Đáp án câu hỏi triết học Mác -Lênin: Phân tích nội dung và kết cấu của khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho ví dụ minh họa.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của Phương thức sản xuất mà con người thực hiện trong quá trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở một giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế - xã hội nhất định có một phương thức sản xuất riêng.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Nội dung 1:
Câu 1. Phân tích nội dung và kết cấu của khái niệm lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất cho ví dụ minh họa.
* Phân tích nội dung và kết cấu của khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của Phương thức sản xuất mà
con người thực hiện trong quá trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Ở một giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế - xã hội nhất định có một phương thức sản xuất riêng.
1.1 Lực lượng sản xuất: bao gồm hai bộ phận cơ bản là tư liệu sản xuất và
người lao động. (Trong đó người lao động đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất.
1.1.1 Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu
lao động và đối tượng lao động. Trong đó
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động ( máy móc,…) và phương tiện để lao động.
Đối tượng lao động gồm hai bộ phận là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có
sẵn trong tự nhiên (đất đai, than đá,…) và một bộ phận phải trải qua sự cải tạo, chế
biến của con người – còn gọi là nhân tạo
ví dụ: như nhựa, gỗ ép…Trong tư liệu sản xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất.
1.1.2 Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người
lao động đóng vai trò là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động
và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm, còn tư liệu sản
xuất chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất.
Ngày nay sự phát triển vượt bậc và khả năng ứng dụng nhanh chóng các thành
tựu khoa học công nghệ vào sản xuất đã khiến cho tri thức khoa học công nghệ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn
nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động
nhất, cách mạng nhất trong một phương thức sản xuất.
1.2 Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá
trình sản xuất Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản lí quá trình sản xuất, quan hệ về phân phối sản phẩm sau quá trình sản xuất.
1.2.1 Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: nói lên ai chủ sỡ hữu đối với nhà
máy, xí nghiệp, các thiết bị, các nguyên nhên vật liệu trong quá trình sản xuất.
1.2.2 Quan hệ về tổ chức, quản lí quá trình sản xuất (quan hệ quản lí ) nói lên ai
là người thực hiện quyền tổ chức, quản lí, điều hành, giám sát quá trình (đó chính là
người sở hữu tư liệu sản xuất ).
1.2.3 Quan hệ phân phối sau quá trình sản xuất (quan hệ phân phối ) nói lên ai
là người có quyền quyết định việc phân phối, chia thành quả của quá trình sản xuất
cho ai, bao nhiêu và như thế nào ?
Trong 03 mặt trên thì sở hữu về TLSX đóng vai trò quyết định, đồng thời quản
lý và phân phối có tác động trở laij kìm hãm hoặc thúc đẩy sở hữu phát triển.
QHSX được hình thành và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX:
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất nhưng trong đó LLSX là
mặt động thường xuyên biến đổi, còn QHSX mang tính bảo thủ, trì trệ hơn,
thể hiện con người luôn cải tiến công cụ để giảm nhẹ lao động, thời gian
lao động, tạo nên năng suất lao động hiệu quả cao. : Ví dụ:
Trước chủ nghĩa tư bản, lịch sử loài người đã trải qua 3 phương thức sản xuất:
công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Mỗi phương thức đó đều vận động
trong sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi lực lượng
sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, trở nên mâu thuẫn không thể điều hoà
với quan hệ sản xuất hiện tồn, làm cho phương thức sản xuất cũ tan rã và phương thức sản xuất mới ra đời.
I. Phương thức sản xuất công xã nguyên thuỷ. - Lực lượng sản xuất trong giai
đoạn đầu công xã nguyên thuỷ đó là loài người ngay từ thủa mới ra đời đã sống theo
tập thể. Đó là những bầy người nguyên thuỷ vì vậy loài người ra đời cũng là xã hội
loài người ra đời. Chính lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người. Tuy nhiên, trong
buổi sơ sinh của nó, loài người còn hết sức yếu ớt, bất lực trước thiên nhiên. Họ ăn
sống thức ăn sống trong hang động và luôn bị thú dữ đe doạ. Việc phát hiện ra lửa
trong thiên nhiên và biết cách lấy lửa từ những hòn đá bằng cách cọ xát chúng lại với
nhau mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng và là dấu mốc son của tiến bộ loài người
thời nguyên thuỷ. Lửa không những đem lại cho họ thức ăn chín, ngon mà là vũ khí
lợi hại để họ chống lại thú dữ. Họ dùng lửa để đốt rẫy làm nương và chống lại giá
lạnh. Đó là nét khác biệt để phân biệt sự khác nhau giữa người và động vật. Cùng với
phát hiện ra lửa con người thời kỳ này còn biết sử dụng đá làm vật mài nhọn các vũ
khí từ thô sơ có sẵn trong thiên nhiên trở thành vũ khí sắc bén để bảo vệ mình và săn
thú dữ….. Sáng tạo ra cung tên là bước ngoặt quan trọng trong cải tiến công cụ sản
xuất, cung tên giúp cho nghề săn bắn phát triển nhờ đó mà thức ăn ngày càng dồi dào
hơn, tiếp tục đó là cuộc cách mạng đồ gốm. Họ chế tạo dụng cụ chứa thức ăn bằng đất
nung sét, con người biết tự mình trồng trọt lấy các thứ cây công nghiệp, nghề nông
nguyên thuỷ xuất hiện. Nhờ đó thức ăn của con người được đảm bảo chắc chắn hơn,
săn bắn phát triển thú vật săn bắt về được nhiều thì dần dần nảy sinh nghề chăn nuôi
nguyên thuỷ, họ biết dùng súc vật làm sức kéo trong nông nghiệp. Như vậy trải qua
hàng mấy chục vạn năm lao động, qua sự phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất,
loài người mới dần dần thoát khỏi tình trạng dã man và bước tới ngõ cửa của đời sống
văn minh. - Quan hệ sản xuất thời nguyên thuỷ còn rất đơn giản, từng cá nhân riêng lẻ
không sao sống nổi. Nhờ lao động tập thể con người mới tránh khỏi làm mồi cho thú
dữ và mới có thể đấu tranh được với thiên nhiên. Quan hệ sản xuất thời kỳ này chưa
có hình thức chiếm hữu về tư liệu sản xuất, công cụ lao động hết sức thô sơ. Tất cả
mọi người trong xã hội đều làm chung cùng làm cùng hưởng không có người lãnh
đạo. Họ sống với nhau bình đẳng cũng vì không có sản phẩm thừa nên không có khả
năng chiếm đoạt sản phẩm thặng dư vì lúc đó chưa có giai cấp và hiện tượng người
bóc lột người nào. Phân phối sản phẩm một cách bình quân, vì số thức ăn ít ỏi nếu một
người nào đó được lĩnh phần nhiều hơn thì số người khác phải chết đói. Cuối thời kỳ
này xuất hiện một công xã thị tộc là những người cùng chung dòng máu sống quây
quần bên nhau. Thị tộc bầu ra người tù trưởng để lãnh đạo công việc chung. Nhiều thị
tộc có quan hệ dòng máu với nhau họp thành bộ lạc. Bộ lạc là hình thức tổ chức cao
nhất của xã hội nguyên thuỷ. Biết chế tạo ra đồ đồng, sắt là sự phát triển cao nhất của
lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thuỷ. Lực lượng sản xuất phát triển lên một
trình độ mới thì phân công lao động lớn dần, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và
sự bất bình đẳng về tài sản, sự phân chia giai cấp trong nội bộ làm cho xã hội nguyên
thuỷ dần dần tan rã. Cần phải có một xã hội mới, phương thức sản xuất chiếm hữu nô
lệ đã ra đời. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định trở nên mâu
thuẫn không thể điều hòa với quan hệ sản xuất hiện tồn làm cho phương thức sản xuất
mới ra đời. Như vậy quan hệ sản xuất đã không thích ứng với lực lượng sản xuất thời
bấy giờ, phương thức sản xuất mới ra đời là phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. II.
Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ - Lực lượng sản xuất thời chiếm hữu nô lệ có
khác nhiều so với xã hội nguyên thủy, người lao động chính là những người nô lệ của
chủ nô, bị lệ thuộc và dưới sự cai trị của chủ nô. Là sự sở hữu hoàn toàn về thể xác, họ
có thể bán hoặc giết người nô lệ tùy ý. Sản phẩm ngưòi nô lệ làm ra là tài sản của chủ,
họ không có một chút tài sản nào cho riêng mình, không có một chút tự do bình đẳng.
Họ bị bán sức lao động một cách rẻ mạc, nô lệ không được coi là người mà chỉ như
thứ công cụ biết nói. Chủ nô dùng roi vọt, nhục hình để bắt nô lệ làm việc như vậy họ
đã trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu. Công cụ lao động va kỹ thuật canh tác còn
thô sơ, năng xuất lao động thấp, sự phân công lao động trong nội bộ ngành xuất hiện.
Xã hội có các ngành chính là trồng trọt chăn nuôi và thủ công nghiệp. Trao đổi phát
triển thương nhân tách khỏi sản xuất. - Quan hệ sản xuất cả tư liệu sản xuất lẫn người
lao động đều thuộc sở hữu tư nhân, nô lệ được coi như công cụ rẻ tiền. Họ chịu sự chi
phối hoàn toàn của chủ nô cả vể thân thể, chủ nô chiếm đoạt hết sản phẩm của nô lệ,
chỉ cấp cho một chút ít tư liệu sinh hoạt để họ khỏi chết đói và tiếp tục lao động. Do
hình thức sở hữư tư nhân về tư liệu sản xuất nên quá trình sản xuất được tiến hành qui
mô lớn, xuất hiện xưởng thủ công với đa số là nô lệ. Như vậy năng suất lao động sẽ
tăng lên một cách đáng kể so với sản xuất nhỏ trước kia. Sự phân chia giai cấp trong
xã hội ngày càng rõ rệt đó là hai giai cấp: chủ nô và nô lệ. Xã hội khi đã phân chia
thành giai cấp thì cần có nhà nước, nhà nước của chủ nô ra đời nhằm áp bức bóc lột
nô lệ và quần chúng nhân dân, bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô. Nhà nước của chủ
nô có tác dụng rất lớn trong việc củng cố và phát triển quan hệ sản xuất chiếm hữu nô
lệ. Nhờ có lao động tập thể mà con người mới xây dựng được những công trình kiến
trúc đồ sộ như: Kim tự tháp (Ai Cập), Vạn lý trường thành (Trung Quốc), đê điều,
thành trì… Phân công lao động xã hội phát triển hơn. Xuất hiện nhiều ngành sản xuất
mới trong Nông nghiệp cũng như trong Thủ công nghiệp. Phân công phát triển thì
hàng hóa trao đổi ngày càng nhiều, khu vực trao đổi càng mở rộng, giai cấp thương
nhân xuất hiện. - Nếu như thời nguyên thủy mọi người đều làm chung, ăn chung, ở
chung chưa có sản phẩm riêng thì thời nô lệ sản phẩm lao động làm ra là hoàn toàn
phụ thuộc vào chủ nô, đã có sự phân phối sản phẩm vào tay chủ nô. Vì vậy sản phẩm
thừa (giá trị thặng dư) cũng đã xuất hiện ở thời kì này hay là sự xuất hiện của bóc lột
đối với người nô lệ. Như vậy phương thức sản xuất sau bao giờ cũng hơn phương thức
sản xuất trước đó (xã hội nguyên thủy). Chế độ nô lệ có tạo ra sự phát triển nhất định
trong lực lượng sản xuất nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc: chủ
nô - nô lệ, lao động trí óc và lao động chân tay, thành thị – nông thôn… đến một giai
đoạn nhất định chế độ chiếm hữu nô lệ trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển. Có áp
bức là có đấu tranh vì vậy người dân nô lệ đã thờ ơ với việc cải tiến, thậm chí họ còn
phá hoại công cụ lao động. Do kinh tế suy sụp , nhiều chủ nô trả tự do cho nô lệ. Chế
độ chiếm hữu nô lệ càng mở rộng lao động càng bị coi là hèn hạ, chỉ đáng dành riêng
cho nô lệ , không xứng đáng là công việc của những người dân tự do. Thợ thủ công bị
phá sản vì bị nền sản xuất lớn của chủ nô cạnh tranh, bị kiệt quệ thuế khóa nặng, lực
lượng sản xuất bị phá hoại nặng nề đòi hỏi một quan hệ sản xuất khác phù hợp thích
ứng lực lượng sản xuất vì vậy phương thức sản xuất thời phong kiến ra đời . III.
Phương thức sản xuất phong kiến - Lực lượng sản xuất trong xã hội phong kiến người
lao động tuy đã được giải phóng nhưng họ phải chói buộc vào chủ ruộng bởi địa tô và
những mối quan hệ lệ thuộc thân thể. Nhưng họ vẫn có hứng thú lao động sản xuất
hơn khi còn là nô lệ, bởi vì bây giờ họ đã có nền kinh tế riêng của họ. Nếu như trước
đây thời chiếm hữu nô lệ người nông dân làm việc không tích cực, không phấn đấu
trong sản xuất thì bây giờ họ có tư tưởng tiến bộ hơn, hăng say làm việc. Cày sắt được
truyền bá rộng rãi kỹ thuật canh tác được cải tiến hơn nữa, phân công trong nội bộ
nông nghiệp mở rộng hơn các nghề thủ công được chuyên môn hóa hơn nhiều. Cách
nấu gang và chế biến sắt dẫn đến cải tiến hơn về công cụ lao động, Con người đã dùng
sức gió và sức kéo để thay cho sức cơ bắp. Súc vật được sử dụng để làm sức kéo trong
canh tác, ngoài ra họ biết áp dụng kỹ thuật lâm canh làm năng xuất tăng lên rõ rệt,
nghề thủ công, nghề in đã ra đời và phát minh quan trọng cần nhắc đến là sự ra đời
của đồng hồ. Họ đã làm chủ được thời gian, như Các Mác đã nói “ Đánh giá quá trình
phát triển của một chế độ xã hội không nên xem xã hội đó sản xuất ra những gì mà
xem xã hội đó sử dụng công cụ gì” - Quan hệ sản xuất: Hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất là hình thức sở hữu tư nhân nhưng hơn hẳn chế độ chiếm hữu nô lệ: người lao
động được chia ruộng đất, được tự do cày cấy và chỉ nộp tô thuế cho họ mà thôi. Đã
khuyến khích họ hăng say làm việc, trong xã hội có hai giai cấp: Địa chủ phong kiến-
nông dân, phong kiến có quyền trực tiếp chi phối nông dân, hình thức phân phối sản
phẩm dựa vào 3 hình thức địa tô: Tô lao dịch, Tô hiện vật, Tô tiền. - Như vậy qua 3
phương thức sản xuất trước CNTB ta thấy được qui luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp và thích ứng với lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ
sản xuất như thế ấy. Nếu như thời nguyên thủy quan hệ sản xuất không phù hợp với
lực lượng sản xuất và công hữu về tư liệu sản xuất, không có kẻ chiếm lĩnh của thừa
thì bây giờ trở thành lao động tư nhân. Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với
lực lượng sản xuất thì phương thức sản xuất xã hội nguyên thủy đã bị thay thế bằng
phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Chính vì quan hệ sản xuất dẫn đến lực lượng
sản xuất, phân phối sản phẩm ở 3 thời kỳ là khác nhau: từ sản phẩm là của chung đã
có sản phẩm thặng dư. Tóm lại qua 3 phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù
hợp với lực lượng sản xuất, khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa thì sẽ làm
thay đổi phương thức sản xuât, làm cho xã hội thay đổi để thích ứng với nhu cầu hiện nay.
IV. Điều kiện hiện nay của Việt Nam. - Lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay
chủ yếu là lao động chân tay, máy móc còn thô sơ lạc hậu.Công cụ lao động thô sơ
như cày cuốc vẫn được sử dụng rộng rãi . Người lao động thất nghiệp nhiều chứng tỏ
nguồn lao động nước ta dồi dào phong phú. Để khắc phục tình trạng này nhà nước ta
đã khuyến khích mỗi công dân tự mở thêm các xí nghiệp thủ công tư nhân tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó nhà nước ta giúp những người có ít vốn
sang nước ngoài làm việc để xây dụng kinh tế nên tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể.
Không những máy móc lạc hậu mà con người lao động cũng không có khả năng lẫn
chuyên môn cao khi tiếp xúc với máy móc hiện đại. Tình trạng thừa thầy thiếu thợ nảy
sinh đó là điểm yếu của nước ta hiện nay. Với một nước nông nghiệp như nước Việt
Nam Đảng ta đã có mô hình hợp tác xã phù hợp, giao ruộng đất cho từng xã viên, nếu
cá nhân muốn có vốn làm ăn có thể vay từ quỹ hợp tác xã kết hợp với ngân hàng với
số lãi rất thấp nên đã khuyến khích họ tích cực tham gia sản xuất tạo công ăn việc làm
cho nông dân. - Tuy nhiên bên cạnh đó nước ta có những mặt rất hiện đại, một lượng
đông đảo người lao động có tay nghề cao vì họ được học ở các truờng học nghề của
nhà nước, tay nghề cao nên năng xuất lao động cũng tăng lên nhanh chóng. Phân phối
sản phẩm bình quân tức là người công nhân cũng có quyền góp khẩu phần của mình
trong công ty, họ có trách nhiệm và nghĩa vụ đưa công ty đi lên và giàu mạnh. Người
công nhân được trả lương theo sản phẩm làm nhiều hưởng nhiều- làm ít hưởng ít. Vì
vậy quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất nhất là đối với nhiều thành
phần kinh tế hiện nay. Có thể nói chỗ nào có lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất
hoạt động KẾT LUẬN Qua ba phương thức sản xuất truớc CNTB, mỗi thời kỳ đều có
phương thức sản xuất khác nhau nhưng nhìn chung cả 3 phương thức sản xuất đều
tuân theo quy luật nhất định đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là quy luật chung của sự phát triển xã
hội. Nước Việt Nam ta, Đảng và nhà nước đã có cách nhìn đứng dắn để chấn chỉnh lại
những sai lầm trước đó vì vậy mà nước ta đã và đang đi lên ngày càng trở nên to đẹp
và phồn vinh hơn vì vậy mà cuộc sống của con người ngày càng ấm no và hạnh phúc.
Bài tiểu luận của em có gì sai sót, em xin được sự góp ý của thầy cô để bài tiểu luận
của em được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách kinh tế học phổ thông (Giáo sư Trần Phương.) Giáo trình kinh tế chính trị Mác-
LêNin (NXB chính trị quốc gia) Một vài tài liệu và báo chuyên ngành khác.
2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và QHSX:
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin thì loài người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình
thái kinh tế xã hội. Từ thời kỳ mông muội đến hiện đại như ngày nay, đó là : thời kỳ
Công xã Nguyên thuỷ, thời kỳ Chiếm hữu nô lệ, thời kỳ Phong kiến, thời kỳ Tư bản
Chủ nghĩa và thời ky xã hội Xã hội Chủ nghĩa. trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được
quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố quyết định sự phát triển hình thái kinh tế xã hội. Và qua nghiên cứu
thì theo một ph ương thức sản xuất nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song song
tồn tại và tác động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất. Đây là hai yếu
tố quan trọng quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự vận động và phát
triển của xã hội. Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào quan hệ sản xuất cũng
phải phù hợp vớilực lượng sản xuất. Sự tác động qua lại và mối liên hệ giữa chúng
phải hài hòa và chặt chẽ. Tuy nhiên trong hai yếu tố đó thì lực lượng sản xuất luôn
quyết định quan hệ sản xuất. Một hình thái kinh tế - xã hội có ổn định và tồn tại vững
chắc thì phải có một phương thức sản xuất hợp lý. Chính bởi lẽ đó mà lực lượng sản
xuất phải tương xứng phù hợp với quan hệ sản xuất bởi vì xét đến cùng thì quan hệ
sản xuất chính là hình thức của lực lượng sản xuất. Vậy nên nếu lực lượng sản xuất
mà phát triển trong khi đó quan hệ sản xuất lại lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Ngược lại quan hệ sản xuất tiến bộ hơn lực lượng sản xuất thì
không phù hợp với tính chất và trình độc của lực lượng sản xuất gây ra sự bất ổn cho
xã hội. Do đó một phương thức sản xuất hiệu quả thì phải có một quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. .. Vì vậy công cụ lao
động là yếu tốt động nhất trong LLSX cho nên cộng cụ lao động thay đổi
dẫn đến QHSX thay đổi theo và thể hiện SX ngày càng mang tính chất xã hội hóa cao.
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức. Nội dung là cái quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo.
Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định nhất đối với sự phát triển
của QHSX. Trong lực lượng SX còn nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất
đối với việc hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất là do tính
chất và trình độ của LLSX quyết định quan hệ chặt chẽ như thế nào giữa
người lao động với người lao động chứ không phải do phương pháp của đối
tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác chứng minh, Mác
nói "Trong PTSX kiếm sống của mình mà con người làm thay đổi các quan hệ
xã hội của mình, các cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa
phong kiếm, cái cối xay chạy bằng hơi nước đẹm lại xã hội có nhà TBCN".
Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được
QHSX. Cho nên dẫn đến mâu thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
LLSX phát triển được là nhờ nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn
cảnh địa lý, trình độ phát triển của khoa học, còn QHSX chỉ giữ vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của LLSX.
QHSX là sự phản ánh LLSX nhưng chính nó lại quy định mục đích của SX,
khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh
thần, quyết định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Bởi vậy
nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó
sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Còn nếu QHSX không phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó sẽ cản trở LLSX.
Sự tác động của QHSX đối với LLSX: chỉ khi xem xét QHSX trong một tình
huống đầy đủ với ba mặt của nó, đồng thời chịu sự chi phối của yếu tố chung: + Các quy luật kinh tế cơ bản
+ phụ thuộc vào trình độ của người lao động
+ tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, công nghệ
Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì khi LLSX phát triển tới mức QHSX
cản trở sự phát triển của nó thì CMXH là bước cuối cùng để thay đổi QHSX hiện có. Như vậy, ta có thể khẳng định:
Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình độ của LLSX là quy
luật chung cho toàn xã hội loài người, chính sự tác động của quy luật
này làm cho xã hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.
Quy luật này là cơ sở lý để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển của lịch sử.
Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đường lối của
Đảng, phê phán các chủ trương sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất mới.
Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của nhân loại.
.Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hộ (1,5đ)
Khái niệm tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội v bao gồm các yếu tố chính là
phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý,
dân số... trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất .
Khái niệm ý thức xã hội : Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã
hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý
luận ... là sự phản ánh của tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Kết cấu của ý thức (1,5đ)
•Ý thức xã hội thông thường : Là những tri thức, những quan niệm của con
người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày,
chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa. Nhưng ý thức đời thường gần với
hiện thực trực tiếp. Những kinh nghiệm của ý thức đời thường đôi khi là
vô giá, cung cấp nhiều thông tin cho các khoa học cụ thể, triết học và nghệ thuật.
Ý thức thông thường hình thành tâm lý xã hội - phản ánh trực tiếp điều
kiện sống hàng ngày, phản ánh bề mặt của tồn tại xã hội, không có khả
năng vạch ra được bản chất của sự vật, hiện tượng. Những quan niệm của
con người ở trình độ tâm lý còn mang tính chất kinh nghiệm, như là tình
cảm, ước muốn , thói quen, tập quán ...
Ý thức lý luận : Là toàn bộ những tư tưởng , quan điểm của xã hội được
hệ thống hóa hợp lý, thành chỉnh thể các mối liên hệ bản chất tất yếu,
được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Ý thức lý luận hình thành hệ tư tưởng - bao gồm sự đánh giá một cách có
hệ thống về hiện thực xã hội trên lập trường của một giai cấp nhất định,
xây dựng hệ thống những quan điểm về uy quyền của một giai cấp•
- Sự tác động qua lại giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội:
Cả hai đều có nguồn gốc là tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.
So với tâm lý xã hội, hệ tư tưởng phản ánh sâu sắc hơn tồn tại xã hội,
làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội, thúc đẩy tâm lý xã hội
phát tiển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho sự tiến bộ xã hội.
Ngược lại, tâm lý, tình cảm giai cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp. Với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc
sống sinh độngvà phong phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hộibới sơ cứng, bớt sai lầm.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ
dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước.
“Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài
và rất khó khăn”1. Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”2. Trong hàng
loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy
luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá
xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù
hợp. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các
quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả
hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra
rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới cơ cấu
kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ
quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều
thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là
để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã
hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều
thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách
quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa
bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp.
Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài.
Trong quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là
có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý dứt
khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang
hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng
quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng
quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt
ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực
tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân
dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách
quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ HNTW3 khoá VII (6-
1992), đặc biệt từ HNTW6 (lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ
xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã
hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và
chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội
VII, đặc biệt là HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3 khoá VIII (6-1997) đẩy
mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân. Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có
sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX (1992),
khoá X (1997) và khoá XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới và
thực hiện có hiệu quả các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao. Từng bước đẩy mạnh công cuộc
cải cách nền hành chính nhà nước cả về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ
chức bộ máy và đội ngũ công chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố
và tăng cường. Cùng với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng
hoàn thiện Nhà nước là những nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị
và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng
nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã rút
ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi
ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới... Một
trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTW6 (khoá VI) 3-1989
nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn
luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ
cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương
pháp dân chủ. Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng
nhấn mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân;
động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân;
các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới
tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên
đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên
hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận
động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các
thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu
nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài
nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hoá,
Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ sở giữ
vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ
quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã nêu rõ chủ
trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất
là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu tư,
cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài
và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là luật
sớm nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29-12-
1987 và có hiệu lực từ 1-1-1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối
ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn
mạnh sự hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ
chức quốc tế. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với
các tổ chức phi chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đảng ta luôn luôn xác định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi
trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới cùng với bản
lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp và dân tộc,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách
thức, kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước
Đông Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo con
đường của chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể
đời sống của nhân dân, như các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
Có thể thấy rõ thành tựu của 20 năm đổi mới cả về thực tiễn và nhận thức lý luận
để vững tin vào con đường đã lựa chọn và sự phát triển của đất nước.
Về thực tiễn, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996, kinh tế tiếp
tục tăng trưởng khá nhanh (GDP bình quân 1986-1990 là 3,9%, 1991-1995 là
8,2%, 1996-2000 là 7% và 2001-2005 là 7,5%), nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hoá, hiện đại hóa được
đẩy mạnh, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tăng lên đáng kể. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh công nhân
- nông dân - trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng cường và củng cố.
Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được giữ vững. Chính trị - xã hội
ổn định. Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Vì thế nước ta trên thế giới được nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều. Nhân dân
tin tưởng ở đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, tin
tưởng ở tương lai phát triển của đất nước.
Về lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng rõ hơn, “hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
bước đầu hình thành trên những nét cơ bản” (Văn kiện trình Đại hội X trang
11). Nhận thức rõ hơn về mục tiêu, mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, rõ hơn về chặng đường, bước đi khi đã hoàn thành những nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu trên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang chặng
đường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, rõ hơn về những công
cụ, giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, rõ hơn về những mối quan hệ đặt ra cần được giải quyết một cách đúng đắn
trên con đường đổi mới vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà trước hết làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
20 năm đổi mới đã có cơ sở để rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn. Đó là các bài học: trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với
cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện
phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Quan hệ sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay Thứ hai 26/05/2014 12:25
Một trong những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học
Mác - Lênin nói riêng là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết đã vạch ra
cơ sở khoa học giải thích sự phát triển lịch sử là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, tuân theo những quy luật khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Xin giới thiệu bài viết của TS Trần Hải Minh.
Trong các quy luật đó, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, tác động vào nền tảng vật chất
của đời sống xã hội, đó là nền sản xuất vật chất.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội phát triển dựa trên một phương thức sản xuất nhất định,
là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là động lực thúc
đẩy sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất mới. Phương thức sản xuất mới ra đời tạo tiền đề vật
chất tối cần thiết cho sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế -
xã hội mới ở trình độ cao hơn.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất có những đặc điểm riêng đòi hỏi sự nhận thức khách quan,
khoa học để có thể đề ra đường lối, chính sách nhằm phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp, nhằm xây dựng thành công CNXH ở Việt
Nam. Đây là một vấn đề lý luận phức tạp đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu, tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhiều vấn đề chưa
được làm rõ. Thực tiễn phát triển đất nước những năm qua cùng với yêu cầu cấp bách
nghiên cứu những vấn đề lý luận phục vụ cho việc sửa đổi Hiến pháp 1992 đã đòi hỏi
nghiên cứu về quan hệ sản xuất XHCN và quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Trong phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người
và con người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ giữa
người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất; quan hệ giữa người với người trong tổ
chức, quản lý sản xuất; và quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm.
Trong ba mặt cấu thành quan hệ sản xuất, mặt sở hữu có vị trí quan trọng nhất, quyết
định các mặt còn lại. Tuy nhiên, các mặt còn lại cũng có vai trò quan trọng trong quan
hệ sản xuất, tác động đến sự kết hợp giữa các yếu tố sản xuất cũng như động lực của
người lao động. Vì thế không thể xem nhẹ bất kỳ mặt nào trong quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa (PTSX TBCN) là phương thức sản xuất đã và đang tồn tại một cách hoàn
chỉnh trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Còn phương thức sản xuất xã
hội chủ nghĩa (PTSX XHCN), cộng sản chủ nghĩa thì đang trong thời kỳ đầu hình
thành, đang trong thời kỳ quá độ của sự phát triển. PTSX XHCN hoàn thiện sẽ thay
thế PTSX TBCN trong tương lai. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH bộc lộ qua những nội dung chủ yếu sau:
1. Lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ tự động hóa, tin học hóa, tính chất xã
hội hóa rất cao. Khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp chủ yếu. Điều
này khiến quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu TBCN trở nên lạc hậu hơn so với
trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Nó cản trở việc thực hiện một sự phân
phối bình đẳng hơn những của cải khổng lồ do lực lượng sản xuất mới này tạo ra. Nó
cản trở việc xã hội hóa sản xuất ở mức cao do phần lớn vốn, tư liệu sản xuất và sản
phẩm tạo ra vẫn nằm trong tay một thiểu số cá nhân, khiến sản xuất và phân phối bị
giới hạn trong mục tiêu lợi nhuận của một thiểu số. Điều đó dẫn đến khủng hoảng chu
kỳ trong CNTB, cụ thể như khủng hoảng 1929 - 1933, dẫn đến Chiến tranh thế giới
thứ 2 hay khủng hoảng tài chính thế giới từ năm 2008 đến nay bắt nguồn từ Mỹ. Quan
hệ trao đổi hàng hóa bị giới hạn bởi quan hệ phân phối không bình đẳng giữa một bộ
phận các nhà tư bản và đa số người lao động, khiến của cải dù sản xuất ra nhiều hơn
nhưng không thể được tiêu thụ do người dân không có tiền để mua chúng. Đây không
chỉ đơn thuần là vấn đề sức mua của kinh tế học, nhìn sâu xa, đây là vấn đề quan hệ
sản xuất. Vậy tương ứng với trình độ cao của lực lượng sản xuất, cần có quan hệ sản
xuất phù hợp như thế nào?
2. Mác và Ăngghen đã nhận thấy dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, nền
đại công nghiệp ra đời tạo ra một giai cấp người lao động có trình độ ngày càng cao
và số lượng ngày càng đông, và họ nhận thức được vai trò của mình trong nền sản
xuất, với tư cách là người tham gia sản xuất và tạo ra phần lớn, nếu không nói tất cả,
của cải vật chất của xã hội. Nhưng dưới chế độ TBCN (quan hệ sản xuất TBCN thống
trị) họ là người bị bóc lột, họ không có quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, họ chỉ
được phân phối một phần nhỏ lượng của cải do họ tạo ra. Trong khi đó, phần lớn của
cải thuộc về giai cấp tư sản thiểu số. Trong chừng mực họ không có quyền sở hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu, việc tổ chức quản lý và phân phối vẫn do giai cấp có quyền này,
giai cấp tư sản, quyết định. Sẽ không bao giờ có bình đẳng, công bằng trong phân phối
nếu quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ tư hữu còn thống trị. Vì vậy, vấn đề thay
thế quan hệ sản xuất TBCN, mà trước hết là quan hệ sở hữu TBCN, bằng một quan hệ
sản xuất tiến bộ hơn, bình đẳng hơn là cần thiết để hướng tới một xã hội phát triển bền vững và nhân văn.
3. Quan hệ sản xuất mới này, do người lao động (giai cấp công nhân làm đại diện) làm
chủ, được gọi là quan hệ sản xuất XHCN, có đặc trưng như thế nào?
Trước hết, về mặt sở hữu, nó không thể dựa trên chế độ tư hữu (về tư liệu sản xuất chủ
yếu). Chế độ tư hữu ở đây cần phân biệt với sở hữu cá nhân. Chế độ tư hữu là một đặc
trưng xã hội của sản xuất dưới CNTB. Đó là một hệ thống kinh tế - xã hội trong đó
một thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, nhờ đó nắm giữ
phần lớn của cải do tư liệu sản xuất chủ yếu đó tạo ra; còn đa số người lao động do
không có quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu này nên chỉ được phân phối một phần
nhỏ của cải từ đó. Như vậy, chế độ tư hữu có thể hiểu là chế độ mà một thiểu số được
quyền tư hữu vô hạn, tuyệt đối còn đa số người khác thì bị tước quyền này (dù họ vẫn
có quyền theo luật pháp nhưng không thể thực hiện được quyền đó - không có tư liệu
sản xuất mà sở hữu). Như vậy chế độ tư hữu không phải là chế độ thừa nhận sở hữu
của mỗi cá nhân là thiêng liêng, mà đó là chế độ thừa nhận sở hữu của một số cá nhân
là thiêng liêng và đa số khác không có quyền đó. Trong một giai đoạn phát triển nhất
định của xã hội, ở một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một tiêu chuẩn
tiến bộ xã hội chưa vươn tới được toàn bộ dân cư của xã hội đó, thì chế độ tư hữu là
phù hợp. Chế độ tư hữu này cũng tạo động lực mạnh mẽ cho tư nhân phát triển.
Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ ở phạm vi toàn xã hội, khi đó quan
hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu không còn phù hợp. Sự không phù hợp này đã
được chúng tôi chỉ ra ở trên. Vậy, thay thế cho chế độ tư hữu có thể là chế độ nào?
Chế độ mới này phải khôi phục lại sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu cho đa số nhân dân
trong xã hội, trước hết là đa số người lao động mà chế độ tư hữu trước đó không thể
làm được, và cũng không muốn làm. Khi đa số nhân dân lao động, mà xa hơn là toàn
xã hội, có quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, khi đó chế độ tư hữu bị xóa
bỏ, chế độ công hữu được thiết lập. Như vậy, chế độ công hữu không phải là xóa bỏ sở
hữu cá nhân mà là khôi phục sở hữu cá nhân cho đa số người lao động(1). Nó chỉ xóa
bỏ đặc quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của một thiểu số để khôi phục quyền sở
hữu này cho đa số, rộng hơn là cho toàn thể xã hội. Một chế độ như vậy liệu có thể
thực hiện được? Nói theo ngôn ngữ của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, đó là tạo ra một thể liên hợp, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện cho
tự do của tất cả mọi người.
Để thực hiện được chế độ này, có mấy điểm phải làm rõ:
Thứ nhất, những tư liệu sản xuất nào tạo thành tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội?
Thứ hai, có thể thực hiện sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất chủ yếu không?
Thực hiện như thế nào? Những tư liệu sản xuất chủ yếu đó là: vốn, ngân sách nhà
nước (toàn dân) (xem xét dưới góc độ nguồn tài sản công cộng đầu tư vào sản xuất),
tài sản nhà nước, đất đai, vùng biển, tài nguyên, nguồn năng lượng, các doanh nghiệp
nhà nước,... Tất nhiên, trong các yếu tố trên, có những yếu tố có thể vừa được sở hữu
bởi cộng đồng, vừa được sở hữu bởi tư nhân, nhưng nếu một thiểu số tư nhân sở hữu
phần lớn những yếu tố trên thì đó là chế độ tư hữu. Vậy, cơ chế nào để cộng đồng thực
hiện được quyền sở hữu những yếu tố trên? Thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam cho ta thấy:
- Những yếu tố tự nhiên như đất đai, tài nguyên, năng lượng có thể được tuyên bố là
thuộc sở hữu toàn dân (khi nhân dân làm chủ thực sự xã hội và nhà nước của nhân dân
khẳng định và bảo vệ quyền này). Khi đó, nhà nước đại diện toàn thể nhân dân thực
hiện việc đảm bảo quyền sở hữu của toàn dân đối với chúng. Sau đó, sẽ thực hiện
phân phối lại những tư liệu sản xuất này cho mọi người dân dưới dạng quyền sử dụng
lâu dài hoặc có thời hạn, đảm bảo mọi người dân có khả năng đều được tiếp cận và sử
dụng bình đẳng những tư liệu sản xuất này. Chúng ta đã làm điều này rất tốt khi phân
chia ruộng đất cho nông dân và làm cho người dân có tư liệu sản xuất, thay vì phải
làm việc trên ruộng đất của địa chủ. Đây thực sự là một bước tiến lớn trong bình đẳng xã hội.
- Cách mạng XHCN đã tạo ra một hệ thống sản xuất do người lao động làm chủ.
Trong đó, các xí nghiệp quốc doanh (hay doanh nghiệp nhà nước, mà thực chất là
doanh nghiệp toàn dân) được thiết lập dựa trên sự đầu tư của toàn dân (thông qua
ngân sách) và hoạt động trên nguyên tắc lợi nhuận thu được nộp về ngân sách và đem
phân phối lại cho toàn dân thông qua việc sử dụng ngân sách một cách hợp lý vì lợi
ích của toàn thể nhân dân. Hệ thống doanh nghiệp này nếu được xây dựng một cách
hiệu quả sẽ cung cấp một lượng của cải khổng lồ cho mọi người một cách bình đẳng.
Khoảng 80% điện của chúng ta dùng đang do những doanh nghiệp quốc doanh tạo ra.
Xăng dầu chúng ta tạo ra từ nhà máy Dung Quất dự kiến có thể đáp ứng khoảng 30%
nhu cầu trong nước. Như vậy, những tư liệu sản xuất lớn này đã tạo ra lượng của cải
vô cùng to lớn và cung cấp cho toàn thể nhân dân. Nếu chúng ta kết hợp tốt hiệu quả
sản xuất với tạo ra chế độ đãi ngộ thỏa đáng với người đại diện nhân dân quản lý và
người công nhân trực tiếp làm việc tại những doanh nghiệp này, chắc chắn đây là một
mô hình doanh nghiệp tiến bộ, nhân văn.
- Một bộ phận khác của quan hệ sản xuất XHCN đó là sở hữu tập thể. Đó là những tập
thể người lao động, nhà kinh doanh kết hợp với nhau, liên kết với nhau thành các công
ty cổ phần, các hợp tác xã trong đó người lao động có tham gia vào quyền sở hữu
công ty, hợp tác xã và được phân chia lợi ích từ sự tham gia đó. Sự hình thành những
thực thể kinh tế này xuất phát từ nhu cầu phối hợp trong sản xuất của nền sản xuất ở
trình độ cao và tính chất xã hội hóa cao. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mô hình kinh tế này sẽ ngày càng phổ biến trong xã hội.
- Thực tế cho thấy khu vực nhà nước (và có thể là cả tập thể) mới thu hút 1/3 nhân lực
và tạo ra hơn 1/3 năng lực sản xuất của cả nước(2). Vậy còn 2/3 dân số và gần 2/3
năng lực sản xuất còn lại thuộc các thành phần kinh tế tư nhân, hỗn hợp có vị trí như
thế nào trong nền sản xuất theo định hướng XHCN? Điều đó có phải là chế độ tư hữu
đã được thiết lập? Hoàn toàn không. Điều này được chứng minh ở chỗ 2/3 dân số
tham gia tạo ra 2/3 năng lực sản xuất không tạo nên giai cấp tư sản chiếm hữu tư liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội, do không một nhóm tư nhân thiểu số nào có thể nắm
được quá 50% tổng tài sản xã hội/ tổng
tư liệu sản xuất trong xã hội. Bởi hơn 40%
của cải xã hội thuộc về sở hữu công cộng và tập thể. 1/3 dân số làm việc trong khu
vực này là những người tạo ra 1/3 năng lực sản xuất cho cả nước. Họ được phân phối
một phần phù hợp, còn lại thuộc về toàn thể xã hội (qua ngân sách) chứ họ không
chiếm hữu hết 1/3 năng lực sản xuất này. Tài sản công cộng được giao cho ít nhất 1/3
của toàn bộ dân số sử dụng chung. 2/3 dân số còn lại vẫn có thể hưởng lợi từ những
sản phẩm đó. Họ sử dụng những tư liệu sản xuất của riêng mình và thu lợi từ chúng,
hoặc họ thuê lại tư liệu sản xuất của toàn dân (ví dụ đất đai) để kinh doanh và đóng
thuế cho ngân sách. Chúng tôi coi cơ chế này là cơ chế hữu hiệu để phủ định chế độ
tư hữu, thiết lập được một chế độ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối bình đẳng
hơn. Do chỗ nó không cho phép thiết lập chế độ tư hữu TBCN, nguồn gốc của bất
bình đẳng và bóc lột dưới CNTB. Chế độ kinh tế này, quan hệ sản xuất này chưa thể
coi là chế độ công hữu toàn diện nhưng là một chế độ có khả năng khôi phục sở hữu
cho đa số người lao động trong xã hội. Như vậy, nếu chúng ta giữ được khu vực kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể chiếm hơn 40% tổng tài sản xã hội và những tư liệu sản
xuất như đất đai, tài nguyên, tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước và một
phần lớn các cơ sở năng lượng thuộc sở hữu toàn dân như hiện nay, chúng ta đang giữ
được định hướng XHCN. Với ý nghĩa đó, chúng tôi đề nghị giữ nguyên khẳng định
trong Hiến pháp: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (có thể gọi bằng tên khác là
kinh tế nhân dân/ hay kinh tế toàn dân), kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể dần trở
thành nền tảng của nền kinh tế, nhằm đảm bảo điều kiện này. Khi chúng ta xóa bỏ đặc
trưng tư nhân duy nhất của sở hữu xã hội trong chế độ tư hữu, thiết lập chế độ mới
bao hàm cả đặc trưng tư nhân và đặc trưng công cộng của sở hữu xã hội, trong đó
khu vực công cộng đạt tỷ lệ nhất định và được bảo vệ, duy trì, phát triển hiệu quả,
chúng ta sẽ xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ mới khôi phục sở hữu cho đa số
người lao động cũng như tạo ra một chế độ phân phối bình đẳng hơn. Đây thực sự là
thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại sự thống trị của thiểu số giai cấp tư sản với chế độ tư hữu TBCN. Khi toàn
thể xã hội cùng sở hữu hơn 1/3 (lý tưởng hơn là 1/2) tổng tài sản và hưởng lợi từ đó
(trong số này những tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên, tư liệu sản xuất của các
doanh nghiệp nhà nước và một phần lớn các cơ sở năng lượng thuộc sở hữu toàn dân),
số còn lại phân chia theo nguyên tắc ai tạo ra người đó hưởng thì cơ bản sẽ xóa bỏ
được chế độ tư hữu và khôi phục sở hữu cho toàn thể mọi người trong xã hội. Có thể
nói, đây là quan hệ sản xuất phù hợp nhất với trình độ hiện nay của lực lượng sản
xuất, với trình độ giác ngộ của người lao động và với trình độ nhận thức, trình độ tiến
bộ của đạo đức xã hội ở nước ta, khi mọi người đều không thể chấp nhận một chế độ
tư hữu phân biệt giàu nghèo và mang bản chất bóc lột. Đây là bước quá độ về kinh tế
để đi tới xã hội thực sự tốt đẹp cho tất cả mọi người. Nhưng muốn thực hiện được
điều này, chính trị có vai trò vô cùng quan trọng, khi nó sẽ bảo vệ cho cơ sở hạ tầng
sinh ra nó. Nền chính trị mới này phải là nền chính trị dân chủ thực sự, do nhân dân
làm chủ thông qua Đảng Cộng sản (đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động) và thực hiện lý tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN, xây dựng quyền sở hữu cho toàn thể nhân dânr
(1) Đây là tư tưởng của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của đảng cộng sản.
(2) Số liệu này có tính ước lượng gần sát và dựa trên cơ sở các số liệu từ cuốn Những
vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020 do PSG,TS. Lê
Quốc Lý (chủ biên), Nxb CTQG, 2013, tr.126.