







Preview text:
Đạo đức cách mạng là gì? Liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng
Đạo đức là một từ Hán Việt được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong tính cách và giá trị của
một con người. Đạo đức là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một
người có đạo đức ý đang nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống
chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Đạo đức thể hiện thông qua nét đẹp trong
phong cách sống của một người hiểu biết và rèn luyện ý chí theo các bậc tiền nhân về các quy tắc
ứng xử, các đường lối tư duy thanh tao, tốt đẹp. Theo một nghĩa rộng hơn thì đạo đức trong một
cộng đồng là những quy tắc ứng xử được áp dụng từ việc hợp với đạo lý từ xưa đến nay và phong
tục của địa phương, tạo thành nét đẹp truyền thống văn hóa.
Còn về Đạo đức cách mạng, Bác từng nói: "Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo
đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người". Và theo cách diễn đạt của Người thì đạo đức cách mạng được ví như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh chính là
một tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh vẫn mãi luôn là niềm tự hào, vinh dự của mỗi cán bộ, công chức đối với
Bác Hồ kính yêu - một con người mang trong mình tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi
không gian và thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của nền văn minh nhân loại, anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Khái niệm cơ bản về cách mạng: Cách mạng là một quá trình của nhân dân hoặc một tổ chức mà
trong đó các hoạt động đấu tranh diễn ra liên tục nhằm xoá bỏ một chính quyền, tư tưởng, công
nghệ kỹ thuật, ... Một cuộc cách mạng có thể dẫn đến thay đổi trong các thể chế chính trị – xã hội,
hoặc thay đổi lớn trong 1 nền kinh tế hay văn hóa.
1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng
1.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Đạo đức cách mạnh luôn được coi là phẩm chất đầu tiên, là vấn đề gốc để giải quyết công việc
cách mạng "gánh nặng, đường xa" chống đế quốc, chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển
con người, là gốc của cây, như ngon nguồn của sông suối, Người viết: "Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát,
mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?". Bác đã viết như vậy trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" năm 1947. Làm cách mạng để cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi người cách mạng phải có
đạo đức làm nền tảng mới vượt qua được. Người cũng viết: "Sức có mạnh mới gánh được nặng và
đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm
vụ vẻ vang". Như vậy đạo đức được coi là gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu
của một người cách mạng.
Đối với cách mạng nói chung thì đạo đức cách mạng là vũ khí sắc bén để phục vụ cuộc đấu tranh
cách mạng, có vai trò hết sức quan trọng liên quan trực tiếp đến sự thành bại của cách mạng. Điều
này được Hồ Chí Minh luận giải trong ba mối quan hệ gốc rễ đó là: Cái gốc của cách mạng là quần
chúng nhân dân; Cái gốc của công việc là cán bộ; Cái gốc của cán bộ là đạo đức: "Mọi việc thành
công hay bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không?".
Đối với Đảng thì phải là Đảng đạo đức, văn minh. Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng mới xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân
dân. Quần chúng nhìn vào Đảng, tin theo Đảng, đi theo Đảng trước hết họ sẽ nhìn vào đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng. Người nhắc nhở: "Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán
hai chữ Cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý những người có tư cách đạo đức".
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Có đức thì phải có tài, nếu không sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn gây hại cho
nhân dân. Mặt khác phải thấy trong đức có tài. Tài càng lớn thì đức phải càng cao bởi đức và tài
là nhằm phục vụ nhân dân, đưa nhân dân đến cách mạng thắng lợi.
Như vậy có thể thấy mặc dù với quan điểm lấy đức làm gốc nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh không
tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức và tài phải luôn đi đôi với nhau. Theo Người, "có đức
mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài không có đức là người vô dụng". Người cho rằng
người cách mạng phải có cả đạo đức và tài năng, tài càng cao thì đức phải càng lớn, không thì chỉ
có tài mà đức không có, đức mỏng thì dễ dẫn đến tham ô, bòn rút công quỹ... hậu quả khó có thể
lường trước được. Và Người cũng căn dặn: "Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ
thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có
hại cho nước. Có đức không có tài như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai".
1.2. Đạo đức là thước đo lòng cao thượng, là nhân tố quyết định sự thành bại của mọi
công việc, của con người
Trong bài Đạo đức cách mạng năm 1955 Bác có viết: "Tuy năng lực và công việc của mỗi người
khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao
thượng". Thực hành tốt đạo đức cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh nâng cao giá trị của mình
mà còn tạo ra sức mạnh nội sinh giúp ta vượt qua mọi thử thách. "Có đạo đức cách mạng khi gặp
khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành công
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn". Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là
một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ.
1.3. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội là ở những giá trị đạo đức cao đẹp và nhân văn. Chính những
giá trị đạo đức cao đẹp, những phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống
và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp trở thành hiện thực tạo nên sức hấp dẫn
của chủ nghĩa xã hội. Đạo đức là cơ sở là điều kiện để phát huy, phát triển tài năng của người cách mạng.
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước và hiếu với dân là phẩm chất, chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của một
người cách mạng, là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá đạo đức của con người, của mỗi chiến sỹ
cách mạng. Mỗi con người đều có nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng trong đó quan hệ với nhân
dân, với đất nước, với dân tộc của mình là mối quan hệ lớn nhất, là tâm điểm, là tiêu chuẩn để xem
xét, đánh giá đạo đức con người của mỗi chiến sỹ cách mạng. Đó là phẩm chất bao trùm, chi phối
các phẩm chất đạo đức khác.
"Trung - Hiếu" là những khái niệm đạo đức truyền thống dân tộc và đạo đức phương đông. Theo
đó, Trung là trung quân, trung với vua. Vì vua với nước là một. vua là vua của nước còn nước là
nước của vua, vua trên cả nước. Lời nói của vua là lời vàng, ý ngọc - là thánh chỉ, các thần dân dù
là đại thần của triều đình hay là dân đen đều phải nhất nhất tuân theo. Vua bảo chết thì bề tôi cũng
phải chết. Còn Hiếu là hiếu với cha mẹ, thu hẹp trong phạm vi gia đình. Hiếu với cha mẹ là đạo
đức tối thiểu của con người. Điều tối thiểu mà không làm được thì đừng nói gì đến đạo đức công dân.
Nói tóm lại, Trung và Hiếu trong đạo đức tuyền thống dân tộc và phương đông được đề cập rất
hạn hẹp trong mối quan hệ cá nhân vua - tôi, con với cha mẹ. Còn với Bác, Trung với nước là
trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng,
phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết. Nước ở đây là nước của dân, còn dân là
người chủ của đất nước. Người đặt vấn đề: "bao nhiêu quyền hạn đều của dân", "bao nhiêu lợi ích
đều của dân", "bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đảng và Chính phủ là "đầy tớ
của nhân dân" chứ không phải "quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân", thì quan niệm về mối
quan hệ giữa nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước đây.
Theo đó trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trung
với nước cũng đồng nghĩa là Trung với Đảng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của
Đảng, với sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo: "Điều chủ chốt nhất của đạo đức
cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng".
Hiếu với dân là phải yêu dân, kinh dân, tôn trọng dân, lấy dân làm gốc, đề cao tinh thần phục vụ
nhân dân có trách nhiệm trước dân, phải luôn quan tâm đến đời sống nhân dân, tôn trọng quyền
làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. "Hiếu với dân" theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là
nước lấy dân làm gốc, dân là chủ của đất nước. Hiếu với dân tư tưởng đó không chỉ dừng lại ở chỗ
thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dãy dỗ, ban ơn mà phải được hiểu là đối tượng phải
hết lòng phục vụ. Người đặt vấn đề: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân", "quyền hành lực lượng đều ở nơi dân", "Đảng và Chính phủ là đẩy tớ của nhân dân". Do đó
trung với nước thì bao giờ cũng phải đi đôi với hiếu với dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân,
kính trọng và học tập dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Và ở đây có thể thấy đối tượng, phạm vi
của chữ hiếu đã được mở rộng, người cách mạng không hề lấy cái chung che lấp cái riêng mà trong
hiếu với dân đã bao hàm trung hiếu với cha mẹ. Hiếu với dân là phải nắm vững dân tình, hiểu rõ
dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, để nhân dân hiểu được quyền
và trách nhiệm của người chủ đất nước, quyền thì hưởng còn trách nhiệm thì phải làm tròn.
Như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bó hẹp trong quan hệ Vua - Tôi, con cái với cha mẹ,
quan hệ cá nhân với gia đình mà ở đây Trung với nước và Hiếu với dân phản ánh mối quan hệ
mang tính cộng đồng, mang tính xã hội, có tính mục đích và tính hiệu quả.
2.2. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Đây là phẩm chất kế thừa, phát huy truyền thống nhân áo, nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ
nghĩa nhân văn của nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người không chỉ
với nhân dân, với đồng bào của mình mà còn phải dành cho và nhân dân thế giới trước hết giành
cho ngững người cùng khổ, bị áp bức, không phân biệt mày da, sắc tộc, tôn giáo... "dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà
cũng chỉ có một tình hữu ái là thật là thôi: tình hữu ái vô sản".
Yêu thương con người là một tình cảm rộng lớn. Nổi bật trong tình yêu thương con người là sự
bao dung, độ lượng, gắn liền với sự tin tưởng vào những khả năng, phẩm giá tốt đẹp của con người
và tạo mọi điều kiện cho con người vươn lên tự hoàn thiện. Người nói: "Mỗi con người đều có cái
thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người này nở như hoa
mùa xuân và phần xấu mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng". Yêu thương con người
không phải là sự nuông chiều, thả mặc, dĩ hòa vi quý, bao che khuyết điểm mà phải quan tâm giúp
đỡ họ trên tinh thần đấu tranh phê và tự phê bình để không ngừng phát triển. Yêu thương con người
phải thực sự biến thành động cơ, mục đích cao nhất là tìm mọi cách để giải phóng triệt để con người.
2.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người, đòi hỏi mỗi
người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều chỉnh. Quan niệm của Người về cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư như sau:
+ Cần tức là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Đó chính là siêng học, siêng làm,
siêng suy nghĩ đem lại kết quả to lớn. Muốn có năng suất, hiệu quả thì phải có kế hoạch, có tổ
chức khoa học, thực hiện la động sáng tạo trong mọi công việc. Cần không có nghĩa là làm nhiều
nhưng hiệu quả không cao, lãng phí sức lao động "dã tràng xe cát Biển Đông/ Suốt đời mà chẳng
nên công cán gì". Trái với "cần" đó là lười biếng, biếng học, biếng làm, không chịu động não tư
duy. Việc dễ thì dành cho mình, việc khó thì tìm cách lẩn tránh đẩy cho người khác. Một người
lười biếng có thể làm ảnh hưởng tới hàng nghìn, hàng vạn người. Vì vậy lười biếng là có tội với
tổ quốc, với đồng bào.
+ "Kiệm" là tiết kiệm, không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi. Tiết kiệm cả về vật chất, công
sức lao động, thời gian, tiền của. Đấu tranh với suy nghĩ chưa đúng. Trái với kiệm là xa hoa và
lãng phí, bừa bãi làm tốn thời gian, tiền của một cách vô ích. "Tiết kiệm không phải là bủn xỉn,
không phải là "xem đồng tiền to bằng cái nống", gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu
cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ, nhân dân phải nhịn ăn, nhịn mặc. Nói
theo lối khoa học thì tiết kiệm là tích cực chứ không phải là tiêu cực". "Khi không nên tiêu xài thì
dù một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho tổ quốc
thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu cũng vui lòng. Như thế mới gọi là kiệm"
+ "Liêm" tức là trong sach không tham lam. Người giữ được chữ liêm là người không tham tiền
của, công danh, địa vị... Nếu sa vào những tội lỗi ấy, là người "bất lương" , trái với liêm đó là "bất
liêm", tức là tham lam, là đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc. Cậy quyền
cậy thế mà đục khoét nhân dân. ăn của đút, của trộm của công làm của tư, dẫn đến xa hoa, lãng
phí. tiêu sài bừa bãi... là một điều rất xấu hổ và có tội với nước, với dân.
+ Và cuối cùng, "Chính" ở đay nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Việc gì cũng phải
công minh chính trực, không tư ân tư huệ, tư thù, tư oán. Đối với mình thì không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người thì không nịnh hót người trên, xem thường khinh nhường người dưới, luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc thì để việc công lên trên
việc tư, làm việc gì thì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó khăn, không ngại nguy hiểm, cố
gắng hoàn thành tốt cho nhân dân, cho đất nước. Trái với chính cũng là tà, là ác, là không thẳng
thắn, không đứng đắn, là hủ hóa, là xấu xa và kiêu ngạo.
Có thể thấy ở đây giữa bốn phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ với nhau,
đó là mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Cần mà không kiệm giống như thùng không
đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Theo Hồ Chí
Minh: "Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân con người, Cần mà không kiệm làm chừng
nào xào chừng ấy. Kiệm mà không cần thì không tăng thêm, không phát triển được". Chữ kiệm
phải đi đôi với chữ liêm cũng như chữ liêm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm mới có liêm được, vì
xa xỉ mà sinh ra tham lam. Cần, kiệm, liêm lại là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ,
lại cần có cành, có lá, có quả, có hoa mới là hoàn toàn, Một người phải cần có cần, kiệm, liêm
nhưng còn phải có chính mới là người hoàn hảo. Đây đều là bốn đức tính cần thiết đối với tất cả
mọi người như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, là thước đo phẩm chất và trình độn bản chất
người trong mỗi con người. Nó là thức đo phẩm chất của con người, trình độ của con người. Bác
từng nói: "Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa không thành trời, thiếu một phương
không thành đất, thiếu một đức không thành người".
