Đề cương chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh có vị trí đặc biệt quan trọng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 2: Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư
tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay.
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và
các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là
sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực
tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực
hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
* Nội dung tư tưởng của Pháp gia:
Vào cuối thời Chiến quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ cùng
với sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc đã cho ra đời một tầng lớp mới là
địa chủ mới và thương nhân. Do áp dụng phương thức sản xuất tiến bộ và chính
sách kinh tế phù hợp nên tầng lớp này đã nắm giữ, chi phối nền kinh tế đất
nước. Tuy vậy, tầng lớp quý tộc cũ nắm giữ quyền lực chính trị và đang trở
thành vật cản của phát triển xã hội. Yêu câu bức xúc lúc này là tập phân trung
kinh tế và quyền lực để kết thúc tình trạng phân tranh, cát cứ, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển. Pháp gia ra đời đã đáp ứng được yêu cầu
trên. Tư tưởng Pháp gia được áp dụng thành công và đưa vào thời Tân trở thành
bá chủ, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như phái
trọng pháp, phái trọng thuật, phái trọng thể. Hàn Phi Tử là người tổng kết và
phát triển tư tưởng của những nhà Pháp gia tiền bồi, hoàn chỉnh học thuyết này.
Hàn Phi Tử (khoảng 280 - 233 TCN) là nhà tư tưởng cuối cùng của thời Tiên
Tân, là con của công tử (con vua) nước Hàn. Ông cùng với Lý Tư (Tể tướng của
Tần Thủy Hoàng) là học trò của Tuân Tử, nhà tư tưởng lớn nhất đương thời.
Ông muốn dùng học thuyết của mình để giúp vua làm cho đất nước phú cường,
nhưng không được vua Hàn trọng dụng. Đến nước Tần, ông bị Lý Tư hãm hại
buộc phải tự sát trong ngục. Tác phẩm Hàn Phi Tử của ông là tác phẩm kinh
điển của phái Pháp gia. Hàn Phi Tử cho rằng, xã hội loài người luôn biến đổi,
phát triển theo hướng đi lên. Bản tính con người là ham lợi. Điều lợi ảnh hưởng
và chi phối các mối quan hệ trong xã hội. Chính trị đương thời không nên bàn
chuyện nhân nghĩa cao xa mà cần có biện pháp cụ thể, cứng rắn, kiên quyết. Từ
nhận thức đó, học thuyết chính trị của ông được xây dựng trên cơ sở thống nhất pháp - thuật - thê:
- Pháp luật là những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn mực do vua ban ra, được phổ
biến rộng rãi để nhân dân thực hiện. Pháp luật phải hợp thời, đáp ứng được
những yêu cầu, không phát triển của xã hội, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình
độ dân chúng. Pháp luật phải công bằng, để kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, đám
đông hiếp áp số yếu. Quyền lực cần phải tập trung vào một người là vua. Vua
đề ra pháp luật, quan lại theo dõi việc thực hiện, dân là người thi hành pháp luật.
- Thuật là thủ đoạn hay thuật cai trị của người làm vua, để kiểm tra, giám sát,
điều khiển bây tôi. Thuật là phương pháp tuyên chọn, sử dụng người đúng chức
năng, tạo cho họ làm tròn bổn phận của mình. Như vậy, thuật là yêu tô cân thiêt,
bổ trợ và làm theo pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Thuật phải được giữ
bí mật, kín đáo, không được tiết lộ với bất cứ ai. Vua không được để lộ sự yêu
ghét của mình, đề phòng quần thần lợi dụng. Ông ta không phải làm gì mà bắt
các quan phải làm việc cai trị dân chúng.
- Thế là uy thế, quyền lực của người cầm quyền. Quần thần phục tùng nhà vua
không phải theo tình cốt nhục, mà chịu sự ràng buộc bởi quyền lực. Yếu tố để
quẩn thần buộc phải tuân theo đó là thế. Thế là quyền lực đảm bảo cho việc thi
hành pháp luật. Thế phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được chia
sẻ, không được để rơi vào tay người khác. Vua phải nắm chắc hai phương tiện
cưỡng chế, đó là "nhị bính": thưởng và phạt. Thưởng, phạt phải căn cứ vào cơ
sở pháp luật chứ không thể tùy tiện, Vua cũng phải phục tùng pháp luật. Khi có
thể, quyền uy của vua cũng sẽ tăng lên, lời nói có thêm sức mạnh.
- Hàn Phi Tử cho rằng: "pháp", "thuật", "thế" cần phải kết hợp làm một, trong
đó "pháp" là trung tâm, "thuật" và "thế" là những điều kiện tất yếu trong việc thi
hành luật. Pháp luật phải vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung, “việc phạt tội
không trừ bậc đại thân, việc thưởng công không bỏ sót kẻ thất phu”.
- “Pháp trị” đối lập với “Nhân trị” của Nho gia. Theo Hàn Phi Tử, nguồn gốc
làm rối loạn pháp luật là bọn du sĩ và các học thuyết chính trị đua nhau làm
hỏng pháp độ, cho nên phải dùng pháp luật để ngăn cấm và không cho họ làm chính trị.
=> Như vậy, đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ mới, tư tưởng Pháp gia
đã khai thông các bế tắc xã hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tư tưởng Pháp gia đã phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập
quyền, góp phần không nhỏ trong việc củng cố chế độ phong kiến đời Tần. Tuy
nhiên, học thuyết Pháp trị bị giai cấp cầm quyền cực đoan hóa, dẫn đến sự
thống trị hà khắc tàn bạo (như vụ án lịch sử Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn kẻ sỹ)
* Đối với Việt Nam, tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử chiếm một ý nghĩa quan
trọng trong đời sống chính trị. Từ thời phong kiến, các vua chúa Việt Nam bị
ảnh hưởng bởi tư tưởng cai trị phương Bắc, trong đó biết đề ra các quy tắc,
chuẩn mực xã hội, buộc mọi người phải tuân theo nhằm ổn định xã hội. Trong
thời hiện đại, việc xây dựng Hiến pháp, Pháp luật, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là mật thiết. Tư tưởng pháp trị có ảnh hưởng sâu rộng
đến đời sống chính trị của Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong ngữ cảnh hệ thống
chính trị cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng pháp trị đi kèm với việc xây dựng
và duy trì một hệ thống quản lí chính trị mạnh mẽ. Trong ngữ cảnh Việt Nam,
điều này thể hiện qua vai trò quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ
thống chính trị và quyết định chính sách quan trọng. Tư tưởng pháp trị thường
thúc đẩy sự tập trung quyết định và quyết định chính sách tại cấp độ lãnh đạo
cao nhất. Điều này có thể dẫn đến quyết định chính sách được đưa ra một cách
nhanh chóng và có tính nhất quán cao. Tư tưởng này còn đi kèm với việc lập
pháp và thực hiện chính sách được đồng bộ hóa với ý chí của Đảng và Chính
phủ. Cơ quan lập pháp, như Quốc hội, thường hoạt động dưới sự kiểm soát chặt
chẽ của Đảng. Nó còn có ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục và truyền thông.
Giáo dục chính trị và truyền thông thường được định hình để truyền đạt và duy
trì tư tưởng chính trị của Đảng. Điều này thường có ảnh hưởng đến quản lý nền
kinh tế, với sự can thiệp của nhà nước trong nhiều lĩnh vực kinh tế, từ quán lý
doanh nghiệp đến quản lý giá cả và thị trường lao động. Câu 3:
Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ: 1) Bản thân Hồ Chí Minh là một “nhà
chính trị chuyên nghiệp”. Lĩnh vực chính trị Việt Nam gắn liền với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để tâm nhiều hơn cả, 2) Chính trị là
lĩnh vực mà Hồ Chí Minh có nhiều sáng tạo độc đáo, nhất là sự sáng tạo ấy có
ảnh hưởng tích cực tới cách mạng thế giới, được quốc tế thừa nhận.
Từ phương diện chính trị học, có thể hiểu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước; là lý luận về cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào cách mạng thế giới.
Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh như sau:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao trùm
là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tư tưởng đó được Người
quán triệt và thể hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là “độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đây là hạt nhân cốt lõi nhất trong tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư tưởng trọng tâm xuyên suốt toàn bộ hệ thống.
Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung:
- Dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ (dưới mọi hình thức) bằng con đường
cách mạng do chính dân tộc đó tiến hành - “đem sức ta mà giải phóng cho ta”
- Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự
quyết định sự phát triển của dân tộc mình.
- Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật sự chứ không phải giả hiệu,
phải thực hiện được các giá trị như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng
đối với nhân dân chứ không chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ. - Độc lập
về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự trọng.
Người cho rằng, một dân tộc không có khả năng ý thức độc lập, tự lực, tự
cường thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập.
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc phải thực
sự gắn liền với với chủ nghĩa xã hội, trong đó độc lập là tiền đề, là điều kiện để
đi đến chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn nhất, thực
chất nhất cho độc lập dân tộc. Điều này bắt nguồn từ bản chất của sự vận động
lịch sử mà sau những tìm tòi công phu cùng sự nếm trải thân phận của một
người dân mất nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được. Người chỉ rõ rằng, giai
cấp phong kiến và giai cấp tư sản cũng giành giữ độc lập dân tộc, nhưng sau đó
nó quay lại thống trị dân tộc, áp bức dân tộc. Chỉ có giai cấp công nhân sau khi
giành độc lập dân tộc thì không chỉ giải phóng mình mà còn giải phóng toàn xã
hội. Do đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng
mang tính phổ biến của cách mạng thế giới, mang tính quy luật của thời đại.
Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được
dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới”. Đó là con đường đúng đắn nhất để giải phóng
dân tộc ta và các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc. Tư tưởng cách mạng đó của
Người đã đặt nền tảng vững chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, trở
thành chiến lược Đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng
thường xuyên góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng ta và nhân dân ta qua mọi thời kỳ.
Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của
toàn xã hội. Đoàn kết trên lập trường của giai cấp công nhân, được thực hiện
trên mọi phương diện: đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Người nói: “Toàn dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi...” “đồng bào ta từ già đến
trẻ đều đoàn kết thành một khối, cho nên Cách mạng đã thành công”. Người còn chỉ rõ:
“Quan sơn muôn dặm một nhà, Vì trong bốn biển đều là anh em.” và khẳng định:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết, theo Hồ Chí Minh, phải
trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa; đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn
nhiệm vụ của cách mạng, cách mạng muốn thắng lợi thì phải đoàn kết; đoàn kết
lấy liên minh công nông - trí thức làm nền tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc
làm điểm quy tụ để bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích.
Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh vừa là sự đúc kết và phát huy truyền
thống đại đoàn kết của dân tộc ta qua bốn nghìn năm dựng nước, giữ nước và
phát triển đất nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác Lênin là
“Vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại”. Trong sự nghiệp
đổi mới hôm nay, Đảng và nhân dân ta hơn bao giờ hết, đã và đang tiếp tục
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chính sách đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì một nước
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” vì hòa bình, độc
lập, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi, thông qua thương lượng để tìm giải pháp phù hợp giải quyết các vấn đề tồn
tại và các tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển.
3. Tư tưởng về xây dựng thể chế chính trị
Trong xây dựng thể chế chính trị, quan trọng nhất là xây dựng thể chế nhà nước.
Đây là nội dung giữ vị trí đặc biệt của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
Điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là tính chất nhà nước. Nhà nước đó có
phải là nhà nước của dân hay không? Chế độ dân chủ có phù hợp với chế độ nhà nước không?
Khi nghiên cứu cuộc cách mạng tư sản Pháp và cuộc cách mạng tư sản Mỹ thế
kỷ XVIII, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và
dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa”. Người để tâm sức vào việc nghiên cứu thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa
Xôviết được thiết lập sau Cách mạng tháng Mười năm 1917. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp
khoe khoang bên An Nam...”, rằng: cách mạng Việt Nam muốn thành công thì
“không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, con đường của
cách mạng tháng Mười Nga. Người quyết định lựa chọn kiểu nhà nước theo học
thuyết Mác Lênin, và cũng không “bê nguyên xỉ” kiểu nhà nước Xô viết vào
hoàn cảnh nước ta. Người chủ trương lập nhà nước Cộng hòa dân chủ (tức là
nhà nước dân chủ nhân dân).
Dân chủ có nghĩa là “dân là chủ”. Hồ Chí Minh quan niệm, giá trị thực chất của
dân chủ là phải có cơm ăn, áo mặc, học hành... Người chỉ ra vai trò động lực
của dân chủ, xem dân chủ là chìa khóa của tiến bộ xã hội. Người chủ trương
phải thực hành dân chủ rộng rãi trong nhân dân, giáo dục nhân dân ý thức chấp
hành pháp luật, quyền gắn liền với nghĩa vụ của công dân, dân chủ gắn với pháp
luật, gắn với tập trung. Hồ Chí Minh cũng phê phán bệnh độc đoán chuyên
quyền, quan liêu, vô chính phủ.
Từ quan niệm như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng chế độ dân chủ phù hợp với nhà
nước ta. Đó là một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tính
chất nhân dân và bản chất giai cấp của nhà nước ta được Hồ Chí Minh xác định
rõ ràng và đích thân Người cùng với toàn Đảng, toàn dân, ra sức xây dựng.
Người chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam...” và “Do Tổng tuyển cử mà
toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là
Chính phủ của toàn dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân cũng
có nghĩa là dân có quyền kiểm soát nhà nước. Người viết: “Chính phủ ta là
chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của
nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê
bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành tận tụy của
nhân dân”. Như vậy, dân được đặt ở vị trí tối thượng và quyền có được bảo đảm
trong thực tế chứ không chỉ ở trên lời nói.
Nhà nước của dân, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, còn thể hiện ở chỗ dân
không chỉ có quyền giám sát, kiểm tra mà còn có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự
tín nhiệm của nhân dân”. Về bản chất giai cấp của nhà nước ta, Hồ Chí Minh
chỉ rõ rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đoàn kết toàn
dân mà nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, do giai cấp công
nhân lãnh đạo; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; quản lý
xã hội bằng hiến pháp và pháp luật; thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng
phân công, phân cấp rõ ràng.
Cùng với những quan điểm trên, Hồ Chí Minh còn nêu lên quan điểm phục vụ
của cán bộ nhân viên nhà nước là “việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ
được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Chú ý thật sự đến quyền
lợi của nhân dân thì trước hết phải quan tâm đến quyền lợi thiết thân hàng ngày
của dân, “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm
cho dân có học hành”; chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ bộ
máy nhà nước thật trong sạch. Người thường xuyên nhắc nhở rằng, nhà nước ta
không phải bộ máy áp bức dân, cán bộ viên chức nhà nước không phải là những
người làm “quan cách mạng” bóc lột dân, kéo bè kéo cánh để thu vén lợi ích cá
nhân. Người căn dặn cán bộ phải tôn trọng lợi ích chính đáng của nhân dân,
công bằng và bình đẳng, toàn dân toàn ý phục vụ nhân dân, thực hành “cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư ”, nếu phạm khuyết điểm thì cả quyết công
khai sửa lỗi của mình. Người nói: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận
biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi
trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm
những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì
Chính phủ sẽ không khoan dung”. Người nhấn mạnh: “Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”2
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về thể chế chính trị, thể chế nhà nước đã trở thành
nguyên tắc xuyên suốt, thuộc về bản chất của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay
và mãi mãi về sau này, chừng nào xã hội còn có giai cấp và nhà nước.
4. Lý luận về đảng cầm quyền
Phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng chính trị nói
chung, đảng của giai cấp công nhân nói riêng, Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng
Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là
nhân tố quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”
Theo cách thể hiện của Hồ Chí Minh, thì “Đảng cách mệnh” có nghĩa là “Đảng
của giai cấp vô sản”, “Đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây dựng trên cơ sở
những nguyên tắc về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác -Lênin, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi hoạt
động của Đảng. Như vậy, bản chất giai cấp công nhân của Đảng đã được Hồ
Chí Minh khẳng định. Không chỉ như vậy, mà theo quan điểm của Người thì
cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như ở nước ta thì “quyền lợi
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam 2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng Cộng sản ở Việt Nam
vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, vừa phù hợp
với hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi có truyền thống
đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp công nhân còn ít
ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước ngay từ đầu.
Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, luận điểm trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối
với đường lối, chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc trong tất cả các thời
kỳ lịch sử; đối với việc xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; đối với việc tăng cường
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam; đối với việc giải quyết tất cả các vấn đề về mối quan hệ giữa
Đảng - giai cấp - dân tộc cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
5. Về phương pháp cách mạng
Là lãnh tụ chính trị của Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng
những đã xác định đường lối đúng đắn cho cách mạng nước ta, mà còn xác định
và vận dụng những phương pháp cách mạng đầy sáng tạo.
Cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa
về phương pháp cách mạng, song Người là bậc thầy về phương pháp cách mạng
trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, trong toàn bộ tiến trình cách mạng
Việt Nam. Qua các tác phẩm của Người, những tư tưởng về cách lãnh đạo, cách
tổ chức; cách làm, cách học; cách vận động nhân dân; cách thuyết phục kẻ thù
cũng như cách tiến, cách lui trong đánh giặc; cách xây dựng đất nước cũng như
cách bảo vệ đất nước, v.v... Tất cả đã toát lên "linh hồn và nội dung" của một
định nghĩa hoàn chỉnh. Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh vừa là khoa học
vừa là nghệ thuật mang tính cách mang thực tiễn sâu sắc. Nó rất đa dạng và
phong phú. Có những phương pháp thuộc từng lĩnh vực, từng thời kỳ, từng giai
đoạn cách mạng; có những phương pháp chung được vận dụng cho toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam. Có thể hiểu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh theo hai nghĩa như sau:
- Theo nghĩa rộng: đó là sự vận động của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong
thực tiễn. Nói cách khác, đó là những quy luật hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà theo đó tư tưởng chính trị của
Người được hiện thực hoá.
- Theo nghĩa hẹp, đó là cách thức tiến hành cách mạng với tính cách là hệ thống
các nguyên tắc được thể hiện bằng những hình thức, biện pháp, bước đi thích
hợp để thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng, biến đường lối cách mạng thành hiện thực.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là phương pháp cách mạng vô sản được
vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Nó thể hiện đầy đủ ba yếu tố tác động biện chứng với nhau trong một thể
thống nhất: Yếu tố về hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp với tính cách là
hệ thống các nguyên tắc Hồ Chí Minh nhằm định hướng, điều chỉnh hành động;
yếu tố chủ thể hành động là các lực lượng cách mạng, trong đó giai cấp công
nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, quần
chúng nhân dân là lực lượng tiến hành cách mạng; yếu tố về mục tiêu cách
mạng là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách mạng chung, cơ bản của Hồ Chí Minh như sau:
- Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm
mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
- Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Dĩ bất biến, ứng vạn biến. -
Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế lực.
- Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.
- Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, một nước thuộc
địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn
dân ta. Nó đã và đang biến thành lực lượng vật chất hùng hậu và là kim chỉ nam
cho cách mạng Việt Nam. Trải qua bao khúc quanh của lịch sử và những biến
cố khắc nghiệt của thời đại, Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính
trị của Người nói riêng vẫn có trong hành trang của dân tộc ta đi tới mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Với ý nghĩa đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
là học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của tư tưởng Hồ
Chí Minh, là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí
Minh để xử trí mọi việc. Câu 4:
● Quyền lực chính trị là một dạng quyền lực trong xã hội có giai cấp. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm rằng quyền lực chính
trị là bạo lực có tổ chức của giai cấp để đàn áp một giai cấp khác. Như
vậy, quyền lực chính trị luôn gắn liền với quyền lực nhà nước, phản ánh
mức độ giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước của những tập đoàn
người trong xã hội để bảo vệ lợi ích của mình, chi phối các tập đoàn khác.
Nói cách khác, quyền lực chính trị phản ánh mức độ thực hiện lợi ích của
một giai cấp, một nhóm người nhất định trong mối quan hệ với các giai
cấp hay nhóm người khác thông qua mức độ chi phối quyền lực nhà
nước. Là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị.
- Bản chất của quyền lực chính trị là quan hệ sức mạnh giữa các giai cấp
trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước hoặc gây áp lực đối
với quyền lực nhà nước. (Quyền lực chính trị là quyền quyết định, định
đoạt những công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để
bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực nhằm giành hoặc duy trì quyền
lãnh đạo; định đoạt, điều hành bộ máy nhà nước, cai quản một xã hội).
- Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục
tiêu chính trị của mình đối với toàn xã hội.
- Quyền lực chính trị được thực hiện bằng bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà
nước là cơ quan, là công cụ của quyền lực chính trị.
- Quyền lực chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia và tồn tại những mâu
thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội, thể hiện tập trung ở nhà nước.
- Giai cấp nắm quyền lực chính trị thông thường cũng là giai cấp nắm
quyền lực kinh tế. Quyền lực chính trị chính là biểu hiện tập trung của quyền lực kinh tế.
- Quyền lực chính trị có thể thuộc về một chính đảng của một giai cấp, một
liên minh nhiều đảng phái hoặc thuộc về nhân dân, khi lí tưởng của giai
cấp, của chính đảng phù hợp, phục vụ mục đích chung của cả cộng đồng dân tộc.
● Quá trình hình thành quyền lực chính trị: Quyền lực chính trị hình thành
là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Khi con
người sống thành cộng đồng, quyền lực công xuất hiện. Khi xã hội phân
chia thành giai cấp, xã hội chính trị xuất hiện, quyền lực công được trao
cho một giai cấp hoặc một lực lượng xã hội nắm giữ. Giai cấp hay lực
lượng xã hội đó thực hiện quản lý xã hội thông qua bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật.
● Chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước:
- Về nguyên tắc, có thể tồn tại hai loại quyền lực chính trị trong một
nhà nước hiện tồn: một là, quyền lực chính trị của giai cấp (hay
nhóm xã hội) thống trị (quyền lực chính trị này đã trở thành quyền
lực nhà nước, đồng nhất với quyền lực nhà nước hiện tồn); hai là,
quyền lực chính trị của các giai cấp và các nhóm xã hội không ở
địa vị thống trị. Nhóm quyền lực thứ hai này có thể chia thành hai phân nhóm nhỏ hơn:
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp và các tầng
lớp xã hội tuy có lợi ích khác biệt (đối lập) nhưng không đối
kháng với lợi ích cơ bản của giai cấp hay tầng lớp cầm
quyền. Xét về bản chất thì nhóm quyền lực này vẫn nằm
trong cùng một phạm trù với quyền lực chính trị của nhóm
xã hội cầm quyền, và vì thế, không có sự khác biệt về chất
với quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Và, do vậy, nó
vẫn tồn tại dường như trong sự “đối lập một cách dung hoà”
với quyền lực nhà nước hiện tồn. Cái gọi là nền chính trị “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở các nước tư sản hiện đại
là nền chính trị với các lực lượng chính trị và các quyền lực
chính trị khác nhau nhưng lại thuộc cùng phạm trù này mà
thôi, chứ không hề có nền “đa nguyên chính trị, đa đảng
chính trị đối kháng”.
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay các tầng
lớp xã hội có lợi ích đối kháng với lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Về bản chất, nhóm này đối kháng với quyền lực nhà
nước hiện tồn, và vì vậy, nó là đối tượng phải bị trấn áp, phải
được xoá bỏ trong nhà nước ấy. Như vậy, phân nhóm quyền
lực chính trị này sẽ chỉ có một trong hai kết cục sau đây
trong sự vận động của nó:
+ Hoặc là nó sẽ bị xoá bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực
nhà nước hiện tồn (đây là trường hợp quyền lực chính trị của
nhóm xã hội hay các giai cấp xã hội của quá khứ thuộc
phương thức sản xuất đã bị vượt bỏ, đã bị cách mạng thanh
toán, nhưng còn rơi rớt trong nhà nước mới).
+ Hoặc là nó sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của
nhà nước hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực
chính trị của giai cấp đang cầm quyền, xóa bỏ quyền lực nhà
nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp ấy, thiết lập
bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo
cách mới phù hợp với lợi ích giai cấp của nó. Khi đó, người
ta nói quyền lực chính trị đã chuyển hoá thành quyền lực nhà
nước. Đây là trường hợp vận động của quyền lực chính trị
của “tầng lớp thứ ba” (của giai cấp tư sản đang lên) trong
thời kỳ xã hội phong kiến đi vào giai đoạn kết thúc, thời kỳ
chuẩn bị và tiến hành cách mạng tư sản (chẳng hạn ở các
nước Tây Âu thế kỷ XVII - XIX).
- Ngoài hai hình thức vận động cổ điển này, còn có hình thức đảo chính
trung tính nhằm giành giật và chuyển giao quyền điều khiển nhà nước
giữa các nhóm xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp tư sản cầm quyền
vẫn thường thấy ở nửa cuối thế kỷ XX. Và cuối thế kỷ này lại diễn ra
hình thức "đảo chính phản cách mạng" nhằm lật đổ quyền thống trị chính
trị của giai cấp công nhân, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, khôi phục lại nhà
nước và cách tổ chức xã hội theo định hướng phi xã hội chủ nghĩa phục
vụ lợi ích của giai cấp và các tầng lớp bóc lột. Đây cũng là một hình thức
và một bài học chính trị về quá trình chuyển hoá quyền lực chính trị
thành quyền lực nhà nước bất lợi cho giai cấp công nhân mà các thế lực
chống chủ nghĩa xã hội đang cố gắng thực hiện trong chiến lược” diễn
biến hoà bình” phản ánh cách mạng chúng hiện nay.
● Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ Hiến pháp
năm 1946 đến nay đều thống nhất quan điểm đó. Hiến pháp năm 2013
một lần nữa khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân V
mà Tổng Bí thư nhân danh bao gồm t iệt Nam oàn thể
đồng bào của nước Việt Nam thống nhất, không phân biệt giai cấp, tầng
lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo... mà nòng cốt là giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, cùng đoàn kết trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, Nhân dân Việt Nam là tập
hợp 54 dân tộc thuộc mọi giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội, dân tộc,
tôn giáo, tín ngưỡng đang sống trên lãnh thổ Việt Nam và cộng đồng
người Việt đang sinh sống, học tập, công tác ở nước ngoài - một sự thật,
một thực tế sống động trong thực tiễn, không ngụy xưng! Về nguyên tắc
“tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” gắn
liền với việc khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ” xác định rõ chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ
thể tối cao của nhà nước, của tất cả quyền lực nhà nước là Nhân dân.
Điều này được thể hiện thống nhất từ đường lối của Đảng cầm quyền,
Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước đến nhận thức và hành
động của Nhân dân. Trong thực tế quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Dù do bất cứ cơ quan, cá
nhân nào được phân định nắm giữ (dù là quyền hành pháp, quyền tư pháp
hay bất cứ cơ quan nhà nước nào khác) cũng là thực thi nhiệm vụ do sự
trao quyền, ủy quyền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ Nhân dân. Tính
chất đó đòi hỏi hệ thống chính trị, bất luận là thành tố nào đều phải tuân
thủ nguyên tắc: Quyền lực thuộc về Nhân dân, mang lại lợi ích cho Nhân
dân. Trong hành trình đi tìm lời giải cho bài toán cách mạng Việt Nam,
sau khi tìm hiểu, so sánh các cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử thế
giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường giải phóng
dân tộc đi theo Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình Nhà nước Xô
Viết để từng bước xác lập một kiểu nhà nước tương lai - Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - quyền lực thuộc về nhân dân.
Câu 5: nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước Câu 6:
● Đảng chính trị là một trong những tổ chức chính trị (hợp pháp) thực thi
những chức năng nhất định trong xã hội của hệ thống chính trị. Đảng
chính trị: Đảng cầm quyền là lực lượng chủ yếu thực thi quyền lực nhà
nước, quyết định chính sách quốc gia. Các đảng khác (trong mô hình hệ
thống chính trị có nhiều đảng) đóng vai trò hợp tác, tham gia phản biện,
giám sát, kể cả tìm cách hạn chế, ngăn cản hoạt động của đảng cầm
quyền nhằm bảo vệ lợi ích của đảng mình.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đảng chính trị là bộ
phận tích cực nhất, có tổ chức của một giai cấp nào đó của một giai cấp.
- Sự tồn tại của đảng chính trị gắn liền với sự phân chia xã hội thành
giai cấp và sự không đồng nhất của các giai cấp và của các tầng lớp
hợp thành giai cấp. Đảng chính trị là một trong những công cụ
quan trọng nhất mà nhờ đó giai cấp đấu tranh cho lợi ích của mình.
Nhưng lịch sử thực sự của đảng chính trị chỉ bắt đầu trong điều
kiện đấu tranh giai cấp đã phát triển đến trình độ nhất định của đấu
tranh chính trị, khi mục tiêu giành chính quyền được đặt ra trực tiếp.
● Bản chất và vai trò của Đảng chính trị:
- Bản chất của đảng chính trị thường phản ánh các giá trị, mục tiêu và ảnh
hưởng chính trị của một tập hợp người có điểm chung:
+ Đảng chính trị là tổ chức bao giờ cũng theo dduooir những mục
đích chính trị nhất định, cố gắng gây ảnh hưởng, lãnh đạo đối với
đời sống chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành và giữ vững chính
quyền để thực hiện lợi ích của mình. +
+ Đảng chính trị là một tổ chức tự do được thành lập để đại diện cho
một nhóm người có chung quan điểm chính trị và mục tiêu chung.
Các thành viên trong đảng thường liên kết với nhau để tạo thành
một sức mạnh chính trị đồng đều hơn.
+ Bản chất của đảng thường được định hình bởi một phương châm
chính trị hoặc tư tưởng cụ thể. Các đảng có thể là cánh phải, cánh
trái hay ở giữa, và họ có thể theo đuổi các giá trị như tự do cá nhân,
bình đẳng xã hội hoặc tự do kinh tế.
+ Đảng chính trị thường có chương trình hành động và các chính
sách cụ thể thực hiện mục tiêu chính trị của minh. Điều này bao
gồm các kế hoạch về kinh tế, xã hội và chính trị nói chung.
+ Đảng chính trị thường tham gia vào quyết định chính trị và can
thiệp vào quá trình lập pháp và quản lý. Sự quyết định và quyền
lực thường tập trung vào lãnh đạo của đảng hoặc nhóm lãnh đạo được bầu chọn.
+ Đảng thường có một tổ chức bộ máy chặt chẽ và cấu trúc lãnh đạo
để duy trì sự tự động và đồng bộ trong hoạt động chính trị của mình.
+ Đảng thường có tầm nhìn và mục tiêu chiến lược dài hạn. Các mục
tiêu này có thể bao gồm việc thay đổi xã hội, chiếm lĩnh quyền lực
chính trị, hoặc thúc đẩy những giá trị cụ thể.
+ Đảng thường cố gắng tạo ra sự ủng hộ từ cộng đồng và hợp tác với
các đối tác khác để đạt được mục tiêu của mình.
- Vai trò: Đảng chính trị là một bộ phận tích cực nhất, có tổ chức nhất của
giai cấp, Đảng chính trị được lập ra để thực hiện lợi ích, mục đích giai
cấp, nắm quyền lực nhà nước. Vai trò của Đảng chính trị được thể hiện như sau:
+ Vai trò chính trị của Đảng tùy thuộc vào địa vị lịch sử của các giai
cấp mà đảng chính trị đó đại diện.
+ Vai trò của Đảng chính trị phụ thuộc vào bản chất của giai giai cấp
mà Đảng đó đại diện.
● Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là
tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động
trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông
qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống
chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu
Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo,
đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Để đảm đương được vai
trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ,
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ
luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có
sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi
dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Câu 7:
● Thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu một tổ chức chính trị. Đó là nhân vật
xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trí, xuất hiện trong điều kiện lịch
sử nhất định, có sự giác ngộ lợi ích, mục tiêu, lí tưởng giai cấp, có khả
năng nắm bắt và sử dụng quy luật, có năng lực tổ chức và tập hợp quần
chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.
● Là một thủ lĩnh chính trị ở Việt Nam, mỗi một thủ lĩnh đều phải có cả
đức lẫn tài. Như Bác đã từng nói: “Có tài mà không có đức thì là một kẻ
vô dụng, còn có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.” Quả
nhiên lời Bác căn dặn năm xưa vẫn luôn được truyền đạt và lưu giữ, phát
huy đến tận đời sau. Tấm gương sáng ngời, mẫu mực về phẩm chất đạo
đức, suốt đời hy sinh, phấn đấu quên mình cho đất nước và nhân dân của
Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp là tài sản vô giá trong giáo dục
truyền thống cách mạng, bồi dưỡng lập trường chính trị tư tưởng, phẩm
chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Kế thừa truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương và sớm được tiếp
thu tư tưởng cách mạng vô sản, Võ Nguyên Giáp đã giác ngộ và tham gia
hoạt động cách mạng khi mới 14 tuổi (1925). Mười lăm năm sau, người
chiến sĩ cách mạng ấy được kết nạp vào Đảng và được Trung ương cử
sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (1940) khởi đầu quá trình
phát huy tài năng, đức độ, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng củaĐảng và dân tộc.
Trước Cách mạng Tháng Tám, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tích
cực, chủ động thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng, tuyên
truyền, giác ngộ, vận động quần chúng nhân dân tham gia cách mạng với
phương pháp sáng tạo, hiệu quả cao; được Hồ Chí Minh ủy quyền công
bố Sắc lệnh thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
(22/12/1944). Thông qua hoạt động thực tiễn, đồng chí Võ Nguyên Giáp
đã góp phần quan trọng vào xây dựng, chuẩn bị lực lượng chính trị, quân
sự vững mạnh, bảo đảm cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng
Tám năm 1945 giành thắng lợi.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân công
đảm nhiệm các trọng trách: Tổng tư lệnh Quân đội, Tổng Chính ủy, Tổng
Quân ủy, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, v.v.
Đại tướng đã đóng góp quan trọng vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam vững mạnh, trưởng thành về mọi mặt, là Quân đội anh hùng, bách
chiến, bách thắng, tận trung với Đảng, tận hiếu với Dân, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng. Tên tuổi, sự nghiệp của nhà quân sự kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc
- Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gắn liền với Chiến thắng
Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện
công cuộc đổi mới, dù ở cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ
Quốc Phòng, Phó Thủ tướng Chính phủ, hay đã nghỉ hưu, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp cũng nêu cao tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết của
người cán bộ, đảng viên, có nhiều đóng góp quan trọng vào những vấn đề
lớn của đất nước, nhất là trong phát triển khoa học, kỹ thuật, giáo dục,
đào tạo; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền; mở
rộng quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới, v.v. Đặc
biệt, Đại tướng dành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ tiến hành nghiên
cứu, tổng kết các công trình khoa học về: Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối cách mạng của Đảng, nghệ thuật quân sự, xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy… thể hiện tinh thần sống ngày nào cũng là vì nước, vì
dân ngày đó của mình. Những công trình này là tài sản vô giá, cẩm nang
quý báu đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta trong quá trình
hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp suốt đời tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, hết mực yêu thương cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân. Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp có được sự yêu mến, kính
trọng của các tướng lĩnh đến những người lính bình thường trong toàn
quân bằng tên gọi gần gũi, thân thương “Anh Cả”, “Anh Văn”; nhân dân
vinh danh là “Đại tướng của nhân dân”; phía bên kia chiến tuyến dành sự
tôn trọng, nể phục, gọi là “Vị tướng huyền thoại”, v.v. Điều đó có được
bởi trong Đại tướng đã hội tụ đầy đủ các phẩm chất đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; các đức tính của người làm tướng Trí, Dũng,
Tín, Nhân, Liêm, Trung theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và xem
đó là phương châm sống, phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng suốt đời.
Khi đảm nhiệm Tư lệnh các chiến dịch, Đại tướng luôn sâu sát, cùng cán
bộ, chiến sĩ và nhân dân nghiên cứu, trinh sát nắm chắc tình hình chiến
trường để tìm ra phương án tác chiến tối ưu nhất với phương châm: Chắc
thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh; kiên quyết, dứt khoát
phải giành cho bằng được thắng lợi dù địch mạnh đến bao nhiêu nhưng
phải hạn chế cao nhất sự hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào.
Trước, trong và sau mỗi trận đánh, Đại tướng đều đến tận chiến hào để
thăm hỏi, động viên, chia sẻ với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là các
đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ; căn dặn bộ đội quan tâm, giúp đỡ
chính quyền, nhân dân địa phương ổn định tình hình, khắc phục khó
khăn, thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội, đẩy mạnh
tăng gia, sản xuất, nâng cao đời sống đồng bào. Từ quyết định thay đổi
phương châm tác chiến “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh
chắc, tiến chắc” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đến mệnh lệnh “Thần
tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng
giờ; xốc tới mặt trận; giải phóng miền Nam; quyết chiến và toàn thắng”
trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đều thể hiện trách nhiệm, tư tưởng
nhân văn trong nghệ thuật chỉ đạo giành thắng lợi vì nước, vì dân của Đại tướng.
Là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quân đội, Đại tướng gương mẫu,
làm gương về phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung
thực, đoàn kết, khiêm tốn, giản dị, chí công vô tư, gần gũi, hết mực
thương yêu cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Trong bất cứ hoàn cảnh nào,
Đại tướng cũng thể hiện bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản trung kiên,
giữ vững khí tiết, tư tưởng tiến công, ý chí tự lực tự cường, hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó. Luôn đề
cao công lao, sự hy sinh to lớn của nhân dân, quân đội, những người trực
tiếp chiến đấu trên chiến trường và chỉ nhận mình là “hạt nước giữa đại
dương” bình đẳng với mọi người lính. Đại tướng từng nói: “Vị tướng dù
có công lao lớn đến đâu cũng như giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân
dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần
thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình. Tôi
hoàn thành nhiệm vụ cũng như những người lính hoàn thành nhiệm vụ.
Trên bình diện nhiệm vụ thì tôi cũng là người lính bình đẳng, cho nên tôi
rất tôn trọng người lính”.
Với người bên kia chiến tuyến, Đại tướng, Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo toàn
quân, toàn dân thực hiện nghiêm chính sách nhân đạo, khoan hồng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về tù, hàng binh; qua đó, giác ngộ cho
họ về cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam và bản chất
phản động của chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Dù là người chiến bại, nhưng
từ tướng lĩnh, sĩ quan đến binh sĩ luôn dành cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh
Võ Nguyên Giáp sự tôn trọng, nể phục, như lời của Tướng Pháp De
Castries: “Tôi hân hạnh được làm đối thủ của Tướng Giáp, để được làm
kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như Tướng Giáp; tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”.
Danh tiếng, uy tín, phẩm chất đạo đức, nhân cách của Đại tướng, Tổng
Tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ giới hạn ở Việt Nam mà đã trở thành
biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp phần cổ vũ mạnh mẽ
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, chống áp bức,
bóc lột, bất công ở các nước thuộc địa Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ - La
tinh; được thế giới vinh danh và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình ngưỡng mộ, cảm phục.
Trọn cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, ở
Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn sáng ngời phẩm chất cao quý của người
chiến sĩ cách mạng kiên trung, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, suốt đời tận tụy hy sinh, một lòng, một dạ phấn đấu cho
mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Dù trong lúc cách mạng gặp thuận lợi hay
khó khăn, Đồng chí vẫn tin tưởng, thủy chung, son sắt với Đảng, với
Nhân dân, đúng như lúc sinh thời Đồng chí đã từng nói “Tôi sống ngày
nào, cũng là vì đất nước ngày đó”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có
công lớn xây dựng một đội quân hùng mạnh, góp phần quyết định cùng
toàn dân đánh thắng hai đế quốc là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược. Với 30 năm là Tổng Tư lệnh Quân đội, Bí thư Quân ủy Trung ương,
đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn tỏ rõ là nhà quân sự xuất chúng, nhà lãnh
đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta; được cán bộ, chiến
sĩ Quân đội yêu mến, kính trọng, suy tôn là “Người anh Cả” của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp là vị tướng có công lao, đóng góp to lớn trong xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, chính quy, tinh nhuệ, ngày
càng hiện đại. Từ Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - đội quân
chủ lực đầu tiên chỉ với 34 chiến sĩ và vài chục khẩu súng trường, súng
kíp thô sơ, rồi từng bước lớn lên thành những trung đoàn, đại đoàn thiện
chiến, kiên cường chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Chiến thắng
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là minh chứng
sinh động về sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội ta dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Bác Hồ kính yêu và sự chỉ huy tài tình
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lần đầu tiên trên thế giới, quân đội của
một nước thuộc địa nhỏ ở châu Á đã đánh bại quân đội của một cường
quốc châu Âu. Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị là người đứng đầu Quân
đội, cùng với Bộ Chính trị hoạch định những quyết sách chiến lược. Đại
tướng là người sớm có kiến nghị và có nhiều công lao trong việc khẩn