Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phạm vi vấn đề: Vǎn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. Quan hệ giữa vǎn hoá và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ vǎn hoá của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Môn Cơ sở văn hóa Việt Nam
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM (Nǎm 1943 của T.Ư.) CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Phạm vi vấn đề: Vǎn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật.
2. Quan hệ giữa vǎn hoá và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh
tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ vǎn hoá của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định
thượng tầng kiến trúc).
3. Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề vǎn hoá:
a) Mặt trận vǎn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng vǎn hoá nữa.
c) Có lãnh đạo được phong trào vǎn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên
truyền của Đảng mới có hiệu quả.
LỊCH SỬ VÀ TÍNH CHẤT VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Các giai đoạn trong lịch sử vǎn hoá Việt Nam
a) Thời kỳ Quang Trung trở về trước: vǎn hoá Việt Nam có tính chất nửa phong kiến, nửa nô
lệ, phụ thuộc vào vǎn hoá Trung Quốc.
b) Thời kỳ từ Quang Trung đến khi đế quốc Pháp xâm chiếm, vǎn hoá phong kiến có xu hướng tiểu tư sản.
c) Thời kỳ từ Pháp sang xâm chiếm đến nay: vǎn hoá nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn
có tính cách thuộc địa (chú ý phân biệt mấy giai đoạn trong thời kỳ này).
2. Tính chất vǎn hoá Việt Nam hiện tại: vǎn hoá Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa,
về nội dung là tiền tư bản.
Chiến tranh và xu trào vǎn hoá hiện nay: ảnh hưởng của vǎn hoá phát xít làm cho tính chất
phong kiến, nô dịch trong vǎn hoá Việt Nam mạnh lên, nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng của
vǎn hoá tân dân chủ, xu trào vǎn hoá mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nảy
nở (vǎn nghệ bất hợp pháp).
NGUY CƠ CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM DƯỚI ÁCH PHÁT XÍT NHẬT - PHÁP
1. Những thủ đoạn phát xít trói buộc vǎn hoá và giết chết vǎn hoá Việt Nam:
a) Chính sách vǎn hoá của Pháp:
- Đàn áp các nhà vǎn hoá cách mạng dân chủ chống phát xít.
- Ra tài liệu tổ chức các cơ quan và các đoàn thể vǎn hoá để nhồi sọ.
- Kiểm duyệt rất ngặt những tài liệu vǎn hoá.
- Mua chuộc và hǎm doạ các nhà vǎn hoá.
- Mật thiết liên lạc với tôn giáo để truyền bá vǎn hoá trung cổ, vǎn hoá ngu dân, v.v..
- Tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc mù quáng và hẹp hòi (chauvinisme).
- Làm ra vẻ sǎn sóc đến trí dục, thể dục và đức dục cho dân.
b) Chính sách vǎn hoá của Nhật:
- Tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông á. 1
Gây ra một quan niệm cho người Nhật là cứu tinh của giống da vàng và vǎn hoá Nhật Bản
chiếu rọi những tia sáng vǎn minh tiến bộ cho các giống nòi Đại Đông á, v.v..
- Tìm hết cách phô trương và giới thiệu vǎn hoá Nhật Bản (triển lãm, diễn thuyết, đặt phòng
du lịch, viện vǎn hoá, trao đổi du học sinh, mời nghệ sĩ Đông Dương sang thǎm nước Nhật,
mở báo chí tuyên truyền, tổ chức ca kịch, chiếu bóng ...).
- Đàn áp các nhà vǎn chống Nhật và mua chuộc các nhà vǎn có tài.
2. Tiền đồ vǎn hoá Việt Nam: hai ức thuyết:
- Nền vǎn hoá phát xít (vǎn hoá trung cổ và nô dịch hoá) thắng thì vǎn hoá dân tộc Việt Nam nghèo nàn thấp kém.
- Vǎn hoá dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở
xiềng xích và sẽ đuổi kịp vǎn hoá tân dân chủ thế giới. Hai ức thuyết, cái nào sẽ trở nên sự
thực? Cǎn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam
nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực.
VẤN ĐỀ CÁCH MẠNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Quan niệm của người cộng sản về vấn đề cách mạng vǎn hoá:
a) Phải hoàn thành cách mạng vǎn hoá mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội.
b) Cách mạng vǎn hoá muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.
c) Cách mạng vǎn hoá có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng
vǎn hoá phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách vǎn hoá đề ra bấy giờ
chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau).
2. Nền vǎn hoá mà cuộc cách mạng vǎn hoá Đông Dương phải thực hiện sẽ là vǎn hoá xã hội chủ nghĩa.
3. Cách mạng vǎn hoá Việt Nam và cách mạng dân tộc giải phóng:
a) Cách mạng vǎn hoá ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển.
b) Cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam chỉ có thể trong trường hợp may mắn nhất đưa
vǎn hoá Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền vǎn hoá mới.
c) Phải tiến lên thực hiện cách mạng xã hội ở Đông Dương, gây dựng một nền vǎn hoá xã hội ở khắp Đông Dương.
4. Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động vǎn hoá nước Việt Nam trong giai đoạn này:
a) Dân tộc hoá (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho vǎn hoá Việt Nam phát triển độc lập).
b) Đại chúng hoá (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hoá phản lại đông đảo quần
chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
c) Khoa học hoá (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hoá trái khoa học, phản tiến bộ).
Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hoá bảo
thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu
hướng vǎn hoá quá trớn của bọn tờrốtkít. 2
5. Tính chất của nền vǎn hoá mới Việt Nam: vǎn hoá mới Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông
Dương lãnh đạo chủ trương chưa phải là vǎn hoá xã hội chủ nghĩa hay vǎn hoá Xôviết (như
vǎn hoá Liên Xô chẳng hạn).
Vǎn hoá mới Việt Nam là một thứ vǎn hoá có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về
nội dung. Chính vì thế nó cách mạng nhất và tiến bộ nhất ở Đông Dương trong giai đoạn này.
NHIỆM VỤ CẦN KÍP CỦA NHỮNG NHÀ VĂN HOÁ MÁCXÍT ĐÔNG DƯƠNG
VÀ NHẤT LÀ NHỮNG NHÀ VĂN HOÁ MÁCXÍT VIỆT NAM
I- Mục đích trước mắt
- Chống lại vǎn hoá phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, vǎn hoá ngu dân và phỉnh dân.
- Phát huy vǎn hoá tân dân chủ Đông Dương.
II- Công việc phải làm
a) Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, á,
có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đềcác (Descartes), Bécsông
(Bergson), Cǎng (Kant), Nítsơ (Niesche), v.v. ; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
b) Tranh đấu về tông phái vǎn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa
tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v.) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng.
c) Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết:
1- Thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói; 2- ấn định mẹo vǎn ta;
3- Cải cách chữ quốc ngữ, v.v.. III- Cách vận động
a) Lợi dụng tất cả khả nǎng công khai và bán công khai để:
1- Tuyên truyền và xuất bản. 2- Tổ chức các nhà vǎn.
3- Tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà vǎn, nhà báo, nghệ sĩ, v.v..
4- Chống nạn mù chữ, v.v..
b) Phối hợp mật thiết phương pháp bí mật và công khai thống nhất mọi hoạt động vǎn hoá tiến
bộ dưới quyền lãnh đạo của đảng vô sản mácxít.
I- ĐỀ CƯƠNG VĂN H,A C-A MÔ/T DÂN TÔ/C YÊU CHUÔNG VĂN H,A /
1.1. Trong đời sống của mô ‰t xã hô ‰i, bên cạnh kinh tế (cơ s h tng) thì văn hoá và chính trị (kin trc th-
ưng tng) đóng mô ‰t vai trò hết sức quan trọng. Những tư tưởng và hoạt đô ‰ng văn hoá thường hay đi trước để
dọn đường và/hoă ‰c đi sau để hoàn tất các cuô ‰c cách mạng xã hô ‰i.
Ở Pháp, những tư tưởng văn hoá mới của Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Diderot đã chu•n bị mảnh đất
cho Cách mạng Pháp 1789 thành công, nhưng đó mới là những tư tưởng cá nhân. Ở Trung Quốc, Cuô ‰c vâ ‰n đô ‰ng
Ngũ Tứ (4-5-1919) đã dọn đường cho Cách mạng Trung Hoa giương cao ngọn cờ dân chủ, nhưng chất “văn
hoá” mà người ta thường nhắc tới của cuô ‰c vâ ‰n đô ‰ng này chỉ là ở ch’ nó khởi đầu từ giới sinh viên, còn nô ‰i dung
v“n là sự phản kháng nhà cầm quyền nói chung. Bài nói chuyê ‰n của Mao Trạch Đông ở cuô ‰c toạ đàm văn nghê ‰
Diên An năm 1942 là tiếng nói của lãnh tụ nhưng nó giới hạn ở viê ‰c trình bày quan điểm văn nghê ‰ phục vụ công
nông nh”m mục đích chỉnh phong chứ chưa phải mô ‰t loại đề cương văn hóa.
