp nhiều
khó khăn, trở ngại. Việt Nam bị bao vây cách biệt với thế giới bên ngoài. Ở các
nước láng giềng như Lào, Campuchia và trong khu vực Đông Nam Á, lực lượng
yêu nước, cách mạng gặp nhiều khó khăn, trở lực lớn do sự hành xử thiếu thiện
chí, dã tâm xâm lược của các thế lực hiếu chiến, phản động cầm quyền ở các nước
tư bản chủ nghĩa phương Tây, nhất là thái độ của Chính phủ Mỹ, Anh, Pháp, Trung
Hoa Dân quốc (Tưởng Giới Thạch) đối với vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Cục
diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phực tạp, có những tác động bất 5
lợi đối với cách mạng 3 nước Đông Dương nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng.
1.2. Tình hình trong nước: 1.2.1. Thuận lợi:
Ở trong nước, thuận lợi cơ bản và lâu dài là Việt Nam trở thành quốc gia độc
lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của
chế độ dân chủ mới; Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách
mạng trong cả nước. Việc hình thành hệ thống chính sách quyền cách mạng thống
nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở trong toàn quốc với những phẩm chất chính trị
hoàn toàn mới; cơ cấu tổ chức bộ máy, mục đích hoạt động gắn liền với lợi ích của
nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân…
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng niềm tin, sức mạnh của nhân dân cả nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với uy tín đạo đức, trí tuệ và tài năng của mình đã trở thành
trung tâm đại đoàn kết toàn dân tộc, là biểu tượng của nền độc lập, tự do của Việt
Nam. Sự phát triển nhanh của Quân đội quốc gia Việt Nam, việc thống nhấ lực
lượng Công an trong toàn quốc, thành lập các tòa án quân sự và xây dựng các tổ
chức bán vũ trang khác… trở thành công cụ chuyên chính tin cậy, sắc bén để bảo
vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng. 1.2.2. Khó khăn:
Ở bên trong, cách mạng Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn, thử
thách hết sức to lớn. Hệ thống chính quyền cách mạng vừa được thiết lập, còn rất 6
non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; ảnh hưởng, tác động tiêu cực của hậu
quả chiến tranh rất nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm
trọng. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xõ xác,
tiêu điều sau chiến tranh tàn khốc, công nghiệp đình đốn, nhiều nhà máy xí nghiệp
ngưng trệ, nông nghiệp bị hoang hóa tới 50% ruộng đất; nền tài chính ngân khố
kiệt quệ, kho bạc trống rỗng, Ngân hàng Đông Dương lại đang nằm trong tay tư
bản nước ngoài; các tiêu cực xã hội tràn lan, các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ
nạn do chế độ cũ để lại rất to lớn, nhất là 95% dân số thất học, mù chữ, 2 triệu
người dân chết đói cuối năm 1944 đầu năm 1945,… Nhưng trở ngại, thách thức
lớn nhất, nghiêm trọng nhất đối với cách mạng Việt Nam lúc này là âm mưu và
hành động xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Pháp muốn quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh-
Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở Nam
Việt Nam; đội quân thực dân Pháp theo chân quân đội Anh quay trở lại xâm lược
Nam Bộ. Với sự thỏa thuận lợi ích của phe đế quốc, quân đội Anh đã trực tiếp bảo
trợ và sử dụng đội quân Nhật giúp đội quân xâm lược của thực dân Pháp ngang
nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn – Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng
ngày 23-9-1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng
8-1945, hơn 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch được lệnh của Mỹ hùng hổ tràn
qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của phe đế quốc, đứng
đầu là Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật thua
trận ở Bắc Việt Nam. Đội quân Tưởng vào Việt Nam kéo theo lũ tay sai hùng hậu, 7
với âm mưu vô cùng nguy hiểm, thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” –
tiêu diệt cộng sản, bắt giam Hồ Chí Minh, phá tan Mặt trận Việt Minh. Trên đất
nước Việt Nam lúc này còn có 6 vạn quân đội Nhật thua trận đang chờ giải giáp.
