Đề cương chi tiết - Học phần Môn Triết học Mác - Leenin | Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là một điển hình về sự chuẩn bị lực lượng, cách mạng đã tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa vũ trang trên những nguyên tắc cơ bản như muốn chiến thắng thì phải dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.VI.Lênin đã từng khẳng định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga một điển hình về sự chuẩn bị
lực lượng, cách mạng đã tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây dựng lực
lượng trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa trang trên những nguyên tắc
bản như muốn chiến thắng thì phải dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân mà
nòng cốt liên minh giai cấp công nhân, nông dân các tầng lớp nhân dân lao
động khác.VI.Lênin đã từng khẳng định: “Không sự đồng tình ủng hộ của đại
đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô
sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được” .
(1)
Từ thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga cho thấy sự cần thiết phải xây
dựng được khối liên minh công nhân nông dân vững mạnh. Đây chính lực
lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vai trò quan trọng góp phần
tạo nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng chính chỗ dựa vững
chắc của Đảng, Nhà nước trong xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kỳ đổi mới
hiện nay.
Đểthể vận dụng tốt quan điểm của Hồ Chí Minh cho việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay, sẽ rất nhiều vấn đề cần phải
được giải quyết triệt để, đó cũng do nhóm thực hiện đã chọn đề tài Quan
điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công - nông sự vận dụng của đảng
trong việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay cho bài tiểu
luận kết thúc môn của nhóm.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đầu tiên, với tầm quan trọng của việc hình thành khối liên minh công
nông, nhóm thực hiện đề tài muốn đưa ra cái nhìn tổng quát và đúng đắn cho người
1
đọc về quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công nông, về những nội
dung, mục đích, ý nghĩa hình thành của liên minh công nông đem lại cho cách
mạng Việt Nam trong quan điểm của Hồ Chí Minh.
Đại đoàn kết toàn dân tộc chínhtưởng bản, nhất quán xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, đoàn kết là
lực lượng vô địch để khắc phục mọi khó khăn, giành lấy thắng lợi. Thấm nhuần lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định vấn đề đại đoàn kết dân tộc
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong các lĩnh vực, từ
đường lối, chủ trương, chính sách đến thực tiễn.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu tiếp theo là để đưa ra cái nhìn tổng quát về quan điểm
của Đảng về khối đoàn kết toàn dân trong thời kỳ đổi mới cũng như đưa ra mục
tiêu, hướng giải quyết của Đảng trong việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để thể nghiên cứu đề tài một cách đúng đắn chặt chẽ về những
tưởng, luận Hồ Chí Minh mang lại, nhóm thực hiện đề tài đã sử dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, của chủ nghĩa Mác Lênin những phương pháp luận mang tính nguyên tắc
của Hồ Chí Minh.
Cùng với đó, nhóm thực hiện đã sử dụng thêm những phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như là phân tích tổng hợp, xã hội học, so sánh, nhân chứng lịch sử,
……để thể phân tích, làm sự vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng
khối đoàn kết toàn dân ở giai đoạn đổi mới hiện nay, từ đó rút ra được cái nhìn chi
tiết, cụ thể về đề tài mà nhóm đã thực hiện nghiên cứu.
B. NỘI DUNG CHÍNH
2
Chương 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công-nông.
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công – nông.
1.1.1. Cơ sở lý luận.
C. Mác Ph. Ăngghen đã sớm nói đến khả năng, sự cần thiết của việc
đoàn kết giai cấp sản với những tầng lớp giai cấp khác trong bản Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản. Sau cuộc các mạng từ năm 1848 đến năm 1852 diễn
ra Tây Âu, C. Mác Ph. Ăngghen thấy vấn đề sống còn đối với những
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp sản đó liên minh giữa giai cấp
sản và các giai tầng còn lại trong xã hội, đặc biệt là giai cấp nông dân.
C. Mác đã bổ sung luận của ông về liên minh công nông, đó vai
trò quan trọng của giai cấp nông dân trong việc giành chính quyền và giữ chính
quyền. Ông chỉ rõ, liên minh công – nông không chỉ đến từ một phía là giai cấp
sản mà còn cần đóng góp của giai cấp nông dân, sự áp bức, bóc lột của giai
cấp sản hướng đến mọi giai cấp trong hội, giai cấp nông dân cùng với
tầng lớp nhân dân lao động cũng không thể giải phóng một cách thực sự
triệt để nếu như họ không tạo khối liên minh vớ giai cấp vô sản. Ông cũng từng
khẳng định rằng : “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại
thì nhiên những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu sản
của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích
cách mạng, tức giai cấp sản cách mạng” . Vì, “... người nông dân thấy
(2)
rằng giai cấp sứ mệnh lật đổ chế độ sản giai c+p sản thành thị,
người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình” .
(3)
Ph. Ăngghen cũng đã xác định những mặt tích cực và tiêu cực của người
nông dân, chủ yếu tiểu nông. Về mặt tích cực, họ đơn thuần người lao
động, mà cách mạng lúc bấy giờ đề cao xóa bỏ xã hội cũ, chế độ bóc lột người,
3
thế với cách người bị bóc lột, họ bằng lòng, tự nguyện đi theo giai cấp
công nhân để thực hiện cách mạng. Ngược lại, về mặt tiêu cực, họ người
hữu nhỏ, họ đang thỏa mãn với những thứ họ có, họ sợ khi đi lên chủ nghĩa xã
hội sẽ làm mất đi những hữu này, vậy nên họ thái độ trung lập, nửa vời,
vừa muốn đi lên chủ nghĩa xã hội vừa không muốn đi lên chủ nghĩa xã hội.
Không riêng C. Mác Ph. Ăngghen, V.I.Lênin cũng đã khẳng định liên minh
công chính lực lượng nòng cốt, chủ đạo trong công cuộc cách mạng đổi
mới, xóa bỏ xã hội cũ, áp bức, bóc lột người, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã vận dụng triệt để tưởng, chủ nghĩa Mác Lênin vào
trong cách mạng Việt Nam, sáng tạo phát triển những luận đó để hình
thành nên khối liên minh công – nông lúc bấy giờ.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Nông dân giai cấp chiếm phần lớn dân số trong hội, đặc biệt một
nước nông nghiệp như Việt Nam. Một mặt họ những người trực tiếp tạo ra
của cải, vật chất. Mặt khác họ người dân Việt Nam, những người
tưởng cách mạng, muốn xóa bỏ chế độ bóc lột người, áp bức, đô hộ, họ muốn
giành lại chính quyền, độc lập, tự do cho bản thân, cho đất nước của mình. Giai
cấp công nhân lại con đẻ của nền công nghiệp, họ những người trực tiếp
tham gia vào dây chuyền sản xuất trong công nghiệp, họ nền tảng tri thức,
biết vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào công việc sản xuất, và tất
yếu là giai cấp nông dân đồng ý tự nguyện đi theo họ làm cách mạng.
Rút kinh nghiệm của những cuộc cách mạng xã hội đi trước, Hồ Chí Minh hiểu
rõ, bất kỳ cuộc cách mạng nào liên minh với giai cấp nông dân đều sẽ một
chiến thắng nhất định. Điển hình cuộc cách mạng sản, giai cấp sản đã
liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp lao động, tạo nên một cuộc cách
4
mạng to lớn đã đánh đổ chủ nghĩa bản. Các phong trào yêu nước nước ta
cũng không ngoại lệ, chỉ cần có khối liên minh với giai cấp nông dân thì về
bản những phong trào đó sẽ ít nhiều dành được thắng lợi. Không riêng
thực tiễn Việt Nam, nước ngoài cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
cũng đã thể hiện tầm quan trọng của việc liên minh các giai cấp nông dân,
giai cấp công dân lại với nhau.
Nắm tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh hiểu được tầm quan
trọng của việc hình thành khối liên minh công nông, từ đó những quan điểm
của người về khối liên minh công – nông cũng được đề ra và áp dụng vào cách
mạng tại Việt Nam.
1.2. Những nội dung bản trong quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công -
nông.
1.2.1. Tính tất yếu của việc hình thành khối liên minh công – nông.
Tính tất yếu khách quan của việc hình thành khối liên minh công – nông không
phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà triết học kinh điển hay của Đảng Cộng
Sản dựa trên sở của những điều kiện, yếu tố khách quan trong tình hình
thực tiễn hiện tại.
Đầu tiên, xu+t phát từ yêu cầu tập hợp lực lượng trong các cuộc cách mạng
xã hội và nh+t là cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Từ thực tiễn Cách mạng Tháng Mười
Nga cho thấy, việc liên minh các giai cấp với giai cấp nông dân là một trọng tâm cn
được đẩy lên hàng đầu.
Xu+t phát từ mục tiêu, tính ch+t yêu cầu của cách mạng hội Chủ nghĩa.
Từ thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin đã khái quát hệ thống luận khoa học về cách mạng hội chủ
nghĩa, trong đó vấn đề liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân các
5
tầng lớp lao động khác như một điu kiện tiên quyết giành thắng lợi cho cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Về mục tiêu, cách mạng xã hội Chủ nghĩa muốn xóa bỏ xã hội cũ, xóa bỏ mọi áp bức
bóc lột, xây dựng xã hội mới xây - xã hội Chủ nghĩa và Chủ nghĩa Cộng sản trên toàn
thế giới. Giải phóng người lao động cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, hội để họ
hoàn toàn trở thành người tự do.
Tính ch+t của cuộc cách mạng hội, thời điểm bấy giờ giai đoạn cùng khó
khăn bởi giai cấp tư sản có trong tay cả một bộ máy bạo lực, sẵn sàng đàn áp, áp bức
những ai chống lại chúng. Chúng không bao giờ chịu từ bỏ địa vị thống trị đã mất.
Do vậy, cuộc đấu tranh này cần lực lượng lớn để giành thắng lợi
Cuộc cách mạng xã hội những yêu cầu, đó là cuộc cách mạng này không chỉ phát
huy vai trò của giai cấp công nhân, đồng thời phảisự tham gia đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, tất nhiên đều trên tinh thần tự nguyện.
Xu+t phát từ nhu cầu về lợi ích của từng giai c+p tầng lớp trong khối liên
minh. Mỗi giai cấp đều tham gia liên minh mục đích, lợi ích riêng của mình,
vậy, liên minh cần phải đảm bảo lợi ích của từng giai cấp phải bình đẳng, từ đó các
giai cp, tầng lớp mới được giải phóng tưởng, tin rằng giai cấp công nhân mới
giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân sẽ hoàn thành xứ mệnh lịch sử của mình.
Lợi ích chính là động lực thúc đẩy sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân, chỉ khi lợi ích thì họ mới sẵn sàng tiến lên để dành lợi ích cho mình.
Tronghội tư bản, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là thân phận nô lệ, không
được tự do và dân chủ, chính vì vậy lợi ích trước mắt của họ là được giải phóng hoàn
toàn khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản để giành được quyền tự do dân chủ.
Lợi ích này phản ánh ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
trong cuộc đấu tranh giải phóng cho mình. Về lợi ích lâu dài của các tầng lớp công
nhân, nông dân cùng nhau xây dựng thành công chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng
6
sản, từ đó họ được làm chủ trên mọi phương diện về kinh tế, chính trị, văn hóa,
hội, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Xu+t phát từ vị trí vai trò của khối liên minh. Liên minh tập hợp được những lực
lượng đông đảo nhất trong xã hội, lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Là cơ sở chính trị bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng , quản lý của nhà nước
hội Chủ nghĩa. Chỉ qua liên minh các giai tầng mới điều kiện khắc phục hạn
chế, phát huy thế mạnh của nhau hỗ trợ nhau phát triển.
Giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, nên giai cấp công nhân
khả năng tập hợp những người lao động lãnh đạo họ làm cuộc cách mạng
hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân giai cấp những người lao đông sản xuất vật chất trong nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Họ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng nếu được tập hợp, tổ chức và lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Xu+t phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ yêu cầu của thời kỳ kinh tế mới
trong thời kỳ quá độ. Công nghiệp cung cấp máy móc sản phẩm cho nông nghiệp
làm tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Công nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu
và thị trường cho nông nghiệp.
1.2.2. Vị trí vai trò của khối liên minh công – nông.
Trong tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân
đội ngũ trí thức sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể
thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc
thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong cách mạng hội
quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng
của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp
công nhân, nông dân đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây
7
dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thành nhân tố
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
vấn đề quyết định chiến lược quyết định thắng lợi của Cách mạng hội
Chủ nghĩa, nhân tố quan trọng nhất bảo đảm sự lãnh đạo của đảng quản của
nhà nước hội Chủ nghĩa. Xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ vững chắc Tổ
quốc hội chủ nghĩa sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ, phức tạp, đòi hỏi
phải có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản mới giành thắng lợi. Đảng lãnh đạo
bằng đường lối chiến lược, sách lược lực lượng thực hiện thắng lợi đường lối đó
chính nhân dân lao động giai cấp công nhân, giai cấp nông dân đội ngũ trí
thức.
Liên minh giữa giai cấp công nhân giai cấp nông dân đội ngũ trí thức
nền tảng, là nguyên tắc tối cao của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quan trọng nhất
giai cấp công nhân lực lượng nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết, chỗ dựa
vững chắc nhất Đảng cộng sản , nhà nước Xã hội Chủ nghĩa thu hút , tập hợp các giai
tầng khác trong hội. Liên minh công - nông tạo động lực to lớn đưa cách mạng
Xã hội Chủ nghĩa đến thắng lợi to lớn.
1.2.3. Nguyên tắc và mục tiêu của khối liên minh công – nông.
1.2.3.1. Nguyên tắc của khối liên minh công – nông.
Nguyên tắc của khối liên minh công – nông được đặt ra nhằm đảm bảo cho việc
xây dựng được một khối liên minh công nông vững chắc trong suốt quá trình thực
hiện công cuộc cách mạng hội, tạo nên sự tin tưởng của giai cấp này vào giai cấp
khác, đặc biệt lòng tin đối với sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Về bản,
nguyên tắc của khối liên minh gồm ba nguyên tắc sau đây :
Nguyên tắc thứ nh+t phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai c+p công
nhân trong khối liên minh. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò lãnh đạo, vị trí
của giai cấp công nhân trong khối liên minh công nông. Một mặt, theo Hồ
8
Chí Minh, số lượng của giai cấp công nhân Việt Nam tuy ít nhưng vai trò
lãnh đạo không phải do số lượng định đoạt, giai cấp công nhân Việt Nam luôn
những người tổ chức, kỷ luật, luôn kiên quyết với ý định của mình.
giai cấp có tri thức, có khả năng thấm nhuần lý tưởng cách mạng nhất trong tất
cả các giai cấp, còn là thành phần tham gia trực tiếp vào công cuộc sản xuất, có
khả năng ảnh hưởng, giáo dục các tầng lớp khác, họ gánh trên vai trọng trách,
nhiệm vụ lật đổ bản chủ nghĩa đế quốc từ đó xóa bỏ hội cũ, xây dựng
hội mới. Mặt khác, người còn cho rằng, giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác –
Lênin, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin đấu tranh, họ đã xây dựng
nên Đảng, từ đó Đảng đề ra chủ trương,ch lược, đường lối, kêu gọi các giai
cấp khác cùng tham gia vào cách mạng, bồi dưỡng những giai cấp này trở nên
tiên tiến. Do đó, liên minh cần đứng trên lập trường của giai cấp công nhân
thông qua lãnh đạo của Đảng, nếu không nguyên tắc này thì khối liên minh
sẽ không thể tồn tại lâu dài và về sau sẽ đi chệch hướng so với con đường cách
mạng.
Nguyên tắc thứ hai, cần phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Xuất phát từ
việc xây dựng lòng tin, bất cứ mọi tổ chức, liên minh đều phải được hình thành
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không ép buộc. Chỉ khi các tầng lớp tham gia
liên minh với tâm thế tình nguyện thì liên minh đó mới có thể tồn tại lâu dài và
hiệu quả. Do đó khối liên minh công nông khối liên minh tính chất
lâu dài, có tính chiến lược, không phải ngẫu nhiên thành lập nhất thời.
Nguyên tắc thứ ba đó là kết hợp đúng đắn lợi ích của cả hai giai c+p công
nông. Xét cho cùng, mọi sự liên minh đều tồn tại dựa trên quan hệ lợi ích
giữa hai chủ thể khác biệt, họ liên minh với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của
bản thân, thoát khỏi cảnh nghèo đói, đô hộ, thế nên mọi lợi ích của các giai
9
cấp tham gia đều phải kết hợp đúng đắn, hợp hài hòa, đặc biệt lợi ích
về vấn đề kinh tế, mang tính quyết định và nhạy cảm nhất.
1.2.3.2. Mục tiêu của khối liên minh công – nông.
Tăng cường củng cố xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức vững chắc làm hạt nhân cho khối đại
đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đó
trách nhiệm của Đảng Nhà nước, của giai cấp, tầng lớp hội. Trong đó,
giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn có vai trò và vị trí rất quan trọng. Giai
cấp công nhân nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ giai cấp nông dân thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Phát huy vai trò làm chủ của giai cấp công nhân trên mọi lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, hội, quốc phòng, an ninh, làm chủ trong các loại hình
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đồng thời, phát huy vai
trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với nông dân trí thức, cũng như khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát
huy sức mạnh cả nước thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng pháp luật Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Chương 2. Vận dụng của Đảng về khối liên minh công – nông trong việc xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Quan điểm của Đảng về khối đoàn kết toàn dân trong thời kỳ đổi mới.
Sức mạnh một cộng đồng được tạo nên bởi các thành viên trong cộng đồng đó
dựa trên những hành động bảo vệ, tương trợ, giúp đỡ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều
kiện cho nhau để cùng nhau phát triển, các thành viên tình nguyện hy sinh lợi ích
10
riêng vì lợi ích chung của tập thể hoặc chấp nhận, tôn trọng những lợi ích riêng của
các thành viên khác, không làm gì để ảnh hưởng đến lợi ích chung của tập thể.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định rằng phát huy sức mạnh
khối đoàn kết toàn dân trọng tâm, nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng, bảo vệ phát triển đất nước. Vấn đề khối đoàn kết toàn
dân luôn nắm giữ vị trí quan trọng trong cương lĩnh, chính sách, sách lược của
Đảng ta, điều này chúng ta thể thấy trong các kỳ đại hội Đảng diễn ra năm
năm một lần.
Năm 1986, diễn ra Đại hội lần thứ VI của Đảng : ‘‘Trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” Đề cập trực tiếp vấn đề đoàn kết.
toàn dân, xác định lấy dân làm gốc, đoàn kết các đối tượng nhất định, sở
quan trọng là lợi ích giữa các giai cấp, đổi mới chính sách xã hội.
Đại hội VII của Đảng diễn ra năm 1991 đã khẳng định những điểm đổi mới.
Thực hiện, phát triển những vấn đề mở rộng đoàn kết các đồng bào tín ngưỡng
tôn giáo trên cơ sở chính sách, sách lược của Đảng và nhà nước. Đưa ra hai bài học
về vấn đề đoàn kết. Bài học đầu tiên, sự nghiệp cách mạng của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, bài học thứ hai đó là không ngừng củng cố, phát triển vấn
đề đoàn kết.
Đại hội Đảng lần thứ VIII diễn ra năm 1996 đã khẳng định rằng : “Chính những
ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm
phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách công cuộc đổi mới đạt được
những thành tựu hôm nay”. Xác định vấn đề đoàn kết toàn dân qua những quan
điểm : công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ được thực hiện bằng sức mạnh đoàn kết
11
của toàn dân, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với những
chủ trương, chính sách, sách lược của Đảng và nhà nước.
Năm 2001 Đại hội lần thứ IX của Đảng diễn ra, trong Đại hội đã bổ sung, phát
triển một số vấn đề, quan điểm mới về khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội đã xác
định khối đoàn kết toàn dân : đường lối chiến lược, phương hướng, nguồn sức
mạnh động lực của xây dựng đất nước. Một lần nữa, nhấn mạnh : “Động lực
chủ yếu để phát triển đất nước đại đoàn kết toàn dân trên sở liên minh giữa
công nhân với nông dân trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích
nhân, tập thể hội, phát huy mọi tiềm năng nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội”
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX: “Về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội X năm 2006, đã nhấn mạnh nhiệm vụ phải phát huy sức mạnh toàn dân,
đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân trở thành một trong bốn thành tố của chủ
đề Đại hội, coi đó như “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu nhân tố quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc”
trong giai đoạn, thời kì mới.
Việt Nam vẫn tiếp tục đường lối, chính sách đã được xác định trong các đại hội
trước, Đại hội XI diễn ra năm 2011 khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải
dựa trên sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong hội.
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn vướng mắc của nhân dân,
tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác, làm tốt công tác vận động tất cả lực
lượng của mỗi người dân, không để sót một người, góp thành lực lượng toàn dân
12
để thực hiện những việc nên làm, những việc được bàn giao, có cơ chế pháp luật để
nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình”.
Đại hội Đảng lần XII năm 2016, đã nhấn mạnh yêu cầu trong thời cách
mạng hiện nay phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, tiếp
tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, sách lược, đường lối chủ trương của
Đảng về khối đại đoàn kết toàn dân. Khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên
những cơ sở hài hòa về lợi ích, quyền lợi giữa các giai cấp, tầng lớp.
Đại hội lần thứ XIII diễn ra năm nay 2021, vẫn tiếp tục khẳng định quan
điểm như những lần Đại hội trước : phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
kết hợp với sức mạnh của thời đại. Sức mạnh khối đoàn kết toàn dân và khát vọng
phát triển đất nước trở nên phồn vinh, hạnh phúc.
Quan điểm phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta qua
các kỳ đại hội thể hiện qua các nội dung :
Một phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân. Khối đoàn kết toàn dân dựa
trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, động lực,
nguồn sức mạnh to lớn và cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến việc bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Hai, đoàn kếtsự nghiệp của mọi dân tộc Việt Nam, của cả hệ thống chính
trị lãnh đạo các tổ chức của Đảng, s được thực hiện bằng nhiều biện pháp
hình thức, mà trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ba là vấn đề đại đoàn kết toàn dân bắt đầu từ việc đặt đúng các vị trí của yếu tố
lợi ích, theo quan điểm đã được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI là:
13
“Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân”
Bốn thực hiện dân chủ, phát huy chủ nghĩa yêu nướcmột trong những yếu
tố quan trọng để nước ta củng cố phát triển khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ
nghĩa yêu nước luôn động lực lớn nhất của dân tộc ta xuyên suốt từ trước đến
nay. Dân chủ vừa là mục tiêu của cách mạng, vừa là động lực của cách mạng.
2.2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên khối liên minh công – nông
trong giai đoạn hiện nay
2.2.1. Mục tiêu xây dựng khối đoàn kết toàn dân
Để thực hiện cách mạng thành công thắng lợi con đường đi lên chủ
nghĩa hội, đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
văn minh”, nước ta cần tiếp tục phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, ý
chí, nghị lực, sức sáng tạo của con người Việt Nam trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Muốn vậy, cần tập trung vào các nhiệm vụ như :
Một là, tất cả các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cần phải chăm lo, phát huy
và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm rằng tất cả quyền lực của nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, nghiêm minh, hiệu quả dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đặc biệt dân chủ sở. Thực hiện tốt
hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò của chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân
trong công cuộc phát triển đất nước, trong tất cả quá trình xây dựng bảo vệ
Tổ quốc. Trước yêu cầu cần đổi mới chỉ mở rộng dân chủ hội chủ nghĩa,
mới có đoàn kết thật sự và bền vững.
14
Hai, Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên sở xử hài hòa những quan
hệ lợi ích giữa các thành viên trong hội, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân. Mọi chủ trương, đường lối, sách lược của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước điều ưu tiên lợi ích của nhân dân. Đẩy
mạnh phát triển kinh tế, văn hoá - hội, thực hiện tiến bộ, công bằng văn
minh hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của
nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là trọng tâm, là cơ sở vững chắc trong công cuộc
xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
Ba , trong thời kỳ phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, thực
hiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần chú ý đầu tư, quan tâm giáo dục
đào tạo, bồi dưỡng phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng chất
lượng, nâng cao bản lĩnh trong chính trị, phát triển trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động trong công nghiệp của công
nhân. Xây dựng, phát huy vai trò lãnh đạo của giai cấp nông dân, một trong
những chủ thể của quá trình phát triển nền nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông
thôn, hội mới. Nâng cao hiệu suất lao động trong ngành nông nghiệp, cải
thiện chất lượng cuộc sống tinh thần, vật chất của dân nông thôn. Thực hiện
hiệu quả, bền vững, đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo; tuyên truyền,
khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây dựng một đội ngũ trí thức ngày càng lớn
mạnh, đảm bảo chất lượng cao về tri thức, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện tại. Luôn tôn trọng, phát huy tự do, tự làm tưởng
trong các hoạt động nghiên cứu sáng tạo của nhân dân. Biết trọng dụng tri
thức dựa trên sở đánh giá đúng trình độ, phẩm chất, năng lực kết quả
cá nhân, tập thể cống hiến. Có những cơ chế và chính sách đặc biệt nhằm thu hút
nhân tài trở về giúp ích cho đất nước. Coi trọng vai trò phản biện, vấn, giám
định hội của các quan, tổ chức nghiên cứu khoa học trong việc xác định
15
đường lối, sách lược của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đặc biệt
các dự án phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của đất nước trong giai đoạn mà
kinh tế thị trường đang dần định hướng sang xã hội chủ nghĩa.
Bốn, đoàn kết tất cả các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục
hoàn thiện, phát triển các chính sách, chế, bảo đảm sự tôn trọng, bình đẳng,
đoàn kết tương thân tương ái giữa các dân tộc, giải quyết hợp lý quan hệ lợi ích
giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, sử dụng, phân bổ
quản hiệu quả các nguồn lực nhằm mục đích đầu phát triển, tạo chuyển
biến cơ bản về vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở những vùng miền
đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhất vùng phía Tây Bắc, các tỉnh
vùng Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Bảo đảm chế
thúc đẩy tính tích cực hòa đồng, ý chí tự lực, tự cường của các đồng bào các dân
tộc ít người phát triển kinh tế, hội, đặc biệt thực hiện giảm nghèo đa chiều,
lâu dài và bền vững. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả khi thực
hiện các chủ trương, chính sách về dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước ở các
cấp một cách công khai, minh bạch, không sai lệch nhầm lẫn.
Năm , vẫn tiếp tục hoàn thiện, thực thi những quy định về lối sống, đạo đức
công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ lãnh
đạo, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, cán bộ công viên
chức lực lượng trang. Đẩy mạnh cải cách kinh tế, hành chính, lấy kết quả
công việc thực hiện, sự hài lòng, tín nhiệm của nhân dân đối vớ lãnh đạo làm
tiêu chí quan trọng dùng để đánh giá chất lượng của tổ chức bộ máy chất
lượng lãnh đạo.
Sáu , đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đoàn kết toàn
dân bằng cương lĩnh, sách lược, các chủ trương, đường lối lớn, công tác t chức,
cán bộ, bằng các công tác như kiểm tra, giám sát. Quy định cụ thể Đảng ta
16
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân đồng thời chịu sự giám sát
của nhân dân, có nghĩa vụ chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
chưa đúng của mình. Phát huy quyền làm chủ của dân, thúc đẩy nâng cao tinh
thần đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, đồng bộ
toàn diện đất nước. Cần phải đổi mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao chất
lượng hoạt động của các quan, tổ chức trong đồ hệ thống chính trị, để từ
đó thực hiện hiệu quả những nội dung nhiệm vụ về việc phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân trên con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2.2. Kết quả của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân cho đến nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc củng cố phát triển sức mạnh
khối đoàn kết toàn dân vẫn tiếp tục được khẳng định đường lối nhất quán
trong suốt 30 năm đổi mới đã đạt được những kết quả, thành tựu to lớn, có ý
(n)
nghĩa lịch sử về nhiều mặt : Kinh tế đã dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng,
lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển thu nhập trung bình,
bước vào thời kỳ đẩy mạnh, phát triển công nghiệp hóa, hện đại hóa hội
nhập quốc tế; chính trị - an ninh - hội ổn định, tăng cường quốc phòng, dân
chủ hội chủ nghĩa được phát huy ngày một mở rộng, văn hóa - hội
những bước phát triển rệt, tổng quan đất nước đời sống cả vật chất lẫn
tinh thần nhân dân nhiều thay đổi tích cực; ngày càng mở rộng quan hệ đối
ngoại với nhiều nước phát triển; cũng vì thế mà vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, quyền lợi, lợi ích của dân được quan
tâm nhiều hơn, Đảngbộ máy nhà nước được chỉnh đốn trong sạch, chú tâm
vào việc phòng, chống quan liêu, tham nhũng, chủ nghĩa nhân để củng cố
niềm tin của nhân dân với tầng lớp lãnh đạo, nhất là Đảng.
Những thành tựu đó tạo sở, nền tảng quan trọng giúp nước ta tiếp tục đổi
mới phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, không những thế còn giúp
17
khẳng định đường lối chỉ đạo đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo và phù
hợp với lợi ích, nguyện vọng mà nhân dân mong muốn.
Đảng đã quy tụ sức mạnh niềm tin của tất cả các dân tộc trên mọi
miên đất nước, xây dựng nên khối đoàn kết toàn dân chung sức, đồng tâm, hiệp
lực, một lòng hướng đến mục tiêu chung xóa bỏ phong kiến, xóa bỏ hội
đói nghèo, kinh tế, giáo dục lạc hậu, phấn đấu tạo dựng một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
2.2.3. Khó khăn, hạn chế trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Sức mạnh đoàn kết toàn dân trong thời gian qua những lúc, những
nơi chưa thực sự phát huy đầy đủ, còn chưa có sự đánh giá và dự báo chính xác
những thay đổi cấu trong hội cũng như những tâm tư, nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân để Đảng, nhà nước có thể đưa ra chủ trương và giải pháp
phù hợp; thực hiện thiếu nghiêm túc về vấn đề quyền và lợi ích của người dân,
không kịp thời thể chế hóa để đảm bảo tính hợp thời; ở nhiều nơi, nhiều ngành
nghề lĩnh vực, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm; lợi dụng dân chủ gây
chia rẽ, gây rối diễn ra nhiều nơi dẫn đến bất hòa, mất đoàn kết nội bộ, ảnh
hưởng lớn đến quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự - an toànhội cũng chưa
được xử lý nghiêm minh, triệt để.
Hiện nay, bối cảnh trong nước, trong khu vực quốc tế những thay đổi
nhanh chóng, phức tạp, vấn đề này sẽ đan xen vào đó cả thời thách
thức, thuận lợi khó khăn, đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung
đối với đường lối xây dựng, phát triển khối đoàn kết toàn dân nói riêng. Trong
tình hình đất nước đang mở cửa hội nhập, các thế lực phản động và thù địch đã
lợi dụng để đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, tạo bất bình, gây thù hằn mọi
nơi, mọi vấn đề, đặc biệt vấn đề tôn giáo, không chỉ thế còn tạo làn sóng
18
kích động nhân dân nhằm ly khai, chia sẽ khối đoàn kết toàn dân, khoét sâu các
mâu thuẫn, gây xung đột hội, kích động biểu tình bạo loạn, làm mất cân
bằng, ổn định chính trị - hội. Đặc biệt hơn, chúng muốn tìm cách để Đảng,
nhà nước không còn liên kết nhận được sự tin tưởng từ nhân dân; đối lập
tầng lớp nhân dân với lực lượng trang; dùng lời lẽ, giáo, tín dị đoan
chia rẽ tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, phá hoại liên minh công -
nông; kích động, luôn chống đối cách mạng, làm suy yếu lực lượng, sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quốc phòng - an ninh quốc gia,
trật tự và an toàn xã hội. Những vấn đề đó đã đặt ra nhiều khó khăn. thách thức
lớn đối với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc tình hình mới cũng như sự trong
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn cho hội nước ta
hiện nay.
Trên thực tiễn quốc tế, các mâu thuẫn bản của mọi thời đại vẫn còn tồn tại.
Tranh giành lợi ích tạo ảnh hưởng giữa các nước lớn, chiến tranh nội bộ, xung
đột về dân tộc, màu da, tôn giáo; hoạt động ly khai, di dân, can thiệp lật đổ,
khủng bố diễn ra rất quyết liệt nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới. trong
khu vực, Châu Á Thái Bình Dương trở thành trọng tâm trong sách lược của
các nước lớn, các nước trong khu vực chú trọng vào việc tăng cường sức mạnh
quân sự cùng với đó tại Trung Quốc diễn ra “trỗi dậy hòa bình”. Những
động thái đó đã làm cho tình hình diễn ra trên Biển Đông ngày càng phức tạp,
khó lường, tình cảm, tưởng của tầng lớp nhân dân bị tác động dẫn đến ảnh
hưởng lớn đối với khối đoàn kết toàn dân.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trên quá trình hội nhập sâu, rộng vào khu vực,
quốc tế. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì hội nhập, toàn
cầu hóa không chỉ quá trình hợp tác còn quá trình đấu tranh, đem
đến những thời cho sự phát triển, nhưng đi cùng với thời cơ những nguy
19
cơ, thách thức lớn. Để có thể xây dựng, bảo vệphát triển đất nước, tiêu chí,
nguyên tắc trọng yếu chúng ta cần thực hiện đó phải nhận thức được
quan điểm của Đảng đưa ra : “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thiết lập mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng lợi
với Việt Nam đều là đối tác; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống
phá đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc đều đối tượng
đấu tranh.” Những khó khăn, thách thức từ bên trong lẫn bên ngoài đều đòi hỏi
toàn dân, toàn quân, toàn Đảng luôn phải đồng lòng, góp sức phát huy truyển
thống sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, phá hỏng âm mưu “diễn biến hòa bình”,
đánh đuổi những nguy cơ đe dọa đến độc lập, chủ quyền, đặc biệt là chủ quyền
biển đảo. Không chỉ đứng lên tự mình đấu tranh cho mình, chúng ta còn cần
phải biết “tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc...” . Chỉ khi chúng ta biết kết hợp hài hòa giữa nội
(n)
lực với ngoại lực, biến sức mạnh ngoại sinh thành nội sinh, thành sức mạnh của
toàn dân ta thì lúc đó Tổ quốc mới thể toàn vẹn lãnh thổ, độc lập tự chủ
phát triển theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa, đây chính những kinh nghiệm
được đúc kết ra từ cha ông cũng như là quy luật của lịch sử.
Đảng ta luôn nhấn mạnh “Đại đoàn kết toàn dân đường lối chiến lược,
động lực nguồn lực to lớn để xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng bảo vệ Tổ
quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm
điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung
20
| 1/25

Preview text:

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là một điển hình về sự chuẩn bị
lực lượng, cách mạng đã tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây dựng lực
lượng vũ trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa vũ trang trên những nguyên tắc cơ
bản như muốn chiến thắng thì phải dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân mà
nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác.VI.Lênin đã từng khẳng định: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại
đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô
sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”(1).
Từ thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga cho thấy sự cần thiết phải xây
dựng được khối liên minh công nhân – nông dân vững mạnh. Đây chính là lực
lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vai trò quan trọng góp phần
tạo nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cũng chính là chỗ dựa vững
chắc của Đảng, Nhà nước trong xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Để có thể vận dụng tốt quan điểm của Hồ Chí Minh cho việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay, sẽ có rất nhiều vấn đề cần phải
được giải quyết triệt để, đó cũng là lí do nhóm thực hiện đã chọn đề tài “Quan
điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công - nông và sự vận dụng của đảng
trong việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay” cho bài tiểu
luận kết thúc môn của nhóm.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đầu tiên, với tầm quan trọng của việc hình thành khối liên minh công –
nông, nhóm thực hiện đề tài muốn đưa ra cái nhìn tổng quát và đúng đắn cho người 1
đọc về quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công – nông, về những nội
dung, mục đích, ý nghĩa hình thành của liên minh công – nông đem lại cho cách
mạng Việt Nam trong quan điểm của Hồ Chí Minh.
Đại đoàn kết toàn dân tộc chính là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, đoàn kết là
lực lượng vô địch để khắc phục mọi khó khăn, giành lấy thắng lợi. Thấm nhuần lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định vấn đề đại đoàn kết dân tộc là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong các lĩnh vực, từ
đường lối, chủ trương, chính sách đến thực tiễn.
Vì vậy, mục đích nghiên cứu tiếp theo là để đưa ra cái nhìn tổng quát về quan điểm
của Đảng về khối đoàn kết toàn dân trong thời kỳ đổi mới cũng như đưa ra mục
tiêu, hướng giải quyết của Đảng trong việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Để có thể nghiên cứu đề tài một cách đúng đắn và chặt chẽ về những tư
tưởng, lý luận mà Hồ Chí Minh mang lại, nhóm thực hiện đề tài đã sử dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, của chủ nghĩa Mác – Lênin và những phương pháp luận mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh.
Cùng với đó, nhóm thực hiện đã sử dụng thêm những phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như là phân tích tổng hợp, xã hội học, so sánh, nhân chứng lịch sử,
……để có thể phân tích, làm rõ sự vận dụng của Đảng trong công cuộc xây dựng
khối đoàn kết toàn dân ở giai đoạn đổi mới hiện nay, từ đó rút ra được cái nhìn chi
tiết, cụ thể về đề tài mà nhóm đã thực hiện nghiên cứu. B. NỘI DUNG CHÍNH 2
Chương 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công-nông.
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công – nông. 1.1.1. Cơ sở lý luận.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã sớm nói đến khả năng, sự cần thiết của việc
đoàn kết giai cấp vô sản với những tầng lớp giai cấp khác trong bản Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản. Sau cuộc các mạng từ năm 1848 đến năm 1852 diễn
ra ở Tây Âu, C. Mác và Ph. Ăngghen thấy rõ vấn đề sống còn đối với những
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản đó là liên minh giữa giai cấp vô
sản và các giai tầng còn lại trong xã hội, đặc biệt là giai cấp nông dân.
C. Mác đã bổ sung lý luận của ông về liên minh công – nông, đó là vai
trò quan trọng của giai cấp nông dân trong việc giành chính quyền và giữ chính
quyền. Ông chỉ rõ, liên minh công – nông không chỉ đến từ một phía là giai cấp
vô sản mà còn cần đóng góp của giai cấp nông dân, sự áp bức, bóc lột của giai
cấp tư sản hướng đến mọi giai cấp trong xã hội, giai cấp nông dân cùng với
tầng lớp nhân dân lao động cũng không thể giải phóng một cách thực sự và
triệt để nếu như họ không tạo khối liên minh vớ giai cấp vô sản. Ông cũng từng
khẳng định rằng : “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại
thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản
và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích
cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”(2). Vì, “... người nông dân thấy
rằng giai c+p vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là
người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”(3).
Ph. Ăngghen cũng đã xác định những mặt tích cực và tiêu cực của người
nông dân, chủ yếu là tiểu nông. Về mặt tích cực, họ đơn thuần là người lao
động, mà cách mạng lúc bấy giờ đề cao xóa bỏ xã hội cũ, chế độ bóc lột người, 3
vì thế với tư cách là người bị bóc lột, họ bằng lòng, tự nguyện đi theo giai cấp
công nhân để thực hiện cách mạng. Ngược lại, về mặt tiêu cực, họ là người tư
hữu nhỏ, họ đang thỏa mãn với những thứ họ có, họ sợ khi đi lên chủ nghĩa xã
hội sẽ làm mất đi những tư hữu này, vậy nên họ có thái độ trung lập, nửa vời,
vừa muốn đi lên chủ nghĩa xã hội vừa không muốn đi lên chủ nghĩa xã hội.
Không riêng C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I.Lênin cũng đã khẳng định liên minh
– công chính là lực lượng nòng cốt, chủ đạo trong công cuộc cách mạng đổi
mới, xóa bỏ xã hội cũ, áp bức, bóc lột người, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã vận dụng triệt để tư tưởng, chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong cách mạng Việt Nam, sáng tạo và phát triển những lý luận đó để hình
thành nên khối liên minh công – nông lúc bấy giờ.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Nông dân là giai cấp chiếm phần lớn dân số trong xã hội, đặc biệt là một
nước nông nghiệp như Việt Nam. Một mặt họ là những người trực tiếp tạo ra
của cải, vật chất. Mặt khác họ là người dân Việt Nam, là những người có lý
tưởng cách mạng, muốn xóa bỏ chế độ bóc lột người, áp bức, đô hộ, họ muốn
giành lại chính quyền, độc lập, tự do cho bản thân, cho đất nước của mình. Giai
cấp công nhân lại là con đẻ của nền công nghiệp, họ là những người trực tiếp
tham gia vào dây chuyền sản xuất trong công nghiệp, họ có nền tảng tri thức,
biết vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào công việc sản xuất, và tất
yếu là giai cấp nông dân đồng ý tự nguyện đi theo họ làm cách mạng.
Rút kinh nghiệm của những cuộc cách mạng xã hội đi trước, Hồ Chí Minh hiểu
rõ, bất kỳ cuộc cách mạng nào liên minh với giai cấp nông dân đều sẽ có một
chiến thắng nhất định. Điển hình là cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản đã
liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp lao động, tạo nên một cuộc cách 4
mạng to lớn đã đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Các phong trào yêu nước ở nước ta
cũng không ngoại lệ, chỉ cần có khối liên minh với giai cấp nông dân thì về cơ
bản những phong trào đó sẽ ít nhiều mà dành được thắng lợi. Không riêng gì
thực tiễn ở Việt Nam, mà ở nước ngoài cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
cũng đã thể hiện rõ tầm quan trọng của việc liên minh các giai cấp nông dân,
giai cấp công dân lại với nhau.
Nắm rõ tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh hiểu được tầm quan
trọng của việc hình thành khối liên minh công – nông, từ đó những quan điểm
của người về khối liên minh công – nông cũng được đề ra và áp dụng vào cách mạng tại Việt Nam.
1.2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm của Hồ Chí Minh về khối liên minh công - nông.
1.2.1. Tính tất yếu của việc hình thành khối liên minh công – nông.
Tính tất yếu khách quan của việc hình thành khối liên minh công – nông không
phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà triết học kinh điển hay của Đảng Cộng
Sản mà nó dựa trên cơ sở của những điều kiện, yếu tố khách quan trong tình hình thực tiễn hiện tại.
Đầu tiên, nó xu+t phát từ yêu cầu tập hợp lực lượng trong các cuộc cách mạng
xã hội và nh+t là cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Từ thực tiễn Cách mạng Tháng Mười
Nga cho thấy, việc liên minh các giai cấp với giai cấp nông dân là một trọng tâm cần
được đẩy lên hàng đầu.
Xu+t phát từ mục tiêu, tính ch+t và yêu cầu của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa.
Từ thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin đã khái quát hệ thống lý luận khoa học về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, trong đó vấn đề liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các 5
tầng lớp lao động khác như một điều kiện tiên quyết giành thắng lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về mục tiêu, cách mạng xã hội Chủ nghĩa muốn xóa bỏ xã hội cũ, xóa bỏ mọi áp bức
bóc lột, xây dựng xã hội mới xây - xã hội Chủ nghĩa và Chủ nghĩa Cộng sản trên toàn
thế giới. Giải phóng người lao động cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để họ
hoàn toàn trở thành người tự do.
Tính ch+t của cuộc cách mạng xã hội, thời điểm bấy giờ là giai đoạn vô cùng khó
khăn bởi giai cấp tư sản có trong tay cả một bộ máy bạo lực, sẵn sàng đàn áp, áp bức
những ai chống lại chúng. Chúng không bao giờ chịu từ bỏ địa vị thống trị đã mất.
Do vậy, cuộc đấu tranh này cần lực lượng lớn để giành thắng lợi
Cuộc cách mạng xã hội có những yêu cầu, đó là cuộc cách mạng này không chỉ phát
huy vai trò của giai cấp công nhân, mà đồng thời phải có sự tham gia đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, tất nhiên đều trên tinh thần tự nguyện.
Xu+t phát từ nhu cầu về lợi ích của từng giai c+p và tầng lớp trong khối liên
minh. Mỗi giai cấp đều tham gia liên minh vì mục đích, lợi ích riêng của mình, vì
vậy, liên minh cần phải đảm bảo lợi ích của từng giai cấp phải bình đẳng, từ đó các
giai cấp, tầng lớp mới được giải phóng tư tưởng, tin rằng giai cấp công nhân mới là
giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân sẽ hoàn thành xứ mệnh lịch sử của mình.
Lợi ích chính là động lực thúc đẩy sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân, chỉ khi vì lợi ích thì họ mới sẵn sàng tiến lên để dành lợi ích cho mình.
Trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là thân phận nô lệ, không
được tự do và dân chủ, chính vì vậy lợi ích trước mắt của họ là được giải phóng hoàn
toàn khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản để giành được quyền tự do dân chủ.
Lợi ích này phản ánh ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
trong cuộc đấu tranh giải phóng cho mình. Về lợi ích lâu dài của các tầng lớp công
nhân, nông dân là cùng nhau xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng 6
sản, từ đó họ được làm chủ trên mọi phương diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, được hưởng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Xu+t phát từ vị trí vai trò của khối liên minh. Liên minh tập hợp được những lực
lượng đông đảo nhất trong xã hội, lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Là cơ sở chính trị bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng , quản lý của nhà nước Xã
hội Chủ nghĩa. Chỉ có qua liên minh các giai tầng mới có điều kiện khắc phục hạn
chế, phát huy thế mạnh của nhau hỗ trợ nhau phát triển.
Giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, nên giai cấp công nhân
có khả năng tập hợp những người lao động và lãnh đạo họ làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân là giai cấp những người lao đông sản xuất vật chất trong nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Họ có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng nếu được tập hợp, tổ chức và lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Xu+t phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ và yêu cầu của thời kỳ kinh tế mới
trong thời kỳ quá độ. Công nghiệp cung cấp máy móc và sản phẩm cho nông nghiệp
làm tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Công nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu
và thị trường cho nông nghiệp.
1.2.2. Vị trí vai trò của khối liên minh công – nông.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và
đội ngũ trí thức là sự cố kết của các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể
thống nhất, nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc
thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong cách mạng và xã hội
quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào chất lượng
của từng thành tố trong đó. Vì thế, củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức gắn liền chặt chẽ với quá trình xây 7
dựng, phát triển của mỗi giai cấp, tầng lớp do Đảng lãnh đạo, tạo thành nhân tố
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Là vấn đề quyết định chiến lược quyết định thắng lợi của Cách mạng Xã hội
Chủ nghĩa, là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm sự lãnh đạo của đảng và quản lý của
nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ, phức tạp, đòi hỏi
phải có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản mới giành thắng lợi. Đảng lãnh đạo
bằng đường lối chiến lược, sách lược và lực lượng thực hiện thắng lợi đường lối đó
chính là nhân dân lao động và giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đội ngũ trí thức là
nền tảng, là nguyên tắc tối cao của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quan trọng nhất
giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt xây dựng khối đại đoàn kết, là chỗ dựa
vững chắc nhất Đảng cộng sản , nhà nước Xã hội Chủ nghĩa thu hút , tập hợp các giai
tầng khác trong xã hội. Liên minh công - nông tạo động lực to lớn đưa cách mạng
Xã hội Chủ nghĩa đến thắng lợi to lớn.
1.2.3. Nguyên tắc và mục tiêu của khối liên minh công – nông.
1.2.3.1. Nguyên tắc của khối liên minh công – nông.
Nguyên tắc của khối liên minh công – nông được đặt ra nhằm đảm bảo cho việc
xây dựng được một khối liên minh công – nông vững chắc trong suốt quá trình thực
hiện công cuộc cách mạng xã hội, tạo nên sự tin tưởng của giai cấp này vào giai cấp
khác, đặc biệt là lòng tin đối với sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Về cơ bản,
nguyên tắc của khối liên minh gồm ba nguyên tắc sau đây :
Nguyên tắc thứ nh+t là phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai c+p công
nhân trong khối liên minh. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò lãnh đạo, vị trí
của giai cấp công nhân trong khối liên minh công – nông. Một mặt, theo Hồ 8
Chí Minh, số lượng của giai cấp công nhân ở Việt Nam tuy ít nhưng vai trò
lãnh đạo không phải do số lượng định đoạt, giai cấp công nhân Việt Nam luôn
là những người có tổ chức, kỷ luật, luôn kiên quyết với ý định của mình. Là
giai cấp có tri thức, có khả năng thấm nhuần lý tưởng cách mạng nhất trong tất
cả các giai cấp, còn là thành phần tham gia trực tiếp vào công cuộc sản xuất, có
khả năng ảnh hưởng, giáo dục các tầng lớp khác, họ gánh trên vai trọng trách,
nhiệm vụ lật đổ tư bản chủ nghĩa đế quốc từ đó xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới. Mặt khác, người còn cho rằng, giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác –
Lênin, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và đấu tranh, họ đã xây dựng
nên Đảng, từ đó Đảng đề ra chủ trương, sách lược, đường lối, kêu gọi các giai
cấp khác cùng tham gia vào cách mạng, bồi dưỡng những giai cấp này trở nên
tiên tiến. Do đó, liên minh cần đứng trên lập trường của giai cấp công nhân
thông qua lãnh đạo của Đảng, nếu không có nguyên tắc này thì khối liên minh
sẽ không thể tồn tại lâu dài và về sau sẽ đi chệch hướng so với con đường cách mạng.
Nguyên tắc thứ hai, cần phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Xuất phát từ
việc xây dựng lòng tin, bất cứ mọi tổ chức, liên minh đều phải được hình thành
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không ép buộc. Chỉ khi các tầng lớp tham gia
liên minh với tâm thế tình nguyện thì liên minh đó mới có thể tồn tại lâu dài và
hiệu quả. Do đó mà khối liên minh công – nông là khối liên minh có tính chất
lâu dài, có tính chiến lược, không phải ngẫu nhiên thành lập nhất thời.
Nguyên tắc thứ ba đó là kết hợp đúng đắn lợi ích của cả hai giai c+p công
và nông. Xét cho cùng, mọi sự liên minh đều tồn tại dựa trên quan hệ lợi ích
giữa hai chủ thể khác biệt, họ liên minh với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của
bản thân, thoát khỏi cảnh nghèo đói, đô hộ, vì thế nên mọi lợi ích của các giai 9
cấp tham gia đều phải kết hợp đúng đắn, hợp lý và hài hòa, đặc biệt là lợi ích
về vấn đề kinh tế, mang tính quyết định và nhạy cảm nhất.
1.2.3.2. Mục tiêu của khối liên minh công – nông.
Tăng cường củng cố và xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vững chắc làm hạt nhân cho khối đại
đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đó là
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đó,
giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn có vai trò và vị trí rất quan trọng. Giai
cấp công nhân có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ giai cấp nông dân thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Phát huy vai trò làm chủ của giai cấp công nhân trên mọi lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, làm chủ trong các loại hình
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đồng thời, phát huy vai
trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với nông dân và trí thức, cũng như khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát
huy sức mạnh cả nước thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chương 2. Vận dụng của Đảng về khối liên minh công – nông trong việc xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Quan điểm của Đảng về khối đoàn kết toàn dân trong thời kỳ đổi mới.
Sức mạnh một cộng đồng được tạo nên bởi các thành viên trong cộng đồng đó
dựa trên những hành động bảo vệ, tương trợ, giúp đỡ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều
kiện cho nhau để cùng nhau phát triển, các thành viên tình nguyện hy sinh lợi ích 10
riêng vì lợi ích chung của tập thể hoặc chấp nhận, tôn trọng những lợi ích riêng của
các thành viên khác, không làm gì để ảnh hưởng đến lợi ích chung của tập thể.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định rằng phát huy sức mạnh
khối đoàn kết toàn dân là trọng tâm, là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Vấn đề khối đoàn kết toàn
dân luôn nắm giữ vị trí quan trọng trong cương lĩnh, chính sách, sách lược của
Đảng ta, điều này chúng ta có thể thấy rõ trong các kỳ đại hội Đảng diễn ra năm năm một lần.
Năm 1986, diễn ra Đại hội lần thứ VI của Đảng : ‘‘Trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Đề cập trực tiếp vấn đề đoàn kết
toàn dân, xác định lấy dân làm gốc, đoàn kết các đối tượng nhất định, mà cơ sở
quan trọng là lợi ích giữa các giai cấp, đổi mới chính sách xã hội.
Đại hội VII của Đảng diễn ra năm 1991 đã khẳng định những điểm đổi mới.
Thực hiện, phát triển những vấn đề mở rộng đoàn kết các đồng bào có tín ngưỡng
tôn giáo trên cơ sở chính sách, sách lược của Đảng và nhà nước. Đưa ra hai bài học
về vấn đề đoàn kết. Bài học đầu tiên, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, bài học thứ hai đó là không ngừng củng cố, phát triển vấn đề đoàn kết.
Đại hội Đảng lần thứ VIII diễn ra năm 1996 đã khẳng định rằng : “Chính những
ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối
đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm
phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được
những thành tựu hôm nay”. Xác định vấn đề đoàn kết toàn dân qua những quan
điểm : công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ được thực hiện bằng sức mạnh đoàn kết 11
của toàn dân, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với những
chủ trương, chính sách, sách lược của Đảng và nhà nước.
Năm 2001 Đại hội lần thứ IX của Đảng diễn ra, trong Đại hội đã bổ sung, phát
triển một số vấn đề, quan điểm mới về khối đại đoàn kết toàn dân. Đại hội đã xác
định khối đoàn kết toàn dân là : đường lối chiến lược, phương hướng, nguồn sức
mạnh và là động lực của xây dựng đất nước. Một lần nữa, nhấn mạnh : “Động lực
chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội”
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX: “Về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội X năm 2006, đã nhấn mạnh nhiệm vụ phải phát huy sức mạnh toàn dân,
đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân trở thành một trong bốn thành tố của chủ
đề Đại hội, coi đó như là “nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
trong giai đoạn, thời kì mới.
Việt Nam vẫn tiếp tục đường lối, chính sách đã được xác định trong các đại hội
trước, Đại hội XI diễn ra năm 2011 khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải
dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn vướng mắc của nhân dân,
tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác, làm tốt công tác vận động tất cả lực
lượng của mỗi người dân, không để sót một người, góp thành lực lượng toàn dân 12
để thực hiện những việc nên làm, những việc được bàn giao, có cơ chế pháp luật để
nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình”.
Đại hội Đảng lần XII năm 2016, đã nhấn mạnh yêu cầu trong thời kì cách
mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, tiếp
tục thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, sách lược, đường lối và chủ trương của
Đảng về khối đại đoàn kết toàn dân. Khối đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên
những cơ sở hài hòa về lợi ích, quyền lợi giữa các giai cấp, tầng lớp.
Và Đại hội lần thứ XIII diễn ra năm nay 2021, vẫn tiếp tục khẳng định quan
điểm như những lần Đại hội trước : phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
kết hợp với sức mạnh của thời đại. Sức mạnh khối đoàn kết toàn dân và khát vọng
phát triển đất nước trở nên phồn vinh, hạnh phúc.
Quan điểm phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta qua
các kỳ đại hội thể hiện qua các nội dung :
Một là phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân. Khối đoàn kết toàn dân dựa
trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực,
nguồn sức mạnh to lớn và cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến việc bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Hai là, đoàn kết là sự nghiệp của mọi dân tộc Việt Nam, của cả hệ thống chính
trị mà lãnh đạo là các tổ chức của Đảng, sẽ được thực hiện bằng nhiều biện pháp
và hình thức, mà trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ba là vấn đề đại đoàn kết toàn dân bắt đầu từ việc đặt đúng các vị trí của yếu tố
lợi ích, theo quan điểm đã được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI là: 13
“Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân”
Bốn là thực hiện dân chủ, phát huy chủ nghĩa yêu nước là một trong những yếu
tố quan trọng để nước ta củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ
nghĩa yêu nước luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta xuyên suốt từ trước đến
nay. Dân chủ vừa là mục tiêu của cách mạng, vừa là động lực của cách mạng.
2.2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên khối liên minh công – nông trong giai đoạn hiện nay
2.2.1. Mục tiêu xây dựng khối đoàn kết toàn dân
Để thực hiện cách mạng thành công và thắng lợi con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
văn minh”, nước ta cần tiếp tục phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, ý
chí, nghị lực, sức sáng tạo của con người Việt Nam trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Muốn vậy, cần tập trung vào các nhiệm vụ như :
Một là, tất cả các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cần phải chăm lo, phát huy
và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm rằng tất cả quyền lực của nhà
nước đều thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, nghiêm minh, hiệu quả dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt và
có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò của chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân
trong công cuộc phát triển đất nước, trong tất cả quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trước yêu cầu cần đổi mới chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
mới có đoàn kết thật sự và bền vững. 14
Hai là, Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở xử lý hài hòa những quan
hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân. Mọi chủ trương, đường lối, sách lược của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước điều ưu tiên lợi ích của nhân dân. Đẩy
mạnh phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng và văn
minh xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của
nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là trọng tâm, là cơ sở vững chắc trong công cuộc
xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
Ba là, trong thời kỳ phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, thực
hiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần chú ý đầu tư, quan tâm giáo dục và
đào tạo, bồi dưỡng và phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
lượng, nâng cao bản lĩnh trong chính trị, phát triển trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động trong công nghiệp của công
nhân. Xây dựng, phát huy vai trò lãnh đạo của giai cấp nông dân, một trong
những chủ thể của quá trình phát triển nền nông nghiệp hiện đại, xây dựng nông
thôn, xã hội mới. Nâng cao hiệu suất lao động trong ngành nông nghiệp, cải
thiện chất lượng cuộc sống tinh thần, vật chất của cư dân nông thôn. Thực hiện
có hiệu quả, bền vững, đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo; tuyên truyền,
khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây dựng một đội ngũ trí thức ngày càng lớn
mạnh, đảm bảo chất lượng cao về tri thức, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện tại. Luôn tôn trọng, phát huy tự do, tự làm tư tưởng
trong các hoạt động nghiên cứu và sáng tạo của nhân dân. Biết trọng dụng tri
thức dựa trên cơ sở đánh giá đúng trình độ, phẩm chất, năng lực và kết quả mà
cá nhân, tập thể cống hiến. Có những cơ chế và chính sách đặc biệt nhằm thu hút
nhân tài trở về giúp ích cho đất nước. Coi trọng vai trò phản biện, tư vấn, giám
định xã hội của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học trong việc xác định 15
đường lối, sách lược của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đặc biệt
là các dự án phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của đất nước trong giai đoạn mà
kinh tế thị trường đang dần định hướng sang xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, đoàn kết tất cả các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục
hoàn thiện, phát triển các chính sách, cơ chế, bảo đảm sự tôn trọng, bình đẳng,
đoàn kết tương thân tương ái giữa các dân tộc, giải quyết hợp lý quan hệ lợi ích
giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, sử dụng, phân bổ và
quản lý hiệu quả các nguồn lực nhằm mục đích đầu tư phát triển, tạo chuyển
biến cơ bản về vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở những vùng miền có
đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, nhất là vùng phía Tây Bắc, các tỉnh
vùng Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Bảo đảm cơ chế
thúc đẩy tính tích cực hòa đồng, ý chí tự lực, tự cường của các đồng bào các dân
tộc ít người phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt thực hiện giảm nghèo đa chiều,
lâu dài và bền vững. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả khi thực
hiện các chủ trương, chính sách về dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước ở các
cấp một cách công khai, minh bạch, không sai lệch nhầm lẫn.
Năm là, vẫn tiếp tục hoàn thiện, thực thi những quy định về lối sống, đạo đức
công vụ trong công tác dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ lãnh
đạo, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, cán bộ công viên
chức và lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh cải cách kinh tế, hành chính, lấy kết quả
công việc thực hiện, sự hài lòng, tín nhiệm của nhân dân đối vớ lãnh đạo làm
tiêu chí quan trọng dùng để đánh giá chất lượng của tổ chức bộ máy và chất lượng lãnh đạo.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đoàn kết toàn
dân bằng cương lĩnh, sách lược, các chủ trương, đường lối lớn, công tác tổ chức,
cán bộ, bằng các công tác như kiểm tra, giám sát. Quy định cụ thể là Đảng ta 16
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân đồng thời chịu sự giám sát
của nhân dân, có nghĩa vụ chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
chưa đúng của mình. Phát huy quyền làm chủ của dân, thúc đẩy nâng cao tinh
thần đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới, đồng bộ và
toàn diện đất nước. Cần phải đổi mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong sơ đồ hệ thống chính trị, để từ
đó thực hiện hiệu quả những nội dung và nhiệm vụ về việc phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân trên con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2.2. Kết quả của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân cho đến nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc củng cố và phát triển sức mạnh
khối đoàn kết toàn dân vẫn tiếp tục được khẳng định là đường lối nhất quán
trong suốt 30 năm đổi mới (n) đã đạt được những kết quả, thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử về nhiều mặt : Kinh tế đã dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng,
lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình,
bước vào thời kỳ đẩy mạnh, phát triển công nghiệp hóa, hện đại hóa và hội
nhập quốc tế; chính trị - an ninh - xã hội ổn định, tăng cường quốc phòng, dân
chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày một mở rộng, văn hóa - xã hội có
những bước phát triển rõ rệt, tổng quan đất nước và đời sống cả vật chất lẫn
tinh thần nhân dân có nhiều thay đổi tích cực; ngày càng mở rộng quan hệ đối
ngoại với nhiều nước phát triển; cũng vì thế mà vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, quyền lợi, lợi ích của dân được quan
tâm nhiều hơn, Đảng và bộ máy nhà nước được chỉnh đốn trong sạch, chú tâm
vào việc phòng, chống quan liêu, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân để củng cố
niềm tin của nhân dân với tầng lớp lãnh đạo, nhất là Đảng.
Những thành tựu đó tạo cơ sở, nền tảng quan trọng giúp nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, không những thế còn giúp 17
khẳng định đường lối chỉ đạo đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo và phù
hợp với lợi ích, nguyện vọng mà nhân dân mong muốn.
Đảng đã quy tụ sức mạnh và niềm tin của tất cả các dân tộc trên mọi
miên đất nước, xây dựng nên khối đoàn kết toàn dân chung sức, đồng tâm, hiệp
lực, một lòng hướng đến mục tiêu chung là xóa bỏ phong kiến, xóa bỏ xã hội
đói nghèo, kinh tế, giáo dục lạc hậu, phấn đấu tạo dựng một nước Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
2.2.3. Khó khăn, hạn chế trong công cuộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Sức mạnh đoàn kết toàn dân trong thời gian qua có những lúc, có những
nơi chưa thực sự phát huy đầy đủ, còn chưa có sự đánh giá và dự báo chính xác
những thay đổi cơ cấu trong xã hội cũng như những tâm tư, nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân để Đảng, nhà nước có thể đưa ra chủ trương và giải pháp
phù hợp; thực hiện thiếu nghiêm túc về vấn đề quyền và lợi ích của người dân,
không kịp thời thể chế hóa để đảm bảo tính hợp thời; ở nhiều nơi, nhiều ngành
nghề lĩnh vực, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm; lợi dụng dân chủ gây
chia rẽ, gây rối diễn ra ở nhiều nơi dẫn đến bất hòa, mất đoàn kết nội bộ, ảnh
hưởng lớn đến quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự - an toàn xã hội cũng chưa
được xử lý nghiêm minh, triệt để.
Hiện nay, bối cảnh trong nước, trong khu vực và quốc tế có những thay đổi
nhanh chóng, phức tạp, vấn đề này sẽ đan xen vào đó là cả thời cơ và thách
thức, thuận lợi và khó khăn, đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung và
đối với đường lối xây dựng, phát triển khối đoàn kết toàn dân nói riêng. Trong
tình hình đất nước đang mở cửa hội nhập, các thế lực phản động và thù địch đã
lợi dụng để đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, tạo bất bình, gây thù hằn ở mọi
nơi, mọi vấn đề, đặc biệt là vấn đề tôn giáo, không chỉ thế còn tạo làn sóng 18
kích động nhân dân nhằm ly khai, chia sẽ khối đoàn kết toàn dân, khoét sâu các
mâu thuẫn, gây xung đột xã hội, kích động biểu tình bạo loạn, làm mất cân
bằng, ổn định chính trị - xã hội. Đặc biệt hơn, chúng muốn tìm cách để Đảng,
nhà nước không còn liên kết và nhận được sự tin tưởng từ nhân dân; đối lập
tầng lớp nhân dân với lực lượng vũ trang; dùng lời lẽ, tà giáo, mê tín dị đoan
chia rẽ tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, phá hoại liên minh công -
nông; kích động, luôn chống đối cách mạng, làm suy yếu lực lượng, sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quốc phòng - an ninh quốc gia,
trật tự và an toàn xã hội. Những vấn đề đó đã đặt ra nhiều khó khăn. thách thức
lớn đối với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng như sự
nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn cho xã hội ở nước ta hiện nay.
Trên thực tiễn quốc tế, các mâu thuẫn cơ bản của mọi thời đại vẫn còn tồn tại.
Tranh giành lợi ích tạo ảnh hưởng giữa các nước lớn, chiến tranh nội bộ, xung
đột về dân tộc, màu da, tôn giáo; hoạt động ly khai, di dân, can thiệp lật đổ,
khủng bố diễn ra rất quyết liệt ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới. Ở trong
khu vực, Châu Á – Thái Bình Dương trở thành trọng tâm trong sách lược của
các nước lớn, các nước trong khu vực chú trọng vào việc tăng cường sức mạnh
quân sự và cùng với đó tại Trung Quốc diễn ra “trỗi dậy hòa bình”. Những
động thái đó đã làm cho tình hình diễn ra trên Biển Đông ngày càng phức tạp,
khó lường, tình cảm, tư tưởng của tầng lớp nhân dân bị tác động dẫn đến ảnh
hưởng lớn đối với khối đoàn kết toàn dân.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trên quá trình hội nhập sâu, rộng vào khu vực,
quốc tế. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì hội nhập, toàn
cầu hóa không chỉ là quá trình hợp tác mà còn là quá trình đấu tranh, nó đem
đến những thời cơ cho sự phát triển, nhưng đi cùng với thời cơ là những nguy 19
cơ, thách thức lớn. Để có thể xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tiêu chí,
nguyên tắc trọng yếu mà chúng ta cần thực hiện đó là phải nhận thức được
quan điểm của Đảng đưa ra : “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi
với Việt Nam đều là đối tác; bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống
phá đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng
đấu tranh.” Những khó khăn, thách thức từ bên trong lẫn bên ngoài đều đòi hỏi
toàn dân, toàn quân, toàn Đảng luôn phải đồng lòng, góp sức phát huy truyển
thống sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, phá hỏng âm mưu “diễn biến hòa bình”,
đánh đuổi những nguy cơ đe dọa đến độc lập, chủ quyền, đặc biệt là chủ quyền
biển đảo. Không chỉ đứng lên tự mình đấu tranh cho mình, chúng ta còn cần
phải biết “tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc...”(n). Chỉ khi chúng ta biết kết hợp hài hòa giữa nội
lực với ngoại lực, biến sức mạnh ngoại sinh thành nội sinh, thành sức mạnh của
toàn dân ta thì lúc đó Tổ quốc mới có thể toàn vẹn lãnh thổ, độc lập tự chủ và
phát triển theo hướng đi lên xã hội chủ nghĩa, đây chính là những kinh nghiệm
được đúc kết ra từ cha ông cũng như là quy luật của lịch sử.
Đảng ta luôn nhấn mạnh “Đại đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược, là
động lực và là nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm
điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung 20