-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương 2021 - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Đề cương 2021 - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
























Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
ĐÁP ÁN ĐỀ CƯƠNG NĂM 2021-2022 CHƯƠNG 2: Phần I.
Câu 1: Phát biểu định nghĩa “vật chất”, “ý thức”. Theo định nghĩa của V.I.
Lênin về vật chất thì giữa vật chất và ý thức có sự phân biệt căn bản nào? Cho thí dụ.
Định nghĩa “vật chất”, “ý thức” Vật chất:
Là phạm trù cơ bản và nền tảng của CNDV nói chung, CNDV biện chứng nói riêng.
Lênin định nghĩa: "Vật chất là phạm trù triết học, dùng để chỉ thực
tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
phụ thuộc vào cảm giác"
Thầy Sinh diễn đạt lại: Với tư cách phạm trù triết học thì khái niệm
vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan; thực tại ấy được đem lại cho
con người trong cảm giác; thực tại ấy được cảm giác chép lại, chụp lại,
phản ánh; thực tại ấy tồn tại độc lập - không phụ thuộc vào cảm giác. Ý thức:
Mác định nghĩa ý thức: Chẳng qua là vật chất (khách quan) được di
chuyển vào bộ óc con người (dưới dạng thông tin) và được cải biến
trong đó (qua 2 quá trình: vật lý hóa sinh và sáng tạo tinh thần) tạo ra tri thức.
Lênin: Ý thức là hình ảnh chủ quan có nguồn gốc của thế giới khách
quan (từ khách quan và phản ánh khách quan).
Là toàn bộ đời sống tinh thần (tâm lý - trong phạm vi tâm thức) của con
người (từ cá nhân tới cộng đồng) bao gồm nhiều yếu tố.
Theo định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất thì giữa vật chất và ý thức có sự phân biệt căn bản là:
Vật chất: thuộc về cái có thật và dùng để chỉ thực tại khách quan. (tính
khách quan: tồn tại không phụ thuộc vào ý chí, quan niệm chủ quan.)
Ý thức: thuộc vào cái ảo và là tinh thần, cảm giác, tồn tại chủ quan. (ý thức
là sự phản ánh chủ quan đối với thực tại khách quan).
VD: Khái niệm Sóng âm trong vật lý học:
Sóng: tồn tại khách quan: hiện tượng vật lý, sự rung động xảy ra
trong không khí tạo ra là sóng -> thuộc về vật chất.
Âm: cảm giác, lực của sóng tương tác vào màng nhĩ, rung động và
biến thành tín hiệu điện năng truyền vào hệ thống thần kinh và
trung tâm não bộ. => Quá trình truyền âm thành vào não bộ là vật
chất, nhưng sự tồn tại của âm trong não bộ là cảm giác.
Câu 2: Vận động là gì? Thế giới vật chất có những hình thức vận động cơ bản nào? Vận động:
Theo Ăngghen, “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy”.
Đứng trên quan niệm biện chứng, vật chất không ngừng vận động. Vận
động của các sự vật, hiện tượng có thật, diễn ra 1 cách khách quan theo các
quy luật của nó trong tự nhiên và XH. Vận động k chỉ là sự dịch chuyển vị
trí của các vật thể trong không gian mà dùng để chỉ mọi sự vận động trong
tự nhiên, XH, trong tư tưởng con người.
Vận động là thuộc tính vốn có và tồn tại khách quan của các sự vật, hiện
tượng. Vật chất tự thân vận động do sự tương tác lẫn nhau giữa các tồn tại vật chất.
Vận động và đứng im: Sự vận động không ngừng của vật chất không những
không loại trừ mà trái lại còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối.
Còn thời gian thì ghi k thì bỏ cũng được (- Theo quan niệm chủ nghĩa
duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện
tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, có tính tạm thời, chỉ
xảy ra trong một mối quan hệ nhất định. Đứng im là hình thức “chứng
thực” sự tồn tại thực sự của vật chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.)
- Xét ở tầm nhận thức khoa học của loài người, có 2 loại hình thức vận động cơ bản của vật chất:
- Vận động vật chất thuộc đời sống xã hội:
Vận động xã hội (sự biến đổi của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá...) Sự vận động
của XH tương đối phân biệt. Mỗi con ng có một vị thế xã hội trong một tổ chức, quy mô
nhất định. Sống trong XH đó phải tuân theo quy tắc, vị thế, chính trị của xã hội đó.
- Vận động vật chất trong tự nhiên:
- Vận động cơ giới (chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (các quá trình biến đổi của nhiệt, điện, trường, các hạt cơ bản,...)
- Vận động hóa (sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ,...)
- Vận động sinh vật (quá trình biến đổi của các cơ thể sống,...)
=> Tuy nhiên, thế giới vật chất không chỉ có 5 hình thức vận động
Câu 3: Nêu các đặc trưng cơ bản của ý thức. Đặc trưng nào là cơ bản nhất? Tại sao?
Ý thức có những đặc tính cơ bản sau:
Ý thức chỉ là hình ảnh về hiện thực khách quan trong não bộ con người và
phụ thuộc vào thực tế khách quan.
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Ý thức có tính chủ quan Ý thức có tính xã hội
Đặc trưng tích cực sáng tạo là đặc trưng cơ bản nhất vì:
Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người
với trình độ phản ánh tâm lý động vật.
Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động
thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định
hướng, có mục đích rõ rệt.
Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội. Câu 4: Phát
biểu sau đây có phù hợp với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng không? Giải thích ngắn gọn và cho 1 thí dụ.
“Trong việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn cần phải phát huy các nhân tố chủ quan”.
- Quan điểm đó là: trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan
đồng thời, phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan.
VD: Giải toán thì cũng phải dựa trên điều kiện bài toán đã cho, dạy cách kết hợp khách
và chủ trong giải quyết vấn đề. Chủ quan là những hiểu biết, kiến thức đã được học trên
cơ sở những điều kiện đã cho
Không sai, có phần đúng, chưa đủ -> bổ sung (trên cơ sở những điều khách quan)
Vd: giải bài toán cho tam giác biết góc a, b, yêu cầu tính góc c. Điều kiện khách quan: đề
cho; chủ quan: những định lý, cách giải.
(bổ sung thêm câu trl khác)
Phát biểu trên phù hợp vs quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, tuy nhiên vẫn
còn chưa đủ, vẫn còn thiếu sự “xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan”. Bởi vì theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, khi chúng ta xem
xét một sự vật, hiện tượng nào đấy, thì phải luôn xem xét nó trong mối quan hệ với các sự
vật và hiện tượng khác, Cho nên, trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, ngoài việc
dựa vào thực tại khách quan, thì chúng ta cũng cần phải phát huy các nhân tố chủ quan
như sự tư duy, suy nghĩ, ý kiến… của con người để có thể giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.
VD: Khi giải quyết vấn đề lai tạo một giống lúa mới cho năng suất, và thời gian thu
hoạch tốt hơn giống cũ, thì ngoại trừ việc xuất phát từ thực tại khách quan như gene của
giống, các yếu tố dinh dưỡng, sơ đồ lai, … thì cũng cần phải dựa vào việc phát huy các
nhân tố chủ quan trong việc nghiên cứu. Giả dụ như các nhà khoa học không thể thụ động
chờ đợi những thực tại khách quan trên tự động chuyển hóa thành một giống lúa mới, mà
họ phải dựa vào lý thuyết về thực tại khách quan, rồi bắt tay vào quá trình nghiên cứu,
tìm tòi, phát triển và sáng tạo. Chính sự nghiên cứu, sáng tạo, ý chí và nỗ lực này là các
nhân tố chủ quan giúp ích cho việc giải quyết vấn đề thực tiễn, đó là tạo ra giống lúa tốt hơn xưa.
Câu 5: Phát biểu sau đây có đúng với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng không? Tại sao? Cho thí dụ.
“Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan”.
Có đúng nhưng chưa đủ. Vì khách quan phải đi với chủ quan, có được những hiểu biết từ
khách quan nhưng nếu không có cái chủ quan, những điều đã biết, thì sẽ không biết nên giải quyết như nào.
Phát biểu đầy đủ phải là “Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; đồng thời phát huy cái sáng tạo chủ quan”.
Bởi vì, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, khi chúng ta xem xét một sự vật, hiện
tượng nào đấy, thì phải luôn xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện
tượng khác, cho nên cần phải xuất phát từ thực tại khách quan mà suy nghĩ và
hành động. Đồng thời, ta cũng cần phải phát huy cái năng động sáng tạo của ý
thức. Điều này đòi hỏi ta phải coi trọng vai trò của tri thức và không ngừng rèn
luyện, học tập thêm nhiều kiến thức để có thể giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.
VD: câu chuyện “Bán lược cho sư”: “Người thứ nhất mang lược đến chùa chào
hàng các vị sư đã bị mắng và đuổi đi. Nhưng anh này vẫn chịu đựng, cầu xin họ
mua lược, cuối cùng có một vị sư thương tình mua cho một chiếc lược. Người thứ
hai sau khi đi vòng quanh thì tóc bị gió thổi rối tung, xác xơ nên đã xin gặp sư trụ
trì. Anh tay chắp tay niệm “nam mô” và thưa rằng trên núi cao gió thổi mạnh, các
thiện nam tín nữ đến dâng hương mà tóc tai rối bời xin nhà chùa chuẩn bị vài
chiếc lược để các phật tử chải tóc, sửa sang cho gọn gàng bày tỏ lòng thành kính
trước cửa Phật. Vì anh ta nói có lý, nhà chùa đã đồng ý mua mười chiếc lược cho
anh ta. Người thứ ba đã thuyết phục nhà sư là chùa ta có rất nhiều khách thập
phương đến, như vậy để kết duyên giữa nhà chùa và thập phương tín thí thì nhà
chùa có thể mua lược của công ty, viết thêm lên những câu kinh, câu kệ, lời chúc
phúc lên để làm kỉ niệm. Như vậy đã làm tăng thêm giá trị vô hình về tôn giáo tín
ngưỡng cho vật chất này. Kết quả là anh ta đã khai thác được hợp đồng lần 1 là
một trăm chiếc lược làm quà.” Câu chuyện trên cho ta thấy, xuất phát từ khách
quan như nhau, đều là lược của công ty, đối tượng là nhà sư, nhưng cái khác ở đây
là năng lực chủ quan, sáng tạo, đánh vào ba mặt tâm lý khác nhau dẫn đến ba kết quả khác nhau.
Câu 6: Theo quan niệm duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ
với nhau như thế nào? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì? Cho thí dụ minh họa.
Vật chất là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật nói chung, chủ
nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Lênin định nghĩa: "Vật chất là phạm trù triết học,
dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào
cảm giác". Với tư cách là phạm trù triết học, khái niệm vật chất dùng để chỉ thực tại
khách quan; được đem lại cho con người trong cảm giác; được cảm giác chép lại, chụp
lại, phản ánh; và, tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là đời sống tinh thần của con người và là sự phản ánh năng động sáng tạo
thế giới khách quan vào bộ óc con người. Ý thức bắt nguồn từ hoạt động của bộ não con
người, từ giới tự nhiên, đồng thời cũng bắt nguồn từ nhân tố lao động, nhân tố ngôn ngữ.
Theo quan niệm của duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ: Tác
động qua lại, thông qua thực tiễn mà trong đó vật chất giữ vai trò quyết định về nội dung;
sự biến đổi, phát triển; khả năng, điều kiện sáng tạo và điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, vì
vật chất và ý thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên ý thức cũng tác động lại tới vật
chất bằng cách trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, từ đó giúp con
người xác định phương thức thực tiễn và xây dựng nên phương pháp thực tiễn. Như vậy,
bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động
tới vật chất của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Từ mối quan hệ của vật chất và ý thức, ta có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận:
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức,
song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người;
vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
của mình. Đồng thời, vì ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động trở lại
vật chất thông qua hoạt động thực tiễn, con người cũng phải phát huy tính năng động chủ
quan. Thực chất, ý nghĩa phương pháp luận khẳng định lại sự thống nhất giữa 2 nguyên
tắc: Khách quan và sáng tạo trong nhận thức và thực tiễn.
VD: Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay Trước đổi mới:
Kinh tế (vật chất): Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối,
năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp
chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu.
Chính trị (ý thức): Chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự
trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn
diện về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố
trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong
lĩnh vực phân phối lưu thông. Sau đổi mới:
Chính trị: Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến
rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội lần thứ
VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra
bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn
năm thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành
tựu rất quan trọng, tình hình chính trị của đất nước ổ định.
Kinh tế: Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, đời sống vật chất tinh thần
của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
Câu 7: Phát biểu sau đây có đúng với quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng không? Tại sao? Cho thí dụ.
“Trong cuộc sống, chỉ cần con người có ý chí và nghị lực vượt khó thì nhất định mọi việc sẽ thành công”.
Phát biểu Trong cuộc sống, chỉ cần con người có ý chí và nghị lực vượt khó thì nhất định
mọi việc sẽ thành công” dưới góc nhìn của 1 người đã tìm hiểu về chủ nghĩa duy vật biện
chứng thì tôi thấy câu nhận định này vẫn chưa hoàn toàn đúng bởi lẽ
Chủ nghĩa duy vật biện chứng - nó là hình thức cao nhất trong các hình thức của
chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật
kết hợp với phép biện chứng.
Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng hay phép biện chứng là coi một sự
vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối
quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Ở đây ta có thể thấy để có thể đạt được
thành công cần rất nhiều yếu tố khách quan khác. Việc mặc định chỉ cần có chỉ
một trong những yếu tố đó – ý chí và nghị lực đã làm mất đi tính khách quan của
vấn đề. Việc mặc định này cũng cho ta thấy được rằng ý chí đã bị tách riêng ra
khỏi các phẩm chất khác và chưa được soi chiếu cùng với các phẩm chất khác. Bởi
lẽ nếu ta có ý chí và nghị lực khi làm việc nào đó mà không có một con đường cụ
thể hay lên kế hoạch bài bản hoặc ta đi sai đường và chưa nhìn nhận mọi việc dưới
lăng kính khách quan thì việc thành công của chúng ta hầu như là không thể. Ta có
thể lấy thêm ví dụ về việc này:
VD: Ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 vào thời kỳ này các phong trào khởi nghĩa của nhiều nhà
yêu nước bị thất bại liên tiếp, dân ta lại phải tiếp tục sống trong cảnh nô lệ, lầm than.
Nhà yêu nước Phan Bội Châu sáng lập ra đã sáng lập ra Duy Tân Hội nhằm thúc đẩy
phong trào yêu nước trong nước. Tuy nhiên, để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng
nhân dân lại là một việc khó khăn. Phan Bội Châu với một niềm tin sẽ dựa vào Nhật Bản
để kháng chiến chống Pháp đã lập ra phong trào Đông Du (đi về phía Đông). Với mục
đích học tập Nhật Bản.Tuy nhiên phong trào này đã thất bại bởi lẽ:
-Vì Phan Bội Châu và những người yêu nước chưa hiểu được bản chất của những nước
đế quốc trong đó có Nhật Bản.
- Chính phủ Nhật Bản cấu kết với Pháp.
Ta có thể nói Phan Bội Châu là 1 người tài năng xuất chúng và có 1 lòng yêu nước nồng
nàn và ý chí nghị lực giúp vho đất nước ta thoát khỏi lầm than. Tuy nhiên ông vẫn thất
bại khi chưa nhìn nhận sự vật dưới lăng kính khách quan của tình hình xã hội lúc bấy giờ.
Từ đó càng khẳng định cho luận điểm mà tôi đã đề ra: con người không chỉ cần có ý chí
và nghị lực vượt khó để đạt thành công mà cần có nhiều phẩm chất khác để tạo thành.
Câu 8: Ý thức là gì? Yếu tố nào là cơ bản nhất của ý thức? Tại sao?
“Ý thức là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là
sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và
sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật chất.”
Theo quan niệm triết học Mác, ý thức bao gồm nhiều yếu tố như: Tri thức, tình
cảm, ý chí, niềm tin, lý trí, … Trong đó, yếu tố cơ bản nhất của ý thức chính là tri thức.
Về định nghĩa tri thức, thì: “Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người,
là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được
nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ”. Nói cách khác, mọi hoạt động của con người
đều có tồn tại tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý thức đều chứa đựng
nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát
triển. Theo Mác: “Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn
tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành
nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về nhân văn. Căn cứ vào
trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính, …
Tri thức là yếu tố cơ bản nhất của ý thức là bởi vì nó là sự phản ánh mà phân biệt con
người và động vật. Đồng thời, trong mọi hoạt động thực tiễn, hoạt động cải tạo khách
quan của con người thì tri thức đều đóng vai trò lớn nhất trong quá trình đó. Con người
cải tạo thế giới khách quan, thế giới tự nhiên, xã hội là thành hay bại không phải do tình
cảm, ý chí hay khát vọng mà con người cải tạo tự nhiên bằng hành vi thực tiễn dựa trên
cơ sở hiểu biết - tri thức. PHẦN II:
Câu 1: Mối liên hệ là gì? Thế nào là mối liên hệ phổ biến? Cho thí dụ.
Khái niệm mối liên hệ: Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ:
Sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa
các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
VD: Giữa cung và cầu (hàng hóa, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình:
Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hóa
lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu.
Đó chính là những nội dung cở bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa: Dùng để chỉ tính
phổ biến của các mối liên hệ (Ví dụ như: Khi khẳng định rằng mối liên hệ là cái vốn có
của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện tượng, lĩnh
vực nào). Đồng thời khái niệm này cũng dùng để chỉ những liên hệ tồn tại (Được thể
hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (Tức là dùng để phân biệt với khái niệm các
mối liên hệ đặc thù chỉ biểu hiện ở một hay một số sự vật, hiện tượng hay lĩnh vực nhất định).
VD: Mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ chung,
những mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tùy theo từng
loại thị trường hàng hóa, tùy theo thời điểm thực hiện, … Khi nghiên cứu cụ thể từng loại
thị trường hàng hóa, không thể không nghiên cứu những tính chất riêng (đặc thù) đó.
Nhưng dẫu có khác nhau bao nhiêu đi nữa thì chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc
chung của mối quan hệ cung cầu.
Câu 2: Nêu nội dung quan điểm toàn diện. Cho thí dụ. Định nghĩa:
Quan điểm toàn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay
sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian
có liên quan đến sự vật.
Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến của các hiện tượng, sự
vật trên thế giới. Bởi phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại
sự vật, sự việc; không có bất cứ sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập, độc lập với các sự vật khác.
Nội dung quan điểm toàn diện:
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau; do vậy,
khi nghiên cứu đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện. Từ nội dung của
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát thành nguyên tắc toàn diện
với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức và thực tiễn như sau. Thứ nhất,
khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó; “cần
phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián
tiếp” của sự vật đó”, tức trong chỉnh thể thống nhất của “mối tổng hòa những quan hệ
muôn vẻ của sự vật ấy với các sự vật khác” (V.I. Lênin). Thứ hai, chủ thể phải rút ra được
các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất
hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại
khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối
tượng. Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong
không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng
trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác; hoặc
chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng
nên dễ rơi vào thuật ngụy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản
hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái
ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến). Thí dụ:
Ví dụ, khi chúng ta phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận dụng lý
thuyết một cách hệ thống, tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, những
bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào, từ đó có thể phát hiện ra
thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố (thuộc tính “trời”). Mặt khác,
chúng ta cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở của nó, tức là xem xét nó trong
mối quan hệ với các hệ thống khác, với các yếu tố tạo thành môi trường vận động, phát
triển của nó… Như vậy, trong hoạt động nhận thức, thực tiễn chúng ta cần phải xem xét
sự vật trên nhiều mặt và mối quan hệ của nó. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được hoặc
có thể hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng
như trong việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn, nhờ đó tạo ra được khả năng
nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý một cách chính xác, có
hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
Hoặc khi bạn nhận xét về một người nào đó thì không thể có cái nhìn phiến diện ở vẻ bên
ngoài, “nhìn mặt mà bắt hình dong”. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con
người, các mối quan hệ của người này với người khác, cách cư xử cũng như việc làm
trong quá khứ và hiện tại. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.
Câu 3: Phát triển là gì? Tăng trưởng là gì? Giữa chúng có mối quan hệ thế nào? Cho 1 thí dụ.
Phát triển: Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Như vậy, phát triển là
vận động nhưng không phải mọi vận động đều là phát triển, mà phát triển dùng để
chỉ khuynh hướng vận động nào đó của sự vật theo chiều hướng biến đổi về chất ở
trình độ ngày càng cao hơn (đáp ứng tốt hơn đc các quy luật khách quan). Vận
động diễn ra trong không gian và thời gian, nếu thoát ly chúng thì không thể có
phát triển. Ví dụ, quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao; quá
trình thay thế lẫn nhau của các hình thức thức tổ chức xã hội loài người: từ hình
thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời nguyên thuỷ lên các hình thức
tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc...; quá trình thay thế lẫn
nhau của các thế hệ kỹ thuật theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn...
Tăng trưởng: dùng để chỉ quá trình biến đổi theo chiều hướng tăng lên đơn thuần
về lượng của sự vật; nó không phản ánh quá trình biến đổi theo chiều hướng nâng
cao về chất của sự vật.
Mối quan hệ: Mặc dù có sự khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển nhưng giữa
chúng lại có mối liên hệ tất yếu với nhau: tăng trưởng là điều kiện của phát triển
và ngược lại, phát triển lại là điều kiện tạo ra những sự tăng trưởng mới, thường là
với tốc độ và quy mô lớn hơn. Đó là mối quan hệ có tính quy luật của sự phát triển.
Ví dụ, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: tăng trưởng kinh
tế là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế và ngược lại, sự phát triển kinh tế
lại tạo ra điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền
vững và với một quy mô, tốc độ mới lớn hơn.
Câu 4: Từ một hiện tượng bất kỳ quan sát được trong thực tế có thể kết luận
chính xác ở mức độ đầy đủ, tuyệt đối bản chất của sự vật không? Tại sao? Cho thí dụ.
Bản chất là: Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể, toàn bộ đặc trưng các mối liên hệ
khách quan, tất nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận động, phát
triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng.
Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên ngoài trong các điều kiện xác định; là mặt dễ biến đổi hơn
và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng. Hiện tượng là hiện tượng của bản
chất, bản chất là bản chất của sự vật.
Ví dụ: ánh sáng có bản chất là có tính sóng và hạt còn biểu hiện hiện tượng giao thoa, khúc xạ, …
Tính thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất và hiện tượng đều tồn tại
khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái này không thể tồn tại thiếu cái kia. về cơ
bản, bản chất và hiện tượng có xu hướng phù hợp với nhau, bởi mỗi đối tượng đều
là sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng. Sự thống nhất thể hiện ở chỗ, bản
chất được biểu hiện, “bộc lộ ra” thông qua hiện tượng, còn hiện tượng lại thường
biểu hiện bản chất dưới hình thức đã bị cải biến nên trong mọi hoạt động, không
thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà cần đi sâu vào bên trong
để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thường giấu mình sau hiện tượng; dựa vào các
quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng →
nghĩa là bản chất nào thì hiện tượng đấy. Không có hiện tượng thuần tuý, phi bản
chất. Ngược lại, không có bản chất nào là tồn tại thuần tuý
Sự đối lập, mâu thuẫn: được thể hiện ở chỗ một bản chất được thể hiện qua nhiều
hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, không đổi còn hiện tượng là cái
thay đổi thường xuyên. Hiện tượng có thể biểu hiện không phù hợp với bản chất
(tự lấy ví dụ nếu có). Ví dụ: Bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng
dư, bản chất đó được thể hiện ở rất nhiều thủ đoạn của giai cấp tư sản như tích
cực áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới phương pháp quản lý,
thậm chí tăng lương và cải thiện điều kiện sống, điều kiện làm việc cho công
nhân... để nhằm mục đích nâng cao giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản, cho nên
nếu không tìm hiểu kỹ sẽ không thấy được bản chất thật sự của giai cấp tư sản mà
chỉ thấy những biểu hiện bề ngoài của nó, không có được sự đánh giá toàn diện
đúng đắn về giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Từ một hiện tượng bất kỳ quan sát được trong thực tế không thể kết luận chính
xác ở mức độ đầy đủ, tuyệt đối bản chất của sự vật không?
Xét về khả năng khách quan: Không thể kết luận chính xác ở mức đầy đủ, tuyệt
đối; vì mỗi hiện tượng chỉ phản ánh được 1 phần bản chất của sự vật.
Xét về khả năng chủ quan: Không thể kết luận chính xác ở mức đầy đủ tuyệt đối,
vì khả năng khách quan là không thể.
VD1: Từ hiện tượng giao thoa chỉ có thể kết luận chính xác thuộc tính bản
chất sóng của ánh sáng chứ không thể kết luận đầy đủ cả tính hạt của ánh sáng được
VD2: Từ hiện tượng quan sát thiên văn cho mặt trời chuyển động. Nếu từ
đó kết luận chắc chắn là mặt trời chuyển động xung quanh mặt trời thì thì
chỉ có thể đạt được độ chính xác ở xác suất (33,3%) mà không thể đảm bảo
ở mức tuyệt đối 100%. Bởi vì hiện tượng quan sát được cho thấy giữa trái
đất và mặt trời có sự chuyển dịch tương đối, có 3 khả năng xảy ra: Mặt trời
chuyển động, trái đất chuyển động hoặc cả 2 cùng chuyển động với vận tốc
khác nhau (hoặc khác hướng)
Câu 5: Từ lý luận về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để trả lời: Tại sao
con người có thể và cần phải tổng kết kinh nghiệm.
*Khái quát lý luận về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng:
Cái chung tồn tại trong cái riêng; Chung những cái riêng phương pháp quy nạp.
Cái riêng phong phú hơn cái chung; cái chung sâu sắc hơn cái riêng - quyết định
cái riêng Muốn giải quyết một cái riêng thì trước hết cần phải nắm được cái chung. *Vận dụng:
Kinh nghiệm là kết quả nhận thức, là hiểu biết được con người tổng kết lại thông
qua sự trải nghiệm của cá nhân hoặc của những cộng đồng người nhiều lần những
tình huống trong công việc hoặc cuộc sống. Kinh nghiệm ấy là cái chung, cái
chung so với mỗi một tình huống xảy ra, mỗi một tình huống xảy ra nó là cái riêng.
Con người có thể tổng kết kinh nghiệm vì cái chung tồn tại trong cái riêng.
Con người cần tổng kết kinh nghiệm để tìm ra cái chung, cái chung là chìa khóa để
giải quyết mỗi một cái riêng.
Thí dụ: Sinh viên được các thầy, cô dạy những định lý. Nắm được cái chung, định
lý rồi bắt đầu ra bài toán, sinh viên tập vận dụng cái chung ấy vào xử lý bài toán.
Câu 6: Khi xây dựng các dự báo cho hoạt động thực tiễn, cần phải căn cứ vào
cái tất nhiên hay ngẫu nhiên? Tại sao? Cho thí dụ.
Tất nhiên (tất yếu): cái xuất phát từ bản chất, quy luật nguyên nhân bên trong sự
vật; do đó, nó có tính tất định.
Ngẫu nhiên: Cái xuất phát từ sự tác động của nguyên nhân bên ngoài, từ điều kiện
môi trường đến sự vật, do đó, nó có tính đa khả năng.
Khi xây dựng các dự báo cho hoạt động thực tiễn, cần phải căn cứ vào cả tất nhiên
và ngẫu nhiên, nhưng trước hết và cơ bản phải dựa trên cái tất nhiên để đảm bảo
tính chính xác và tuyệt đối của dự báo sau đó mới dựa vào cái ngẫu nhiên để cụ
thể hóa các khả năng. Vì dự báo đòi hỏi cần phải chính xác, nên cần phải dự báo
được phương hướng và đưa ra dự báo dài hạn một cách chuẩn xác trước rồi mới
chi tiết hóa thành dự báo trung hạn, ngắn hạn và cụ thể hóa các phương án.
Thí dụ: Lắp quạt trần nếu đứt dây thì rơi xuống dưới sàn nhà (đây là cái dự báo mà
người kỹ sư thiết kế phải quan tâm), cụ thể hóa ra rằng nó sẽ rơi vào điểm nào trên
mặt sàn để bố trí (nêu ra các khả năng: giả định nó quay số 1 nếu rơi thì nó rơi ở
đâu? không quay nếu rơi thì rơi ở đâu?). Người ta xác định được nếu cái quạt ở tốc
độ quay cao nhất thì độ văng sẽ là một cái tọa độ, một khoảng không gian mặt sàn
bao nhiêu để người ta bố trí vật đặt dưới đảm bảo an toàn.
Câu 7: Từ nội dung quy luật về phương thức cơ bản của sự phát triển để trả lời:
Có phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật hay
không? Tại sao? Cho 1 thí dụ.
Xét về mặt khả năng (khả năng tất yếu) mọi thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay
đổi về chất của sự vật.
Xét về mặt hiện thực thì không phải mọi thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay
đổi về chất của sự vật. Có trường hợp được, có trường hợp không, tùy thuộc vào
điều kiện. Có ba điều kiện “lượng đổi dẫn đến đổi chất”: Giới hạn điểm nút
Sự biến đổi về cấu trúc, cơ chế
Sự biến đổi phù hợp, tương ứng
Thí dụ: Một quả trứng gà
Xét về mặt khả năng thì trong quả trứng có con gà không? Có
Xét về mặt hiện thực thì trong quả trứng không hề có gà, dưới những điều
kiện về nhiệt độ, môi trường... thì sau một thời gian quả trứng sẽ nở ra gà con.
Câu 8: Theo phép biện chứng duy vật, “mâu thuẫn” là gì? Để tạo động lực cho
sự phát triển kinh tế thì cần phải xóa bỏ các mâu thuẫn trong nền kinh tế hay
sử dụng mâu thuẫn để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế?
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên
hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các
mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính... có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau,
nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn
nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
TẠO ĐỘNG LỰC CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Không phải mọi mâu thuẫn đều đóng vai trò phát triển kinh tế mà chỉ những mâu
thuẫn theo nghĩa biện chứng- những hiện tượng nào chứa trong đó sự đối lập về
một thuộc tính hoặc về một khuynh hướng đối lập nhau. Còn những mâu thuẫn
theo nghĩa siêu hình- là những hiện tượng sử dụng trong logic học thường sử dụng
khuynh hướng đối lập, loại trừ nhau, không có tính thống nhất trong chuyển hóa,
mà trái ngược thủ tiêu nhau, Những màu thuận này không là nguồn gốc động lực phát triển
Mâu thuẫn biện chứng và khách quan phổ biến, Là cái vốn có của sự vật nên
không thể xóa bỏ đi cái khách quan ấy được, nếu xóa bỏ thì sẽ vừa trái với quy
trình duy vật. Thay vào đó, chúng ta phải phát hiện, sử dụng để tạo ra động lực
phát triển trong nền kinh tế. Các các cơ chế, Chính sách tôn trọng mâu thuẫn là cơ
chế dân chủ, nó thừa nhận sự khác biệt và đối lập, trong một sân chơi chung phải
tuân theo quy tắc chung, tuy đối lập nhau nhưng mục đích đó là đi tìm sự thật.
Trong nền kinh tế thì có nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu,... thiết
lập nên hệ thống mô hình kinh tế, có các yếu tố vận hành những hệ thống, thể chế
với nhiều cơ chế tạo ra các mô hình khác nhau với chất khác,… Mô hình kinh tế
thị trường là mô hình có đầy đủ các thể chế độ. Chỉ có mô hình kinh tế thị trường
mới tôn trọng mâu thuẫn biện chứng, có tính thống nhất, tôn trọng chuyển hóa, là
cái tạo ra thúc đẩy động lực phát triển kinh tế, không ngừng đổi mới về công nghệ,
kỹ thuật để có thể áp dụng vào sản xuất. Không ngừng đổi mới quản lý vận hành
để tối ưu hóa hệ thống, tiết kiệm các nguồn lực, giảm giá thành sản phẩm, nâng
giá trị sử dụng sản phẩm=> tôn trọng mâu thuẫn vốn có, sử dụng được các mâu
thuẫn vào phát triển. Mâu thuẫn đóng vai trò là nguồn động lực, nguồn gốc của sự phát triển.
Mâu thuẫn siêu hình là chỉ sự phi lý, phi logic trong tư duy. Trong quá trình tư duy
phải loại trừ, xóa bỏ được các mâu thuẫn. Quy luật cấm mâu thuẫn là một trong
bốn quy luật tư duy hình thức của logic học. Mọi mâu thuẫn đều dẫn đến sự biến
đổi nên việc giải quyết xóa bỏ các mâu thuẫn bằng các biện pháp điều hòa mô
thuận là phương pháp có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển kinh tế, nếu việc
giải quyết triệt để mâu thuẫn có thể gây những tổn thất lớn hơn. Với những vấn đề
như mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn xã hội trong nội bộ, xung đột sắc tộc, mâu
thuẫn quốc gia, chiến tranh và hòa bình…., thì điều hòa mâu thuẫn và đã đạt tới
đoàn kết xã hội đồng thuận xã hội ổn định xã hội và tránh chiến tranh…, Gần như có nghĩa tuyệt đối
Mâu thuẫn, cạnh tranh là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng
tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Song mâu
thuẫn cũng làm xuất hiện những thứ không lành mạnh như chủ nghĩa cá nhân cực
đoan, tính cơ hội và nói chung là thôi ích kỷ, sự xấu xa vốn là mặt trái trong bản năng của con người.
VD: Cơ chế dân chủ thừa nhận sự phong phú, đa dạng đến mức xuất hiện nhiều ý kiến,
nhiều kiểu đối lập nhau. Trong cơ chế dân chủ này đã tồn tại nhiều mâu thuẫn. Tuy nhiên,
những màu thuận này đều được thống nhất dưới nguyên tắc dân chủ thông qua nguyên
tắc thị trường, pháp luật…. Vì thế mà những màu thuận trong cơ chế này luôn được sử
dụng một cách hiệu quả nhất.
III. Lý luận nhận thức
1. Phát biểu định nghĩa về “thực tiễn”, “nhận thức”. Thực tiễn có những
vai trò gì với nhận thức? Nêu 1 thí dụ.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử của
con người nhằm cải biên giới tự nhiên và xã hội.
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào não người trên cơ sở thực tiễn. Trong khi ý thức là sự phản ánh thì nhận thức là quá trình.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm
tra tính chân lý của quá trình nhận thức.
Thứ nhất: Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức
dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở
trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng. Sở dĩ như vậy,
bởi con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người
được hình thành và phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật
vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực
gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ
thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý
nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng
nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn
cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú
và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Thứ hai: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm hiểu xem tư
duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic nhưng tiêu
chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm
nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà
luôn biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người
nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những
chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những
tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực
tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
Ví dụ về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng BẮT
NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
Ví dụ thực tiễn là động lực của nhận thức
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ NHU CẦU thực tiễn con người CẦN phải “đo đạc diện
tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ
khí” MÀ toán học đã ra đời và phát triển.
Ví dụ thực tiễn là mục đích của nhận thức
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien người
cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ MỤC ĐÍCH chữa trị những căn bệnh nan y và từ MỤC
ĐÍCH tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người…có thể nói, suy cho
cùng, không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ một MỤC ĐÍCH nào
đó của thực tiễn, không NHẰM vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn.
2. Một tư tưởng (quan niệm, quan điểm, chính sách…) nào đó khi chưa được
thực tiễn chứng minh là đúng thì có thể kết luận nó là sai lầm được hay không? Tại sao?
-Thực tiễn: Là toàn bộ hoạt động vật chất của con người, với mục đích là biến đổi và cải
tạo tự nhiên và xã hội, có tính sáng tạo và lịch sử, xã hội
-Một tư tưởng (quan niệm, quan điểm, chính sách…) nào đó khi chưa được thực tiễn
chứng minh là đúng thì không thể chắc chắn kết luận nó là đúng hay sai
-Giải thích: Mục đích của mọi tư duy là tạo ra tri thức mới, mà tri thức gồm 2 loại: Tri
thức sai và tri thức đúng
+ Tri thức sai: Nội dung phản ánh không đúng thực tại khách quan
+ Tri thức đúng: Nội dung hiểu biết phù hợp khách quan
Đúng theo chuẩn mực logic, lập luận ( giả thuyết)
Có khả năng đúng, thì sẽ là chân lý
Có khả năng sai thì sẽ là tri thức sai
Đúng được kiểm tra bằng thực tiễn( chân lý)
→Nếu chưa được kiểm chứng qua thực tiễn thì không thể xác định chính xác đó là tri thức đúng hay sai
→Mọi quan điểm đều chứa đựng xác suất đúng hoặc sai nên ta chưa thể kết luận chắc
chắn 1 tư tưởng nào đó đúng hay sai CHƯƠNG 3
Câu 1: Nêu định nghĩa “Sản xuất vật chất” và phân tích vai trò của nó.
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã
hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba
quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật
chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Theo cách hiểu giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin
đưa ra thì sản xuất vật chất được hiểu như sau: “ Sản xuất vật chất là quá trình con người
sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người”.
Con người và xã hội loài người được hình thành và phát triển trong quá trình sản
xuất vật chất. Muốn thực hiện được các hoạt động sống còn và phát triển kinh tế, xã hội
thì con người phải sản xuất vật chất thông qua lao động nông - lâm - ngư - công nghiệp,
xây dựng,..và nhiều lĩnh vực khác, đây là điểm khác biệt căn bản nhất giữa xã hội loài
người với thế giới động vật. Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh
tồn, phát triển của con người và cả xã hội, không có sản xuất là không có tồn tại. Là hoạt
động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người, nó
chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Quá trình
sản xuất vật chất còn làm cho bản thân con người ngày càng hoàn thiện, tích lũy và mở
mang nhiều kinh nghiệm, kiến thức để cải tiến phương tiện sản xuất, khoa học công nghệ Vai trò
Sản xuất vật chất là nền tảng, là cơ sở để duy trì sinh hoạt vật chất cho xã hội. Nếu
thiếu nó sẽ không có bộ mặt tinh thần, không có sản xuất tinh thần và tất nhiên là
con người, xã hội không thể tồn tại.
Quá trình sản xuất vật chất đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết
định vận động, phát triển của xã hội.
Chính lịch sử phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự phát triển của đời sống
tinh thần như chính trị, đạo đức, pháp quyền v.v…
Lý do dẫn đến những vai trò ấy:
Nhu cầu phát triển của con người và xã hội. Trong quá trình sản xuất vật chất con
người không chỉ cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội mà còn cải tạo chính bản thân
mình. Trên cơ sở đó con người ngày càng phát triển.
Sản xuất vật chất là cơ sở nảy sinh, biến đổi, phát triển toàn bộ các quan hệ xã hội.
Sản xuất vật chất không ngừng được các thế hệ người phát triển từ thấp đến cao.
Mỗi khi phương thức sản xuất thay đổi, quan hệ giữa người với người trong sản
xuất cũng thay đổi; và do vậy, mọi mặt của đời sống xã hội đều có sự thay đổi theo
sự tiến bộ của phương thức sản xuất.
Câu 2: Phương thức sản xuất là gì? Nó có vai trò gì đối với sự phát triển của xã
hội? Cho 1 thí dụ.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng tạo thành cách thức sản xuất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Vai trò:
Quyết định trình độ của nền sản xuất vật chất. Ta xác định nền sản xuất vật chất
này thấp hay cao hơn nền sản xuất vật chất kia là ở trình độ của phát triển của
phương thức sản xuất, trước hết và cơ bản là trình độ phát triển của kĩ thuật.
Quyết định sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất. Từ một nền sản xuất
thấp lên một nền sản xuất cao quyết định bởi kĩ thuật. Như Mác đã nói rằng sự
phát minh máy hơi nước ra đời nền công nghiệp tư bản vào thế kỷ 18.
=> Suy đến cùng mà nói, nhân tố quyết định sự phát triển xã hội và sự vận động, phát
triển của xã hội nói chung là sự phát triển của phương thức sản xuất. Ý nghĩa vai trò:
Để giải thích trở nên triệt để đến cái cùng, cái gốc sâu xa của hiện tượng xã hội mà
nói. Ta cần xuất phát từ tính chất, trình độ, thực trạng vận động phát triển của nền
sản xuất vật chất nói chung và đặc biệt là phương thức sản xuất.
Xây dựng và phát triển xã hội cần dựa trên cơ sở phát triển sản xuất và phương thức sản xuất.
Mấu chốt của phát triển nền sản xuất vật chất là phát triển phương thức sản xuất. Thí dụ:
Trong giai đoạn những năm 2000, nông dân nước ta làm việc chính là bằng chân
tay và sức của trâu và bò, cho ra năng suất rất chậm và chỉ làm được trên quy mô nhỏ,
cũng có thể thấy xã hội Việt Nam lúc đó phát triển chậm. Khoảng 20 năm sau, chúng ta
đã có thể áp dụng các máy móc cao cấp vào để thay các công việc chân tay, thay cho trâu
bò để cho ra năng suất cao hơn.
Câu 3: Lực lượng sản xuất là gì? Yếu tố nào là cơ bản nhất trong lực lượng sản xuất? Tại sao?
Lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố vật chất, kỹ thuật tạo thành sức mạnh thực
tiễn để con người cải biến giới tự nhiên.
Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố cấu thành:
Tư liệu sản xuất (tư liệu lao động, công cụ lao động...)
Người lao động (các yếu tố tạo thành năng lực lao động của người lao động)
Đặc điểm của sự phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội công nghiệp hiện đại.
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Yếu tố con người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Vì đây là nguồn lực cơ bản,
vô tận, họ là chủ thể của sáng tạo và đồng thời là chủ thể tiêu dùng của mọi loại vật chất xã hội.
Sở dĩ như vậy là vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao
động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người,
đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ
sử dụng của người lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ
lao động bị hao phí và di chuyển dần giá trị vào sản phẩm., thì người lao động do
bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao động họ không chỉ sáng tạo ra giá
trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra
ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất,
nguồn gốc của sự phát triển sản xuất.
Câu 4: Nêu khái niệm quan hệ sản xuất. Ở Việt Nam hiện nay có những loại
hình quan hệ sở hữu nào về tư liệu sản xuất?
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng
nhất - quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người.
Quan hệ sản xuất bao gồm
Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Quan hệ trong tổ chức quản lí và trao đổi hoạt động với nhau.
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị
kinh tế - xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ
quản lý và phân phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ
bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác.
Ở nước ta hiện nay tồn tại 3 loại quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: công hữu, tư
hữu, và sở hữu hỗn hợp.
Câu 5: Quan hệ sản xuất có vai trò tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất? Cho thí dụ.
Mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là mối quan hệ ràng
buộc thống nhất giữa 2 mặt của 1 quá trình sản xuất
không có lực lượng sản xuất hiện thực ngoài quan hệ sản xuất hiện thực và ngược lại
llsx nào thì qhsx đó, qhsx nào sẽ đòi hỏi llsx tương ứng
Tính quyết định của llsx
llsx giữ vai trò quyết định qhsx. Quyết định sự hình thành và củng cố biến
đổi phát triển của qhsx hiện thực. vì llsx này là mặt kỹ thuật tức là mặt nội
dung của quá trình sx. Còn qhsx là mặt hình thức kinh tế. nội dung quyết
định hình thức cho nên kĩ thuật nào thì kinh tế ấy trình độ llsx nào thì qhsx
như thế ấy. nếu làm khác đi sẽ bị khủng hoảng về sản xuất Vai trò của qhsx
Tác động trở lại nhằm bảo tồn, khai thác, phát triển llsx hiện thực
Hai hướng tác động: tích cực và tiêu cực. nếu qhsx mà phù hợp đc vs trình
độ thực tế của llsx thì tích cực vì nó tuân đúng theo quy luật. nếu qhsx ko
phù hợp, ko đáp ứng đc nhu cầu khách quan của việc bảo tồn khai thác..llsx
thì là tác động tiêu cực.
muốn phát huy vai trò tích cực của qhsx trong llsx thì nhất định phải tạo ra
sự phù hợp của qhsx với trình độ của llsx hiện có
Mâu thuẫn giữa llsx và qhsx
vì llsx là yếu tố thường xuyên biến đổi và phát triển(động) còn qhsx có tính
ổn định tương đối trong 1 thời kì => thành ra các mặt đối lập, từ đó tạo thành 1 mâu thuẫn
trong quá trình vận động và mâu thuẫn, với hình thức nhất định phù hợp
giữa qhsx và llsx thì llsx k ngừng vận động phát triển và lớn lên đến 1 giới
hạn thì sẽ xảy ra mâu thuẫn, qhsx lúc ấy phải thay đổi bằng 1 qhsx mới. tuy
nhiên ko phải những qhsx này tự động thay đổi vì những qhsx này bao h
cũng dc bve bằng 1 hình thức pháp lý nhất định mà những hình thức pháp
lý này đc bảo hộ bằng qh chính trị nên k phải có mâu thuẫn là qhsx tự ý thay đổi.
Tác dụng của mâu thuẫn:
đóng vai trò nguồn gốc và động lực cơ bản phát triển của phương thức sản xuất
Ví dụ: Trong xã hội nguyên thủy, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém,
công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu, chủ yếu là đồ đá, cung tên nên người nguyên thủy
buộc phải gắn bó với nhau và thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tất cả
tư liệu sản xuất đều là của chung, do trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém
nên của cải làm ra hầu hết đều bị tiêu dùng hết, không có của cải dư thừa nên
không có việc chiếm đoạt làm của riêng, tất cả mọi người trong xã hội đều bình
đẳng, không có áp bức, bóc lột, bất công. Như vậy, trong xã hội nguyên thủy, quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ sở hữu công về tư liệu sản xuất, quan
hệ trong tổ chức – quản lý là quản lý thông qua các công xã và quan hệ phân phối
kết quả là phân phối bình đẳng cho các thành viên. Về lực lượng sản xuất trong xã
hội nguyên thủy chính là năng lực sản xuất của người lao động và các tư liệu sản
xuất như đồ đá, cung tên…trong xã hội nguyên thủy năng lực sản xuất của người
lao động còn thấp, tư liệu sản xuất vẫn còn thô sơ, lạc hậu
Câu 6: Nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam
là nhiệm vụ nào? Tại sao?