Nền độc lập non trẻ của Việt Nam phải đương đầu với sự hiện diện của đội quân
nước ngoài đông đúc chưa từng có với khoảng hơn 30 vạn tên. Cách mạng Việt
Nam còn phải đối phó với sự xuất hiện của các đảng phái chính trị phản động, các
thế lực tay sai ăn theo đội quân xâm lược của ngoại bang, các thế lực chống đối
trong giai cấp bóc lột cũ, các đối tượng phản cách mạng cũ, các loại tội phạm hình
sự đồng loạt ngóc đầu dậy chống phá cách mạng rất quyết liệt.
Chính quyền non trẻ và nhân dân Việt Nam lúc này phải đối phó với nhiều
loại kẻ thù cả trong và ngoài nước, nền độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe dọa
nghiêm trọng, vận mệnh chính quyền cách mạng “như ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng
Cộng sản cầm quyền, Chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức
hết sức to lớn, nghiêm trọng và những biến động phức tạp khôn lường.
2. Đánh giá việc triển khai các chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954: 2.1. Thành tựu:
2.1.1. Thông cáo ngày 3-10-1945 về chính sách ngoại giao – văn kiện ngoại
giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ở Thủ đô Hà Nội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Sau đó một tháng
ngày 3-10-1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới đã công bố một văn
kiện ngoại giao hết sức quan trọng, xác định những định hướng cơ bản trong chính
sách ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và góp phần đề cao địa vị 8
pháp lý của chính quyền cách mạng. Đồng thời, Thông cáo cũng đặt nền móng cho
chính sách đối ngoại rộng mở đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ sau này.
Thông cáo về chính sách ngoại giao gồm các nội dung chính sau đây:
Trước hết, thông cáo khẳng định mục đích của đất nước Việt Nam, mục tiêu
của chính sách đối ngoại Việt Nam là “đưa nước nhà đến sự độc lập hoàn toàn và
vĩnh viễn”; “Nước Việt Nam còn đương ở giai đoạn đấu tranh kịch liệt, tất cả chính
sách ngoại giao phải có chính sách cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh ấy thắng lợi
bằng mọi phương pháp thích hợp”, “êm dịu hay cương quyết”, “dựa trên nguyên
tắc Hiến chương Đại Tây Dương”. Đồng thời, thông cáo cũng khẳng định Việt
Nam sẽ cùng các nước trong Đồng minh xây đắp lại nền hòa bình thế giới”. Thông
cáo còn đề ra chính sách đối ngoại với bốn đối tượng:
Về chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam
- Đối với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy trì hữu nghị và
thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng nền hòa bình thế giới lâu dài.
- Đối với Pháp, chính sách của Việt Nam là: bảo vệ tính mạng, tài sản kiều
dân Pháp đúng theo luật quốc tế, miễn là họ yên ổn sinh sống và tôn trọng pháp
luật, chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam; nhưng kiên quyết chống bọn thực
dân Pháp đang chuẩn bị và bắt đầu chiến tranh xâm lược; đối với nước Pháp, Việt
Nam muốn xây dựng quan hệ hữu nghị dựa trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng quyền lợi lẫn nhau.
- Việt Nam sẵn sàng thắt chặt mối thân thiện với các dân tộc nhược tiểu và
hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng để giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau duy trì, củng cố độc lập dân tộc..
- Đặc biệt, đối với nhân dân Khmer và Lào, Việt Nam đặt quan hệ dựa trên
nguyên tắc dân tộc tự quyết. Đã từng chịu ách đô hộ của Pháp, nhân dân ba nước lẽ
dĩ nhiên phải cùng nhau đấu tranh để cởi ách đô hộ đó, giúp đỡ lẫn nhau giành lại 9
và duy trì nền độc lập của mình. Hơn nữa Khmer, Lào và Việt Nam có quan hệ
kinh tế chặt chẽ, ba nước sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc kiến thiết và cùng
nhau tiến lên trên con đường tiến bộ.
Thông cáo ngày 3-10-1945 về chính sách ngoại giao là sự nối tiếp và phát
triển chủ trương, chính sách đối ngoại đã được Đảng ta xác định tại Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), thông cáo của Trung ương “Cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng (tháng 11- 1945), Nghị
quyết Hội nghị quân sự Bắc kỳ (tháng 4-1945) và đặc biệt là Hội nghị toàn quốc
của Đảng ở Tân Trào (từ ngày 14 – 15-8-1945), Tuyên ngôn độc lập. Từ phân tích,
đánh giá tình hình trong nước, Đảng ta đã nhận diện đúng kẻ thù chính: “Kẻ thù
trước mắt của dân tộc ta là thực dân phản động Pháp. Chúng đang uy hiếp chủ
quyền của ta, tiến công ta, lấn bước ta, khiêu khích ta..”; “Mục đích của ta lúc này
là tự do, độc lập. Ý chí của ta lúc này là dân chủ, hòa bình. Là bạn của ta trong giai
đoạn này tất cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán
thành mục đích ấy, cùng ta chung một ý chí ấy”. Nghĩa là: “thân thiện với tất cả
các nước coi trọng nền độc lập của Việt Nam”. Chủ trương này của chúng ta trước
đó đã được thể hiện trong Chương trình Việt Minh, với bốn nội dung: i) Hủy bỏ tất
cả các hiệp ước mà Pháp đã ký bất kỳ với nước nào; ii) Tuyên bố các dân tộc bình
đẳng và hết sức giữ hòa bình; iii) Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm
đến quyền lợi của nước Việt Nam; iv) Mật thiết liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và giai cấp vô sản toàn thế giới. Đó chính là nguyên tắc hàng đầu trong chính sách
đối ngoại của chính quyền cách mạng trong tương lai. Hội nghị Đảng ở Tân Trào
cũng định ra phương hướng hoạt động đối ngoại: tìm mọi cách tránh “trường hợp
một mình đối phó với nhiều lực lượng Đồng minh” và đồng thời, phải đề phòng
“sự mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ với Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân
nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương”. Mặt khác, hội nghị xác định đúng một chủ
trương cực kỳ quan trọng: “mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh, Pháp và Mỹ, 10
Tàu về vấn đề Đông Dương là điều ta cần lợi dụng”. Hội nghị đã vạch ra chính
sách sơ bộ với đối tác, đối tượng, lực lượng chính như: “tranh thủ sự đồng tình của
Liên Xô và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp...; tranh thủ đồng tình của Liên Xô,
Mỹ chống lại mưu đồ của Pháp định khôi phục lại vị trí cũ ở Đông Dương và mưu
đồ của một số quân phiệt Trung Quốc định chiếm nước ta; đối với các nước nhược
tiểu và dân chúng Tàu và Pháp, chúng ta phải liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của họ”.
Như vậy, đây là một văn kiện ngoại giao nhà nước khá hoàn chỉnh, khá toàn
diện thể hiện tinh thần rộng mở, đã đề cập mục tiêu chính sách đối ngoại, các
hướng ưu tiên. Ngoài ra, còn đề cập các sách lược ngoại giao, như: lợi dụng mâu
thuẫn đối phương; kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân. Đó là một
đường lối ngoại giao rất sáng suốt, rất đúng, có tầm nhìn xa.
Mục đích của việc công bố Thông cáo về chính sách ngoại giao:
Trước hết, Thông cáo nhằm đề cao thế hợp pháp của chính quyền cách
mạng. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, song chưa được nước
nào công nhận. Khẳng định và đề cao thế hợp pháp là một trong những nhiệm vụ
cấp bách của Đảng và Chính phủ, nhất là trong bối cảnh có chuyến thăm của Phái
bộ cao cấp Đồng minh. Chính vì vậy, vừa về đến Hà Nội, Ủy ban Dân tộc giải
phóng đã chuyển thành Chính phủ lâm thời và danh sách Chính phủ được công bố.