Như vâ ‰y là có lẽ chưa ở đâu mà trước khi cách mạng thành công, đã có mô ‰t văn kiê ‰n đề cương về văn hóa
được công bố r• ràng như ở Viê ‰t Nam. 3
1.2. Sự xuất hiê ‰n của Đ cương v văn ha trong tiến t
rình cách mạng của Viê ‰t Nam hoàn toàn không mang
tính ng“u nhiên. Có thể thấy có ba lí do:
a) Dân tô ‰c Viê ‰t Nam với truyền thống 4000 năm của mình không chỉ coi trọng các giá trị văn hoá theo nghĩa
rô ‰ng mà còn rất coi trọng các giá trị văn hoá theo nghĩa hẹp – văn hoá tinh hoa, văn hoá nghê ‰ thuâ ‰t; coi trọng các
giá trị tinh thần hơn vâ ‰t chất, coi trọng nô ‰i dung hơn hình thức, coi trọng đức hơn tài, coi trọng văn hơn v”... Đưa
ra Đ cương v văn chính l ha
à Đảng đã đáp ứng nguyê ‰n vọng cháy bỏng này của nhân dân. Hồi kí của những
người trong cuô ‰c về những ngày tháng này cho thấy ở khắp những nơi nào có Đ cương đến, mọi người đều say
sưa “vùi đầu vào đọc ngay”, “chép lại”, rồi “bàn bạc, truyền tay”... Nếu dân chúng không có nhu cầu và nguyê ‰n
vọng thiết tha thì dù mô ‰t đề cương hay mười đề cương đưa ra cũng sẽ bị rơi vào quên lãng.
b) Chính là nhắm vào những nhu cầu văn hoá của nhân dân mà trong thời kì này có cả rừng sách báo, tạp
chí... cùng các trào lưu văn hoá nghê ‰ thuâ ‰t được bung ra. Trong khi ngay văn hoá bất hợp pháp cũng còn có
nhiều nhược điểm thì thực dân Pháp khuyến khích các xu hướng lãng mạn, “vui vẻ, trẻ trung” trong đời sống văn
học, nghê ‰ thuâ ‰t, cho xuất bản các sách khiêu dâm, kiếm hiê ‰p, thần bí...; cho mở nhiều tiê ‰m hút, tiê ‰m nhảy; tổ
chức các Nha thông tin, tuyên truyền; ủng hô ‰ các phong trào phục cổ, tôn sùng các tục lê ‰ cũ; đề xướng các
phong trào thể dục rầm rô ‰... Phát xít Nhâ ‰t thì lâ ‰p ra Viê ‰n văn hoá Nhâ ‰t, tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á...
bởi vâ ‰y mà trong bài My nguyên tc l!n c"a cuô $c vâ $n đô $ng văn ho( m!i Viê $t Nam lc n,y viết năm 1944, Tổng
bí thư Trường Chinh đã nhâ ‰n định r”ng “văn hoá Viê ‰t Nam hiê ‰n nay – hay nói cho đúng, văn hoá hợp pháp Viê ‰t
Nam hiê ‰n nay – mang ba nhược điểm, ba căn bê ‰nh lớn: phản dân tô ‰c, phản khoa học, phản đại chúng” [Trường
Chinh 1985: 29]. Đưa ra Đ cương v văn chính ha
là Đảng đã trực tiếp tuyên chiến với phản văn hoá nói
chung và văn hoá ru ngủ quần chúng của thực dân Pháp và phát xít Nhâ ‰t nói riêng.
c) Dân chúng có nhu cầu về văn hoá, văn hoá thực dân và phát xít cần phải được đánh đổ, nhưng nếu Đảng
Cô ‰ng sản Đông Dương không có những lãnh tụ am hiểu về văn hoá, có tầm nhìn chiến lược về văn hoá thì cũng
không thể có được Đ cương v văn ha Viê $t Nam. Lại cũng chính là vì dân tô ‰c Viê ‰t Nam với truyền thống 4000
năm đã luôn đề cao văn hoá nên trong lịch sử, các nhà quân sự thiên tài như Lí Thường Kiê ‰t, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huê ‰... đều đồng thời là những người uyên thâm về văn hoá. Trong thời hiê ‰n đại thì Hồ Chí Minh,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, V• Nguyên Giáp... cũng đều là những nhà văn hoá. Hồ Chí Minh là mô ‰t nhà
văn hoá kiê ‰t xuất trên nhiều lĩnh vực, còn Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, V• Nguyên Giáp... cho dù tham gia
lãnh đạo về quân sự hay chính trị, cũng đều có sáng tác văn hoá, quan tâm đến các vấn đề lí luâ ‰n văn hoá (sử
học, văn học, ngôn ngữ học, Viê ‰t Nam học...). Trong đó Trường Chinh, trên cương vị Tổng bí thư Đảng những
năm 40, là người có đóng góp trực tiếp nhất cho viê ‰c hình thành Đ cương v văn ha Viê $t Nam.
1.3. Theo hồi kí của Học Phi, “anh Trường Chinh rất quan tâm đến văn hoá, văn nghê ‰ ngay từ hồi Mă ‰t trâ ‰n
bình dân” [Mô ‰t chă ‰ng đường 1985: 136]. Theo Trần Đô ‰ thì “từ năm 1941 trở đi, anh Trường Chinh càng chú ý
thường xuyên theo d•i và nghiên cứu tình hình các sách báo xuất bản và văn hoá nói chung”; anh đọc “cuốn sách
tiếng Pháp dày cô ‰p nói về nghê ‰ thuâ ‰t và văn học của Mác và Ăng-ghen do Jăng Frê-vin xếp đă ‰t và đề tựa” [Mô ‰t
chă ‰ng đường 1985: 98, 97].
Hồi ký này còn cho biết: “Theo anh Trường Chinh kể lại thì anh suy nghĩ từ lâu về
bản Đề cương văn hoá này... Năm 1941, tại Hô ‰i nghị trung ương lần thứ 8 họp ở hang Pắc Bó, gă ‰p Bác, anh Trư-
ờng Chinh báo cáo tình hình hoạt đô ‰ng văn hoá. Bác có nhâ ‰n xét và chỉ thị nhiều ý kiến”. Đầu năm 1943, “tại
nhà cụ Bạch ở làng V•ng La - ... huyê ‰n Đông Anh, tỉnh Vĩnh Phú, các anh Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ,
Hoàng Quốc Viê ‰t đã bàn bạc rất nhiều... Sau đó anh Trường Chinh căn cứ vào ý kiến hô ‰i nghị đã bàn bạc để
khởi thảo Đ cương tại làng Phú Gia – bây giờ thuô ‰c xã Phú Thượng – ngoại thành Hà Nô ‰i” [Mô ‰t chă ‰ng đường 1985: 98-99].
II- T5NH KHOA H7C V8 T5NH CÁCH M9NG C-A ĐỀ CƯƠNG
Đọc Đ cương, ta thấy nổi lên hai đă ‰c điểm r• nhất là tính khoa học và tính cách mạng.
2.1. Tính khoa học thể hiê ‰n trước hết ở bố cục: Đ cương gồm 5 phần có quan hê ‰ với nhau rất chă ‰t chẽ và sắp xếp rất khoa học. Các phần Các mục 1. Khái niê ‰m văn hoá 2.
Quan hê ‰ giữa văn hoá với kinh tế và chính trị A- Cách đă ‰t vấn đề 3.
Thái đô ‰ của Đảng đối với vấn đề văn hoá 1.
Các giai đoạn trong lịch sử văn hoá VN B- Lịch sử và tính chấtvăn hoá VN 2.
Tính chất văn hoá VN hiê ‰n tại C- 1.
Những thủ đoạn mà phát xít trói buô ‰c và giết chết văn hoá VN Nguy cơ văn
hoá VN dưới ách Nhâ ‰t- 4 Pháp 2.
Hai ức thuyết về tiền đồ văn hoá VN 1.
Quan niê ‰m của người CS về v/đ cách mạng văn hoá 2.
Mục tiêu của cách mạng văn hoá Đông Dương 3.
Quan hê ‰ giữa cách mạng văn hoá VN và cách mạng dân tô ‰c D- giải phóng Vấn đề cách mạngvăn hoá VN 4.
Ba nguyên tắc của cuô ‰c vâ ‰n đô ‰ng văn hoá mới VN trong giai đoạn này 5.
Tính chất của nền văn hoá mới VN 1. Mục đích trước mắt E- Nhiê ‰m vụ cần kíp 2. Công viê ‰c phải làm của những nhà văn hoá Mác-xít Đông Dương...3.
Cách vâ ‰n đô ‰ng văn hoá
Khởi đầu từ “Cách đă ‰t vấn đề” (A) với 3 nô ‰i dung (định nghĩa đối tượng, xác định các mối quan hê ‰ của đối
tượng, và thái đô ‰ của chủ thể đối với đối tượng),Đ cương chuyển sang trình bày về Lịch sử vấn đề (B) và hiê ‰n
trạng của vấn đề (C) từ đó đi tới khả năng giải quyết vấn đề (D) và cuối cùng là các viê ‰c phải làm để giải quyết vấn đề (E).
Tính khoa học của Đ cương thể hiê ‰n ở cách lâ ‰p luâ ‰n chă ‰t chẽ theo lối cấu trúc móc xích, giàu sức thuyết
phục, ví dụ: “c- đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong; d- có lãnh đạo được phong trào văn hoá,
Đảng mới ảnh hưởng được dư luâ ‰n, viê ‰c tuyên truyền của Đảng mói có hiê ‰u quả”. Hoă ‰c: “a) Phải hoàn thành
cách mạng văn hoá mới hoàn thành được cuô ‰c cải tạo xã hô ‰i; b) Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phải do
Đảng Cô ‰ng sản Đông Dương lãnh đạo; c) Cách mạng văn hoá có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công...”.
Tính khoa học của Đ cương cũng thể hiê ‰n ở viê ‰c đưa ra các khả năng khác nhau: “Tiền đồ văn hoá Viê ‰t
Nam: hai -c thuyt: - Nền văn hoá phát xít (văn hoá Trung cổ và nô dịch hoá) thắng thì văn hoá dân tô ‰ c Viê ‰t
Nam nghèo nàn thấp kém; - Văn hoá dân tô ‰c Viê ‰t Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được
cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hoá tân dân chủ thế giới”.
Tính khoa học của Đ cương còn thể hiê ‰n ở cách diễn đạt ngắn gọn, r• ràng, dứt khoát: “Thái đô ‰
Đ.C.S.Đ.D. đối với vấn đề văn hoá: a-... b-.... c-... d-...”, “Quan niê ‰m của người C.S. về vấn đề cách mạng văn
hoá: a-... b-... c-...”, ở cố gắng phân biê ‰t rành mạch các că ‰p phạm trù đối lâ ‰p: “Văn hoá Viê ‰t Nam hiê ‰n nay v
h.nh th-c là thuô ‰c địa, v nô $i dung là tiền tư bản”; “Văn hoá mới Viê ‰t Nam là mô ‰t thứ văn hoá có tính chất dân
tô ‰c v h.nh th-c và tân dân chủ v nô $i dung”.
2.2. Tính cách mạng của Đ cương thể hiê ‰n ở thái đô ‰ dứt khoát, sử dụng những từ ngữ có nghĩa rất r” ràng:
“Ph1i hoàn thành...”, “ch2ng m3i ảnh hưởng... /m3i chủ trương...”, “ch2ng li tt c1 nh4ng c(i g....”, “ph1i k6ch
liê $t ch2ng...”, “Tranh đu về học thuyết, tư tưởng (đ(nh tan những quan niê ‰m sai lm của triết học Âu, Á...l,m
cho thuyết duy vâ ‰t biê ‰n chứng và duy vâ ‰t lịch sử thng”, “Tranh đu về tông phái văn nghê ‰ (...) l,m cho xu hư-
ớng tả thực xã hô ‰i chủ nghĩathng”...
2.3. Chính là nhờ tính khoa học và tính cách mạng này mà Đ cư có được ơng
sức truyền cảm và sức thu hút
lớn, làm cho những người đương thời khi cầm lấy Đ cương đều phải “đọc luôn mô ‰t mạch”, đọc xong rồi thì
“như thấy có lửa cháy bừng bừng trong người”...
III- GIÁ TR; L;CH S> V8 NH?NG H9N CH@ C-A ĐỀ CƯƠNG
3.1. Đ cương đề câ ‰p đến văn hoá, thực chất là đưa ra cương lĩnh về “cách mạng văn hoá” như mô ‰t bô ‰ phâ ‰n
của cách mạng xã hô ‰i (“Phải hoàn thành cách mạng văn hoá mới hoàn thành được cuô ‰c cải tạo xã hô ‰i”) bên cạnh
cách mạng chính trị (“Cách mạng văn hoá có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng
văn hoá phải đi sau cách mạng chính trị...)”). Không phải ng“u nhiên mà trong Đ cương, cụm từ “cách mạng
văn hoá” được nhắc lại tới bảy lần. Có trường hợp cụm từ “cách mạng văn hoá” còn xuất hiê ‰n ngay ở tên gọi
của Đ cương. Hồi kí của Vũ Quốc Uy cho biết: “Mô ‰t buổi tối vào khoảng cuối thu năm 1943, anh Lê Quang
Đạo đưa cho tôi mô ‰t phong bì dán kín... Tôi khoá chă ‰t cửa, hồi hô ‰p mở phong bì, và thấy tám trang giấy kẻ ô,
đă ‰c sít chữ viết nhỏ... Trên trang đầu đề r• ràng mấy chữ: “Đ cương v c(ch mng văn ho( Viê $t Nam” [Mô ‰t
chă ‰ng đường 1985: 50].
Do Đ cương có nhiê ‰m vụ lịch sử cụ thể như vâ ‰y, cho nên xem xét Đ cương cũng phải đă ‰t trong bối cảnh lịch sử cụ thể ấy.
Khi nêu ra ba nguyên tắc “dân tô ‰c - khoa học - đại chúng”, Đ cư viết ơng
rất r• r”ng đó là “Ba nguyên tắc
vâ ‰n đô ‰ng của cuô ‰c vâ ‰n đô ‰ng văn hoá nước Viê ‰t Nam trong giai đoạn này”. Những đă ‰c điểm của văn hoá (hợp 5
pháp) của Viê ‰t Nam giai đoạn này đã được Trường Chinh nói rất r• trong bài “Mấy nguyên tắc của cuô ‰c vâ ‰n
đô ‰ng văn hoá mới Viê ‰t Nam” viết ngày 23-9-1944: đó là thứ văn hoá vừa lố lăng, lai căng, thiu t9nh dân tô $c;
vừa duy tâm, thần bí, kém cỏi, bị giáo dục theo kiểu nhồi sọ, thiu c khoa h3c; lại vừa chỉ hướng vào tầng lớp
quyền quý, xa r;i qun chng (Trường Chinh 1985: 26-31). Bởi vâ ‰y mà ba nguyên tắc dân tô $c ho(, đi chng
ho(, khoa h3c ho( là hoàn toàn thích hợp với tình hình lúc bấy giờ.
Nguyễn Khánh Toàn (với bút danh Hồng Lĩnh) bảo vê ‰ ba nguyên tắc này vào năm 1946 với bài viết “Văn
học Viê ‰t Nam còn nên dựa vào ba nguyên tắc dân tô ‰c, khoa học và đại chúng nữa không?” [Mô ‰t chă ‰ng đường
1985: 238-244] cũng hoàn toàn hợp lý vì sau khi cách mạng vừa mới thành công, tình hình văn hoáchưa được
cải thiê ‰n gì hơn. Nhưng đến ngày nay thì đã khác hẳn. Văn hoá ngày nay là văn hoá của nhân dân, vì vâ ‰y nguyên
tắc đi chng không còn thích hợp. Ÿc khoa học của dân ta cũng không đến n’i kém cỏi, vì vâ ‰y nguyên tắc khoa
học cần được thay b”ng yêu cầu hiê ‰n đại, tiên tiến. Không phải ng“u nhiên mà điều 30 của Hin ph(p Viê $t
Nam năm 1992 nói đến mô ‰t nền văn hoá Viê ‰t Nam “dân tô ‰c, hiê ‰n đại, nhân văn”. Nghị quyết 5 BCH TW khóa
VIII (tháng 7-1998) nói đến “mô ‰t nền văn hóa Viê ‰t Nam tiên tin, đâ ‰m đà bản sắc dân tô $c” càng chính xác hơn
nữa, vì văn hoá từ trong bản chất đã mang tính nhân văn rồi.
3.2. Cũng phải được xem xét đúng như nó đã được trình bày trong Đ cương là chủ trương “Tranh đấu về
học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niê ‰m sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta:
triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ (Nietzsche), v.v..., làm
cho thuyết duy vâ ‰t biê ‰n chứng và duy vâ ‰t lịch sử thắng)”. Hiển nhiên là Khổng, Mạnh, Descartes, Kant... đều là
những triết gia lớn mà nhiều điều trong tư tưởng của các ông đã được Hồ Chí Minh, Engels ca ngợi. Nhưng nếu
ta đọc k¢ thì sẽ thấy trong Đ cương, chủ trương “đánh tan những quan niê ‰m sai lầm” của các ông n”m trong
mục E.II là những “Công viê ‰c phải làm” nh”m phục vụ cho “Mục “ (E.I) là “Chống lại văn hoá phát xít phong
kiến, thoái bô ‰, nô dịch, văn hoá ngu dân và phỉnh dân”. Có mục đích trước mắt ấy là vì tình hình cụ thể lúc bấy
giờ thực dân Pháp đang khuyến khích phong trào trở về với tư tưởng Khổng-Mạnh của Trần Trọng Kim, phong
trào sùng bái truyê ‰n Kiều của Phạm Quỳnh, phong trào chạy theo các tư tưởng bảo thủ, tư tưởng cổ điển và lãng
mạn phương Tây của Nguyễn Văn Vĩnh... nh”m đề cao đạo đức phong kiến, đánh lạc hướng trí thức, thanh niên,
gián tiếp chống lại các tư tưởng dân chủ và cách mạng. Không phải ng“u nhiên mà trước đó không lâu, cụ Ngô
Đức Kế vừa ở Côn Đảo về đã lâ ‰p tức lên án phong trào sùng bái truyê ‰n Kiều là thủ đoạn mê hoă ‰c thanh niên,
Phan Khôi đã mở cuô ‰c bút chiến với Trần Trọng Kim về học thuyết Khổng-Mạnh...
Viê ‰c quá đề cao, tán dương như nói r”ng suốt từ đó đến nay toàn bô ‰ Đ cương v“n
“giữ nguyên giá trị”,
cũng như viê ‰c phê phán, coi chủ trương tranh đấu với những quan niê ‰m sai lầm của triết học Khổng, Mạnh,
Descartes, Kant... là “tả khuynh, quá đà” đều là những biểu hiê ‰n của viê ‰c chưa hiểu đúng chân giá trị lịch sử của Đ cương.
3.4. Đ cương không phải là không có những hạn chế.
3.4.1. Trước hết, “văn hoá” là mô ‰t khái niê ‰m rất phức tạp, trong Đ cương, đây là khái niê ‰m duy nhất chưa
đủ r• ràng. Đ cương viết “Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuâ ‰t, nghê ‰ thuâ ‰t” và là mô ‰t trong ba thành tố, bên
cạnh kinh tế và chính trị. Chữ c1 ở đây có thể hiểu theo hai cách: c1 là đại từ với nghĩa “hết thảy” (vd,
“cả nước”) và c1 là trợ từ với nghĩa là bao gồm bổ sung (“ngoài A còn cả B”). Nếu hiểu theo cách thứ hai thì
không r• phần còn lại của văn hoá có những gì, còn nếu hiểu theo cách thứ nhất thì nô ‰i dung của văn hoá lại bị
thu hẹp quá. Quan niê ‰m hẹp này có vẻ như được xác nhâ ‰n khi ta đọc thấy trong bài “Mấy nguyên tắc của cuô ‰c
vâ ‰n đô ‰ng văn hoá mới Viê ‰t Nam” của Trường Chinh viết năm 1944 có câu: “Những nhà văn ấy phải đấu tranh
trên tất cả các mă ‰t trâ ‰n văn ho(, nghê $thuâ $t, ngôn ng4, phong t?c, t9n ngư@ng, v.v.” ([Trường Chinh 1985: 32];
tôi nhấn mạnh - TNT) - ở đây, văn hoá được dùng với nghĩa còn hẹp hơn nữa, khi nó đứng cạnh không
chỉ phong t?c, t9n ngư@ng mà
cả nghê $thuâ $t, ngôn ng4 là những thành tố mà trong Đ cương đã được bao gồm vào văn hoá.
Đến báo cáo của Trường Chinh tại Hô ‰i nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai tháng 7-1948 nhan đề “Ch" nghBa
M(c v, văn ho( Viê $t Nam”, nô ‰i dung của khái niê ‰m văn hoá mới trở nên phong phú hơn. Lúc này, ông viết: “văn
hoá là mô ‰t vấn đề rất lớn bao gDm c1 văn h3c, nghê $thuâ $t, khoa h3c, trit h3c, phong t?c, tôn gi(o...” và chú
thích: “đây là nói văn hoá theo nghĩa hẹp, nghĩa thông thường. Nói rô ‰ng ra, văn hoá gDm c1 văn ho( tinh thn v,
văn ho( vâ $t cht” ([Trường Chinh 1985: 53]; tôi nhấn mạnh - TNT) - cách hiểu này đã hoàn toàn phù hợp với
các quan niê ‰m khoa học về văn hoá.
3.4.2. Khi đưa ra chủ trương “Tranh đấu về tông phái văn nghê ‰ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng
mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v... làm cho xu hướng tả thực xã hô ‰i chủ nghĩa thắng)”, Đ
cương không tránh khỏi hạn chế chung của thời đại bấy giờ, khi mà ở Liên Xô, phương pháp sáng tác hiê ‰n thực
xã hô ‰i chủ nghĩa đang giữ địa vị đô ‰c tôn.
Tuy nhiên, chính ở ch’ này, phải nói r”ng Trường Chinh đã có cái nhìn khá sáng suốt khi trong Ch" nghBa
M(c v, văn ho( Viê $t Nam, ông đã lưu ý r”ng “thái đô ‰ của chủ nghĩa hiê ‰n thực xã hô ‰i chủ nghĩa là thái đô ‰ kh(ch
quan” và giải thích r”ng có những sự thâ ‰t không có lợi cho ta, ví dụ mô ‰t trâ ‰n ta thua chẳng hạn, v“n hoàn toàn có
thể đưa vào tác ph•m, chỉ có điều là nên tả sao cho người xem nhâ ‰n thấy các chiến sĩ của ta anh dũng hy sinh nh- 6
ư thế nào, vì sao ta thua, và trong cái thua ấy, đâu là phần ta thắng... [Trường Chinh 1985: 115-116]. Đây là mô ‰t
gợi ý rất chí lý. Ngoài sai lầm từ phía trên coi chủ nghĩa hiê ‰n thực là đô ‰c tôn, nếu các văn nghê ‰ sĩ ta không quá
dễ dãi với mình, mà bỏ công sức tìm tòi theo hướng Trường Chinh đã gợi ý thì v“n có thể thu được những sáng
tác hiê ‰n thực chủ nghĩa có giá trị chứ không đến n’i cho ra những sáng tác theo kiểu minh hoạ, tô hồng...
IV- MÔ/T SA VBN ĐỀ VĂN BDN H7C
4.1. Đ cương v văn ha Viê $t Nam đã, đang và sẽ còn là mô ‰t trong những văn kiê ‰n cực kỳ quan trọng đối
với lịch sử văn hoá Viê ‰t Nam nói riêng và lịch sử Viê ‰t Nam nói chung. Bởi vâ ‰y, tính chính xác về mă ‰t văn bản
học là điều không thể xem thường.
Ra đời tháng 2 năm 1943, ban đầu Đ c tồn ương
tại dưới dạng viết tay, cũng có khi nó được in thạch [Mô ‰t
chă ‰ng đường 1985: 148]. Mãi đến năm 1945, được phép của trên, mô ‰t nhóm 5 người trong Hô ‰i Văn hoá Cứu
quốc gồm Khuất Duy Tiến, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong và mô ‰t người nữa về quê
Nguyễn Huy Tưởng ở làng Dục Tú (Bắc Ninh) để làm số 1 báo Tiên mà phong
trong đó lần đầu tiên chính thức
công bố toàn văn bản Đ cương. Báo in chưa xong thì đã tổng khởi nghĩa, vì vâ ‰y đến tháng 11 in lại mới ghi là
tái bản [Mô ‰t chă ‰ng đường 1985: 69]. Như vâ ‰y, trong khi không có được bản viết tay của chính Tổng bí
thư Trường Chinh năm 1943, thì bản in trên tạp chí Tiên phong số 1 này có thể chấp nhâ ‰n là bản gốc.
Về sau, năm 1977, Đ cương v văn ha Viê $t Nam đã được in lại trong sách Văn kiê $n Đ1ng 1930-1945, tâ ‰ p
III, do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản [Văn kiê ‰n 1977: 365-368]. Đến năm 1985, nhân k£
niê ‰m 40 năm Đ cương, Ban nghiên cứu lý luâ ‰n của Viê ‰n văn học và Nhà xuất bản “Tác ph•m mới” đã cho ra
mắt cuốn sách Mô $t chă $ng đư;ng văn ho(, trong Đ đó
cương được in ở các tr. 15-20. Tiếp đến gần đây, theo
quyết định của Ban Bí thư khoá VII (số 101 QĐ/TW, ngày 12-l-1995) và Bô ‰ Chính trị khoá VIII (số 25-QĐ/TW,
ngày 3-2-1997), bô ‰ Văn kiê $n Đ1ng To,n tâ $p đã được xuất bản năm 1998 dưới sự chỉ đạo của mô ‰t Hô ‰i đồng xuất
bản, trong đó Đ cương v văn ha Viê $t Nam được in trong tâ ‰p 7 (1930-1945) [Văn kiê ‰n 1998: 316]. Bản này in
lại hoàn toàn theo bản in trong Văn kiê $n Đ1ng 1930-1945, tâ ‰ p III, xuất bản năm 1977. 7
Đề cương Văn hóa Việt Nam - cội nguồn của đường lối đúng,
cương lĩnh của chính sách hay
Kỷ niệm 70 năm ngày ra đời Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 là dịp tốt để chúng
ta ôn lại và nhìn thấy rõ hơn những giá trị soi đường, tác dụng định hướng của Đề
cương; qua đó nhận thức đúng hơn nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp
xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới.
Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ta khởi thảo và được công bố năm 1943 trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai
đang lan rộng và ngày càng ác liệt. Ở Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa
- xã hội rất phức tạp, mâu thu“n giai cấp và dân tộc ngày càng sâu sắc thêm. Nhân dân ta
không những chịu cảnh “một cổ hai tròng” do quân xâm lược Nhật, Pháp gây nên mà còn lâm
vào tình cảnh lầm than, cơ cực do bè lũ tay sai “bóp nặn” một cách dã man, tàn ác. Đã thế,
Phát xít Nhật và thực dân Pháp lại thi nhau vơ vét, bóc lột và đàn áp nhân dân, khủng bố
phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Căm ph“n quân xâm lược sâu hơn vực thẳm, ý chí
quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược cao ngút trời Nam. Trước cảnh nước mất, nhà tan, nghe
theo tiếng gọi của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên đánh giặc cứu nước; các tổ chức vũ trang
cách mạng lần lượt ra đời; phong trào quyên góp lương thực, vũ khí, thuốc men, đưa con em
tham gia các đội quân cách mạng diễn ra khắp buôn làng, ng• xóm. Trí thức, văn nghệ sĩ, học
sinh, sinh viên yêu nước chịu ảnh hưởng của cách mạng đã đứng lên đấu tranh chống lại phát
xít Nhật và thực dân Pháp, đòi lại quyền tự do, độc lập cho dân tộc. Thế nhưng, quân phát xít
và thực dân đã cấu kết với bè lũ tay sai, dùng các thủ đoạn dã man, tàn ác, kể cả thủ đoạn “trói
buộc vǎn hoá và giết chết vǎn hoá Việt Nam” để thực hiện mưu đồ xâm lược của chúng.
Trong bối cảnh ấy, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu đã quyết định triệu tập Hội nghị Thường vụ
Trung ương Đảng từ ngày 25 đến 28-2-1943 để bàn biện pháp đối phó với tình hình, quyết
tâm đ•y mạnh phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước, tiến tới chặn đứng và đập tan
âm mưu, thủ đoạn xâm lược của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Từ thực tiễn hơn chục năm
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lại đứng trước những việc cần kíp phải làm ngay để kịp thời
ngăn chặn bàn tay nhuốm máu đầy tội ác của phát xít và thực dân; Đảng ta nhận định r”ng,
trong lúc này, Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn
hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đ•y phong trào văn hoá tiến bộ, văn hoá cứu quốc nh”m
chống lại văn hoá phát xít thụt lùi, văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu... Vì vậy, tại Hội nghị
Thường vụ Trung ương lần này, Đảng ta khẳng định r• thái độ của mình đối với vấn đề vǎn
hoá và nó được ghi r• trong Đề cương văn hóa Việt Nam công bố năm 1943:
“1. Phạm vi vấn đề: Vǎn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. 2. Quan hệ giữa vǎn
hoá và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng
ấy quyết định toàn bộ vǎn hoá của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc).
3. Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề vǎn hoá:
a) Mặt trận vǎn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng vǎn hoá nữa.
c) Có lãnh đạo được phong trào vǎn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên
truyền của Đảng mới có hiệu quả.”
Có thể khẳng định r”ng, Đề cương về văn hoá Việt Nam là bản cương lĩnh văn hoá đầu tiên
của Đảng ta, đã nêu ra hai ức thuyết về tiền đồ văn hoá Việt Nam. Một là, "nền văn hoá phát
xít (văn hoá trung cổ và nô dịch hoá) thắng thì văn hoá dân tộc Việt Nam nghèo nàn và thấp 8
kém. Hai là, văn hoá dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà
được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hoá dân chủ thế giới". Trong Đề cương, Đảng ta
đặt vấn đề: Trong “Hai ức thuyết, cái nào sẽ trở nên sự thực?” và khẳng định: "Cǎn cứ vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm
cho ức thuyết thứ hai trở nên thực sự".
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời đó, “vǎn hoá nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn
có tính cách thuộc địa” thống trị thì sự ra đời của Đề cương về văn hoá Việt Nam có thể coi là
một ngọn đuốc sáng thần kỳ, có tác dụng soi đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận
thức, phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh
cách mạng ở Việt Nam; đặc biệt là nó đã lôi cuốn, thuyết phục và tập hợp đông đảo những
người hoạt động văn hoá yêu nước Việt Nam vào Hội văn hoá cứu quốc, một thành viên của
Mặt trận Việt Minh; khai sinh và phát triển nền “vǎn hoá xã hội chủ nghĩa” ở nước ta. Vì vậy,
Đảng nhấn mạnh: “Những phương pháp cải cách vǎn hoá đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho
cuộc cách mạng triệt để mai sau”, tức là chu•n bị cho “cách mạng chính trị thành công”.
Trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng duy vật, Đề cương
văn hoá Việt Nam đã luận giải một cách sắc sảo tình hình tư tưởng, văn hoá, xã hội Việt Nam
những năm đầu thế k£ XX, chỉ ra sự tác động của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai và tội
ác tột cùng của phát xít Nhật cùng thực dân Pháp cấu kết với bọn tay sai, bán nước giầy xéo
Tổ quốc Việt Nam. Đề cương cũng chỉ r• bản chất, âm mưu, thủ đoạn dã man, tàn ác của phát
xít Nhật và thực dân Pháp trong việc trói buộc và bức tử nền văn hoá nước ta; qua đó, cảnh
báo nguy cơ có thể bị diệt vong đối với một quốc gia dân tộc có bề dày truyền thống lịch sử,
văn hóa, có độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ dưới gót dày quân xâm lược:
phát xít Nhật và thực dân Pháp.
Vì vậy, nhiệm vụ cần kíp của những người cộng sản và các nhà văn hóa cách mạng ở Đông
Dương, của cách mạng văn hóa, tư tưởng ở Việt Nam lúc bấy giờ được Đảng ta khẳng định là
đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của quân xâm lược và bè lũ tay sai, cứu lấy nước,
giữ lấy nhà, bảo vệ cho được các giá trị văn hóa dân tộc, ph•m giá, nhân cách con người Việt
Nam. Để làm tròn sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của mình, Đảng ta khẳng định: “cách mạng
vǎn hoá muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo” và nó phải thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc mác xít - lêninnít. Mục tiêu, con đường, phương châm, nguyên
tắc, phương pháp thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta, trước hết phải nắm vững “ba
nguyên tắc vận động cuộc vận động vǎn hoá nước Việt Nam trong giai đoạn này:
a) Dân tộc hoá (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho vǎn hoá Việt Nam phát triển độc lập).
b) Đại chúng hoá (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hoá phản lại đông đảo quần
chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
c) Khoa học hoá (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hoá trái khoa học, phản tiến bộ)”.
Trên cơ sở nắm vững và thực hiện nhất quán ba nguyên tắc nêu trên, Đảng ta đồng thời khẳng
định: “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hoá
bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống
xu hướng vǎn hoá quá trớn của bọn tờrốtkít”. Trước mắt, tích cực đấu tranh, vạch trần những
hạn chế, khuyết điểm của các “học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của
triết học Âu, Á, có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đềcác (Descartes),
Bécsông (Bergson), Cǎng (Kant), Nítsơ (Niesche), v.v. ; làm cho thuyết duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử thắng”, “Tranh đấu về tông phái vǎn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ 9
nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v.) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”.
Căn cứ vào các điều kiện khách quan của tình hình thế giới và tác động, ảnh hưởng của nó
đến sự biến đổi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam; sự phát triển rộng khắp của
phong trào đấu tranh cách mạng chống quân xâm lược và bè lũ tay sai; ngay sau khi công bố
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, những người cộng sản và các nhà văn hoá, trí thức
yêu nước đã tin tưởng, nhiệt tình ủng hộ, tổ chức nhiều cuộc vận động xây dựng nền văn hóa
mới - văn hóa cách mạng, văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện, sách báo của Đảng,
trên các phương tiện thông tin đại chúng có được lúc bấy giờ đều nhất quán khẳng định giá trị
tư tưởng, quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” của Đề cương văn hóa Việt Nam, quyết tâm
thực hiện và đưa vào đời sống quan điểm, tư tưởng, mục tiêu và ba nguyên tắc "dân tộc hoá",
"đại chúng hoá", "khoa học hoá" của nền văn hoá Việt Nam mà Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ ra. Đồng thời, làm cho "xu trào văn hoá mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi
trở lực để nảy nở... ", xâm nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống nhân dân và phong trào cách
mạng đang lên. Việc khẳng định thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương
pháp luận biện chứng duy vật của Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 trong các tài liệu,
sách báo văn hóa cách mạng từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đã được triển khai
thực hiện thống nhất, xu hướng phát triển tốt, tác dụng ngày càng cao, hiệu quả rất thiết thực.
Lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đều chỉ ra r”ng, cái gốc của đường lối văn hoá, văn
nghệ của Đảng không phải cái gì khác mà chính là Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 và
từ cái gốc rễ “nguồn cội” ấy, cây “văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa” ở nước ta đã đâm
chồi, nảy lộc, vươn cành ngày càng xanh tươi, nở hoa, kết trái, đã và đang đem lại hương thơm, vị ngọt cho đời.
Cái gốc rễ “nguồn cội” của nền văn hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa, của đường lối văn
hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn
hoá, là “thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử” - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của
giai cấp vô sản, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và phương pháp luận cách mạng đúng
đắn nhất để “nhận thức và cải tạo thế giới” vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, tha thiết yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc; là phương pháp sáng tác hiện
thực xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; được những người cộng sản, các nhà tư tưởng, văn hóa
Việt Nam đón nhận, bổ sung, phát triển, làm giàu có, phong phú và sâu sắc thêm từ đời sống
thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Và, chính nó đã trở thành động lực tinh thần to
lớn, có tác dụng thức tỉnh các tầng lớp nhân dân; thu hút, lôi cuốn, thuyết phục không ít các
văn nghệ sĩ, binh lính người Việt tham gia quân đội phát xít, thực dân, đế quốc, làm tay sai
cho địch đã quay về với cách mạng, “đồng cam cộng khổ” cùng đồng bào, chiến sĩ cả nước
“nếm mật, n”m gai” dũng cảm, mưu trí, sáng tạo chiến đấu chống kẻ thù xâm lược; từng bước
đưa cách mạng đi đến thắng lợi, thực hiện thành công cách mạng tháng Tám năm 1945, khai
sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, sáng lập nên Nhà nước của giai cấp công nông đầu
tiên ở Đông Nam châu Á; thực hiện thống nhất nước nhà, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cái gốc rễ “cội nguồn” của nền văn hóa mới, văn hóa xã hội chủ nghĩa, của đường lối văn
hóa, văn nghệ ở nước ta, nói cho cùng, là đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, nhất quán
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở nước ta, văn hoá văn nghệ xã hội chủ nghĩa do Đảng của
giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo và nó luôn luôn được coi là “một trong ba mặt trận
(kinh tế, chính trị, văn hoá) để thực hiện mục tiêu “cải tạo xã hội”; phục vụ nhân dân, phục vụ
cách mạng, vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Điều đó hoàn toàn đúng với lời
chỉ d“n của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, khi các ông nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hóa
cách mạng trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù để xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, thực 10
hiện sứ mệnh: giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng con
người và giải phóng nhân loại. Sự đúng đắn và nhất quán đó chứa đựng nhân tố phát triển liên
tục, bền vững, bao hàm văn hóa Đảng trong đó và nó mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Với sự ra đời của Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943, hoạt động của các tổ chức văn
hóa, văn nghệ của Đảng, nhất là hoạt động sáng tạo của các nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ ngày
càng phong phú và sắc bén; họ luôn bám sát nhiệm vụ Đảng giao, phản ánh sắc sảo, sinh động
đời sống thực tiễn đấu tranh cách mạng, kịp thời động viên, cổ vũ phong trào toàn dân thi đua
tăng gia sản xuất, giết giặc lập công, xây dựng đời sống văn hóa mới. Sự “lột xác” của không
ít văn nghệ sĩ thể hiện ở ch’ dám trút bỏ “bộ cánh ủy mị, thướt tha”, tâm hồn mộng mơ, suốt
ngày “mơ theo trăng và vơ v•n cùng mây”, thậm chí “để tâm hồn treo ngược ở cành cây, hay
lả lướt đìu hiu cùng ngọn gió” để quay về với đời sống hiện thực, hòa mình vào cuộc sống
chiến đấu, lao động, học tập của đồng bào, biết “dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ, m’i vần
thơ bom đạn phá cường quyền” (Sóng Hồng). Vì vậy, trong sáng tác và tác ph•m của họ đã
sáng ngời “ánh thép” và các văn nghệ sĩ đã biết “xung phong”. Khẳng định điều này, nhà thơ
Chế Lan Viên đã viết: “Người đã thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi”.
Đi theo cách mạng, tắm mình trong thực tiễn, trực tiếp cầm bút và cầm súng chiến đấu; sử
dụng sáng tạo phương pháp sáng tác xã hội chủ nghĩa, các văn nghệ sĩ nước ta thật sự đã trở
thành những dũng sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, lý luận của Đảng; đã góp phần
to lớn vào việc đưa ánh sáng của Đảng đến với đồng bào, chiến sĩ, củng cố niềm tin chiến
thắng cho họ; qua đó, thổi luồng không khí cách mạng vào đời sống xã hội Việt Nam; làm
cho kẻ thù lo sợ. Nhiều tác ph•m văn học nghệ thuật có giá trị ra đời, khắc họa sinh động hình
tượng “Bộ đội Cụ Hồ”, phản ánh sát thực chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh; có tác dụng tuyên truyền, giáo dục to lớn...
Đáng kể trong kho tàng văn hóa, văn nghệ cách mạng là những bức thư, bài nói, viết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của các văn nghệ sĩ về văn
hoá, văn nghệ; là các văn kiện, tài liệu và nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng; đặc biệt là
Nghị quyết Trung ương 5, khoá VIII (bước phát triển cao dựa trên nền móng Đề cương về văn
hoá Việt Nam năm 1943) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Nhờ đó, đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng ngày càng sáng r•, tỏa sáng;
các tổ chức văn hóa, văn nghệ ở nước ta ngày càng được củng cố, phát huy tốt hơn vai trò, tác
dụng. Lý luận văn hoá, văn nghệ Việt Nam ngày càng phong phú và sắc nét. Văn hóa, văn
nghệ đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công b”ng, văn minh.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho văn hoá thật sự là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đ•y sự phát triển kinh tế - xã hội, nh”m
mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân. Ở nước ta, văn hóa luôn luôn là một
mặt trận; chăm lo xây dựng, phát triển văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã
hội và nó là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức, các văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng. Trong những năm đổi mới toàn diện đất
nước, Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, địa phương, các tổ chức chính trị, văn hóa, xã hội đã và
đang quan tâm xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật, các nghị định,
thông tư nh”m điều chỉnh và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát
triển, phù hợp với tình hình mới. Theo đó, các thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương
cũng được kiện toàn, củng cố và ngày càng được tăng cường. Nhiều công trình văn hóa mới
được xây dựng và đang hoạt động có hiệu quả như thư viện, bảo tàng, tượng đài các anh hùng
dân tộc, danh nhân văn hóa. Đời sống văn hoá, văn nghệ ở cơ sở có bước phát triển, thu hút
đông đảo cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ và bảo tồn
các giá trị văn hoá truyền thống và cách mạng. Việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc trong k£ 11
nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa là những minh chứng hùng hồn khẳng định sự nhất quán, sức sống bền vững của đường
lối văn hóa, văn nghệ đúng đắn đã được Đảng ta vạch ra từ Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943.
K£ niệm 70 năm ngày ra đời Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 là dịp tốt để chúng ta ôn
lại và nhìn thấy r• hơn những giá trị soi đường, tác dụng định hướng của Đề cương; qua đó
nhận thức đúng hơn nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới. Chúng ta đang
đứng trước những thời cơ, vận hội lớn, song cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách
thức mà toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đặt ra cần phải giải quyết.
Để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta
cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, văn nghệ cách mạng; coi sự
nghiệp phát triển văn hóa, văn nghệ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; đầu
tư cho văn hóa, văn nghệ là đầu tư cho con người và cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Vì vậy, giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; đổi mới công tác quy hoạch, kế
hoạch, đầu tư ngân sách xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa mới;
tích cực đào tạo, bồi dưỡng, phát huy các tài năng văn hóa nghệ thuật; kích thích, khơi dậy
tiềm năng sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cũng như đổi mới công tác quản lý các
hoạt động trong lĩnh vực này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong bối cảnh hiện thời, đ•y mạnh và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa
nghệ thuật; phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm là một giải pháp tích cực; tạo ra
động lực mới khuyến khích sự đóng góp sức người, tiền của từ các doanh nghiệp, tổ chức xã
hội và nhân dân để phát triển văn hóa, nghệ thuật là rất cần thiết. Quan tâm khuyến khích các
văn nghệ sĩ lao động sáng tạo để có nhiều tác ph•m, công trình có chất lượng tốt, có tiếng
vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, mang tầm vóc thời đại; có biện pháp tối ưu để
giữ gìn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Đồng thời, tiếp tục sáng tạo, bồi đắp, bổ sung
những giá trị văn hóa mới, trên cơ sở mở rộng hợp tác, giao lưu văn hóa với các nước; tiếp thu
có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tinh hoa văn hóa, nghệ thuật nước ngoài để bổ
sung, làm giàu có bản sắc, tâm hồn, cốt cách, nhân cách người Việt Nam hiện đại. Tích cực
đấu tranh bài trừ các sản ph•m văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy; khắc phục thái độ xem
nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Phấn đấu thực hiện thắng
lợi chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc - định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ mà Đề cương văn hóa Việt Nam năm
1943 đã vạch ra là quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của chúng ta./. 12
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN H,A VIỆT NAM” – GIÁ TR; L;CH S> V8 HIỆN THỰC
Ra đời cách đây 70 năm, nhưng những tư tưởng trong “Đề cương về
văn hóa Việt Nam” vẫn còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.Từ thực tiễn hơn chục năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta nhận
thấy vai trò to lớn của mặt trận văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc. Theo đó, phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ hoạt động về văn hóa,
văn nghệ để gây dựng và thúc đ•y phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc
nh”m chống lại văn hóa phát xít thụt lùi, văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu...
phục vụ cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Do vậy, tại Hội nghị Thường
vụ Trung ương từ ngày 25 đến 28-02-1943, Đảng ta xác định phải có đường lối
lãnh đạo xây dựng nền tảng văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Vì
thế, “Đề cương về văn hóa Việt Nam” đã ra đời. Đây được coi là một sự kiện
chính trị quan trọng, tạo nền tảng ban đầu cho xây dựng nền văn hóa Việt Nam
mới. Từ nhận thức đúng vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã
hội và của phong trào cách mạng, Đề cương xác định: vǎn hóa bao gồm cả tư
tưởng, học thuật, nghệ thuật; nền tảng kinh tế và chế độ kinh tế của xã hội quyết
định toàn bộ vǎn hóa của xã hội đó. Vǎn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế,
chính trị, vǎn hóa); cùng với làm cách mạng chính trị, còn phải làm cách mạng
vǎn hóa; có lãnh đạo được phong trào vǎn hóa, Đảng mới định hướng được dư
luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Với bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó, khi “vǎn hóa nửa phong kiến, nửa
tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa”1 thống trị, thì sự ra đời của “Đề
cương về văn hóa Việt Nam” là cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng; là ngọn
đuốc sáng soi đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm
hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam. Nó đã lôi cuốn và tập hợp đông đảo những người hoạt động
văn hóa yêu nước vào Hội Văn hóa cứu quốc - một thành viên của Mặt trận Việt 13
Minh - để chu•n bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa vào tháng 8-1945. Chính vì vậy,
Đảng ta đã nhấn mạnh: “Những phương pháp cải cách vǎn hóa đề ra bấy giờ chỉ
là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”2, tức là chu•n bị cho “cách
mạng chính trị thành công”.
Trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng
duy vật, “Đề cương về văn hóa Việt Nam” đã luận giải một cách sắc sảo tình
hình tư tưởng, văn hóa, xã hội Việt Nam những năm đầu thế k£ XX, chỉ ra sự
tác động của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tội ác tột cùng của phát xít
Nhật cùng thực dân Pháp cấu kết với bọn tay sai, bán nước. Đề cương cũng chỉ
r• bản chất, âm mưu, thủ đoạn dã man, tàn ác của phát xít Nhật và thực dân
Pháp trong việc trói buộc và bức tử nền văn hóa nước ta. Qua đó, cảnh báo nguy
cơ có thể bị diệt vong đối với một quốc gia dân tộc có bề dày truyền thống lịch
sử, văn hóa, nhưng đang mất độc lập, chủ quyền.
Vì vậy, nhiệm vụ cần kíp lúc bấy giờ được Đảng ta khẳng định là phải
đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của quân xâm lược và bè lũ tay sai, cứu
lấy nước, giữ lấy nhà, bảo vệ cho được các giá trị văn hóa dân tộc, ph•m giá,
nhân cách con người Việt Nam. Để làm tròn sứ mệnh cao cả, thiêng liêng của
mình, Đảng ta khẳng định: “Cách mạng vǎn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng
Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”3 và nó phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
mác xít - lêninnít. Theo đó, mục tiêu, con đường, phương pháp thực hiện cuộc
cách mạng văn hóa ở nước ta phải nắm vững “Ba nguyên tắc:
a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho vǎn
hóa Việt Nam phát triển độc lập).
b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hóa
phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa
học, phản tiến bộ)”4. Đảng ta cũng khẳng định: “Muốn cho ba nguyên tắc trên
đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hóa bảo thủ, chiết trung, lập
dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng
vǎn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”5. Ngay sau khi “Đề cương về văn hóa Việt 14
Nam” được công bố, những người cộng sản và các nhà văn hóa, trí thức yêu
nước đã nhiệt tình ủng hộ, tổ chức nhiều cuộc vận động xây dựng nền văn hóa
mới - văn hóa cách mạng. Trong các văn kiện, sách báo của Đảng, trên các
phương tiện thông tin đại chúng lúc bấy giờ, đều nhất quán khẳng định giá trị tư
tưởng, quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” của “Đề cương về văn hóa Việt
Nam”, quyết tâm thực hiện và đưa vào đời sống quan điểm, tư tưởng, mục tiêu
và ba nguyên tắc của nền văn hóa Việt Nam mà Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ ra. Đồng thời, làm cho "xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố
vượt hết mọi trở lực để nảy nở... ", xâm nhập ngày càng sâu, rộng vào đời sống
nhân dân và phong trào cách mạng đang lên.
2. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là thành tựu của công cuộc đổi
mới gần 27 năm qua đã chỉ ra r”ng, cái gốc của đường lối văn hóa, văn nghệ
chính là “Đề cương về văn hóa Việt Nam”; và từ cái gốc rễ “nguồn cội” ấy,
“cây” văn hóa, văn nghệ XHCN ở nước ta ngày càng phát triển, thu được nhiều
thắng lợi. Cái gốc rễ “cội nguồn” của nền văn hóa mới, văn hóa XHCN, của
đường lối văn hóa, văn nghệ ở nước ta, suy cho cùng, là đường lối chính trị
đúng đắn, sáng tạo, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt quá
trình cách mạng Việt Nam, văn hóa, văn nghệ XHCN đều do Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam lãnh đạo và luôn được coi là “một trong ba mặt trận” để
thực hiện mục tiêu cải tạo xã hội, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Sự
đúng đắn và nhất quán đó chứa đựng nhân tố phát triển liên tục, bền vững, bao
hàm văn hóa Đảng trong đó và mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Kể từ khi “Đề cương về văn hóa Việt Nam” ra đời đến nay, hoạt động của
các tổ chức văn hóa, văn nghệ của Đảng, nhất là hoạt động sáng tạo của các nhà
báo, nhà văn, nghệ sĩ ngày càng phong phú. Họ luôn bám sát nhiệm vụ của cách
mạng, phản ánh sắc sảo, sinh động đời sống thực tiễn đấu tranh cách mạng; kịp
thời động viên, cổ vũ phong trào toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập
công, xây dựng đời sống văn hóa mới. Giương cao ngọn cờ cách mạng, tắm
mình trong thực tiễn, trực tiếp cầm bút và cầm súng chiến đấu, sử dụng sáng tạo
phương pháp sáng tác XHCN, các văn nghệ sĩ nước ta thật sự đã trở thành 15
những chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng; đã góp phần to lớn
vào việc đưa ánh sáng văn hóa của Đảng đến với đồng bào, chiến sĩ, củng cố
niềm tin chiến thắng cho họ. Qua đó, thổi luồng không khí cách mạng vào đời
sống xã hội Việt Nam; đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhiều tác ph•m văn học, nghệ thuật
có giá trị ra đời, khắc họa sinh động hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ”, phản ánh sát
thực chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; có tác dụng tuyên
truyền, giáo dục to lớn... Nhờ đó, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ngày
càng sáng r•, các tổ chức văn hóa, văn nghệ ở nước ta ngày càng được củng cố,
phát huy tốt hơn vai trò, tác dụng. Lý luận văn hóa, văn nghệ Việt Nam ngày
càng phong phú và sắc nét. Văn hóa, văn nghệ đã và đang có những đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công b”ng, văn minh”.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta đang ra sức xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong k£
nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; làm cho văn hóa thật sự là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đ•y sự phát triển kinh
tế - xã hội, nh”m mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân. Trước
đây cũng như hiện nay, ở nước ta, văn hóa luôn luôn là một mặt trận, văn nghệ
sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Chăm lo xây dựng, phát triển văn hóa, văn nghệ là
chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội và nó là sự nghiệp của toàn dân,
của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức, các văn
nghệ sĩ giữ vai trò nòng cốt. Hiện nay, Đảng, Nhà nước, các ban, bộ ngành, địa
phương, các tổ chức chính trị, văn hóa, xã hội đã và đang quan tâm xây dựng
mới, bổ sung, hoàn thiện nhiều văn bản nh”m điều chỉnh và tạo hành lang pháp
lý cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển, phù hợp với tình hình mới.
Các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương cũng được kiện toàn, củng
cố và tăng cường. Nhiều công trình văn hóa mới được xây dựng và đang hoạt
động có hiệu quả. Đời sống văn hóa, văn nghệ ở cơ sở có bước phát triển, thu
hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng 16
thụ và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống cách mạng; đồng thời, tích cực
đấu tranh ngăn chặn, đ•y lùi các tệ nạn, xóa bỏ các sản ph•m văn hóa có nội
dung xấu độc, mê tín dị đoan, không để nó th•m thấu, lan truyền vào đời sống
cộng đồng, dân cư. Việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là những minh chứng khẳng
định sức sống bền vững của đường lối văn hóa, văn nghệ đã được Đảng ta vạch
ra từ “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, chúng ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội lớn; song, cũng đang
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mà toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đặt ra. Đi theo ánh sáng của “Đề
cương về văn hóa Việt Nam”, chúng ta cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với sự nghiệp văn hóa, văn nghệ. Cần tuyên truyền, nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò của văn hóa, văn nghệ cách mạng; coi sự nghiệp phát triển
văn hóa, văn nghệ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội; đầu tư
cho văn hóa, văn nghệ là đầu tư cho con người và cho phát triển kinh tế - xã hội
bền vững. Vì vậy, giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; đổi mới công
tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư ngân sách xây dựng, phát triển các thiết chế văn
hóa, công trình văn hóa mới; tích cực đào tạo, bồi dưỡng, phát huy các tài năng
văn hóa, nghệ thuật; kích thích, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân cũng như đổi mới công tác quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đồng thời, chủ động, tích cực thực hiện tốt chủ
trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật; kết hợp chặt chẽ phương thức
Nhà nước và nhân dân cùng làm; tạo ra động lực mới khuyến khích sự đóng góp
sức người, sức của từ các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân để phát triển
văn hóa, nghệ thuật. Quan tâm khuyến khích các văn nghệ sĩ lao động sáng tạo
để có nhiều tác ph•m, công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh
hưởng sâu rộng trong xã hội, mang tầm vóc thời đại; có biện pháp tối ưu để giữ
gìn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Mặt khác, phải tiếp tục sáng tạo, bồi
đắp, bổ sung những giá trị văn hóa mới, trên cơ sở mở rộng hợp tác, giao lưu 17
văn hóa với các nước; tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tinh
hoa văn hóa, nghệ thuật nước ngoài để bổ sung, làm giàu thêm bản sắc, tâm hồn,
cốt cách, nhân cách người Việt Nam.
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng, mục tiêu, nguyên tắc mà “Đề
cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 đã vạch ra là nhiệm vụ chính trị hết sức
quan trọng trong tình hình hiện nay. Đó cũng là quyền lợi và trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN BÁ DƯƠNG
Phó Viện trưởng Viện KHXHNVQS – Bộ Quốc phòng _________
1, 2 - ĐCSVN - Văn kiện Đ1ng To,n tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 317, 319.
3, 4, 5 - Sđd, tr. 318, 319. 18
Sức sống mãnh liệt của "Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam"
Thứ năm, 18/07/2013, 19:27 (GMT +7) Print+|-Font Size:A
PTO- Ngày 16 tháng 7 năm 1948 Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai chính
thức khai mạc tại xã Đào Giã, huyện Thanh Ba (hội nghị diễn ra trong 3 ngày từ 16 đến 20-7).
Hội nghị đã tập trung hầu hết các nhà lãnh đạo, các nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ
nổi tiếng trong toàn quốc về dự. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt đến
hội nghị này. Ngay trước ngày khai mạc hội nghị (ngày 15/7/1948) Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho hội nghị, Người viết: “Trong sự nghiệp kháng chiến
kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày
chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hóa ta đã cố gắng và đã có
thành tích. Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hóa
kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, các nhà văn hóa ta
cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng”. Tiếp đó Người cũng nêu nhiệm
vụ cụ thể của văn hóa là: “Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh
thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của dân, mà cũng phải nêu r• những
thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hóa ta
phải có những tác ph•m xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc bây giờ mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng
chiến kiến quốc cho hậu thế”.
Tại Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc bản báo cáo quan trọng
“Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”. Bản báo cáo là cương lĩnh quan trọng về
chủ trương, đường lối lãnh đạo văn hoá của Đảng một cách r• ràng hơn lúc nào hết.
Đây cũng là lần đầu tiên Đảng ta chính thức nêu lên một cách hệ thống, toàn diện
các quan điểm về văn hoá và phát triển văn hoá theo lập trường Mác-xít của Đảng.
Bản cương lĩnh đã cụ thể hoá nội dung của Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943
của Đảng trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử với ba nguyên tắc phát triển văn hoá Việt Nam là Dân tộc, Khoa học,
Đại chúng. Cương lĩnh này ngoài phần mở đầu và kết luận với những lời lẽ đanh
thép, nội dung được chia làm 7 phần. Phần I: Văn hoá và xã hội; phần II: Lập 19
trường văn hoá Mác -xít; phần III: Văn hoá Việt Nam xưa và nay; phần IV: Tính
chất và nhiệm vụ văn hoá dân chủ mới Việt Nam; phần V: Mặt trận văn hoá thống
nhất trong mặt trận dân tộc thống nhất; phần VI: Văn hóa Việt Nam trong mặt trận
văn hoá dân chủ thế giới; phần VII: Mấy vấn đề cụ thể trong văn học và nghệ thuật nước ta hiện nay.
Sau khi phân tích sâu sắc một số vấn đề lý luận Mác-Lênin về văn hoá, đồng chí
Trường Chinh đã chỉ r• lập trường văn hoá cách mạng nhất trên thế giới và nước ta
hiện nay là: "Về xã hội lấy giai cấp công nhân làm gốc, về chính trị lấy độc lập, dân
chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc. Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử làm gốc. Về sáng tác, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc".
Về tính chất và nhiệm vụ văn hoá dân chủ mới Việt Nam, đồng chí Trường Chinh
khẳng định: "Mục đích của những người làm văn hoá Việt Nam chúng ta là thắng
địch, giữ nước; làm cho dân mạnh, dân tiến, dân tin, dân vui; là chống văn hoá nô
dịch, ngu dân của thực dân Pháp, khắc phục những tư tưởng phong kiến, lạc hậu
trong văn hoá nước nhà, là xây dựng một nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam và
góp phần vào kho tàng văn hoá thế giới. Đồng chí cho r”ng văn hoá dân chủ mới
Việt Nam phải gồm đủ ba tính chất: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng; phải chống lại
tính chất nô dịch, thuộc địa trong văn hoá Việt Nam cũ; chống lại mọi tư tưởng yếu
đuối, £ lại, thiếu tự tin. Do tính chất văn hoá dân chủ mới đo, các chiến sĩ trên mặt
trận văn hoá phải thực hiện ba phương châm của công tác vận động văn hoá mới là:
Dân tộc hoá, khoa học hoá và đại chúng hoá. Trách nhiệm của các chiến sĩ văn hoá
là phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với kháng chiến, không
thoả hiệp với tư tưởng và văn hoá phản động, không trung lập, không giữ thái độ
bàng quan; ra sức nghiên cứu khoa học, k¢ thuật để áp dụng vào sản xuất, chiến
đấu và đời sống con người, lấy học thuyết của chủ nghĩa Mác làm kim chỉ nam cho
hành động, biết và làm đi đôi, lý luận phải biết kết hợp với thực tiễn; một lòng một
dạ phục vụ nhân dân, gần gũi quần chúng, cảm thông và học hỏi quần chúng. Đồng
chí Trường Chinh cũng nêu bật nhiệm vụ của những người làm công tác văn hoá,
văn nghệ lúc này là phải có lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân; phải thâm
nhập quần chúng nhân dân, dấn mình trong phong trào cách mạng sôi động của dân tộc để sáng tác và phản ánh.
Bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” của đồng chí Trường Chinh là
một tác ph•m lý luận sắc bén về đường lối, phương châm văn hoá của Đảng ta, đặt
nền móng cho mặt trận thống nhất văn hoá Việt Nam, đồng thời xác định nhiệm vụ
chân chính của những người làm công tác văn hoá trong sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc của dân tộc. Bản báo cáo đã gây được tiếng vang lớn, là lời hiệu triệu tập 20