Nhiệm vụ trọng tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nhiệm vụ chính:
Thứ nhất là xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
xây dựng các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây
dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
Bởi vì theo CT Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện
đại. Thực chất của quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc
đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn
thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế
đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu
tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược
lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Câu 7: Ở Việt Nam hiện nay có những loại hình quan hệ sản xuất nào?
Hiện nay nước ta đang ở vào thời kỳ quá độ lên CNXH do đó các loại hình quan hệ sản
xuất của nước ta bao gồm:
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất, kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và nó định hướng phát triển các thành phần khác.
Quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất (trừ ruộng đất sở hữu
xã hội) đó là kinh tế tập thể, thành phần kinh tế mà trình độ xã hội hóa của lượng
lượng sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất thấp hơn kinh tế Nhà nước, nhưng sản
xuất với lượng hàng lớn cung cấp cho đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất): kinh tế tư bản tư nhân.
Quan hệ sản xuất dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao
động trực tiếp của bản thân người lao động kinh tế cá thể.
Câu 8: Nền kinh tế Việt Nam hiện nay có những thành phần kinh tế cơ bản nào?
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay có 5 thành phần kinh tế cơ bản gồm: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Kinh
tế nhà nước : Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất
Bao gồm: các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà
nước, các quĩ dự trữ quốc gia, các quĩ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên
quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế.
Vai trò: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển” Đại hội X của
Đảng khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Kinh tế tập thể
: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất.
Bao gồm: nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà hợp tác xã là nòng cốt
Thành phần kinh tế tập thể đóng vai trò quan trọng; cùng với thành phần
kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế đất nước.
Kinh tế tập thể có đoàn kết, vững mạnh sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế chung của đất nước Kinh tế
tư nhân : là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Cơ cấu và vai trò của kinh tế tư nhân:
+, Kinh tế cá thể, tiểu chủ: dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
và lao động của bản thân người lao động; có vị trí rất quan trọng trong
nhiều ngành nghề, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về
vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động.
+, Kinh tế tư bản tư nhân: dựa trên chế độ sử hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư bản tư nhân có vai trò giải quyết việc làm cho
người lao động, có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của đất nước Kinh
tế tư bản nhà nước : là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp
về vốn giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư bản nước
ngoài, thông qua các hình thức hợp tác như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh…
Bao gồm những doanh nghiệp liên doanh (giữa nhà nước với tư bản trong và ngoài nước…)
Vai trò: Theo Lênin nó có vai trò rất quan trọng, là “chiếc cầu nhỏ vững
chắc đi xuyên qua” chủ nghĩa tư bản, để đi vào chủ nghĩa xã hội, là thành
phần kinh tế có vai trò cầu nối giữa TBTN và XHCN, để thành phần kinh tế
XHCN định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài : Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu vốn của nước ngoài. Bao gồm:
+ Các doanh nghiệp, công ty 100% vốn nước ngoài.
+ Các doanh nghiệp, công ty liên doanh
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Với quy mô vốn lớn, trình quản lý hiện đại, công nghệ cao và đa dạng.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy nền kinh tế nước
ta tăng cường và phát triển, nó bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế nước ta, góp phần quan trọng
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản
lý nền kinh tế nước ta, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại.
Câu 9: Giai cấp là gì? Đấu giai cấp có vai trò gì đối với sự tiến bộ và phát triển của xã hội?
- Khái niệm giai cấp không đơn thuần là một khái niệm của khoa học chính trị, đó còn là
một khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan trong lĩnh vực kinh tế cũng như giữa
lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế chính trị
giữa các tập đoàn người trong một điều kiện lịch sử nhất định.
- Theo quan điểm duy vật lịch sử, đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những
phương thức, động lực của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân
hóa thành đối kháng giai cấp. Lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về
thực chất chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình
thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu
tranh của những người nô lệ chống lại ách áp bức của giai cấp chủ nô; cuộc đấu tranh của
những người nông nô, những người nông dân làm thuê chống lại sự áp bức và bóc lột của
bọn chúa đất, địa chủ; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê chống lại ách
áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều
dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.
Câu 10: Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì? Cho thí dụ
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu
vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong
các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và
quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
+, Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều
kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, v.v., trong đó phương
thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất
+, Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn
quyết định cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã
hội có thể được các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác
nhau theo những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý
thức này cũng sẽ tác động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại xã hội. Đó chính là tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội
Phạm trù ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng
để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội là
mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của
xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái
kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
+, Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư tưởng
xã hội thì quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong
tâm lý xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống, v.v. nảy sinh từ tồn tại xã hội
và phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định.
Ví dụ: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Xét về tâm lý xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua tình cảm yêu nước, khát vọng
đấu tranh, giải phóng dân tộc...nhưng khi xét đến hệ tư tưởng, chủ nghĩa lại được
thể hiện qua các bản tuyên ngôn độc lập.
Câu 11: Nêu quan niệm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất của con người.
a/ Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất biện chứng
giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
+ Con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ
sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đacuyn về sự tiến hóa của các loài.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể
vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật
tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã
hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược
lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi
trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa
sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
+ Xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến
hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và
cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua
loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới
của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài
người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
+ Xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối
bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có
sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát
triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xà hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là
một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó.
b/ Bản chất con người:
- Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội"
- Những biểu hiện của bản chất đó:
+ Chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư
cách "người", phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể
định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc
tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó,
chính là "tổng hòa những quan hệ xã hội", bởi vì xã hội chính là xã hội của con người,
được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...
+ Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành
và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được
tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã
hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức phương diện bản tính tự
nhiên, người da đen" vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính trị
của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới bị biến thành "người nô lệ", còn trong quan hệ
kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta là "người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử.
Như thế không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da trắng,
nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những điều
kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì cũng tạo sự thay đổi bản chất
của con người. Vì vậy, giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng
những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua đó có thể phát huy
khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
= > Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh
lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải đúng đắn về khả
năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của những
con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên của họ, trái lại cần phải được
lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế, chính tri, văn
hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là
sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người
lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa
con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định
bởi chính lịch sừ đó. Từ đó có thể thấy, hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình
về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh
lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con người trong
quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác đã khẳng
định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn
cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện
chứng của tự nhiên, Ph. Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là
lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái
hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực
mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề
biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật,
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử
của mình một cách có ý thức bấy nhiêu". - Ý nghĩa:
+ Để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần
từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là
từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
+ Động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch
sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người
chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
+ Sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải
là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa phương
pháp luận đó, có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc
lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Cuộc cách mạng đó cũng thực
hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bane phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế
- xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà
tự do và sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác.
Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng
sản: "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người".