Có nhiều nhân sĩ, trí thức thuộc các đảng phái khác nhau, lực lượng khác nhau
tham gia. Nhiều người vốn là Thượng thư Triều đình nhà Nguyễn, có người
nguyên là Bộ trưởng trong Chính phủ Trần Trọng Kim, Chính phủ thân Nhật.
Thậm chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn mời cả cựu Hoàng đế Bảo Đại làm Trưởng
đoàn Cố vấn của Chính phủ. Đó thực sự là một chính phủ đoàn kết dân tộc rộng
rãi. Tiếp đó, chúng ta đã khẩn trương tổ chức Lễ tuyển bố độc lập trước khi quân
Đồng minh (quân Tưởng) đến Hà Nội. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân: “thoát ly hẳn quan hệ thực dân với 11
Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi
đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”; đồng thời khẳng định chủ quyền
quốc gia và “trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một
nước tự do và độc lập”.
Ngay sau ngày ra mắt Chính phủ, ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu sáu nhiệm vụ cấp bách. Một trong những
nhiệm vụ cấp bách là: “tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu”. Mặc dù tình hình miền Nam khá căng thẳng, do ngày 23-9-
1945, Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn và chiến tranh lan rộng; ở miền Bắc lực lượng
tay sai Tưởng chống phá cách mạng quyết liệt, tài chính kiệt quệ, nạn đói còn chưa
qua, song với quyết tâm cao của Chính phủ, ngày 6- 1-1946, chúng ta đã tổ chức
thành công cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên và ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I đã
khai mạc, hoàn chỉnh bộ máy nhà nước, thành lập Chính phủ liên hiệp chính thức.
Tổng tuyển cử, đương nhiên có ý nghĩa to lớn về mặt đối nội, đồng thời cũng có ý
nghĩa không nhỏ về mặt đối ngoại. Với kết quả Tổng tuyển cử, Việt Nam đã có
chính quyền hoàn toàn hợp pháp, hợp hiến, chính quyền dân cử, đại diện cho ý chí
của toàn dân. Cùng với việc khẳng định nước Việt Nam là nước độc lập, chủ
quyền, có chính quyền nhà nước hoàn chỉnh, hợp pháp, có chính phủ đoàn kết rộng
rãi, không những thế mà nước Việt Nam mới còn có cả chính sách đối nội, đối
ngoại nữa. Như vậy, tất cả điều đó tạo tư thế hợp pháp nhằm tranh thủ sự công
nhận của quốc tế.Mục tiêu khác của Thông cáo về chính sách ngoại giao còn là
hoạch định đường lối đối ngoại và ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nội dung Thông cáo chính là những định hướng cơ bản về công tác ngoại
giao của Việt Nam trong những năm 1945 - 1946 và trong cuộc kháng chiến chống 12
thực dân Pháp, nhất là những năm 1945-1946, với hướng ưu tiên là tranh thủ và tạo
thế với các lực lượng Đồng minh đang có mặt trên đất nước ta.
Tư tưởng chính sách đối ngoại rộng mở được Bác Hồ khẳng định lại trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tháng 9-1947, khi tiếp nhà báo người Mỹ
Elie Maissie, Người nói: Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai”. Tinh thần chính sách đối ngoại rộng mở của Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện trong câu nói nổi tiếng của Người: "Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết”. Đó là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc
tế, trước hết là giai cấp công nhân, nhân lao động trên toàn thế giới.
Như vậy, trong giai đoạn 1945-1946, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng
tình hình quốc tế, khu vực và tình hình nước ta; đã hoạch định đường lối, chính
sách đối ngoại đúng đắn. Đó là chính sách đối ngoại hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, coi trọng quan hệ với nước Pháp, các nước lớn, các nước láng giềng và trong
khu vực; có sách lược ngoại giao khôn khéo, vừa nguyên tắc vừa linh hoạt, lúc thì
hoà hoãn với quân Tưởng để tập trung sức chống thực dân Pháp xâm lược, lúc thì
hòa với Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước, góp phần quan trọng củng cố và
bảo vệ nền lập dân tộc vừa mới giành được
Đánh giá về Thông cáo ngày 3-10-1945, có nhà nghiên cứu đã viết: “Thông
cáo thể hiện tính chất hoàn chỉnh của một nhà nước vững vàng”.
Bên cạnh đó, thông cáo còn đặt cơ sở cho việc hình thành chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đại hội lần thứ
VI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: ra sức tranh thủ các nước anh em, bạn bè dư luận,
phân hóa đối phương, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế, chính trị, chủ động
chuyển đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại
hoà bình; ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và xu
thế quốc tế hoá kinh tế quốc tế, tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động 13
quốc tế. Đại hội cũng nhấn mạnh: Trong điều kiện mới, chúng ta có cơ hội để có
thể giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế, nếu bỏ lỡ cơ hội sẽ gặp thách thức. Đại
hội xác định nhiệm vụ trước mắt là bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và
giải quyết vấn đề Campuchia. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị thực sự là đột phá
có ý nghĩa chiến lược về đối ngoại. Tiếp đó, Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) đã
xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đại hội tuyên bố: "Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố
rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển”, Trước sự biến động của tình hình thế giới, nhất
là việc Liên Xô sụp đổ, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII (tháng 6-1992) đã xác
định rõ nhiệm vụ đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo và các phương châm xử lý các vấn đề
quốc tế. Nghị quyết cũng đề ra chủ trương mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá
các mối quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, cả quan hệ Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể, tổ chức nhân dân, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng
có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn
hoá dân tộc. Với Nghị quyết này, đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới
cơ bản hình thành. Đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới cũng được
khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, được thông qua tại Đại hội này. Tiếp đó Đại hội lần thứ VIII (tháng 6-
1996) của Đảng khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chính sách do Đại hội lần
thứ VII vạch ra, nhấn mạnh nhiệm vụ của ngoại giao là phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đại hội lần thứ IX (tháng 4-2001) của Đảng
khẳng định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững môi trường hoà bình và tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đường lối chính sách 14
đối ngoại tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Đại hội tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”. Mặt khác, Đại hội cũng khẳng định một chủ trương
đối ngoại rất quan trọng vốn trước đó có nhiều tranh luận sôi nổi trong Đảng, trong
dân là “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực". Đại hội lần thứ IX đã nâng
Việt Nam “muốn là bạn với tất cả các nước” lên “sẵn sàng là bạn”; ngoài ra, còn
khẳng định Việt Nam “là đối tác tin cậy” của cộng đồng thế giới. Đại hội lần thứ X
của Đảng họp vào tháng 4-2006 đã tiếp tục hoàn thiện đường lối, chính sách đối
ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đó là: “đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
Như vậy, Thông cáo về chính sách ngoại giao ngày 3-10- 1945 không chỉ có
ý nghĩa trước mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài; “là văn kiện nhà nước đầu tiên về đối
ngoại, thể hiện cách nhìn rộng mở của Nhà nước Việt Nam thực hiện quan hệ quốc
tế kiểu mới, với tầm nhìn chiến lược về sự thay đổi cơ bản tính chất của quan hệ
toàn cầu, cũng như quan hệ với các nước láng giềng của Việt Nam”, Thông cáo là
sự khởi đầu của tư duy chiến lược về chính sách ngoại giao rộng mở, đa phương
hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của Việt Nam, đã được Đảng ta phát triển
sáng tạo và trở thành đường lối chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Một nhà
nghiên cứu chính sách đối ngoại Việt Nam khi bình luận về Thông cáo về chính
sách ngoại giao đã cho rằng, Thông cáo “đã góp phần quan trọng vào việc định
hướng tư tưởng, nội dung cơ bản và sách lược (nghệ thuật) của đường lối ngoại
giao độc lập tự chủ của Đảng và Nhà nước ta xuyên suốt cuộc đấu tranh giành độc lập”. 15
2.1.2. Ngoại giao bảo vệ chính quyền cách mạng:
Từ ngày 19 tháng Tám 1945 đến ngày 19 tháng Mười hai 1946 là giai đoạn
đặc biệt của lịch sử cách mạng Việt Nam, khi nền ngoại giao Việt Nam hiện đại
khai sinh cùng với việc thành lập Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Hoạt động đối ngoại của chính quyền cách mạng trong giai đoạn này đã
để lại một trang sáng chói trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Trong điều kiện chính quyền cách mạng mới được thành lập, lực lượng vũ
trang nhân dân còn non trẻ, vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc, Đảng
Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công ngoại giao như một vũ
khí sắc bén góp phần giữ vững thành quả cách mạng, bảo toàn chính quyền nhân
dân, đồng thời phục vụ kháng chiến, kiến quốc.
Dấu ấn đậm nét nhất của thắng lợi ngoại giao thời kỳ này là đối sách và ứng
xử tài tình cùng một lúc với năm nước lớn, đối phó với bốn đạo quân nước ngoài
trên 30 vạn binh lính có mặt ở Việt Nam, mặc dù quan hệ giữa các nước lớn này
với nhau và giữa họ với Việt Nam thể hiện đặc trưng cổ điển của nền chính trị
nước lớn: giữa họ luôn có xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng khi cần họ sẵn
sàng thỏa hiệp mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của nhân dân Việt Nam, tìm
cách áp đặt giải pháp đối với Việt Nam và Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này với nhau và có sách lược phù hợp
với từng đối tượng: giữ Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi xung đột với lực
lượng của Tưởng, kiên quyết kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền
Nam, đồng thời tìm giải pháp hòa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép
quân đội Pháp ra miền Bắc. 16
Tư duy sắc bén và bản lĩnh ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh
đạo Đảng Cộng sản Đông Dương còn thể hiện đặc biệt nổi bật trong việc áp dụng
các sách lược ngoại giao khôn khéo, linh hoạt, trên cơ sở nguyên tắc "dĩ bất biến,
ứng vạn biến". Điều này thể hiện qua những nước cờ chính trị vừa có ý nghĩa quan
trọng về đối nội và đối ngoại: Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào bí mật, lập
Chính phủ liên hiệp, dành ghế trong Chính phủ và Quốc hội cho các phái thân
Tưởng, ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng Ba, chấp nhận "Việt Nam là nước tự do",
việc thống nhất do trưng cầu ý dân quyết định, thỏa thuận cho 15 nghìn quân viễn
chinh Pháp vào miền Bắc để đẩy 200 nghìn quân Tưởng cùng các nhóm tay sai ra
khỏi Việt Nam;... cũng như qua cuộc đấu tranh ngoại giao vừa nguyên tắc vừa
mềm dẻo, khôn khéo ngay tại thủ đô nước Pháp, ký Tạm ước ngày 14 tháng Chín,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc quyết chiến sắp tới. Do tình thế hiểm nghèo, các sách
lược thường được vận dụng ở mức cao nhất mà giới hạn nguyên tắc cho phép. Có
thể coi các sách lược ngoại giao trong giai đoạn này là mẫu mực về kết hợp ngoại
giao với quân sự và sức mạnh chính trị tổng hợp của đoàn kết toàn dân, kết hợp đối
nội với đối ngoại, là mẫu mực về nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc.
Việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng có ý nghĩa chính trị hết sức
quan trọng tạo điều kiện để Việt Nam từng bước giành những thắng lợi tiếp theo: i)
Việt Nam đạt được sự công nhận quốc tế từ cả phía Pháp và cộng đồng quốc tế, vì
đây là điều ước quốc tế đầu tiên chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký kết với
nước ngoài với sự chứng kiến của đại diện các nước lớn, khẳng định tư cách một
quốc gia có chủ quyền và địa vị chủ thể pháp lý quốc tế đầy đủ; ii) Biến Hoà ước
tay đôi Hoa - Pháp (Tưởng để Pháp thay chân ở miền Bắc đổi lấy một số quyền lợi
kinh tế ở Đông Dương) thành hoà ước tay ba có lợi cho Việt Nam; tránh được việc
phải cùng một lúc đối phó với nhiều kẻ thù để tập trung vào kẻ thù chính là thực 17
dân Pháp; iii) Tạo thời gian để nước ta củng cố mọi mặt kinh tế, quân sự, chính trị
trong điều kiện lực lượng cách mạng còn non trẻ.
Mặc dù Việt Nam đã nhiều lần nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới. Quân đội Pháp liên tục mở các cuộc tấn công lấn chiếm ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đánh chiếm miền Bắc, mở rộng chiến tranh trên quy
mô lớn nhằm xâm lược trở lại Việt Nam.
Trước tình hình đó, một mặt, Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên trì tìm cách
duy trì hoà bình, tránh chiến tranh, đồng thời tỏ rõ quyết tâm bảo vệ nền tự do của
đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố rõ lập trường của Việt Nam khi trả lời
báo Pari-Sài Gòn: Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không
muốn chiến tranh... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là
nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta
buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm. Người liên tiếp gửi thư cho Chính
phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp những người đứng đầu
Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh đổ máu; gửi lời kêu gọi các
nước Anh, Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô và các thành viên Liên hợp quốc nêu rõ thiện
chí hoà bình và quyết tâm bảo vệ tự do của đất nước và mong mỏi Liên hợp quốc
chấp nhận những yêu cầu chân chính của Việt Nam để vãn hồi hoà bình và để
"khôi phục lại những quyền cơ bản của Việt Nam là được thừa nhận độc lập dân
tộc và thống nhất lãnh thổ".
Mặt khác, song song với những nỗ lực ngoại giao nhằm cứu vãn hoà bình,
Đảng ta đã tỏ rõ quyết tâm sẵn sàng đấu tranh quân sự khi cần thiết. Đảng đã quyết
định phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm
lược; mở nhiều chiến dịch quân sự tiến công địch; giành thắng lợi từng bước và đi
tới trận quyết chiến lịch sử Điện Biên Phủ. 18
Trong giai đoạn ngắn ngủi nhưng đầy biến cố lịch sử này, dưới sự dẫn dắt
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng, ngoại giao Việt Nam
vừa mới ra đời đã lập nên kỳ tích và đặt nền móng cho nền ngoại giao Việt Nam
cách mạng và hiện đại.
2.1.3. Ngoại giao phá vây (1945-1950):
Đối với Việt Nam, từ năm 1945 đến 1950, cuộc chiến đấu diễn ra trong vòng
vây của các thế lực thù địch. Với sức mạnh quật cường của cả dân tộc được hồi
sinh sau một thế kỷ bị nô dịch, toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương, đã tiến hành cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ với lòng tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng. Từng
bước, từng bước, trải qua các chiến dịch quy mô từ nhỏ đến lớn, các lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam đã trưởng thành. Đến năm 1950, thực dân Pháp đã thừa
nhận là không thể giành thắng lợi trong chiến tranh. Sau chiến thắng biên giới Thu
– Đông năm 1950, vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã bị
phá vỡ một mảng lớn ở phía Bắc, từ Lai Châu, qua Cao Bằng đến Lạng Sơn. Cách
mạng Việt Nam đã thiết lập được quan hệ trực tiếp với cách mạng thế giới, trước
hết là với Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, đồng thời mở rộng
các mối liên hệ với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý ở Pháp và trên thế giới.
Trong những năm chiến đấu giữa vòng vây, công tác ngoại giao Việt Nam đã
phối hợp chặt chẽ với hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị, góp phần khắc
phục hoàn cảnh khó khăn, đặt cơ sở vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo.