







Preview text:
ĐỀ CƯƠNG HÀ NỘI HỌC
Câu 1: Địa hình của Hà Nội: đặc điểm, lợi thế.
Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là trung tâm chính trị, kinh tế
và văn hóa hàng đầu của đất nước. Hà Nội thuộc Đông Bắc Bộ, nằm ở phía hữu ngạn sông Đà,
hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Trải qua quá trình biến đổi, ngày nay, địa
hình Hà Nội chủ yếu là núi, đồi và đồng bằng. Trong đó phần lớn diện tích của Thành phố
là vùng đồng bằng, thấ p dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng dòng chảy của sô ng Hồng.
Về địa hình đồi núi, đồi núi tập trung ở phía Bắc và phía Tây, khu vực Ba Vì với đỉnh
Đinh Vua cao 1296m , núiĐỉnh Tản Viên cao 1227m, Đỉnh Ngọc Hoa cao 1131m; các huyện Sóc Sơn, Mê Linh
núi Chân Chim 462m, Núi Sóc, Thanh Tước vớihuyện Q ; uốc Oai có núi
Sài Sơn 104m, huyện Mỹ Đức có núi Thiên Trù 378m. Trong đó Ba Vì là một khối núi cao
nhất và nằm ở phía Tây Bắc Hà Nội. Đồi núi ở khu vực nội thành không cao quá 20m và tập
trung chủ yếu ở quận Ba Đình, như Núi Sưa cao 16m, Núi Cung cao nhất 18m, Núi Cột Cờ cao 13m,...
Địa hình đồi núi với sự góp mặt của các khối núi, đặc biệt là khối núi Ba Vì đã góp
phần đem lại những lợi thế cho Hà Nội. Trước hết nó đóng vai trò điều hòa thời tiết cho Hà
Nội, cung cấp độ ẩm trong không khí, làm giảm đi sự oi ả, nóng bức trong những ngày nắng
hấp thụ khí thải làm giảm đi tình trạng ô nhiễm môi trường,nóng, gây nên hiệu ứng nhà kính.
Địa hình đồi núi cũng là trụ cột của hệ sinh thái. Theo đai cao, núi Ba Vì là trụ cột của các
hệ sinh thái đồi và núi thấp ( gồm cả hệ sinh thái dưới nước, trên cạn ). Cũng chính từ đa dạng
địa học khi có tới 17 thành tạo địa chất với thành phần đất đá từ gắn kết rắn chắc đến bờ rời,
nguồn gốc biến chất, trầm tích, magma và tuổi khác nhau, các hệ sinh thái ở khu vực núi Ba Vì
và lân cận cũng có tính đa dạng sinh học cao. Đây cũng là một trong những lý do để khu
vực núi Ba Vì được công nhận là Vườn Quốc Gia, đóng góp quan trọng trong bảo vệ tính
nguyên vẹn của hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, nghiên cứu
khoa học về bảo tồn và phát triển, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng.
Về giá trị kinh tế, vùng đồi núi thấp và trung bình ở phía Bắc Hà Nội cũng thuận lợi cho
xây dựng, phát triển công nghiệp, lâm nghiệp và tổ chức nhiều loại hình du lịch.
Vùng đồi núi cao và trung bình như núi Ba Vì, Sóc Sơn cũng phát triển du lịch với nhiều
loại hình như nghiên cứu khoa học, tham quan ngoại khóa cho học sinh phổ thông và sinh
viên một số ngành liên quan, du lịch sinh thái, văn hóa tâm linh. Hiện nay khu vực vùng
núi Ba Vì và phụ cận cũng được quy hoạch để phát triển vùng du lịch sinh thái của Hà
Nội như khu du lịch Ao Vua Ba Vì, nhà thờ đổ Ba Vì, khu du lịch sinh thái Long Việt, Quần
thể đền Sóc Sơn – Phù Đổng Thiên Vương, Núi Hàm Lợn, Núi Đôi Sóc Sơn, chùa Non
Nước,...Địa hình đồi núi có nhiều sông núi cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc xây
dựng các công trình thủy điện, cung cấp nguồn điện cho thành phố và các khu vực lân cận.
Về địa hình đồng bằng, đồng bằng ở Hà Nội chiếm diện tích rất lớn, thấp dần từ
Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng dòng chảy của sông Hồng, phân bố ở các huyện Thanh
Trì, Gia Lâm, các quận nội thành và một phần nhỏ ở huyện Đông Anh. Độ cao của bề mặt địa
hình này đạt từ 4-5 đến 8-10m so với mực nước biển, đồng bằng thấp và tương đối bằng
phẳng. Địa hình được bồi đắp bởi các dòng sông và các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao và các bậc
thềm, xen giữa là các vùng trũng với các hồ, đầm. Việc địa hình có nhiều ô trũng, thấp dễ
gây ngập lụt kéo dài và cuốn trôi hoa màu vào mùa mưa. Do Hà Nội
nằm ở đồng bằng sông hồng, phía B, TB được bao quanh bởi các dãy núi nên đất chủ yếu là
đất phù sa và feralit. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các hoạt động nông nghiệp:
thâm canh trồng lúa nước, cây ăn quả, cây hằng năm ngắn ngày. Hà Nội có tổng diện tích đất
tự nhiên là 92.097 ha trong đó S đất nông nghiệp chiếm đến 47,4%.
Có nhiều nhà nghiên cứu cả trong nước và quốc tế đều cho rằng, Hà Nội là một
“thành phố sông hồ”. Trước hết về sông ngòi, địa hình Hà Nội có nhiều dòng sông chảy
quanh như sông Hồng, sông Đà, sông Đuống, sông Cà Lô, sông Cầu, sông Tô Lịch, sông Nhuệ,
sông Đáy, sông Tích với tổng chiều dài lên tới 600 km. Nhà sử học. Trần Quốc Vượng đã nói
“Thăng Long xưa nằm ở vị trí “Tứ giác nước” hay câu ca dao “Nhĩ Hà quanh Bắc sang
Đông/ Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này” đã đúc kết địa thế của Hà Nội – Thành phố
trong sông. Tứ giác nước được hình thành bởi sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim
Ngưu. Trong đó, sông Hồng chảy qua Hà Nội theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, vòng từ phía
Bắc sang phía Đông trung tâm thành phố. Còn sông Kim Ngưu và Tô Lịch ở phía Tây và
Nam. Tứ giác nước Thăng Long bao gồm 4 cửa ô, ô Cầu Giấy nằm ở ngã ba sông Tô Lịch –
Kim Ngưu, ô Đồng Lâm ở ngã ba sông Kim Ngưu – sông Sét, ô Đống ở ngã ba sông Kim
Ngưu – sông Lừ và ô Bưởi ở ngã ba sông Tô Lịch – Thiên Phù. Những con sông bao quanh và
chảy trong lòng Hà Nội đã cung cấp nguồn nước lớn, cho đời sống sinh hoạt hằng ngày của
người dân, bồi đắp phù sa giúp cho sản xuất nông nghiệp được phát triển, xây dựng các
khu công nghiệp...Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các công trình thủy điện lớn
như: Hòa Bình, Sơn La,...không chỉ phát điện mà còn điều tiết dòng chảy, giúp hạn chế về lũ l B
ụt. ên cạnh đó, nhiều cầu được xây dựng như: Chương Dương, Thăng Long, Thanh Trì,
Vĩnh Tuy.. là tuyến đường giao thông, làm cho giao thông không bị hạn chế. Giao thông
đường thủy phát triển thuận lợi cho việc buôn bán và trao đổi hàng hóa, làm cho quá trình đô
thị hóa tăng nhanh, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hồ ở Hà Nội có hai loại hồ là hồ tự nhiên và hồ nhân tạo. Về hồ tự nhiên, vùng
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội là một vùng đất thấp và có thể nói là được khai phá muộn
nhất so với các khu vực khác ở phía Bắc và Tây, vì vậy lúc bấy giờ vùng đất phần lớn nội
thành Hà Nội có rất nhiều hồ, đầm lầy. Các hồ từ nhiên ở Hà Nội đều có nguồn gốc sông được
hình thành theo hai cách, hoặc là khúc uốn của sông hay còn gọi là hồ móng ngựa như Hồ
Tây, hồ Linh Đàm, hồ Đầm Viên,..., hoặc là những đoạn lòng sông bị bỏ rơi hay còn gọi là
lòng sông cổ như hồ Hoàn Kiếm, đầm Vân Trì huyện Đông Anh, Yên Mĩ huyện Thanh
Trì,...Song quá trình đô thị hóa, phát triển kinh tế đã khiến diện tích mặt hồ, đầm đã giảm
đi rất nhiều, thậm chí có hồ, đầm đã hoàn toàn biến mất như hồ Đầm Nấm, Đầm Sen, Bà
Đồ,...Mặc dù số lượng hồ tự nhiên còn lại không nhiều, nhưng nó vẫn đóng góp vai trò to lớn
trong việc điều hòa khí hậu ở Hà Nội, làm cho khí hậu dịu hơn, điều hòa lưu lượng nước
thải trong thành phố. Nó cũng là một đặc trưng tạo nên những mảng xanh tự nhiên đặc
biệt cho thành phố, khác biệt với nhiều đô thị khác như TP HCM vốn rất ít ao hồ và dày đặc
dân cư. Một số hồ còn trở thành một phần của các công viên, tạo cảnh quan, nơi tham
quan, vui chơi như hồ trong vườn bách thảo, hồ Bảy Mẫu trong Công viên Thống
Nhất, hồ Thủ Lệ trong Vườn Bách thú, hồ Nghĩa Đô, Yên Sở trong các công viên cùng tên.
Một số hồ lớn, nổi tiếng như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm còn giúp phát triển du lịch, thúc đẩy
kinh tế của Hà Nội. Như Hồ Tây nằm ở phía Tây-Bắc nội thành, là dấu tích của dòng sông
Hồng trước đây, trong thời kỳ phong kiến người ta đã cho xây dựng nhiều cung điện như cung
Thúy Hoa, Tứ Hoa, điện Hàm Nguyên hay các đền, chùa như Đền Quán Thánh, Chùa Một Cột,
Châu Long,...Hơn thế, ven Hồ Tây hiện nay là một thắng cảnh tự nhiên ít bị cải tạo nhất, quanh
hồ có những con đường nổi tiếng như Lạc Long Quân, Âu Cơ,...nhiều làng hoa nổi tiếng như
Nghi Tàm, Tây Hồ, Đại Yên.... Hay Hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm nội thành thuộc quận
Hoàn Kiếm, còn có tên gọi khác là Hồ Lục Thủy do nước hồ quanh năm có màu lục, giữa hồ
có Tháp Rùa, góc Đông Bắc có cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn, Đền Bà Kiệu, Chùa Bà Đá,
tượng đài vua Lê Lợi,... Tất cả các yếu tố trên đã thu hút lượng lớn khách du lịch cả trong và
ngoài nước đến tham quan, xung quanh cũng từ đó phát triển các khách sạn, nhà hàng,...góp
phần quảng bá ẩm thực, văn hóa, lịch sử của Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
Về hồ nhân tạo, các hồ này hầu hết được xây dựng ở phía Tây, nơi có địa hình đồi
núi và núi đá vôi. Các hồ này có diện tích tương đối lớn, hồ Suối Hai có diện tích
700-800ha, hồ Quan Sơn- Tuy Lai 700ha,...Các hồ nhân tạo đã mang lại nhiều lợi ích về
nhiều mặt cho cuộc sống của người dân trong vùng. Nó đóng vai trò trong việc điều tiết chế
độ thủy văn, điều hòa khí hậu, giảm lũ và phục vụ cho sản xuất nghiệp, phát triển nuôi
trồng thủy sản, đem lại giá trị cả về mặt khoa học và thực tiễn. Bản thân các hồ cũng đồng
thời là các công trình văn hóa của con người, Hồ Quan Lâm – Tuy Lai được mệnh danh là
“Hạ Long trên cạn của Hà Nội” khi trong hồ chứa tới gần 100 hòn đảo và một số bán đào, hồ
Đồng Đò ở Sóc Sơn, hồ Đồng Mô ở Sơn Tây,...đã trở thành khu du lịch, khu dã ngoại nổi tiếng.
Thúc đẩy du lịch cho khu vực, phát triển kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người dân.
Câu 2: Thăng Long thời Lý – Trần (từ năm 1010 đến năm 1400)
1. Thăng Long thời Lý:
- Từ trong hoang tàn đổ nát sau chiến tranh, từ nền kinh tế què quặt với cơ sở vật chất yếu kém,
tài nguyên bị khánh kiệt bởi ngoại bang vơ vét, nên khi nước nhà vừa độc lập, trong điều kiện
vừa hoà bình, nhân dân ta liền bước vào công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Nếu dưới
triều Ngô, Đinh, công cuộc xây dựng này chưa đạt thành tựu là bao thì sang triều Lê, công cuộcTừ
triều Lý trở xây dựng đó bước đầu được phục hồi, ít nhiều có sự phát triển. đi
(1009 -1225), nhất là thế kỷ XI, công cuộc xây dựng đó thật sự có quy mô lớn, đặt nền tảng cho
sự phát triển toàn diện và vững chắc. Việc vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại
La và đổi tên Thăng Long vào mùa thu năm 1010 là một sự kiện quan trọng, có ý nghĩa lớn với
mục đích “đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”. Kể từ
đó, Thăng Long chính thức trở thành kinh đô quốc gia Đại Việt và Thăng Long giữ vai trò này
gần như liên tục trong gần 10 thế kỷ qua.
- Nhờ vậy mà kinh tế dưới triều Lý được phát triển:
+một trong những chính sách rất quan trọng của nhà Lý là tổ chức, xây dựng lực lượng vũ
trang theo chính sách “Ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nhà nông), nhờ vậy nông nghiệp cũng có
lực lượng sản xuất và khi đất nước có chiến tranh cũng huy động dễ dàng+ nông nghiệp được
chú trọng; việc khẩn hoang và xây dựng những công trình thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp với quy mô lớnđã được chú ý nhiều
+ các ngành nghề thủ công như dệt, gốm, luyện kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đồng đã đạt đến
trình độ cao về kỹ thuật lẫn nghệ thuật
+ giao thông, thương mại không chỉ phát triển trong nước mà còn mở rộng sang các nước lân cận trong khu vực
→ Nhờ thành quả kinh tế mà tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn hoá giáo
dục. Việc học tập thi cử đào tạo nhân tài, xây dựng đất nước được các vua nhà Lý chăm lo. Vua
nhà Lý đã xây dựng Văn Miếu (1070), mở khoa thi tam giáo đầu tiên trong lịch sử giáo dục khoa
cử nước ta (1075) rồi thành lập Quốc tử giám (1076) chính là cắm cái mốc cho sự nghiệp đại phục hưng đó.
- Nghệ thuật chạm trổ, điêu khắc trên gỗ, trên đá, trên gốm thời này đã thể hiện một phong
cách đặc sắc và đạt trình độ kỹ thuật cao. Đặc biệt hình tượng con rồng thời này – một vật linh
của người Việt, với dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển là một hình tượng nghệ thuật độc đáo
Như vậy, về phương diện văn hoá, đời Lý đã đặt nền tảng cho giai đoạn phát triển rực rỡ của
nền văn hoá dân tộc mà các sử gia gọi đó là “Văn hoá Thăng Long ” để các triều đại sau kế tục phát triển.
- Thăng Long thời Lý được quy hoạch rộng rãi, định hình rõ quy mô của một đô thị - kinh kỳ.
Từ thời Lý, cấu trúc “tam trùng thành quách” đã định hình rõ ràng. Vòng thành trong cùng
bao bọc nơi ở của vua, gọi là Cấm thành, vòng thành giữa bao bọc nơi nhà vua và triều đình
làm việc, bao trọn cả Cấm thành, là Hoàng thành, hay còn gọi là Long thành. Vòng thành
ngoài cùng bao bọc nơi ở của quan lại, thái tử, hoàng tử, anh em họ hàng nhà vua và dân
chúng, gọi là Đại La thành. Vùng đất nằm giữa Hoàng thành và Đại La thành gọi là Kinh
thành. Thời Lý, Kinh thành Thăng Long được chia làm 61 phường là nơi ở, làm ăn, sản xuất
và buôn bán của nhân dân. Nguyên nghĩa của chữ “phường” là “ô đất vuông”. Người dân
thường mở cửa hàng bán sản phẩm của phường mình ở ven các con phố chạy qua phường,
hình thành nên các con phố buôn bán chủ yếu chung một mặt hàng và phố được gọi tên theo
mặt hàng kinh doanh từ đó. Điều này lý giải vì sao Thăng Long – Hà Nội cổ có những con
phố mang tên Hàng Đồng, Hàng Nón, Hàng Tre.
- Nhà Lý đóng đô ở Thăng Long từ 1010 đến 1226, qua 9 đời vua trong đó vua cuối cùng là vua bà Lý Chiêu Hoàng.
2. Thăng Long thời Trần: -
Nhà Trần được thành lập nhờ mưu kế của Thái sư Trần Thủ Độ, thông qua cuộc hôn nhân
giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, bắt
đầu thời kì nắm quyền của nhà Trần từ năm 1226 đến năm 1400. -
Kinh thành Thăng Long so với đời Lý thì đời Trần được quy hoạch lại thành hai khu riêng
là cung Thánh Từ và cung Quan Triều. Bên cạnh Thăng Long, Thiên Trường cũng được xây
dựng thành kinh đô thứ hai, chủ yếu làm nơi ở và làm việc của Thái Thượng Hoàng -
Sang thời Trần (1225-1400) trong vòng 30 năm, kinh thành Thăng Long chiến thắng quân
Nguyên-Mông. Chiến tranh vừa kết thúc, hoà bình vừa lập lại, triều đình đã động viên nhân dân
phục hồi kinh tế và phát triển văn hoá một cách toàn diện trên cơ sở tinh thần độc lập mạnh mẽ
và một ý thức tự hào dân tộc sâu sắc. Điều đáng lưu ý là chữ Nôm thời này đã được phổ biến và
được sử dụng để sáng tác. Đây là một biểu lộ ý thức độc lập trên lĩnh vực văn hoá. -
Việc học hành thi cử, so với đời Lý, giờ đây đã đi vào quy củ và được chính quy hoá.
Nhà nước đã đặt ra lệ thi các kỳ thi và đặt ra các học vị chính thức trong thi cử để sĩ tử phấn đấu.
Việc học không chỉ đóng khung ở kinh thành mà còn mở rộng ra các địa phương đến các lộ,
các phủ, các châu. Chứng minh bằng việc năm 1246 Nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi. -
Nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ đã kế thừa những thành tựu có tính truyền thống từ đời
Lý và phát triển thêm, mang tính phóng khoáng, khoẻ khoắn và hiện thực, đáp ứng được yêu cầu
tinh thần của thời đại. Tiêu biểu nhất cho phong cách là hình tượng con rồng với dáng vẻ chắc
nịch, khoẻ khoắn, hùng dũng, mang được hào khí của thời đại chiến đấu oai hùng, chiến thắng ngoại xâm. -
Sẽ thật là một thiếu sót lớn nếu quên kể ra đây bốn công trình nổi tiếng được mệnh danh
là “An Nam tứ đại khí” của thời đại là tháp Báo Thiên, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, chuông
Quy Điền và vạc Phổ Minh.
Từ trình bày trên ta kết luận rằng, Đại Việt thời Lý Trần đã là một thực thể quốc gia thống
nhất khá cao với điểm kết tụ là Thăng Long. Bằng sự tổng hợp “quyền lực” chính trị, kinh tế
và văn hoá, Thăng Long thời Lý Trần đã đóng một vai trò mang tính quyết định đến sự nghiệp
phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, trở thành biểu tượng và hình ảnh
dân tộc của một trong những trang hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam.
Câu 3: Tín ngưỡng thờ Tổ nghề của cư dân Hà Nội
Hà Nội, với các biến đổi và sự thăng trầm, đã thu hút người Việt từ khắp nơi tới sinh cơ lập
nghiệp. Quá trình dựng làng, lập phố đã tạo nên nét độc đáo của mảnh đất kinh kỳ với Ba mươi
sáu phố phường - nơi hội tụ của những cửa hiệu buôn bán. Thợ thủ công từ các tỉnh lân cận
không chỉ giới thiệu hàng hóa, họ còn đem tới cả kỹ nghệ sản xuất, rồi lập đình, đền thờ vị tổ
nghề đã có công truyền nghề cho tổ tiên của họ. Qua hàng nghìn năm, dấu vết của các làng nghề
cổ xưa vẫn còn in dấu ấn trên những mái đình, ngôi đền cổ kính nằm rải rác trong khu phố cổ Hà Nội hôm nay.
Tổ nghề (còn gọi là Tổ sư, Thánh sư và Nghệ sư) Là người phát minh, sáng lập và gây dựng
một nghề (thường sẽ là nghề thủ công mỹ nghệ) hoặc là người đầu tiên đem nghề truyền lại
cho dân chúng một làng hay miền nào đó. Người dân nhớ ơn của họ mà tôn thờ như bậc Thánh.
Tổ nghề có thể là nam giới hoặc nữ giới.
Tín ngưỡng thờ "tổ nghề" là một trong những nét độc đáo của văn hóa Việt Nam, đó là hình
thức thờ cúng những người đã có công sáng tạo ra nghề mới hoặc mang nghề từ nơi khác về
truyền dạy cho nhân dân địa phương, để từ đó phát triển thành một nghề truyền thống, gắn bó
với tên tuổi mỗi vùng.
Tín ngưỡng thờ tổ nghề mang lại nhiều ý nghĩa và giá trị cho con người Việt Nam nói chung và
người Hà Nội nói riêng. Trong đời sống kinh tế, tín ngưỡng này giúp người dân trong nghề
duy trì được nghề của
c ó ý thức bảo vệ và gìn giữ uy tín của nghề mì . nh,Giúp mở mạng lưới
chợ; để có thể giới thiệu, quảng bá những sản phẩm đến được với người tiêu dùng, những
người thợ thủ công ở Thăng Long đã liên kết lại và lập những khu phố riêng để bán hàng:
“Những người bán tơ lụa tới phố Hàng Đào, những người làm cuốc xẻng tới phố Hàng Đồng,
những người làm mũ tới phố Hàng Mũ, tóm lại thợ gì tới phố dành cho thợ ấy”. Tín ngưỡng
này còn hỗ trợ cho sự liên kết tạo nên tinh thần đoàn kết giữa những người trong nghề với
nhau, con người phố xá với nhau trong sản xuất, kinh doanh, mỗi phường nghề đều có những
hoạt động nhằm giúp đỡ lẫn nhau khi trong phường nghề có người gặp khó khăn về nguồn vốn,
nguyên vật liệu, khách hàng, hoặc việc làm. Phường chạm bạc Đồng Xâm ra phố Hàng Bạc
làm nghề từ xưa có quy định thành lệ: “Thợ Đồng Xâm hành nghề trong thiên hạ. Một ngày
nào đó, nếu thấy xuất hiện một người - dù không quen biết, trên tay cầm một chiếc lông gà
hoặc hòn than, ấy là dấu hiệu kêu cứu của thợ bạn đang gặp nạn. Nếu họ cần tiền hãy giúp tiền,
cần sức hãy giúp sức. Nếu họ chưa có việc làm thì tạo công ăn việc làm cho họ tùy khả năng
mình có”. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tưởng nhớ, ghi nhận những công lao của
người đã khai sinh và truyền cho mình nghề ấy, biến nghề thành kế sinh nhai. Tín ngưỡng thờ
tổ nghề đã góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Văn hóa kinh kỳ vốn
là sự hội tụ của nhiều nền văn hóa từ các địa phương khác để rồi kết tinh, chọn lọc, kế thừa,
giao lưu và tỏa sáng. Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề trong khu phố cổ Hà Nội từ khi ra đời, tồn
tại đến nay cũng luôn phải vận động để thích nghi với cuộc sống đô thị. Tuy là tín ngưỡng của
một bộ phận người Việt (nhóm xã hội nghề nghiệp) nhưng nó có vai trò và ảnh hưởng đến diện
mạo văn hóa của Thăng Long - Hà Nội, nó mang đặc trưng, sắc thái riêng biệt gắn với mỗi
nghề truyền thống trong khu 36 phố phường của Hà Nội xưa. Tín ngưỡng thờ tổ nghề ở Hà Nội
có nhiều nguồn gốc xuất thân và được thể hiện như: Làng Ngũ Xã thờ tổ nghề đúc đồng; đền
Kim Ngân tại Định Công thờ ông tổ nghề kim hoàn; thờ tổ nghề sơn; thờ tổ nghề dệt vải, dệt lụa,…
Trình bày trên chúng ta có thể kết luận rằng, việc tín ngưỡng thờ Tổ nghề ở Thăng Long - Hà
Nội góp phần nâng cao ý thức bảo vệ uy tín cho nghề, giáo dục đạo đức truyền thống, góp
phần làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hóa dân gian truyền thống và cuối cùng, góp
phần mở mang mạng lưới chợ thúc đẩy phát triển nền kinh tế.