Đạo đức kiểm sát - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội

Đạo đức kiểm sát - Luật Hình Sự II | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Công chức là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công của công cuộc
cải cách nền hành chính Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay. vậy, đạo đức công chức luôn vấn đề được Đảng, Nhà
nước ta quan tâm hàng đầu trong công việc giáo dục và đào tạo đội ngũ này.
Đảng Nhà nước ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa, trong đó điểm đột phá xây dựng một nền hành chính chính quy,
chuyên nghiệp thực sự của dân, do dân, dân, với mục tiêu: "Tập trung xây
dựng hệ thống hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, đảm bảo quản
thống nhất, thông suốt trên cơ sở phân công, phân cấp hợp lý, tăng cường kỷ luật,
kỷ cương hành chính, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thời kỳ
mới, chuyển thành công nền hành chính sang phục vụ".
Để đảm bảo cho công cuộc cải cách hành chính được thành công thì điều
quan trọng nhất con người, con người đây công chức trong bộ máy hành
chính nhà nước. Trong đó đạo đức công chức là một yếu tố vô cùng quan trọng và
bức thiết nhất trong giai đoạn hiện nay.
Để hiểu một cách sâu sắc toàn diện về vấn đề nâng cao đạo đức công
chức trong thực thi công vụ trước hết chúng ta cần hiểu về đạo đức thông thường,
bởi trong một mối quan hệ nào đó, đạ đức công chức nền tảng từ đạo đức
thông thường. Và chính vì thế, việc nghiên cứu về đạo đức thông thường không chỉ
góp phần tạo sở cho việc luận giải những vấn đề bản liên quan đến đạo đức
công chức còn một trong những điều kiện để hình thành giải pháp xây dựng
đạo đức công chức trong hoạt động công vụ.
Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, hiện tượng xã hội có sinh ra, phát triển và
tiêu vong. Đạo đức là sự phản ánh trong tính hiện thực các mối quan hệ xã hội giữa
con người với nhau.
Đạo đức là những tiêu chuẩn,nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, xác
định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau, đối với hội, với tự nhiên
với bản thân. Đạo đức của con người phẩm chất tốt đẹp của con người dựa trên
những tiêu chuẩn đạo đức trrai qua quá trình tu dưỡng, rèn luyện của từng
người. Đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống đang diễn ra xung
quanh con người.
Vậy sự khác nhau giữa đạo đức công chức trong thực thi công vụ và đạo đức
thông thường như thế nào?
Công vụ khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa
học chính trị, nhất trong hoạt động của nhà nước. Công vụ được diễn đạt bởi
nhiều khái niệm khác nhau. ý kiến lại cho rằng:Công vụ chỉ những công
việc công do nhà nước phải đảm nhận thực hiện hoặc có trách nhiệm thực hiện”.
1
Hay Công vụ thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo quy định
của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi
ích nhà nước và xã hội
Công vụ một loại hoạt động mang tính quyền lựcpháp lý được thực
thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá
trình quản lý các mặt của đời sống xã hội”.
Nói tóm lại, Công vụ toàn bộ hoạt động của công chức trong quản
hội theo chức năng được quy định trong pháp luật thực thi nhằm mục đích phục vụ
nhân dân, xã hội và nhà nước.
Còn công chức dùng để chỉ những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, giao
giữ một công vụ thường xuyên, làm việc trong một cơ quan nhà nước, được phân
loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính,
sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Vậy đạo đức công chức là gì?
Đạo đức công chức khái niệm liên quan đến mức độ hài lòng của nhân
dân về hành vi của công chức trong thực thi công vụ, trên cơ sở các định chế pháp
mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử. Đạo đức công chức một bộ phận đạo
đức của người công chức bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc hành vi,
sử xự trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi của công chức trong thực thi
công vụ.
Ví dụ:
Một gia đình3 thành viên là: Cha, mẹ người con. Một buổi tối, người
con đột nhiên bị đau bụng và kêurất đau đớn. Người cha liền lấy trong tủ thuốc
một loại thuốc chữa đau bụng của mình cho con uống. Không ngờ rằng, cơn đau
bụng không khỏi còn nhiều triệu chứng khác xuất hiện… Sau đó cha mẹ
mới đưa người con đến bệnh viện để chữa trị.
Một ví dụ khác,ở bệnh viện Amột người bị bệnh đến gặp bác để chữa
bệnh. Bác đơn cho 1 đơn thuốc để người đó về uống. Sau 1 thời gian, căn
bệnh vẻ có triệu chứng đỡ nhưng không thể khỏi. Thực ra đây không phải
căn bệnh không thể khỏi mà là do bác sĩ kê đơn thuốc theo kiểu nuôi bệnh để bệnh
nhân bị phụ thuộc phải đi khám lại.
Qua 2 ví dụ trên ta nhận xét, cái sai về cách chữa bệnh dụ 1 không
phải là vi phạm về đạo đức công chức vì do người cha chưa có đủ hiểu biết rõ ràng
về căn bệnh hoặc do tình thế lúc đó gấp quá nên thử cho người con uống tạm thuốc
giảm đau của mình. Còn ở ví dụ 2, người bác sĩ mặc dù biết rõ bệnh của bệnh nhân
nhưng vẫn không chữa trị nghiêm túc mà kê đơn thuốc theo kiểu nuôi bệnh, chứng
tỏ người bác sĩ này đã vi phạm về đạo đức công vụ trong công việc của mình.
2
Đạo đức công chức đạo đức thông thường đều nhằm hướng đến sự ổn
định trật tự hội bảo vệ những chuẩn mực tốt đẹp tồn tại trong cuộc sống
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.Thế nhưng về bản đạo đức công chức khác
xa về chất so với đạo đức thông thường. Bởi vì:
Thứ nhất, Không phải bất kì ai cũng làm công chức, công chức chỉ một bộ
phận con người trong hội. khi đã công chức thì những người cán bộ đó
thực hiện những công việc mà những người khác trong xã hội không làm được.
dụ: Một cán bộ kiểm sát ngoài việc những đạo đức thông thường
chuẩn mực chung của người bộ công chức Việt Nam liêm chính” thì bắt buộc
phải có những đạo đức của người cán bộ kiểm sát xứng đáng với giá trị một người
cán bộ kiểm sát: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”
Thứ hai, đạo đức công chức trong thực thi công vụ thì chủ thể sáng tạo
con người thi hành trong cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội.
Thứ ba, đạo đức công chức đối tượng điều chỉnh bộ phận những con
người thực thi công vụ, trong tổ chức công. Và mục đích điều chỉnh là bộ phận các
công chức trong thực thi công vụ bị tha hóa về đạo đức. phương pháp điều
chỉnh ngoài việc tự nguyện tự giác như đạo đức thông thường thì còn bắt buộc
thông qua các chế tài trong các vi phạm thống nhất được thể hiện qua các văn bản
pháp luật.
Vậy thực trạng đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ hiện nay như
thế nào?
Ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, cùng với việc xây dựng
chính quyền cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng đội ngũ công
chức làm việc trong bộ máy chính quyền đó. Trong quá trình hoạt động từ đó đến
nay của bộ máy nhà nước nước Cộng Hòa hội Chủ nghĩa Việt Nam, đội ngũ
cán bộ công chức ngày càng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Khi mới xây
dựng năm 1945, cả nước mới có khoảng 44.620 công chức cho đến nay cả nước có
gần 2 triệu cán bộ, công chức từ trung ương đến địa phương. Từ việc thành lập bộ
máy gồm các công chức chưa chuyên sâu về nghiệp vụ đi đến việc hoàn thiện dần
đội ngũ công chức. Cho đến nay hầu hết tất cả công chức ở nước ta đều có chuyên
môn nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Số lượng, chất lượng đội ngũ công chức ở nước ta ngày càng được nâng cao,
bên cạnh đó khi nhắc đến người cán bộ công chức thì chúng ta cũng cần nhắc đến
đạo đức công chức. Đây là một vấn đề đã đang được Đảng nhà nước quan tâm
rất nhiều.
Trước hết,thể khẳng định rằng đại bộ phận cán bộ, công chức nhà nước của
ta được phân công bất nhiệm vụ nào đều cố gắng vượt qua mọi khó khăn
gian khổ thử thách để hoàn thành nhiệm vụ, cố gắng thực hiện phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ; giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức
kỷ luật cao tinh thần trách nhiệm; lối sống lành mạnh, giản dị gắn với
3
nhân dân, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích cộng đồng. Trong thời đại kinh
tế thị trường, mặc tất cả mọi người đều chịu sự chi phối của quy luật phát triển
kinh tế - xã hội nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức nước ta vẫn giữ vững
được lập trường chính trị, không vụ lợi nhân, mọi quyết định, mọi việc làm đều
nhằm mục đích phục vụ bảo vệ quyền lợi của nhân dân; dám đấu tranh chống
lại cái xấu, bảo vệ lẽ phải… Như vậy đội ngũ cán bộ, công chứcnước ta đã góp
một phần lớn công sức vào quá trình đổi mới xây dựng được nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ như trường hợp của anh Nguyễn Tiến Giang, anh được giao nhiệm vụ
là chuyên viên giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội kiêm tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả
bộ phận một cửa tại bảo hiểm hội huyện, công việc được giao rất phức tạp, đòi
hỏi người thực hiện phải chuyên môn sâu, phẩm chất đạo đức tốt, phải tính
kiên nhẫn, khả năng giao tiếp tốt…Với tinh thần trách nhiệm, đức tính cần cù, chịu
khó nghiên cứu, học hỏi,tư duyphương pháp làm việc khoa học, năng động
sáng tạo; giải quyết công việc khách quan, công tâm, lý, tình Nguyễn Tiến
Giang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, mọi chế độ của các đối tượng
thụ hưởng được giải quyết thỏa đáng, đúng quy định của Nhà nước; với cách nói
chuyện khéo léo và sự tận tâm trong công việc, Tiến Giang đã làm hài lòng các đối
tượng đến giao dịch qua bộ phận một cửa mọi người đều cảm thấy yên tâm, tin
tưởng vào anh người cán bộ chính sách trẻ. Bên cạnh đó bản thân anh luôn hòa
mình cùng tập thể khi câu chuyện vui hoặc khi gặp vấn đề khó khăn cần giải
quyết. Không nề bất cứ nhiệm vụ nào, miễn lãnh đạo quan giao, anh đều
quyết tâm làm cho tốt; tạo mối quan hệ phối hợp tốt giữa các bộ phận chuyên môn,
kịp thời tham mưu, đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ chuyên môn phục vụ
công tác chỉ đạo điều hành chung của lãnh đạo đơn vị.
Tuy nhiên bên cạnh những cán bộ công chức luôn vì dân phục vụ thì cũng có
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức nhiều nơi, nhiều ngành, nhiều cấp
thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, đánh mất lý tưởng, mất cảnh giác, thiếu ý thức
tổ chức kỷ luật, thoái hóa về đạo đức, lối sống, về chuyên môn, không dám
lên tiếng bảo vệ công lí, lợi nhân, lợi dụng việc công để mưu lơi nhân,…
Đặc biệt mối quan hệ giữa người làm công bộc của nhân dân nhân dân ngày
càng trở nên xấu một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự lấy việc phục vụ
nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, làm thước đo mức độ và kết quả thực hiện nhiệm
vụ của mình, lợi dụng chức vụ, vị trí để ức hiếp gây khó dễ với người dân trong
việc thực hiện các thủ tục hành chính. Ngoài ra, số lượng cán bộ công chức bị xử
kỷ luật truy cứu trách nhiệm hình sự những năm gần đây ngày càng tăng.
Thực trạng này đã đang ảnh hưởng đến uy tín làm giảm niềm tin của nhân
dân đối với đội ngũ cán bộ công chức, đối với Đảng, đối với nhà nước ta.
Như vậy trong tình hình hiện nay, nước ta đang nhiều chuyển biến phát
triển hội nhập nền kinh tế quốc tế, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao,
4
hội ngày càng phát triển đã ảnh hưởng tích cực tiêu cực về nhiều mặt đến lực
lượng cán bộ, công chức, viên chức, tạo sự chuyển biến lớn về tưởng, đạo đức
lối sống của cán bộ, công chức, viên chức do vậy đã có một bộ phận cán bộ, công
chức, viên chức có biểu hiện suy thoái, thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống.
thể thấy những việc liên quan sai phạm về đạo đức của cán bộ, công
chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh
vực như: đất đai, xây dựng, công an, kiểm lâm, y tế, giao thông... Trong đó,
nhiều vụ việc cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức
nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số vụ công chức kiểm lâm, viên
chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm tặc"
phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành y tế lợi dụng vị trí việc làm vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm nhân phẩm, danh dự
thể xác của người khác; một số cán bộ dự án "rút ruột" công trình xây dựng; một số
công chức, viên chức thanh tra giao thông, công an giao thông nhận tiền của lái xe
và doanh nghiệp; một số công chức địa chính cố ý sai phạm để trục lợi cá nhân; có
cán bộ làm công tác đền bù, giải tỏa thiếu quản lý, tắc trách để cấp dưới gây ra
những sai phạm gây nhiều luận, bức xúc cho người dân; thậm chí công chức
làm công tác văn thư, lưu trữ của quan chuyên môn cũng hách dịch, rề rà, gây
khó dễ cho các cá nhân đến liên hệ công tác... Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, công
chức, viên chức bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công
việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích công việc cho người dân một cách lòng
vòng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt tình thiếu hẳn tính thân
thiện hoặc thiếu nhiệt tình trong việc tiếp công dân.
Ví dụ:
Tại Đà Nẵng, sau một năm thực hiện chỉ thị 29 của Ban thường vụ Thành ủy
Đà Nẵng về “5 xây 3 chống”, đã tổng cộng 95 cán bộ công chức, viên chức bị
xử kỷ luật từ hình thức khiển trách đến khai trừ Đảng, cách chức sa thải.
(nguồn: nguoiduatin)
Ngày 4-5-2006 , tại hội nghị kết hai năm thực hiện một số giải pháp để
ngăn chặn chấm dứt tệ gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong cán bộ, công
chức hải quan, ông Nguyễn Trung Học - cục trưởng Cục Hải quan TP.HCM - cho
biết từ năm 2004 đến nay đã xử 26 vụ với 104 cán bộ, công chức hải quan vi
phạm kỷ luật từ các mức độ hạ bậc thi đua, khiển trách, hạ bậc lương đến buộc thôi
việc. Trong đó, có 38 cán bộ, công chức hải quan liên quan đến hành vi sách nhiễu,
tiêu cực báo thời sự đã phản ánh vào tháng 5-2004. Ngoài ra đã xử kỷ luật
119 cán bộ, công chức sử dụng văn bằng chứng chỉ không hợp pháp. ( nguồn:
vietbao.com)
Trong nhiệm kỳ vừa qua( 2011 2016), Tòa án nhân dân các cấp đã phát
hiện, xử lý kỷ luật 205 cán bộ, công chức tòa án nhân dân địa phương do vi phạm
5
kỷ luật, vi phạm quy chế chuyển cơ quan điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với 33 trường hợp. (nguồn: dantri.com.vn)
Kết quả của một cuộc điều tra cho thấy có đến 70% đội ngũ y bác sĩ vi phạm
vấn đề y đức với các biểu hiện là: đơn thuốc đắt tiền để hưởng phần trăm hoa
hồng của dược viên; móc ngoặc chuyển bệnh nhân về phòng khám tư; thiếu tôn
trọng bệnh nhân; là, sao nhãng không hoàn thành nghĩa vụ; gây khó khăn cho
bệnh nhân để nhận tiền bệnh nhân….. ( nguồn: truongchinhtrina.gov.vn )
Các ví dụ trên đây phần nào đã chứng minh rằng trong thực tế vẫn có một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức giải quyết công việc cho dân, thậm
chí cho cán bộ, công chức, viên chức trong các quan, đơn vị khác chưa thực sự
đúng nghĩa là “công bộc” của dân, chưa đúng nghĩa là quan hệ giữa người phục vụ
người được phục vụ còn đặt nặng tính thủ tục, nguyên tắc cứng nhắc, thiếu
bình đẳng, thiếu tôn trọng,lạm dụng việc công để trục lợi nhân đồng thời cho
thấy tình trạng suy thoái đạo đức cán bộ, công chức của nước ta đáng phải báo
động.
Thực trạng đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ hiện nay đáng
báo động. vấn đề này đang diễn ra hàng ngày ngày càng nghiêm trọng về quy
mô và tổ chức. Vậy nguyên nhân của vấn đề trên là do đâu?
Thứ nhất, trong điều kiện mới, một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức sa
vào chủ nghĩa nhân, thiếu tu dưỡng rèn luyện đạo đức, thiếu tinh thần trách
nhiệm trong khi sự giáo dục, quản lí, kiểm tra của các quan, tổ chức còn chưa
quan tâm sắc sắc, chưa được chặt chẽ
Khi nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa thì không chỉ đem lại cho chúng ta nhưng mặt tích cực cùng với đó
cũng xuất hiện những mặt trái của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa cụ thể các nhân, tổ chức chạy theo lợi nhuận bất chấp mọi thủ
đoạn để đạt được điều mình muốn, từ đó dần làm cho các giá trị đạo đức bị mờ
nhạt đi ở một số cá nhân, tổ chức. Như vậy khi các cán bộ, công chức của chúng ta
chạy đuổi theo giá trị đồng tiền, giá trị lợi ích trước mắt thì họ dễ sa vào chủ
nghĩa nhân theo như Hồ Chí minh từng nóiChủ nghĩa nhân một thứ
rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc.là một thứ vi
trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, hoa, tham
danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, xa rời quần chúng,…(những
dấu hiệu suy thoái đạo đức)
Trước việc cán bộ công chức phải đối diện với những tác động tiêu cực của
chế kinh tế thị trường thì chúng ta vẫn chưa lường được hết những hậu quả
nghiêm trọng mà nó đem lại cho đạo đức của cán bộ, công chức. Chính vì vậy mà
khi tình trạng suy thoái đạo đức mới len lỏi vào một bộ phận rất nhỏ cán bộ , công
chức thì chúng ta không phát hiện ra nên không những biện pháp để diệt trừ,
loại bỏ căn bệnh ấy ngay từ khi mới xuất hiện. Để đến khi một bộ phận không
6
nhỏ cán bộ, công chức ta suy thoái đạo đức thì pháp luật, các quy trình kiểm tra,
quản không đủ chặt chẽ, không đủ nghiêm khắc để nghiêm trị, xử phạt, răn đe
những cán bộ, công chức vi phạm đạo đức công chức.
Thứ hai, các cơ quan, đơn vị còn chưa xem trọng việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, công chức, thiếu các biện pháp để kiểm tra quá trình rèn luyện tu
dương đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Cũng như Hồ Chí Minh từng viết: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ
viết lên trán hai chữ cộng sản ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
nhưng người cách, đạo đức”. Tuy nhiên trên thực tế thì các quan, đơn vị
lại không quá xem trọng việc giáo dục kiểm tra quá trình rèn luyện tu dưỡng đạo
đức của cán bộ công chức vì trước mặt những người kiểm tra thì cán bộ công chức
bị suy thoái đạo đức luôn có những cách để che dấu bản chất của mình còn những
biểu hiện của suy thoái đạo đức chỉ được biểu hiện ra trước mặt dân, trong quá
trình làm việc hàng ngày sau lưng những quan chức năng kiểm tra, giám
sát. Chính vì chỉ biểu hiện ra trước dân và sau lưng cơ quan kiểm tra, giám sát nên
dân biết nhưng các cơ quan chức năng lại không biết dẫn đến tình trạng dân xa rời
cán bộ, công chức, ngại tiếp xúc với chính quyền ngại tố cáo những việc làm
sai, trái với đạo đức công chức của một số cán bộ, công chức với quan chức
năng.
Thứ ba, trong điều kiện một đảng cầm quyền, một số cán bộ, công chức
không chịu rèn luyện phẩm chất của người cộng sản đã biến quyền lực thành lợi
ích vật chất cá nhân, sống trên dân, xa rời dân. Lợi ích cá nhân ấy đã tuyệt đối hóa
trở thành “chủ nghĩa nhân” trở thành rào cản trong việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ công chức trong sạch và liêm chính, chí công vô tư.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: Đạo đức cách mạng không từ trên trời rơi
xuống. do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày phát triển củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Tu dưỡng đạo
đức công chức nói riêng đạo đức cách mạng nói chung phải dựa trên tinh thần
tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người dư luận quần chúng. Tuy
nhiên một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức lại quên mất điều ấy nên họ
không để tâm đến dân, không sử dụng quyền lực mà dân trao cho mình để phục vụ
cho lợi ích của dân lại dùng để trục lợi nhân, làm khó dân, sách nhiễu
dân. Sử dụng quyền lực của dân trao cho để trục lợi nhân một hai lần thành
quen, dẫn dần lấn át cái phẩm chất đạo đức đã từng được giáo dục, từng được
nâng niu, xem trọng của người cán bộ. Từ đó dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức
công chức.
Thứ tư, do sự tác động của các thế lực thù địch.
Việt Nam hiện nay, những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, công
chức được biểu hiện trên những khía cạnh sau: trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tưởng Hồ Chí Minh; kiên định tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
7
với chủ nghĩa hội, mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
mình.
Người cán bộ công chức phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thân trọng,
khiêm tốn trong thực thi công vụ, đồng thời phải thực hiện đầy đủ các quy định về
nghĩa vụ, trách nhiệm của người cán bộ, công chức đã được quy định trong cac văn
bản pháp luật.
Hơn bất một bộ phận nào khác người cán bộ công chức phải gần dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu dân, phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Người cán bộ công chức phải hiểu biết, trách nhiệm, yêu ngành, yêu
nghề, vượt khó hoàn thành nhiệm vụ. Đoàn kết, chân tình, thẳng thắn, hợp tác,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Người cán bộ, công chức phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, sống làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
quan công quyền của mọi quốc gia luôn đề cao vấn đề đạo đức công
chức. Mấu chốt của vấn đề đó, xét đến cùng, chính nằm chất lượng nhân tố
con người, cụ thể đội ngũ công chức nhà nước trong các quan nhà nước. Về
vấn đề này, trong Chiến lược phát triển kinh tế - hội 2011-2020 của Việt Nam
được thông qua tại Đai hội XI Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ: Cần phải xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị, năng lực, tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”.
Những phẩm chất nêu trên của đội ngũ công chức, thể nói, về bản, được thể
hiện tập trung và chủ yếu qua các phạm trù đạo đức công chức.
Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước, đội ngũ cán bộ, công
chức của nước ta ngày càng phát triển về năng lực trình độ song cũng nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp thuộc phạm trù đạo đức. Công chức trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đang được xem là hình mẫu lý tưởng cho
những sinh viên tốt nghiệp ra trường muốn cống hiến công sức nhỏ của mình
vào sự phát triển của hội, đưa đất nước hội nhập thế giới, vậy nền kinh tế
càng phát triển, đạo đức của người công chức càng cần được coi trọng gìn giữ.
thế, nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ sự đòi hỏi mang
tính tất yếu khách quan, bởi vì:
Thứ nhất, đạo đức công chức trong thực thi công vụ khác xa về chất so với
đạo đức thông thường. không phải ai cũng làm công chức trong nhà nước,
những người công chức ngoài làm những công việc ai cũng thể làm được
còn làm những công việc mà những người khác không làm được.
Thứ hai, đạo đức công chức trong vai trò quản hội của Nhà nước.
thể nói, sau khi xây dựng được hệ thống chính sách đúng đắn phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn, chức năng quản hội của Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa Việt Nam được thực hiện như thế nào, mức độ hiệu quả, hiệu lực đến đâu…
8
phụ thuộc đáng kể vào đội ngũ công chức nhà nước trong các cơ quan công quyền.
Vì vậy, nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay là
nhiệm vụ cấp bách trong quá trình thực thi công vụ phục vụ nhân dân của các
quan công quyền.
Thứ ba, sự vận động theo xu hướng tiến bộ của đạo đức công chức là yếu tố
phản ánh xu thế phát triển nội tại, tích cực và khách quan của các chế độ nhà nước
trên toàn thế giới. Xu hướng tiến bộ ấy chính là tiến đến một nhà nước “ dân chủ”.
Trong đó, Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Tuy mức độ ít nhiều có khác nhau
tùy thuộc vào bản chất chế độ chính trị, song xu hướng chung là các chức năng của
Nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của người dân. Nhà nước Việt
Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; do đó mục tiêu của nó, thông qua các cơ
quan nhà nước, không khác hơn phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, có đạo
đức hơn. muốn trở thành một nhà nước dân chủ” các cán bộ làm việc phải
thật liêm chính, trong sạch thì nhân dân mới tin tưởng. Và muốn làm được điều đó
thì tất yếu khách quan phải nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ.
Và để thế hiện được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý đến việc xây
dựng con người - người cán bộ, công chức nhà nước. Về đạo đức, Người đưa ra rất
nhiều tiêu chí rèn luyện: Đức là gốc; đức quyết định sự thành công của người cán
bộ; cán bộ công bộc của nhân dân v. v… Đức của người cán bộ, công chức
đạo đức cách mạng. Người coi đạo đức cách mạng “nền tảng”, “cái gốc” của
người cán bộ, công chức. Đức của người cán bộ, công chức cách mạng thể hiện
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, là lòng trung thành đối với Đảng,
Tổ quốc, nhân dân, với chế độ hội chủ nghĩa; trình độ giác ngộ tưởng
hội chủ nghĩa, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh mục tiêu, tưởng cao đẹp đó. Đức
được thể hiện ở sự trong sáng, trung thực, không cơ hội, thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, dân tộc
và của nhân dân; lối sống trong sạch, gần gũi với quần chúng, gương mẫu, gắn
với nhân dân, khiêm tốn, giản dị, cầu thị; tinh thần đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau. Đức là cái gốc giúp người cán bộ, công chức vượt qua khó khăn,
gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Với
bản chất như vậy để thực hiện mục tiêu đó, trước hết đội ngũ công chức nhà
nước trong các quan nhà nước phải thực sự những người đạo đức trong
thực thi công vụ phục vụ nhân dân. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ các quan hệ
kinh tế quốc tế cũng đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công chức phù hợp với thông lệ
quốc tế khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.
Thứ , những thách thức của thực tiễn hội Việt Nam về yêu cầu của
hội trong nước hội nhập quốc tế đòi hỏi định hướng phát triển mới trong nhận
thức và nâng cao đạo đức công chức. Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đang đứng
trước những thách thức không nhỏ, trong đó tình trạng suy thoái về phẩm chất
9
đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm trong công vụ cảu một bộ phận công chức nhà
nước. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thẳng thắn chỉ ra rằng:
“Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong một bộ phận
không nhỏ cản cán bộ, đảng viêntình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu…
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…” Rõ ràng, nâng
cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ đang trở thành một đòi hỏi bức thiết
không chỉ ở cơ quan công quyền mà còn là yêu cầu của toàn xã hội.
Thứ năm, xuất phát từ thực trạng đạo đức của một bộ phận cán bộ công
chức trong thực thi công vụ đang ngày càng suy thoáixuống cấp nghiêm trọng.
Từ đây đặt ra yêu cầu bức thiết là phải có biện pháp thích hợp để nâng cao đạo đức
công chức. Nhà nước hay các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - hội, các
tổ chứchội vềbản chỉmột bộ máy mà chủ thể vận hành bộ máy ấyđội
ngũ công chức. Muốn Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân thì
đội ngũ cán bộ, công chức lại càng phải đạo đức, phải thực sự liêm chính. Đạo
đức đối với người bình thường đã quan trọng, đối với người cán bộ lại càng quan
trọng hơn.
Thứ sáu, những chuẩn mực đạo đức công chức được đặt ra sẽ không chỉ góp
một phần lớn vào việc bảo vệ đạo đức người công chức nói riêng còn bảo vệ
đạo đức hội nói chung; xác định tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá phẩm hạnh
của người công chức.
Thứ bảy, xu hướng của các nước trên thế giới hiện nay là xây dựng một nền
công vụ dân chủ, khách quan, minh bạch. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
hướng đó, chỉ có nâng cao đạo đức công chức mớicon đường bền vững nhất để
đạt được yêu cầu này.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
dân chủ trương, đường lối tính chiến lược của Đảng Nhà nước ta, xuất
phát từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước.
Từ việc tập trung xác định các đặc trưng bản của Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc xây dựng Nhà
nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta xác
định những giải pháp cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó giải pháp: Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, năng lực đáp ứng yêu cầu trong
tình hình mới”.
Vậy có những giải pháp cụ thể nào để nâng cao đạo đức công chức?
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyềnhội chủ nghĩa của dân , do dân và
dân, vấn đề nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ hết sức quan
10
trọng, Đảng Nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính, cùng với đó
thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp để nâng cao đạo đức nền công vụ nhằm mục
đích xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động
hiệu quả, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, bảo đảm quá trình hiện thực hóa quyền lực
Nhà nước trong nhân dân đội ngũ công chức nhân tố đảm bảo cho sự vận
hành cử bộ máy đó. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thể hiện nhiều khía
cạnh khác nhau, trong đó đạo đức công vụ là nội dung đặc biệt quan trọng để giúp
người cán bộ, công chức trở thành người “công bộc” của nhân dân. Đồng thời, việc
nâng cao các giá trị đạo đức công chức cùng với sáng kiến cải cách quan công
quyền sẽ là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Để nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ, không thể thực hiện
các giải pháp một cách riêng rẽ, tách biệt cần một hệ thống các giải pháp
đồng bộ. Một mặt hệ thống giải pháp ấy vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện
của con người, vừa chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển
ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Mặt khác, hệ thống giải pháp này
vừa nâng cao đạo đức của mỗi người công chức trong thực thi công vụ, giúp họ ý
thức được bổn phận của mình, vừa để họ không tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân để trở
thành “ ”, tư lợi, gây ảnh hưởng đến nền công vụ quốc gia.chủ nghĩa cá nhân
Đầu tiên giải pháp về giáo dục, đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tu
dưỡng, rèn luyện của cán bộ, công chức. Khuyến khích, tôn vinh sự hướng thiện vì
tưởng toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, đất nước, phục vụ sự nghiệp chung
của cán bộ công chức. Trong nền kinh tế thị trường càng phải đề cao giải pháp này,
coi trọng giá trị đạo đức, không vụ lợi, ích kỷ. thực hiện giải pháp này cần coi
trọng công tác giáo dục tự giáo dục, sự khen thưởng, tôn vinh những người
làm việc tốt, phục vụ tận tụy và có hiệu quả.
Thực tiễn giải pháp này đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức không ngừng tu
dưỡng , rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực;
chịu học, biết học học hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, nắm bắt thực tiễn để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân;
đồng thời kiên trì tích lũy kiến thức, kinh nghiệm kỹ năng công tác, rèn luyện
bản lĩnh năng lực trong thực thi công vụ; kiên quyết đấu tranh chống lại chủ
nghĩa cá nhân, lối sống buông thả, những thói hư, tật xấu,
Xét cho cùng thì công vụ chỉ những hoạt động trong quan công quyền
còn công chức mới chủ thể thực hiện những hoạt động ấy; chính thế hoạt
động công vụ hiệu quả hay không,mang lại lợi ích cho nhân dân hay không
đều xuất phát từ bản thân người cán bộ công chức. Khi mỗi người cán bộ công
chức tự ý thức được vị trí, trách nhiệm bổn phận của mình thì cũng lúc bộ
máy nhà nước đang ngày càng trong sạch và hoạt động có hiệu quả.
11
Đối với mỗi người công chức, đức và tài luôn là hai yếu tố cần thiếtsong
hành với nhau, tuy nhiên đức phải luôn là cái gốc của người cán bộ, dẫn dắt cái tài
đi đúng hướng, đi đến nơi, đến chốn. đức không tài làm việc cũng
khó, tài không đức thì coi như dụng(Hồ Chí Minh). Chính do
này, việc tự thân rèn luyện của bản thân mỗi công chức điều cùng cần thiết.
Khi đã trở thành người công chức làm việc trong quan công quyền thì chữ
công luôn phải được đặt lên trên hết, nghĩa quyết định của người công chức
không chỉ liên quan đến bản thân người đó mà còn liên quan đến nhiều người khác.
Mọi quyết định của công chức đều gắn với quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Tính hợp pháp hợp lý của các quan công quyền phụ thuộc
nhiều vào đạo đức người công chức. Sự thờ ơ, cảm trong việc thực thi công vụ
của người công chức cũng dễ dẫn đến việc ra quyết định sai trái, thậm chí trái pháp
luật hoặc không hợp lý.
Thứ hai giải pháp đổi mới, hoàn thiện chế để cán bộ, công chức là
điều kiện phát huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân. Thực
tiễn giải pháp này đòi hỏi trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước phải
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân, cán bộ công
chức phù hợp với sự quảnvà phục vụ trong từng thời kỳ mới. chế phải loại
bỏ được những yếu tố dẫn tới khả năng tiêu cực, “xin- cho”, sách nhiễu nhân dân
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan. Hơn nữa, thực hiện giải pháp này cũng
góp phần hạn chế sự chồng chéo trong hoạt động, khắc phục tình trạng lạm quyền,
đi quá giới hạn, thẩm quyền trong thực thi công vụ của người công chức. Chỉ khi
được công khai, minh bạch thì hoạt động của người công chức quan công
quyền mới mang tính khách quan cao, và cũng chính làsở để xác định phạm vi
quyền hạn của mỗi người công chức trong thực thi công vụ, xây dựng củng cố
niềm tin trong nhân dân. Trong quá trình thực hiện cải cách hành chính hiện nay
thì giải pháp này càng trở nên cần thiết.
Thứ ba là tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất à chế
độ đãi ngộ vật chất và tinh thần đối với cán bộ công chức.
Môi trường hội của công chức các mối quan hệ giữa nhân viên với
nhân viên, giữa nhân viên với lãnh đạo; chế điều hành, đánh giá sử dụng
công chức. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của công chức, cần một
hội thân thiện, bình đẳng, chân thành, đánh giá khách quan, chính xác năng lực,
phẩm chất của mỗi thành viên trong cơ quan, đơn vị, trong hoạt động thực thi công
vụ. Điều đó không chỉ tạo tiền đề cho việc sử dụng đúng người, đúng việc mà còn
khuyến khích được người tài, người giỏi, tạo mối quan hệ thân thiện, tích cực
trong hoạt động thực thi công vụ.
12
Thực tiễn cho thấy rằng, một bộ phận công chức suy thoái, xuống cấp về đạo
đức là do nguyên nhân về lợi ích cá nhân về kinh tế. Chính vì thế Nhà nước cần
chế độ, chí nh sách đãi ngộ phù hợp với cán bộ, công chức dựa trên nguyên tắc về
sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm. Từ đây
đặt ra yêu cầu cải cách hệ thống tiền lương, đảm bảo trả đúng sức lao động giá
trị cống hiến đúng của người cán bộ, công chức, tạo động lực thực hiện công vụ.
Đây giải pháp ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong thời đại nền kinh tế thị trường
đang ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng nâng cao. Giải pháp
này không chỉ tạo động lực làm việc còn góp phần quan trọng trong phòng
chống tham nhũng, nâng cao phẩm giá của người cán bộ, công chức. Thêm vào đó
cần xây dựng các chế độ, chính sách tôn vinh, khuyến khích sự tận tâm thực hiện
công vụ, khen thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần đối với cán bộ, công chức
làm việc tốt, tận tụy và trong sạch.
Thứ tư, cần thường cuyên giáo dục nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo
đức công vụ.
Công chức chính chủ thể thực thi công vụ nên chỉ giáo dục tự giáo
dục đạo đức công chức thì mới có thể góp phần nâng cao đạo đức công chức trong
thuc thi công vụ. Trước khi trở thành công chức thì mỗi cán bộ đều con người.
muốn thành người thì phải giáo dục tự giáo dục. Tự giáo dục tự mình tu
dưỡng, rèn luyện. Cùng với tự giáo dục giáo dục, bởi con người tốt hay xấu,
thiện hay ác phần lớn do giáo dục mà nên. Trên cái nền đạo làm người, công chức
cần thêm những phẩm chất đạo đức mới, hoặc bản vẫn những phẩm chất
đạo đức làm người, nhưng nâng cao về chất lượng, trình độ, phạm vi đậm đặc.
Giáo dục đạo đức công chức là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, tỉ mỉ
phức tạp, phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong quá trình thực thi
công vụ trong thực tiễn cuộc sống. Đó một quá trình giáo dục tổng hợp bao
gồm giáo dục chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, phẩm hạnh, nâng cao cả về đức và tài.
Đặc biệt chú trọng mối quan hệ giữa quy phạm đạo đức quy phạm pháp
luật. Đạo đức công vụ một vấn đề quan trọng, Nhà nước Việt Nam luôn chủ
động xây dựng hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức pháp cho hành vi của
công chức trong hoạt động thực thi công vụ. Tuy chưa luật về đạo đức công
chức trong thực thi công vụ nhưng trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã xuất hiện
ngày càng hoàn chỉnh định chế pháp về vấn đề này. Việc luật hóa các chuẩn về
đạo đức công chức trong thực thi công vụ là một điều hết sức cần thiết vì đạo đức
công chức không chỉ đơn thuần mang tính tự giác, tự nguyện mà còn mang tính bắt
buộc. Đây hội để thể chể hóa những chuẩn mực đạo đức công chức thành
những chuẩn mực phápcó giá trị bắt buộc chung trong thực thi công vụ. Xu thế
chung của các nước trên thế giới là pháp luật hóa các giá trị cốt lõi của công vụ
13
pháp luật hóa các quy tắc, chuẩn mực giá trị công chức trong thực thi công vụ. Và
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục, là sự thức
tỉnh và phán xét và làm cho lương tâm trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo
đức trong công chức quá trình biến nghĩa vụ thành tình cảm, biến cái tôi thành
cái ta, trở thành niềm tin vững chắc, là sụ thôi thúc bên trong hình thành ý thức cái
cần phải làm để không hổ thẹn trước nhân dân, trước chính bản thân mình. Thông
qua quá trình hoạt động công vụ, người cán bộ không chỉ thực hiện được nghĩa vụ
của mình cống hiến cho hội còn phát triển làm phong phú bản thân, tạo
điều kiện bản để đạt đến hạnh phúc. Rèn luyện đạo đức công chức cũng giống
như rèn luyện đạo đức thông thường , đều một quá trình lâu dài. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng dạy: “Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên được,
nó là kết quả của một quá trình khổ luyện, phấn đấu không ngừng. Ngọc càng mài
càng sang, vàng càng luyện càng trong”.
Thứ năm hoàn thiện chế quản cán bộ, công chức, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm đạo đức công
chức trong thự thi công vụ. Khi đã xây dựng được những chuẩn mự đạo đức trong
thực thi công vụ thì cần phải hoàn thiện chế quản lý, giám sát tuân thủ những
nguyên tắc đó. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, thực hiện giải pháp này
mức độ nào đi chăng nữa thì cũng chỉ mang nh chất chống chứ không phải
phòng. Cái cần thiết đạo đức xuất phát t tâm của mỗi người công chức chứ
không phải là uốn nắn, điều chỉnh từ khách quan.
Thực hiện công khai hóa quá trình tuyển chọn, sử dụng đánh giá cán bộ,
công chức, đưa các yếu tố về đạo đức công vụ vào nội dung tuyển dụng đánh
giá kết quả hoạt động. Phải quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức
được làm hoặc không được làm, công khai các lợi ích của họ, chế tài xử phạm
nghiêm các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, tùy theo mức độ vi phạm, kể cả truy
cứu trách nhiệm hình sự. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, kiểm soát nội bộ
chặt chẽ nhằm phát hiện các nguy dẫn đến tiêu cực, tham nhũng. Phát huy vai
trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức hoạt động công vụ, đảm
bảo quyền dân chủ cơ sở để dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động công
vụ. Hoàn thiện cơ chế quản lý và làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại cán bộ, công
chức của từng cấp, từng ngành, từng quan, đơn vị; định quyền hạn trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong quản hoạt động công vụ của
cấp dưới thuộc quyền.
Thứ sáu cần kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai,
phạm của cán bộ, công chức có hành vi vi phạm đạo đức công vụ.
14
Với những hành vi gây nhũng nhiễu, phiền về thủ tục hành chính trong
giải quyết công việc của công dân, đặc biệt là các trường hợp tái phạm, có tổ chức,
có tình tiết nghiêm trọng cần phải được xử lý kiên quyết, nghiêm mình, kịp thời và
công bằng nhằm góp phần giáo dục và răn đe cán bộ, công chức, đồng thời củng cố
niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê
bình phê bình trong tất cả các quan hành chính các cấp nhằm đề cao giá trị
đạo đức, sự hướng thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sa sút, suy thoái đạo
đức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay đã khẳng định một trong những nguyên nhân bản của tình trạng
suy thoái đạo đức công chức hiện nay là:
Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên
đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật
không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ”.
Nghị quyết cũng đã chỉ những giải pháp, nhiệm vụ bản để xây dựng
đội ngũ cán bộ, Đảng viên thực sự trong sạch, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về
công tác nâng cao đạo đức cách mạng:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên của nhân dân đối với
Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản các cấp, nhất cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội
nhập quốc tế.
Ba là, xác định thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt cấp bách
nhất.”
Khi những giải pháp đã được đưa ra thì việc tháo gỡ vấn đề đạo đức công
chức đã hướng giải quyết khả năng thực hiện. Tuy nhiên, vẫn cần nhấn
15
mạnh rằng đây một yêu cầu khó khăn, một nhiệm vụ lâu dài cần sự nhất trí
quyết tâm cao.Và một điều dễ dàng nhận thấy những giải pháp xuất phát từ
sự tác động khách quan dù có thực hiện đến mức độ nào thì vẫn chỉ mang tính chất
khắc phục tạm thời. Giải pháp tạo nền tảng sâu nhấtmang lại hiệu quả lớn nhất
vẫn là giáo dục và tự giáo dục trong bản thân mỗi người cán bộ, công chức.
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu về nâng cao đạo đức công chức trong thực thi
công vụ, đây vừa là nhiệm vụ vừa là giải pháp đối với việc cải cách hành chính nhà
nước trong bối cảnh hiện nay. Vậy giữa việc nâng cao đạo đức công chức trong
thực thi công vụ với vấn đề phòng chống tham nhũng liên quan đến nhau?
Việc nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ sẽ giải quyết được vấn đề
gì trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng?
Theo quy định của điều 2 khoản 1 luật phòng chống tham nhũng năm 2005,
sửa đổi, bổ sung năm 2007, tham nhũng hành vi của những người chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi ”
Hiện nay tham nhũng một vấn đề nhức nhối của hội của nhiều nước
trên thế giới cả Việt Nam. Theo tổ chức Minh Bạch Quốc Tế trụ sở tại
Berlin: Hầu hết các quốc gia trên thế giới tham nhũng trong năm 2013, tới
2/3 trong 177 quốc gia được thăm tỉ lệ tham nhũng cao, một con số đáng
buồn. Đặc biệt, Somalia, Bắc Triều Tiên, Afghanistan được coi tham nhũng
nhất; ngược lại như các nước Phần Lan, Đan Mạch, và New Zealand lại được coi là
quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới.
Trích tờ Vietnam Investment Review số 699 ngày 7/3/2005 viết thì tham
nhũng tại Việt Nam đã gây "thiệt hại cho nguồn ngân sách chính phủ... ước lượng
30% đầu hạ tầng". Đối với Việt Nam thì cũng theo tổ chức Minh Bạch Quốc
Tế: Việt Nam luôn ở mức độ tham nhũng cao, với chỉ số luôn dưới 5 (mức độ tham
nhũng cao <5): năm 2010 (2.7), năm 2011 (2.9), năm 2012 (3.1), năm 2013 (3.1)
Cuộc khảo sát 95 quốc gia trên thế giới của về nạn tham nhũng năm 2013
cho biết 30% dân Việt Nam đã phải đút lót nhân viên công quyền. 55% số người
được hỏi cho rằng tham nhũng tăng lên. 38% số người tin rằng các nỗ lực của
Chính phủ Việt Nam nhằm chống tham nhũng là không có hiệu quả.
Theo Trace International, một cơ quan nghiên cứutheo dõi nạn hối lộ thì
cuộc khảo sát năm 2014 chấm điểm 197 quốc gia trên thế giới thì Việt Nam đứng
hạng 188 với 82/100 điểm, thuộc nhóm 10 quốc gia tham nhũng nhất. Chia thành
16
từng tiêu chí một thì Việt Nam những nhược điểm chồng tréo giữa quan
nhà nước doanh thương, dẫn đến vấn đề "lại quả" quan liêu trong việc quản
lý. Việt Nam cũng kém thiếu sự giám sát của các tổ chức dân sự. Kém nhất
tình trạng thiếu minh bạch trong hành chính.
Ủy ban pháp của Quốc hội nhấn mạnh thực tế, trong tổng số bị can bị
khởi tố về hành vi tham nhũng, cán bộ cấp xã, phường chiếm tỷ lệ 30,9% còn cấp
Trung ương chỉ chiếm rất ít (0,3%).
Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2010 chỉ 20 cán bộ nộp lại quà tặng.
Trong khi con số của năm 2009 nhiều gấp 10 lần. Tổng Thanh tra Chính phủ Trần
Văn Truyền nói: "Có lần họ đã mang tới chỗ tôi cả trăm ngàn USD"
Theo thông tấn Reuters, tham nhũng một yếu tố làm giảm hiệu năng
hoạt động của chính quyền Việt Nam, bên cạnh các vấn đề như thiếu giải trình,
thiếu minh bạch, guồng máy hành chính quan liêu cồng kềnh. Hiện nay, tiến
trình cải tổ kinh tế Việt Nam cũng như chính sách cải tạo các doanh nghiệp nhà
nước kém hiệu năng, nguy bị các nhóm bảo thủ đặc quyền đặc lợi phá
hoại nhất là khi chính quyền đặt trọng tâm nhiều hơn đến khía cạnh an ninh.
Các đại biểu Quốc hội Nguyễn Tấn Trịnh (Quảng Nam), đại biểu Nguyễn
Thanh Tân (Hà Tĩnh) lo lắng khi người dân sụt giảm niềm tin "cứ thấy cán bộ chạy
xe hơi là dân bảo ông này tham nhũng. Họ đồn đại đồng chí này có bao nhiêu tiền,
đồng chí kia con thăng tiến quá nhanh, người nhà đồng chí nọ nắm các ngành
kinh tế chủ đạo".
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu: "công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt
được yêu cầu ‘ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng’. Tình trạng tham nhũng,
lãng phí nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạpn, gây
bức xúc trong xã hộilà thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước."
Tháng 12 năm 2012 Nguyễn Bá Thanh được bổ nhiệm làm chủ sự trong Ban
Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hầu tăng cường nỗ lực dẹp nạn
tham nhũng nhưng thời gian tại chức không được lâu thì mất đầu năm 2015.
17
Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban cố vấn của Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam thời các thủ tướngVăn Kiệt Phan Văn Khải, nói trong buổi Hiệp
hội Doanh nghiệp nhỏ vừa Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng ngày 8/8: Một điều
tra cho thấy, Việt Nam, trung bình cứ 1 đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải
mất 1,02 đồng cho “bôi trơn”. nghĩa, nếu tham nhũng nước ta giảm đi 50%
thì đã làm tăng được 50% lợi nhuận của doanh nghiệp rồi. Đây một trong
những điều giải thích nhận xét của TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam, cho rằng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay xu hướng li ti hóa, tức
nhỏ đi so với trước!” Cho nên tuy đã tham gia ASEAN 20 năm, nhưng Việt Nam
vẫn còn nằm trong nhóm 4 nước lạc hậu hơn của ASEAN (gồm Việt Nam, Lào,
Campuchia và Myanmar).
Trong cuộc điều tra năm 2005, Ban Nội chính Trung ương công bố danh sách
liệt mười quan tham nhũng phổ biến nhất Việt Nam. Trong đó ba quan
dẫn đầu là:
- Địa chính nhà đất
- Hải quan và quản lý xuất nhập khẩu
- Cảnh sát giao thông.
Theo khảo sát của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Cảnh sát về ảnh hưởng của
tham nhũng đến công chúng, ba cơ quan/tổ chức dẫn đầu là:
- Công an
- Giáo dục
- Cán bộ, công chức
Ngoài ra trong số mười quan được "bầu chọn" nhiều tham nhũng
quan tài chính, thuế; cơ quan quản lý và các đơn vị trong ngành xây dựng; cơ quan
cấp phép xây dựng; y tế; cơ quan kế hoạch đầu tư; quan quản và các đơn vị
trong ngành giao thông; cảnh sát kinh tế.
Ví dụ như vụ tham nhũng tại Agribank chi nhánh 6, Đây là một trongđại án
tám đại án được Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng chỉ đạo đưa
ra xét xử trước Đại hội Đảng lần thứ XII.
Theo cáo trạng, thực hiện chủ trương di dời nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn
TP về KCX - KCN, Công ty Đông Phương Công ty Phương Nam hợp tác kinh
18
doanh, xây dựng trung tâm thương mại, dịch vụ chung cao tầng. Từ năm
2007 - 2010, Lê Thành Công, Dương Thanh Cường, Thái Cường và đồng phạm đã
lợi dụng việc thi công dự án để thực hiện nhiều hành vi gian dối hòng trục lợi, như:
cho vay trái quy định, ký hợp đồng chuyển nhượng khống… Dương Thanh Cường
còn thành lập một số doanh nghiệp (Công ty Tấn Phát, Thanh Phát…), sau đó thuê
người làm giám đốc để vay vốn ngân hàng.
Dương Thanh Cường chỉ đạo Thái Cường lập hồ sơ vay 170 tỉ đồng; chỉ đạo
Lê Văn Tuấn vay 628 tỉ đồng của Agribank - CN 6. Tài sản thế chấp là một số giấy
tờ bất động sản. mới trả hơn 107 tỉ đồng cho Agribank - CN 6 nhưng các đối
tượng vẫn tiếp tục dùng những giấy tờ này thế chấp vay tiền rồi gán nợ cho Ngân
hàng Phương Nam.
Giữ chức vụ Trưởng phòng Tín dụng của Agribank - CN 6, Hồ Văn Long đề
xuất Hồ Đăng Trung (lúc bấy giờ giám đốc chi nhánh) cho Công ty Tấn Phát
vay 170 tỉ đồng trong khi dự án chưa được phê duyệt; không đề xuất nâng quyền
phán quyết cho vay; tự ý cho vay vượt quyền phán quyết; ký hợp đồng thế chấp tài
sản tài sản không được phép thế chấp; không công chứng, không đăng giao
dịch bảo đảm; giải ngân không đúng theo hợp đồng cho vay; cho mượn tài sản thế
chấp không có biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Long cũng đề xuất để Trung đồng ý cho Công ty Thanh Phát vay 628 tỉ đồng
biết dự án chưa hoạt động, tài sản thế chấp không hợp lệ. Long cũng chỉ đạo
cấp dưới làm ngơ sai phạm trong quá trình làm hồ vay vốn, tạo hội cho
Dương Thanh Cường chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng trên còn đồng ý cho
Dương Thanh Cường mượn lại tài sản thế chấp các giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để đi vay tiền tại ngân hàng khác dẫn đến việc mất tài sản thế chấp.
Qua vụ án này ta thể thấy điểm yếu trong hệ thống quản lý, giám sát
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc thực hiện không tốt yêu
cầu về công khai, minh bạch thông tin trách nhiệm giải trình trong quản trị
doanh nghiệp, đã tạo ra lỗ hổng lớn cho nhiều người lợi dụng làm thất thoát
ngân sách nhà nước.
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi sự phân chia quyền lực hình
thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng, tham ô bắt nguồn từ nền văn hóa
độc tài đề cao nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: hội thay đổi
19
các chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh sinh
ra tham nhũng tham ô.
Tham nhũng và tham ô thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh
tế kém phát triển hoặc mức thu nhập bình quân/đầu người thấp. Tại các nước
này con người thường ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để
tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, mức thu nhập bình
quân/đầu người cao, các cá nhân sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính
trường để làm lãnh đạo.
Biểu hiện tham nhũng như thế nào?
Tham nhũng = + - Độc quyền Bưng bít thông tin Trách nhiệm giải trình.
Theo công thức trên, thể dễ dàng nhận dạng tham nhũng trong các biểu
hiện của nó: thừa độc quyền, thừa bưng bít thông tin, thiếu (phi) trách nhiệm giải
trình.
Công cụ nhận dạng tham nhũng cho thấy được của tham nhũng, màbản chất
con người là yếu tố quan trọng tham gia vào.
Vậy nguyên nhân xuất hiện tham nhũng do đâu mà có?
Thứ nhất, Nguyên nhân và điều kiện khách quan:
- Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản còn lạc hậu, mức
sống thấp, tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát triển. Bên cạnh đó,
do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá mức
giá trị đồng tiền làm cho người sản xuất, kinh doanh xu hướng tối đa hoá lợi
nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh
doanh. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rệt,
những giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều phải chịu sức ép của việc kiếm tiền,
làm xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể mua bán. Những nghiên cứu gần đây cho
thấy tác hại to lớn của những yếu tố tiêu cực từ mặt trái của chế thị trường thật
sự đã đến mức báo động, chính điều này đã góp phần làm gia tăng tệ tham nhũng
thông qua việc thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, làm
giàu phi pháp, chiếm đoạt tiền của Nhà nước và nhân dân.
- chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán,
việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà nước
quản sản xuất, kinh doanh phần chưa rõ. Quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý
tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước còn lỏng lẻo.
- Một số nét văn hoá như biếu nhận quà tặng... bị lợi dụng để thực hiện
hành vi tham nhũng.
Thứ hai, Nguyên nhân và điều kiện chủ quan của hành vi tham nhũng
20
| 1/25

Preview text:

Công chức là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công của công cuộc
cải cách nền hành chính Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay. Vì vậy, đạo đức công chức luôn là vấn đề được Đảng, Nhà
nước ta quan tâm hàng đầu trong công việc giáo dục và đào tạo đội ngũ này.
Đảng và Nhà nước ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, trong đó điểm đột phá là xây dựng một nền hành chính chính quy,
chuyên nghiệp thực sự là của dân, do dân, vì dân, với mục tiêu: "Tập trung xây
dựng hệ thống hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, đảm bảo quản lý
thống nhất, thông suốt trên cơ sở phân công, phân cấp hợp lý, tăng cường kỷ luật,
kỷ cương hành chính, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thời kỳ
mới, chuyển thành công nền hành chính sang phục vụ".

Để đảm bảo cho công cuộc cải cách hành chính được thành công thì điều
quan trọng nhất là con người, con người ở đây là công chức trong bộ máy hành
chính nhà nước. Trong đó đạo đức công chức là một yếu tố vô cùng quan trọng và
bức thiết nhất trong giai đoạn hiện nay.
Để hiểu một cách sâu sắc và toàn diện về vấn đề nâng cao đạo đức công
chức trong thực thi công vụ trước hết chúng ta cần hiểu về đạo đức thông thường,
bởi vì trong một mối quan hệ nào đó, đạ đức công chức có nền tảng từ đạo đức
thông thường. Và chính vì thế, việc nghiên cứu về đạo đức thông thường không chỉ
góp phần tạo cơ sở cho việc luận giải những vấn đề cơ bản liên quan đến đạo đức
công chức mà còn là một trong những điều kiện để hình thành giải pháp xây dựng
đạo đức công chức trong hoạt động công vụ.
Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, hiện tượng xã hội có sinh ra, phát triển và
tiêu vong. Đạo đức là sự phản ánh trong tính hiện thực các mối quan hệ xã hội giữa con người với nhau.
Đạo đức là những tiêu chuẩn,nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, xác
định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau, đối với xã hội, với tự nhiên và
với bản thân. Đạo đức của con người là phẩm chất tốt đẹp của con người dựa trên
những tiêu chuẩn đạo đức và trrai qua quá trình tu dưỡng, rèn luyện của từng
người. Đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống đang diễn ra xung quanh con người.
Vậy sự khác nhau giữa đạo đức công chức trong thực thi công vụ và đạo đức
thông thường như thế nào?
Công vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa
học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Công vụ được diễn đạt bởi
nhiều khái niệm khác nhau. Có ý kiến lại cho rằng: “Công vụ chỉ là những công
việc công do nhà nước phải đảm nhận thực hiện hoặc có trách nhiệm thực hiện
”. 1
Hay “Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo quy định
của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi
ích nhà nước và xã hội

Công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý được thực
thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá
trình quản lý các mặt của đời sống xã hộ
i”.
Nói tóm lại, Công vụ là toàn bộ hoạt động của công chức trong quản lý xã
hội theo chức năng được quy định trong pháp luật thực thi nhằm mục đích phục vụ
nhân dân, xã hội và nhà nước.
Còn công chức dùng để chỉ những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, giao
giữ một công vụ thường xuyên, làm việc trong một cơ quan nhà nước, được phân
loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính,
sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Vậy đạo đức công chức là gì?
Đạo đức công chức là khái niệm liên quan đến mức độ hài lòng của nhân
dân về hành vi của công chức trong thực thi công vụ, trên cơ sở các định chế pháp
lý ở mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử. Đạo đức công chức là một bộ phận đạo
đức của người công chức bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc hành vi,
sử xự trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi của công chức trong thực thi công vụ. Ví dụ:
Một gia đình có 3 thành viên là: Cha, mẹ và người con. Một buổi tối, người
con đột nhiên bị đau bụng và kêu là rất đau đớn. Người cha liền lấy trong tủ thuốc
một loại thuốc chữa đau bụng của mình cho con uống. Không ngờ rằng, cơn đau
bụng không khỏi mà còn có nhiều triệu chứng khác xuất hiện… Sau đó cha mẹ
mới đưa người con đến bệnh viện để chữa trị.
Một ví dụ khác,ở bệnh viện A có một người bị bệnh đến gặp bác sĩ để chữa
bệnh. Bác sĩ kê đơn cho 1 đơn thuốc để người đó về uống. Sau 1 thời gian, căn
bệnh có vẻ có triệu chứng đỡ nhưng không thể khỏi. Thực ra ở đây không phải là
căn bệnh không thể khỏi mà là do bác sĩ kê đơn thuốc theo kiểu nuôi bệnh để bệnh
nhân bị phụ thuộc phải đi khám lại.
Qua 2 ví dụ trên ta có nhận xét, cái sai về cách chữa bệnh ở ví dụ 1 không
phải là vi phạm về đạo đức công chức vì do người cha chưa có đủ hiểu biết rõ ràng
về căn bệnh hoặc do tình thế lúc đó gấp quá nên thử cho người con uống tạm thuốc
giảm đau của mình. Còn ở ví dụ 2, người bác sĩ mặc dù biết rõ bệnh của bệnh nhân
nhưng vẫn không chữa trị nghiêm túc mà kê đơn thuốc theo kiểu nuôi bệnh, chứng
tỏ người bác sĩ này đã vi phạm về đạo đức công vụ trong công việc của mình. 2
Đạo đức công chức và đạo đức thông thường đều nhằm hướng đến sự ổn
định trật tự xã hội và bảo vệ những chuẩn mực tốt đẹp tồn tại trong cuộc sống và
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.Thế nhưng về cơ bản đạo đức công chức khác
xa về chất so với đạo đức thông thường. Bởi vì:
Thứ nhất, Không phải bất kì ai cũng làm công chức, công chức chỉ là một bộ
phận con người trong xã hội. Và khi đã là công chức thì những người cán bộ đó
thực hiện những công việc mà những người khác trong xã hội không làm được.
Ví dụ: Một cán bộ kiểm sát ngoài việc có những đạo đức thông thường và
chuẩn mực chung của người bộ công chức Việt Nam là “ liêm chính” thì bắt buộc
phải có những đạo đức của người cán bộ kiểm sát xứng đáng với giá trị một người
cán bộ kiểm sát: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”
Thứ hai, đạo đức công chức trong thực thi công vụ thì chủ thể sáng tạo là
con người thi hành trong cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội.
Thứ ba, đạo đức công chức đối tượng điều chỉnh là bộ phận những con
người thực thi công vụ, trong tổ chức công. Và mục đích điều chỉnh là bộ phận các
công chức trong thực thi công vụ bị tha hóa về đạo đức. Và phương pháp điều
chỉnh ngoài việc tự nguyện tự giác như đạo đức thông thường thì còn có bắt buộc
thông qua các chế tài trong các vi phạm thống nhất được thể hiện qua các văn bản pháp luật.
Vậy thực trạng đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ hiện nay như thế nào?
Ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, cùng với việc xây dựng
chính quyền cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng đội ngũ công
chức làm việc trong bộ máy chính quyền đó. Trong quá trình hoạt động từ đó đến
nay của bộ máy nhà nước nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đội ngũ
cán bộ công chức ngày càng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Khi mới xây
dựng năm 1945, cả nước mới có khoảng 44.620 công chức cho đến nay cả nước có
gần 2 triệu cán bộ, công chức từ trung ương đến địa phương. Từ việc thành lập bộ
máy gồm các công chức chưa chuyên sâu về nghiệp vụ đi đến việc hoàn thiện dần
đội ngũ công chức. Cho đến nay hầu hết tất cả công chức ở nước ta đều có chuyên
môn nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Số lượng, chất lượng đội ngũ công chức ở nước ta ngày càng được nâng cao,
bên cạnh đó khi nhắc đến người cán bộ công chức thì chúng ta cũng cần nhắc đến
đạo đức công chức. Đây là một vấn đề đã đang được Đảng và nhà nước quan tâm rất nhiều.
Trước hết, có thể khẳng định rằng đại bộ phận cán bộ, công chức nhà nước của
ta dù được phân công bất kì nhiệm vụ nào đều cố gắng vượt qua mọi khó khăn
gian khổ và thử thách để hoàn thành nhiệm vụ, cố gắng thực hiện và phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ; giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức
kỷ luật cao và tinh thần trách nhiệm; có lối sống lành mạnh, giản dị gắn bó với 3
nhân dân, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích cộng đồng. Trong thời đại kinh
tế thị trường, mặc dù tất cả mọi người đều chịu sự chi phối của quy luật phát triển
kinh tế - xã hội nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức nước ta vẫn giữ vững
được lập trường chính trị, không vụ lợi cá nhân, mọi quyết định, mọi việc làm đều
nhằm mục đích phục vụ và bảo vệ quyền lợi của nhân dân; dám đấu tranh chống
lại cái xấu, bảo vệ lẽ phải… Như vậy đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta đã góp
một phần lớn công sức vào quá trình đổi mới và xây dựng được nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ như trường hợp của anh Nguyễn Tiến Giang, anh được giao nhiệm vụ
là chuyên viên giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội kiêm tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả
bộ phận một cửa tại bảo hiểm xã hội huyện, công việc được giao rất phức tạp, đòi
hỏi người thực hiện phải có chuyên môn sâu, phẩm chất đạo đức tốt, phải có tính
kiên nhẫn, khả năng giao tiếp tốt…Với tinh thần trách nhiệm, đức tính cần cù, chịu
khó nghiên cứu, học hỏi, có tư duy và phương pháp làm việc khoa học, năng động
sáng tạo; giải quyết công việc khách quan, công tâm, có lý, có tình Nguyễn Tiến
Giang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, mọi chế độ của các đối tượng
thụ hưởng được giải quyết thỏa đáng, đúng quy định của Nhà nước; với cách nói
chuyện khéo léo và sự tận tâm trong công việc, Tiến Giang đã làm hài lòng các đối
tượng đến giao dịch qua bộ phận một cửa mọi người đều cảm thấy yên tâm, tin
tưởng vào anh người cán bộ chính sách trẻ. Bên cạnh đó bản thân anh luôn hòa
mình cùng tập thể khi có câu chuyện vui hoặc khi gặp vấn đề khó khăn cần giải
quyết. Không nề hà bất cứ nhiệm vụ nào, miễn lãnh đạo cơ quan giao, anh đều
quyết tâm làm cho tốt; tạo mối quan hệ phối hợp tốt giữa các bộ phận chuyên môn,
kịp thời tham mưu, đề xuất các giải pháp thực hiện nhiệm vụ chuyên môn phục vụ
công tác chỉ đạo điều hành chung của lãnh đạo đơn vị.
Tuy nhiên bên cạnh những cán bộ công chức luôn vì dân phục vụ thì cũng có
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức ở nhiều nơi, nhiều ngành, nhiều cấp
thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, đánh mất lý tưởng, mất cảnh giác, thiếu ý thức
tổ chức kỷ luật, thoái hóa về đạo đức, lối sống, lơ là về chuyên môn, không dám
lên tiếng bảo vệ công lí, tư lợi cá nhân, lợi dụng việc công để mưu lơi cá nhân,…
Đặc biệt là mối quan hệ giữa người làm công bộc của nhân dân và nhân dân ngày
càng trở nên xấu vì một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự lấy việc phục vụ
nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, làm thước đo mức độ và kết quả thực hiện nhiệm
vụ của mình, lợi dụng chức vụ, vị trí để ức hiếp gây khó dễ với người dân trong
việc thực hiện các thủ tục hành chính. Ngoài ra, số lượng cán bộ công chức bị xử
lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự những năm gần đây ngày càng tăng.
Thực trạng này đã và đang ảnh hưởng đến uy tín và làm giảm niềm tin của nhân
dân đối với đội ngũ cán bộ công chức, đối với Đảng, đối với nhà nước ta.
Như vậy trong tình hình hiện nay, nước ta đang có nhiều chuyển biến phát
triển hội nhập nền kinh tế quốc tế, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao, xã 4
hội ngày càng phát triển đã ảnh hưởng tích cực và tiêu cực về nhiều mặt đến lực
lượng cán bộ, công chức, viên chức, tạo sự chuyển biến lớn về tư tưởng, đạo đức
lối sống của cán bộ, công chức, viên chức do vậy đã có một bộ phận cán bộ, công
chức, viên chức có biểu hiện suy thoái, thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống.
Có thể thấy những việc liên quan sai phạm về đạo đức của cán bộ, công
chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh
vực như: đất đai, xây dựng, công an, kiểm lâm, y tế, giao thông... Trong đó, có
nhiều vụ việc cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức
nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số vụ công chức kiểm lâm, viên
chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng lơ là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm tặc"
phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành y tế lợi dụng vị trí việc làm vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm nhân phẩm, danh dự và
thể xác của người khác; một số cán bộ dự án "rút ruột" công trình xây dựng; một số
công chức, viên chức thanh tra giao thông, công an giao thông nhận tiền của lái xe
và doanh nghiệp; một số công chức địa chính cố ý sai phạm để trục lợi cá nhân; có
cán bộ làm công tác đền bù, giải tỏa thiếu quản lý, tắc trách để cấp dưới gây ra
những sai phạm gây nhiều dư luận, bức xúc cho người dân; thậm chí công chức
làm công tác văn thư, lưu trữ của cơ quan chuyên môn cũng hách dịch, rề rà, gây
khó dễ cho các cá nhân đến liên hệ công tác... Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, công
chức, viên chức bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công
việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích công việc cho người dân một cách lòng
vòng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt tình và thiếu hẳn tính thân
thiện hoặc thiếu nhiệt tình trong việc tiếp công dân. Ví dụ:
Tại Đà Nẵng, sau một năm thực hiện chỉ thị 29 của Ban thường vụ Thành ủy
Đà Nẵng về “5 xây 3 chống”, đã có tổng cộng 95 cán bộ công chức, viên chức bị
xử lý kỷ luật từ hình thức khiển trách đến khai trừ Đảng, cách chức và sa thải. (nguồn: nguoiduatin)
Ngày 4-5-2006 , tại hội nghị sơ kết hai năm thực hiện một số giải pháp để
ngăn chặn và chấm dứt tệ gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong cán bộ, công
chức hải quan, ông Nguyễn Trung Học - cục trưởng Cục Hải quan TP.HCM - cho
biết từ năm 2004 đến nay đã xử lý 26 vụ với 104 cán bộ, công chức hải quan vi
phạm kỷ luật từ các mức độ hạ bậc thi đua, khiển trách, hạ bậc lương đến buộc thôi
việc. Trong đó, có 38 cán bộ, công chức hải quan liên quan đến hành vi sách nhiễu,
tiêu cực mà báo thời sự đã phản ánh vào tháng 5-2004. Ngoài ra đã xử lý kỷ luật
119 cán bộ, công chức sử dụng văn bằng chứng chỉ không hợp pháp. ( nguồn: vietbao.com)
Trong nhiệm kỳ vừa qua( 2011 – 2016), Tòa án nhân dân các cấp đã phát
hiện, xử lý kỷ luật 205 cán bộ, công chức tòa án nhân dân địa phương do vi phạm 5
kỷ luật, vi phạm quy chế và chuyển cơ quan điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với 33 trường hợp. (nguồn: dantri.com.vn)
Kết quả của một cuộc điều tra cho thấy có đến 70% đội ngũ y bác sĩ vi phạm
vấn đề y đức với các biểu hiện là: kê đơn thuốc đắt tiền để hưởng phần trăm hoa
hồng của dược viên; móc ngoặc chuyển bệnh nhân về phòng khám tư; thiếu tôn
trọng bệnh nhân; lơ là, sao nhãng không hoàn thành nghĩa vụ; gây khó khăn cho
bệnh nhân để nhận tiền bệnh nhân….. ( nguồn: truongchinhtrina.gov.vn )
Các ví dụ trên đây phần nào đã chứng minh rằng trong thực tế vẫn có một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức giải quyết công việc cho dân, thậm
chí cho cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị khác chưa thực sự
đúng nghĩa là “công bộc” của dân, chưa đúng nghĩa là quan hệ giữa người phục vụ
và người được phục vụ mà còn đặt nặng tính thủ tục, nguyên tắc cứng nhắc, thiếu
bình đẳng, thiếu tôn trọng,lạm dụng việc công để trục lợi cá nhân đồng thời cho
thấy tình trạng suy thoái đạo đức ở cán bộ, công chức của nước ta đáng phải báo động.
Thực trạng đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ hiện nay là đáng
báo động. vấn đề này đang diễn ra hàng ngày và ngày càng nghiêm trọng về quy
mô và tổ chức. Vậy nguyên nhân của vấn đề trên là do đâu?
Thứ nhất, trong điều kiện mới, một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức sa
vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu tu dưỡng rèn luyện đạo đức, thiếu tinh thần trách
nhiệm trong khi sự giáo dục, quản lí, kiểm tra của các cơ quan, tổ chức còn chưa
quan tâm sắc sắc, chưa được chặt chẽ
Khi nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì nó không chỉ đem lại cho chúng ta nhưng mặt tích cực mà cùng với đó
cũng xuất hiện những mặt trái của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa mà cụ thể là các cá nhân, tổ chức chạy theo lợi nhuận mà bất chấp mọi thủ
đoạn để đạt được điều mình muốn, từ đó dần làm cho các giá trị đạo đức bị mờ
nhạt đi ở một số cá nhân, tổ chức. Như vậy khi các cán bộ, công chức của chúng ta
chạy đuổi theo giá trị đồng tiền, giá trị và lợi ích trước mắt thì họ dễ sa vào chủ
nghĩa cá nhân mà theo như Hồ Chí minh từng nói “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ
rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi
trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xã hoa, tham
danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, xa rời quần chúng,…(
những
dấu hiệu suy thoái đạo đức)
Trước việc cán bộ công chức phải đối diện với những tác động tiêu cực của
cơ chế kinh tế thị trường thì chúng ta vẫn chưa lường được hết những hậu quả
nghiêm trọng mà nó đem lại cho đạo đức của cán bộ, công chức. Chính vì vậy mà
khi tình trạng suy thoái đạo đức mới len lỏi vào một bộ phận rất nhỏ cán bộ , công
chức thì chúng ta không phát hiện ra nên không có những biện pháp để diệt trừ,
loại bỏ căn bệnh ấy ngay từ khi mới xuất hiện. Để đến khi mà một bộ phận không 6
nhỏ cán bộ, công chức ta suy thoái đạo đức thì pháp luật, các quy trình kiểm tra,
quản lí không đủ chặt chẽ, không đủ nghiêm khắc để nghiêm trị, xử phạt, răn đe
những cán bộ, công chức vi phạm đạo đức công chức.
Thứ hai, các cơ quan, đơn vị còn chưa xem trọng việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, công chức, thiếu các biện pháp để kiểm tra quá trình rèn luyện tu
dương đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Cũng như Hồ Chí Minh từng viết: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ
viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
nhưng người có tư cách, đạo đức
”. Tuy nhiên trên thực tế thì các cơ quan, đơn vị
lại không quá xem trọng việc giáo dục kiểm tra quá trình rèn luyện tu dưỡng đạo
đức của cán bộ công chức vì trước mặt những người kiểm tra thì cán bộ công chức
bị suy thoái đạo đức luôn có những cách để che dấu bản chất của mình còn những
biểu hiện của suy thoái đạo đức chỉ được biểu hiện ra trước mặt dân, trong quá
trình làm việc hàng ngày và sau lưng những cơ quan có chức năng kiểm tra, giám
sát. Chính vì chỉ biểu hiện ra trước dân và sau lưng cơ quan kiểm tra, giám sát nên
dân biết nhưng các cơ quan chức năng lại không biết dẫn đến tình trạng dân xa rời
cán bộ, công chức, ngại tiếp xúc với chính quyền và ngại tố cáo những việc làm
sai, trái với đạo đức công chức của một số cán bộ, công chức với cơ quan chức năng.
Thứ ba, trong điều kiện một đảng cầm quyền, một số cán bộ, công chức
không chịu rèn luyện phẩm chất của người cộng sản đã biến quyền lực thành lợi
ích vật chất cá nhân, sống trên dân, xa rời dân. Lợi ích cá nhân ấy đã tuyệt đối hóa
và trở thành “chủ nghĩa cá nhân” trở thành rào cản trong việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ công chức trong sạch và liêm chính, chí công vô tư.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đạo đức cách mạng không từ trên trời rơi
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong
”. Tu dưỡng đạo
đức công chức nói riêng và đạo đức cách mạng nói chung phải dựa trên tinh thần
tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận quần chúng. Tuy
nhiên một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức lại quên mất điều ấy nên họ
không để tâm đến dân, không sử dụng quyền lực mà dân trao cho mình để phục vụ
cho lợi ích của dân mà lại dùng nó để trục lợi cá nhân, làm khó dân, sách nhiễu
dân. Sử dụng quyền lực của dân trao cho để trục lợi cá nhân một hai lần thành
quen, dẫn dần nó lấn át cái phẩm chất đạo đức đã từng được giáo dục, từng được
nâng niu, xem trọng của người cán bộ. Từ đó dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức công chức.
Thứ tư, do sự tác động của các thế lực thù địch.
Ở Việt Nam hiện nay, những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, công
chức được biểu hiện trên những khía cạnh sau: trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định lí tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền 7
với chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình.
Người cán bộ công chức phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, thân trọng,
khiêm tốn trong thực thi công vụ, đồng thời phải thực hiện đầy đủ các quy định về
nghĩa vụ, trách nhiệm của người cán bộ, công chức đã được quy định trong cac văn bản pháp luật.
Hơn bất kì một bộ phận nào khác người cán bộ công chức phải gần dân, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu dân, phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Người cán bộ công chức phải có hiểu biết, trách nhiệm, yêu ngành, yêu
nghề, vượt khó hoàn thành nhiệm vụ. Đoàn kết, chân tình, thẳng thắn, hợp tác,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Người cán bộ, công chức phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Cơ quan công quyền của mọi quốc gia luôn đề cao vấn đề đạo đức công
chức. Mấu chốt của vấn đề đó, xét đến cùng, chính là nằm ở chất lượng nhân tố
con người, cụ thể là đội ngũ công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Về
vấn đề này, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của Việt Nam
được thông qua tại Đai hội XI Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ: Cần phải “ xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh
chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”.
Những phẩm chất nêu trên của đội ngũ công chức, có thể nói, về cơ bản, được thể
hiện tập trung và chủ yếu qua các phạm trù đạo đức công chức.
Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế của đất nước, đội ngũ cán bộ, công
chức của nước ta ngày càng phát triển về năng lực trình độ song cũng nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp thuộc phạm trù đạo đức. Công chức trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đang được xem là hình mẫu lý tưởng cho
những sinh viên tốt nghiệp ra trường muốn cống hiến công sức nhỏ bé của mình
vào sự phát triển của xã hội, đưa đất nước hội nhập thế giới, vì vậy nền kinh tế
càng phát triển, đạo đức của người công chức càng cần được coi trọng và gìn giữ.
Và vì thế, nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ là sự đòi hỏi mang
tính tất yếu khách quan, bởi vì:
Thứ nhất, đạo đức công chức trong thực thi công vụ khác xa về chất so với
đạo đức thông thường. Và không phải ai cũng làm công chức trong nhà nước,
những người công chức ngoài làm những công việc ai cũng có thể làm được mà
còn làm những công việc mà những người khác không làm được.
Thứ hai, đạo đức công chức trong vai trò quản lí xã hội của Nhà nước. Có
thể nói, sau khi xây dựng được hệ thống chính sách đúng đắn và phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn, chức năng quản lí xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được thực hiện như thế nào, mức độ hiệu quả, hiệu lực đến đâu… 8
phụ thuộc đáng kể vào đội ngũ công chức nhà nước trong các cơ quan công quyền.
Vì vậy, nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay là
nhiệm vụ cấp bách trong quá trình thực thi công vụ phục vụ nhân dân của các cơ quan công quyền.
Thứ ba, sự vận động theo xu hướng tiến bộ của đạo đức công chức là yếu tố
phản ánh xu thế phát triển nội tại, tích cực và khách quan của các chế độ nhà nước
trên toàn thế giới. Xu hướng tiến bộ ấy chính là tiến đến một nhà nước “ dân chủ”.
Trong đó, Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Tuy mức độ ít nhiều có khác nhau
tùy thuộc vào bản chất chế độ chính trị, song xu hướng chung là các chức năng của
Nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của người dân. Nhà nước Việt
Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; do đó mục tiêu của nó, thông qua các cơ
quan nhà nước, không gì khác hơn là phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, có đạo
đức hơn. Và muốn trở thành một nhà nước “ dân chủ” các cán bộ làm việc phải
thật liêm chính, trong sạch thì nhân dân mới tin tưởng. Và muốn làm được điều đó
thì tất yếu khách quan phải nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ.
Và để thế hiện được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý đến việc xây
dựng con người - người cán bộ, công chức nhà nước. Về đạo đức, Người đưa ra rất
nhiều tiêu chí rèn luyện: Đức là gốc; đức quyết định sự thành công của người cán
bộ; cán bộ là công bộc của nhân dân v. v… Đức của người cán bộ, công chức là
đạo đức cách mạng. Người coi đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của
người cán bộ, công chức. Đức của người cán bộ, công chức cách mạng thể hiện ở
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, là lòng trung thành đối với Đảng,
Tổ quốc, nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa; là trình độ giác ngộ lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó. Đức
được thể hiện ở sự trong sáng, trung thực, không cơ hội, thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, dân tộc
và của nhân dân; có lối sống trong sạch, gần gũi với quần chúng, gương mẫu, gắn
bó với nhân dân, khiêm tốn, giản dị, cầu thị; có tinh thần đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau. Đức là cái gốc giúp người cán bộ, công chức vượt qua khó khăn,
gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Với
bản chất như vậy và để thực hiện mục tiêu đó, trước hết đội ngũ công chức nhà
nước trong các cơ quan nhà nước phải thực sự là những người có đạo đức trong
thực thi công vụ phục vụ nhân dân. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ các quan hệ
kinh tế quốc tế cũng đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công chức phù hợp với thông lệ
quốc tế khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.
Thứ tư, những thách thức của thực tiễn xã hội Việt Nam về yêu cầu của xã
hội trong nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi định hướng phát triển mới trong nhận
thức và nâng cao đạo đức công chức. Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đang đứng
trước những thách thức không nhỏ, trong đó có tình trạng suy thoái về phẩm chất 9
đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm trong công vụ cảu một bộ phận công chức nhà
nước. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thẳng thắn chỉ ra rằng:
“Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong một bộ phận
không nhỏ cản cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu…
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…”
Rõ ràng, nâng
cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ đang trở thành một đòi hỏi bức thiết
không chỉ ở cơ quan công quyền mà còn là yêu cầu của toàn xã hội.
Thứ năm, xuất phát từ thực trạng đạo đức của một bộ phận cán bộ công
chức trong thực thi công vụ đang ngày càng suy thoái và xuống cấp nghiêm trọng.
Từ đây đặt ra yêu cầu bức thiết là phải có biện pháp thích hợp để nâng cao đạo đức
công chức. Nhà nước hay các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội về cơ bản chỉ là một bộ máy mà chủ thể vận hành bộ máy ấy là đội
ngũ công chức. Muốn Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân thì
đội ngũ cán bộ, công chức lại càng phải có đạo đức, phải thực sự liêm chính. Đạo
đức đối với người bình thường đã quan trọng, đối với người cán bộ lại càng quan trọng hơn.
Thứ sáu, những chuẩn mực đạo đức công chức được đặt ra sẽ không chỉ góp
một phần lớn vào việc bảo vệ đạo đức người công chức nói riêng mà còn bảo vệ
đạo đức xã hội nói chung; xác định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá phẩm hạnh của người công chức.
Thứ bảy, xu hướng của các nước trên thế giới hiện nay là xây dựng một nền
công vụ dân chủ, khách quan, minh bạch. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu
hướng đó, chỉ có nâng cao đạo đức công chức mới là con đường bền vững nhất để
đạt được yêu cầu này.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân là chủ trương, đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất
phát từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước.
Từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của việc xây dựng Nhà
nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta xác
định những giải pháp cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có giải pháp: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
”.
Vậy có những giải pháp cụ thể nào để nâng cao đạo đức công chức?
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân , do dân và
vì dân, vấn đề nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ là hết sức quan 10
trọng, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính, cùng với đó là
thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp để nâng cao đạo đức nền công vụ nhằm mục
đích xây dựng bộ máy nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, bảo đảm quá trình hiện thực hóa quyền lực
Nhà nước trong nhân dân mà đội ngũ công chức là nhân tố đảm bảo cho sự vận
hành cử bộ máy đó. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thể hiện ở nhiều khía
cạnh khác nhau, trong đó đạo đức công vụ là nội dung đặc biệt quan trọng để giúp
người cán bộ, công chức trở thành người “công bộc” của nhân dân. Đồng thời, việc
nâng cao các giá trị đạo đức công chức cùng với sáng kiến cải cách cơ quan công
quyền sẽ là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Để nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ, không thể thực hiện
các giải pháp một cách riêng rẽ, tách biệt mà cần có một hệ thống các giải pháp
đồng bộ. Một mặt hệ thống giải pháp ấy vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện
của con người, vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và
ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Mặt khác, hệ thống giải pháp này
vừa nâng cao đạo đức của mỗi người công chức trong thực thi công vụ, giúp họ ý
thức được bổn phận của mình, vừa để họ không tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân để trở
thành “chủ nghĩa cá nhân”, tư lợi, gây ảnh hưởng đến nền công vụ quốc gia.
Đầu tiêngiải
pháp về giáo dục, đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tu
dưỡng, rèn luyện của cán bộ, công chức. Khuyến khích, tôn vinh sự hướng thiện vì
lý tưởng toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, đất nước, phục vụ sự nghiệp chung
của cán bộ công chức. Trong nền kinh tế thị trường càng phải đề cao giải pháp này,
coi trọng giá trị đạo đức, không vụ lợi, ích kỷ. thực hiện giải pháp này cần coi
trọng công tác giáo dục và tự giáo dục, có sự khen thưởng, tôn vinh những người
làm việc tốt, phục vụ tận tụy và có hiệu quả.
Thực tiễn giải pháp này đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức không ngừng tu
dưỡng , rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực;
chịu học, biết học và học có hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, nắm bắt thực tiễn để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân;
đồng thời kiên trì tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác, rèn luyện
bản lĩnh và năng lực trong thực thi công vụ; kiên quyết đấu tranh chống lại chủ
nghĩa cá nhân, lối sống buông thả, những thói hư, tật xấu,
Xét cho cùng thì công vụ chỉ là những hoạt động trong cơ quan công quyền
còn công chức mới là chủ thể thực hiện những hoạt động ấy; chính vì thế hoạt
động công vụ có hiệu quả hay không, có mang lại lợi ích cho nhân dân hay không
đều xuất phát từ bản thân người cán bộ công chức. Khi mỗi người cán bộ công
chức tự ý thức được vị trí, trách nhiệm và bổn phận của mình thì cũng là lúc bộ
máy nhà nước đang ngày càng trong sạch và hoạt động có hiệu quả. 11
Đối với mỗi người công chức, đức và tài luôn là hai yếu tố cần thiết và song
hành với nhau, tuy nhiên đức phải luôn là cái gốc của người cán bộ, dẫn dắt cái tài
đi đúng hướng, đi đến nơi, đến chốn. “ Có đức mà không có tài làm việc gì cũng
khó, có tài mà không có đức thì coi như vô dụng
” (Hồ Chí Minh). Chính vì lý do
này, việc tự thân rèn luyện của bản thân mỗi công chức là điều vô cùng cần thiết.
Khi đã trở thành người công chức làm việc trong cơ quan công quyền thì chữ
công” luôn phải được đặt lên trên hết, nghĩa là quyết định của người công chức
không chỉ liên quan đến bản thân người đó mà còn liên quan đến nhiều người khác.
Mọi quyết định của công chức đều gắn với quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Tính hợp pháp và hợp lý của các cơ quan công quyền phụ thuộc
nhiều vào đạo đức người công chức. Sự thờ ơ, vô cảm trong việc thực thi công vụ
của người công chức cũng dễ dẫn đến việc ra quyết định sai trái, thậm chí trái pháp
luật hoặc không hợp lý.
Thứ haigiải
pháp đổi mới, hoàn thiện cơ chế để cán bộ, công chức có
điều kiện phát huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân. Thực
tiễn giải pháp này đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân, cán bộ công
chức phù hợp với sự quản lý và phục vụ trong từng thời kỳ mới. Cơ chế phải loại
bỏ được những yếu tố dẫn tới khả năng tiêu cực, “xin- cho”, sách nhiễu nhân dân
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan. Hơn nữa, thực hiện giải pháp này cũng
góp phần hạn chế sự chồng chéo trong hoạt động, khắc phục tình trạng lạm quyền,
đi quá giới hạn, thẩm quyền trong thực thi công vụ của người công chức. Chỉ khi
được công khai, minh bạch thì hoạt động của người công chức và cơ quan công
quyền mới mang tính khách quan cao, và cũng chính là cơ sở để xác định phạm vi
quyền hạn của mỗi người công chức trong thực thi công vụ, xây dựng và củng cố
niềm tin trong nhân dân. Trong quá trình thực hiện cải cách hành chính hiện nay
thì giải pháp này càng trở nên cần thiết.
Thứ ba là tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất à chế
độ đãi ngộ vật chất và tinh thần đối với cán bộ công chức.
Môi trường xã hội của công chức là các mối quan hệ giữa nhân viên với
nhân viên, giữa nhân viên với lãnh đạo; cơ chế điều hành, đánh giá và sử dụng
công chức. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của công chức, cần một xã
hội thân thiện, bình đẳng, chân thành, đánh giá khách quan, chính xác năng lực,
phẩm chất của mỗi thành viên trong cơ quan, đơn vị, trong hoạt động thực thi công
vụ. Điều đó không chỉ tạo tiền đề cho việc sử dụng đúng người, đúng việc mà còn
khuyến khích được người tài, người giỏi, tạo mối quan hệ thân thiện, tích cực
trong hoạt động thực thi công vụ. 12
Thực tiễn cho thấy rằng, một bộ phận công chức suy thoái, xuống cấp về đạo
đức là do nguyên nhân về lợi ích cá nhân về kinh tế. Chính vì thế Nhà nước cần có
chế độ, chí nh sách đãi ngộ phù hợp với cán bộ, công chức dựa trên nguyên tắc về
sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm. Từ đây
đặt ra yêu cầu cải cách hệ thống tiền lương, đảm bảo trả đúng sức lao động và giá
trị cống hiến đúng của người cán bộ, công chức, tạo động lực thực hiện công vụ.
Đây là giải pháp có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong thời đại nền kinh tế thị trường
đang ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng nâng cao. Giải pháp
này không chỉ tạo động lực làm việc mà còn góp phần quan trọng trong phòng
chống tham nhũng, nâng cao phẩm giá của người cán bộ, công chức. Thêm vào đó
cần xây dựng các chế độ, chính sách tôn vinh, khuyến khích sự tận tâm thực hiện
công vụ, khen thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần đối với cán bộ, công chức
làm việc tốt, tận tụy và trong sạch.
Thứ tư, cần thường cuyên giáo dục và nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức công vụ.
Công chức chính là chủ thể thực thi công vụ nên chỉ có giáo dục và tự giáo
dục đạo đức công chức thì mới có thể góp phần nâng cao đạo đức công chức trong
thuc thi công vụ. Trước khi trở thành công chức thì mỗi cán bộ đều là con người.
muốn thành người thì phải giáo dục và tự giáo dục. Tự giáo dục là tự mình tu
dưỡng, rèn luyện. Cùng với tự giáo dục là giáo dục, bởi vì con người tốt hay xấu,
thiện hay ác phần lớn do giáo dục mà nên. Trên cái nền đạo làm người, công chức
cần có thêm những phẩm chất đạo đức mới, hoặc cơ bản vẫn là những phẩm chất
đạo đức làm người, nhưng nâng cao về chất lượng, trình độ, phạm vi đậm đặc.
Giáo dục đạo đức công chức là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, tỉ mỉ và
phức tạp, phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong quá trình thực thi
công vụ và trong thực tiễn cuộc sống. Đó là một quá trình giáo dục tổng hợp bao
gồm giáo dục chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, phẩm hạnh, nâng cao cả về đức và tài.
Đặc biệt chú trọng mối quan hệ giữa quy phạm đạo đức và quy phạm pháp
luật. Đạo đức công vụ là một vấn đề quan trọng, Nhà nước Việt Nam luôn chủ
động xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức – pháp lý cho hành vi của
công chức trong hoạt động thực thi công vụ. Tuy chưa có luật về đạo đức công
chức trong thực thi công vụ nhưng trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã xuất hiện
ngày càng hoàn chỉnh định chế pháp lý về vấn đề này. Việc luật hóa các chuẩn về
đạo đức công chức trong thực thi công vụ là một điều hết sức cần thiết vì đạo đức
công chức không chỉ đơn thuần mang tính tự giác, tự nguyện mà còn mang tính bắt
buộc. Đây là cơ hội để thể chể hóa những chuẩn mực đạo đức công chức thành
những chuẩn mực pháp lý có giá trị bắt buộc chung trong thực thi công vụ. Xu thế
chung của các nước trên thế giới là pháp luật hóa các giá trị cốt lõi của công vụ và 13
pháp luật hóa các quy tắc, chuẩn mực giá trị công chức trong thực thi công vụ. Và
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục, là sự thức
tỉnh và phán xét và làm cho lương tâm trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo
đức trong công chức là quá trình biến nghĩa vụ thành tình cảm, biến cái tôi thành
cái ta, trở thành niềm tin vững chắc, là sụ thôi thúc bên trong hình thành ý thức cái
cần phải làm để không hổ thẹn trước nhân dân, trước chính bản thân mình. Thông
qua quá trình hoạt động công vụ, người cán bộ không chỉ thực hiện được nghĩa vụ
của mình là cống hiến cho xã hội mà còn phát triển làm phong phú bản thân, tạo
điều kiện cơ bản để đạt đến hạnh phúc. Rèn luyện đạo đức công chức cũng giống
như rèn luyện đạo đức thông thường , đều là một quá trình lâu dài. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng dạy: “Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có được, mà
nó là kết quả của một quá trình khổ luyện, phấn đấu không ngừng. Ngọc càng mài
càng sang, vàng càng luyện càng trong”.
Thứ nămhoàn
thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm đạo đức công
chức trong thự thi công vụ
. Khi đã xây dựng được những chuẩn mự đạo đức trong
thực thi công vụ thì cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát tuân thủ những
nguyên tắc đó. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, dù có thực hiện giải pháp này ở
mức độ nào đi chăng nữa thì cũng chỉ mang tính chất chống chứ không phải
phòng. Cái cần thiết là đạo đức xuất phát từ tâm của mỗi người công chức chứ
không phải là uốn nắn, điều chỉnh từ khách quan.
Thực hiện công khai hóa quá trình tuyển chọn, sử dụng đánh giá cán bộ,
công chức, đưa các yếu tố về đạo đức công vụ vào nội dung tuyển dụng và đánh
giá kết quả hoạt động. Phải có quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức
được làm hoặc không được làm, công khai các lợi ích của họ, có chế tài xử phạm
nghiêm các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, tùy theo mức độ vi phạm, kể cả truy
cứu trách nhiệm hình sự. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, kiểm soát nội bộ
chặt chẽ nhằm phát hiện các nguy cơ dẫn đến tiêu cực, tham nhũng. Phát huy vai
trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và hoạt động công vụ, đảm
bảo quyền dân chủ cơ sở để dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động công
vụ. Hoàn thiện cơ chế quản lý và làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại cán bộ, công
chức của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị; định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong quản lý hoạt động công vụ của cấp dưới thuộc quyền.
Thứ sáu, cần
kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai
phạm của cán bộ, công chức có hành vi vi phạm đạo đức công vụ. 14
Với những hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà về thủ tục hành chính trong
giải quyết công việc của công dân, đặc biệt là các trường hợp tái phạm, có tổ chức,
có tình tiết nghiêm trọng cần phải được xử lý kiên quyết, nghiêm mình, kịp thời và
công bằng nhằm góp phần giáo dục và răn đe cán bộ, công chức, đồng thời củng cố
niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê
bình và phê bình trong tất cả các cơ quan hành chính các cấp nhằm đề cao giá trị
đạo đức, sự hướng thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sa sút, suy thoái đạo đức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay đã khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng
suy thoái đạo đức công chức hiện nay là:
Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên
đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật
không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ”.

Nghị quyết cũng đã chỉ rõ những giải pháp, nhiệm vụ cơ bản để xây dựng
đội ngũ cán bộ, Đảng viên thực sự trong sạch, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về
công tác nâng cao đạo đức cách mạng:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.

Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.”
Khi những giải pháp đã được đưa ra thì việc tháo gỡ vấn đề đạo đức công
chức đã có hướng giải quyết và có khả năng thực hiện. Tuy nhiên, vẫn cần nhấn 15
mạnh rằng đây là một yêu cầu khó khăn, một nhiệm vụ lâu dài cần sự nhất trí và
quyết tâm cao.Và một điều dễ dàng nhận thấy là dù những giải pháp xuất phát từ
sự tác động khách quan dù có thực hiện đến mức độ nào thì vẫn chỉ mang tính chất
khắc phục tạm thời. Giải pháp tạo nền tảng sâu nhất và mang lại hiệu quả lớn nhất
vẫn là giáo dục và tự giáo dục trong bản thân mỗi người cán bộ, công chức.
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu về nâng cao đạo đức công chức trong thực thi
công vụ, đây vừa là nhiệm vụ vừa là giải pháp đối với việc cải cách hành chính nhà
nước trong bối cảnh hiện nay. Vậy giữa việc nâng cao đạo đức công chức trong
thực thi công vụ với vấn đề phòng chống tham nhũng có liên quan gì đến nhau?
Việc nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ sẽ giải quyết được vấn đề
gì trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng?
Theo quy định của điều 2 khoản 1 luật phòng chống tham nhũng năm 2005,
sửa đổi, bổ sung năm 2007, “tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi ”

Hiện nay tham nhũng là một vấn đề nhức nhối của xã hội của nhiều nước
trên thế giới và cả ở Việt Nam. Theo tổ chức Minh Bạch Quốc Tế có trụ sở tại
Berlin: Hầu hết các quốc gia trên thế giới có tham nhũng trong năm 2013, có tới
2/3 trong 177 quốc gia được thăm dò có tỉ lệ tham nhũng cao, một con số đáng
buồn. Đặc biệt, Somalia, Bắc Triều Tiên, và Afghanistan được coi là tham nhũng
nhất; ngược lại như các nước Phần Lan, Đan Mạch, và New Zealand lại được coi là
quốc gia ít tham nhũng nhất trên thế giới.
Trích tờ Vietnam Investment Review số 699 ngày 7/3/2005 viết thì tham
nhũng tại Việt Nam đã gây "thiệt hại cho nguồn ngân sách chính phủ... ước lượng
30% đầu tư hạ tầng
". Đối với Việt Nam thì cũng theo tổ chức Minh Bạch Quốc
Tế: Việt Nam luôn ở mức độ tham nhũng cao, với chỉ số luôn dưới 5 (mức độ tham
nhũng cao <5): năm 2010 (2.7), năm 2011 (2.9), năm 2012 (3.1), năm 2013 (3.1)
Cuộc khảo sát 95 quốc gia trên thế giới của về nạn tham nhũng năm 2013
cho biết 30% dân Việt Nam đã phải đút lót nhân viên công quyền. 55% số người
được hỏi cho rằng tham nhũng tăng lên. 38% số người tin rằng các nỗ lực của
Chính phủ Việt Nam nhằm chống tham nhũng là không có hiệu quả.
Theo Trace International, một cơ quan nghiên cứu và theo dõi nạn hối lộ thì
cuộc khảo sát năm 2014 chấm điểm 197 quốc gia trên thế giới thì Việt Nam đứng
hạng 188 với 82/100 điểm, thuộc nhóm 10 quốc gia tham nhũng nhất. Chia thành 16
từng tiêu chí một thì Việt Nam có những nhược điểm vì chồng tréo giữa cơ quan
nhà nước và doanh thương, dẫn đến vấn đề "lại quả" và quan liêu trong việc quản
lý. Việt Nam cũng kém vì thiếu sự giám sát của các tổ chức dân sự. Kém nhất là
tình trạng thiếu minh bạch trong hành chính.
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nhấn mạnh thực tế, trong tổng số bị can bị
khởi tố về hành vi tham nhũng, cán bộ cấp xã, phường chiếm tỷ lệ 30,9% còn cấp
Trung ương chỉ chiếm rất ít (0,3%).
Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2010 chỉ có 20 cán bộ nộp lại quà tặng.
Trong khi con số của năm 2009 nhiều gấp 10 lần. Tổng Thanh tra Chính phủ Trần
Văn Truyền nói: "Có lần họ đã mang tới chỗ tôi cả trăm ngàn USD"
Theo thông tấn xã Reuters, tham nhũng là một yếu tố làm giảm hiệu năng
hoạt động của chính quyền Việt Nam, bên cạnh các vấn đề như thiếu giải trình,
thiếu minh bạch, và guồng máy hành chính quan liêu cồng kềnh. Hiện nay, tiến
trình cải tổ kinh tế Việt Nam cũng như chính sách cải tạo các doanh nghiệp nhà
nước kém hiệu năng, có nguy cơ bị các nhóm bảo thủ và đặc quyền đặc lợi phá
hoại nhất là khi chính quyền đặt trọng tâm nhiều hơn đến khía cạnh an ninh.
Các đại biểu Quốc hội Nguyễn Tấn Trịnh (Quảng Nam), đại biểu Nguyễn
Thanh Tân (Hà Tĩnh) lo lắng khi người dân sụt giảm niềm tin "cứ thấy cán bộ chạy
xe hơi là dân bảo ông này tham nhũng. Họ đồn đại đồng chí này có bao nhiêu tiền,
đồng chí kia có con thăng tiến quá nhanh, người nhà đồng chí nọ nắm các ngành kinh tế chủ đạo".

Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Tổng
bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu: "công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt
được yêu cầu ‘ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng’. Tình trạng tham nhũng,
lãng phí nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây
bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước.
"
Tháng 12 năm 2012 Nguyễn Bá Thanh được bổ nhiệm làm chủ sự trong Ban
Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hầu tăng cường nỗ lực dẹp nạn
tham nhũng nhưng thời gian tại chức không được lâu thì mất đầu năm 2015. 17
Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban cố vấn của Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam thời các thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, nói trong buổi Hiệp
hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tổ chức tại Đà Nẵng ngày 8/8: “Một điều
tra cho thấy, ở Việt Nam, trung bình cứ 1 đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải
mất 1,02 đồng cho “bôi trơn”. Có nghĩa, nếu tham nhũng ở nước ta giảm đi 50%
thì đã làm tăng được 50% lợi nhuận của doanh nghiệp rồi. Đây là một trong
những điều giải thích nhận xét của TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế
Việt Nam, cho rằng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có xu hướng li ti hóa, tức là
nhỏ đi so với trước
!” Cho nên tuy đã tham gia ASEAN 20 năm, nhưng Việt Nam
vẫn còn nằm trong nhóm 4 nước lạc hậu hơn của ASEAN (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar).
Trong cuộc điều tra năm 2005, Ban Nội chính Trung ương công bố danh sách
liệt kê mười cơ quan tham nhũng phổ biến nhất Việt Nam. Trong đó ba cơ quan dẫn đầu là: - Địa chính nhà đất
- Hải quan và quản lý xuất nhập khẩu - Cảnh sát giao thông.
Theo khảo sát của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Cảnh sát về ảnh hưởng của
tham nhũng đến công chúng, ba cơ quan/tổ chức dẫn đầu là: - Công an - Giáo dục - Cán bộ, công chức
Ngoài ra trong số mười cơ quan được "bầu chọn" có nhiều tham nhũng là cơ
quan tài chính, thuế; cơ quan quản lý và các đơn vị trong ngành xây dựng; cơ quan
cấp phép xây dựng; y tế; cơ quan kế hoạch đầu tư; cơ quan quản lý và các đơn vị
trong ngành giao thông; cảnh sát kinh tế.
Ví dụ như vụ đại án tham nhũng tại Agribank chi nhánh 6, Đây là một trong
tám đại án được Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng chỉ đạo đưa
ra xét xử trước Đại hội Đảng lần thứ XII.
Theo cáo trạng, thực hiện chủ trương di dời nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn
TP về KCX - KCN, Công ty Đông Phương và Công ty Phương Nam hợp tác kinh 18
doanh, xây dựng trung tâm thương mại, dịch vụ và chung cư cao tầng. Từ năm
2007 - 2010, Lê Thành Công, Dương Thanh Cường, Thái Cường và đồng phạm đã
lợi dụng việc thi công dự án để thực hiện nhiều hành vi gian dối hòng trục lợi, như:
cho vay trái quy định, ký hợp đồng chuyển nhượng khống… Dương Thanh Cường
còn thành lập một số doanh nghiệp (Công ty Tấn Phát, Thanh Phát…), sau đó thuê
người làm giám đốc để vay vốn ngân hàng.
Dương Thanh Cường chỉ đạo Thái Cường lập hồ sơ vay 170 tỉ đồng; chỉ đạo
Lê Văn Tuấn vay 628 tỉ đồng của Agribank - CN 6. Tài sản thế chấp là một số giấy
tờ bất động sản. Dù mới trả hơn 107 tỉ đồng cho Agribank - CN 6 nhưng các đối
tượng vẫn tiếp tục dùng những giấy tờ này thế chấp vay tiền rồi gán nợ cho Ngân hàng Phương Nam.
Giữ chức vụ Trưởng phòng Tín dụng của Agribank - CN 6, Hồ Văn Long đề
xuất Hồ Đăng Trung (lúc bấy giờ là giám đốc chi nhánh) cho Công ty Tấn Phát
vay 170 tỉ đồng trong khi dự án chưa được phê duyệt; không đề xuất nâng quyền
phán quyết cho vay; tự ý cho vay vượt quyền phán quyết; ký hợp đồng thế chấp tài
sản là tài sản không được phép thế chấp; không công chứng, không đăng ký giao
dịch bảo đảm; giải ngân không đúng theo hợp đồng cho vay; cho mượn tài sản thế
chấp không có biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Long cũng đề xuất để Trung đồng ý cho Công ty Thanh Phát vay 628 tỉ đồng
dù biết dự án chưa hoạt động, tài sản thế chấp không hợp lệ. Long cũng chỉ đạo
cấp dưới làm ngơ sai phạm trong quá trình làm hồ sơ vay vốn, tạo cơ hội cho
Dương Thanh Cường chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng trên còn đồng ý cho
Dương Thanh Cường mượn lại tài sản thế chấp là các giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để đi vay tiền tại ngân hàng khác dẫn đến việc mất tài sản thế chấp.
Qua vụ án này ta có thể thấy điểm yếu trong hệ thống quản lý, giám sát
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trong đó có việc thực hiện không tốt yêu
cầu về công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình trong quản trị
doanh nghiệp, nó đã tạo ra lỗ hổng lớn cho nhiều người lợi dụng làm thất thoát ngân sách nhà nước.
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và hình
thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng, tham ô bắt nguồn từ nền văn hóa
độc tài đề cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: xã hội thay đổi 19
các chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh sinh ra tham nhũng tham ô.
Tham nhũng và tham ô thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh
tế kém phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân/đầu người thấp. Tại các nước
này con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để
tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập bình
quân/đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính
trường để làm lãnh đạo.
Biểu hiện tham nhũng như thế nào?
Tham nhũng = Độc quyền + Bưng bít thông tin - Trách nhiệm giải trình.
Theo công thức trên, có thể dễ dàng nhận dạng tham nhũng trong các biểu
hiện của nó: thừa độc quyền, thừa bưng bít thông tin, thiếu (phi) trách nhiệm giải trình.
Công cụ nhận dạng tham nhũng cho thấy được bản chất của tham nhũng, mà
con người là yếu tố quan trọng tham gia vào.
Vậy nguyên nhân xuất hiện tham nhũng do đâu mà có?
Thứ nhất, Nguyên nhân và điều kiện khách quan:
- Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức
sống thấp, tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát triển. Bên cạnh đó,
do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá mức
giá trị đồng tiền làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi
nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh
doanh. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, có
những giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều phải chịu sức ép của việc kiếm tiền,
làm xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể mua bán. Những nghiên cứu gần đây cho
thấy tác hại to lớn của những yếu tố tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường thật
sự đã đến mức báo động, chính điều này đã góp phần làm gia tăng tệ tham nhũng
thông qua việc thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, làm
giàu phi pháp, chiếm đoạt tiền của Nhà nước và nhân dân.
- Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán,
việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà nước
và quản lý sản xuất, kinh doanh có phần chưa rõ. Quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý
tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước còn lỏng lẻo.
- Một số nét văn hoá như biếu và nhận quà tặng... bị lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng.
Thứ hai, Nguyên nhân và điều kiện chủ quan của hành vi tham nhũng 20