+ Còn "Chí công vô tư" là đặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân, của tập thể lên trên, lên trước lợi
ích cá nhân. Chí công vô tư phản ánh ba vấn đề: Chí công vô tư đối lập với chủ nghĩa cá nhân; Chí
công vô tư đề cao chủ nghĩa tập thể; Chí công vô tư là sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng. Đối lập với chí công vô tư là dĩ công vi tư, đó là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, là một
thứ vi trùng độc hại, là căn nguyên và gốc rễ đẻ ra hàng trăm thứ bệnh, thói hư tật xấu: Tham lam,
kiêu ngạo, hiếu danh, óc địa phương hẹp hòi, kéo bè, kéo cánh, quan liêu, độc đoán, tham ô, tham nhũng.
Như vậy có thể nói, những chuẩn mực đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những đức tính tốt, những phẩm chất cao đẹp, là lối sống của mỗi
cán bộ, mỗi đảng viên
2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Và cuối cùng nhưng cũng chẳng kém phần quan trọng đó là phải có tinh thần quốc tế, trong sáng
và thủy chung. Phẩm chất này bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân. Kết hợp chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghiac quốc tế vô sản, gắn mục tiêu cách mạng mỗi nước với mục tiêu
chung của thời đại. Với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh coi đây là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới, cho nên theo Người "Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân
An Nam cả. Đã là đồng chí thì sung sướng cực khổ đều phải có nhau".
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng mới
Từ những quan điểm về đạo đức cách mạng nêu trên, Hồ Chí Minh đã đưa ra ba nguyên tắc để xây
dựng lên đạo đức cách mạng. Theo đó:
Một là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong
xây dựng đạo đức cách mạng, là hai mặt thống nhất của mỗi con người, vì một tấm gương sống
còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền. Thái độ của người cách mạng là tiêu chí để phân
biệt với đạo đức cũ, là phương pháp tốt nhất để xây dựng và tổ chức con người. Người từng nói,
trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước. Đảng viên phải đi trước còn làng nước sẽ theo sau. Phải óc
nghĩ, tai nghe, mắt trông, chân đi, miệng nói và tay làm chứ không phải "Nghị quyết đầy túi áo,
thông cáo đầy túi quần".
Hai là xây phải đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Tiến hành giáo
dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình, nhà trường đến ngoài xã hội.
Khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong xã hội, làm cho mọi người thấy rõ việc trau dồi đạo đức
là việc làm cần thiết và vẻ vang nhất. Tuy nhiên xây luôn phải đi đôi với chống, chống lại những
cái xấu xa, cái sai, cái vô đạo đức, theo quan điểm của Người là chống nhằm mục đích xây. Đât là
quá trình gay go, phức tạp, không thể ngày một ngày hai mà có thể làm được.
Chính vì vậy một nguyên tắc không thể thiếu được đó là đạo đức chính là kết quả của quá trình
giáo dục và tự giáo dục. Là sự tự nguyện, nỗ lực, kiên trì vượt qua chính mình. Đạo đức cách mạng
không phải từ trên trời sa xuống mà do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng
cố nên. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Tóm lại, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi người cần phải được làm thường xuyên như việc rửa mặt
hàng ngày và phải tu dưỡng, rèn luyện suốt đời. Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem
lại hạnh phúc, tự do cho con người. Việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong thực tiễn hoạt
động hàng ngày, trong lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và thể hiện ngay trong mối quan hệ
hàng ngày. Có như thế thì việc tu dưỡng mới có hiệu quả.
4. Liên hệ bản thân với đạo đức cách mạng trong thực tiễn
Đạo đức là một đặc trung cơ bản của xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định được vai trò to lớn của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng
sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vũng
và bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Và
để có thể làm được điều đó, mỗi học sinh, sinh viên, đảng viên chúng ta ngay từ thời còn đi học,
chập chững bước chân vào Đảng cần phải:
+ Xây dựng, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, có niềm tin vào mục tiêu, lý thưởng cách mạng của
Đảng. Trung thực, trách nhiệm, trước hết là trách nhiệm với tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Sau
đó là trách nhiệm với bản thân, với gia đình và quê hương
+ Học tập, tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đức tính
khiêm tốn, trung thực, sống trong sạch và chính trực
+ Phải có đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức
phục vụ nhân dân. Luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
+ Phải học tấm gương về chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng
Có như vậy thì tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vẫn sẽ luôn còn nguyên giá trị, tồn
đọng, trường tồn vĩnh viễn với thời gian, với công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ,
văn minh cho đến tận ngày nay.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Đạo đức cách mạng là gì? Liên hệ bản thân về đạo đức
cách mạng mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính chất tham khảo. Hy
vọng rằng những thông tin mà chúng tôi cung cấp tại bài viết sẽ giúp ích cho quý khách phần nào
trong quá trình tìm hiểu về tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh.