lOMoARcPSD| 58886076
1
1 . Đề cương
2. Chương 2 Giáo trình
3. Chương 19 Giáo trình
ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN (TÓM TẮT)
CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN QUỐC TẾ - HK1 2023- 2024
1. Giảng viên: TS. Đào Thị Thu Hường
Bộ môn Luật Quốc tế, Phòng 213, Nhà E1 Khoa Luật - ĐHQGHN, 144
Xuân Thủy, Hà Nội.
- Điện thoại: 024 754 8514; Email:
daothuhuongkhoaluat@gmail.com
2. THÔNG TIN CHUNG VỀ HỌC PHẦN
- Tên học phần: Các thiết chế tài phán quốc tế - Mã học phần: INL2008;
Số tín chỉ: 02 - Phân bổ giờ tín chỉ:
+ Lý thuyết: 24
+ Thực hành: 0
+ Tự học: 6
- Bộ môn phụ trách: Bộ môn Luật quốc tế - Khoa Luật, ĐHQGHN
Điện thoại: 04. 37548514
Email: bomonlqt@gmail.com
3. CHUẨN ĐẦU RA CỦA HỌC PHẦN
3.1. Về kiến thức
CLO1: Nắm được các kiến thức lý luận bản về các thiết chế tài phán quốc tế, bao
gồm: khái niệm, lịch sử hình thành phát triển, phân loại các thiết chế i phán
quốc tế, đặc điểm phân biệt thiết chế tài phán quốc tế và thiết chế tài phán quốc gia;
nắm được những kiến thức lý luận và thực tiễn về chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ
chức, thủ tục ttụng, phán quyết của những thiết chế tài phán quan trọng như Tòa
án công lý quốc tế, Tòa án quốc tế về Luật Biển, Tòa trọng tài quốc tế về Luật Biển,
Tòa án Hình sự quốc tế… cũng như của một số thiết chế tài phán mang tính khu vực.
lOMoARcPSD| 58886076
2
CLO2: Vận dụng tổng hợp các kiến thức luận và thực tiễn về các thiết chế tài
phán quốc tế nêu trên để có thể đưa ra nhưng bình luận, nhận xét về các vụ việc điển
hình đã được giải quyết và các ý kiến/kết luận tư vấn pháp lý đã được đưa ra tại các
thiết chế tài phán này; rút ra được bài học kinh nghiệm cho các quốc gia nói chung
Việt Nam nói riêng trong việc sử dụng các thiết chế tài phán quốc tế. CLO3:
Đánh giá được khả năng sử dụng các thiết chế tài phán quốc tế vào việc giải quyết
tranh chấp quốc tế, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam. CLO4: Đề
xuất được các giải pháp nhằm sử dụng hiệu qucác thiết chế phán quốc tế trong
chiến ợc giải quyết các tranh chấp Việt Nam đang phải đối diện với một số
quốc gia hiện nay.
3.2. Về kĩ năng
CLO5: Hình thành phát triển các kỹ năng bản về phân tích, bình luận tổng
hợp, đánh giá các tình huống, vụ việc thuộc thẩm quyền của các quan tài phán
quốc tế.
CLO6: Thành thạo một số kỹ năng trong tìm kiếm, thu thập xử các văn bn
pháp lý quốc tế, án lệ, thông tin thực tiễn quốc tế; Phát triển kỹ năng lập luận, thuyết
trình trước công chúng; kỹ năng làm việc nhóm; phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo.
3.3. Về phẩm chất, thái độ
CLO7: năng lực tự học, tinh thần chủ động, sáng tạo, lập kế hoạch học tập,
nghiên cứu tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, trau dồi kỹ năng để nâng cao trình độ;
Có khả năng làm việc độc lập, hợp tác làm việc theo nhóm; có khả năng đưa ra các
kết luận chuyên môn chính xác và biết lập luận để bảo vệ các kết luận đó;
CLO8: Nhận thức và có thái độ đúng đắn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của
các thiết chế i phán quốc tế trong bối cảnh hiện nay; Hình thành thái độ khách
quan, có nhận thức quan điểm rõ ràng về việc học tập, nghiên cứu Luật quốc tế, vận
dụng pháp luật quốc tế vào công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, hội nhập quốc tế
hiện nay.
4. TÓM TẮT NỘI DUNG HỌC PHẦN
lOMoARcPSD| 58886076
3
Môn học này thuộc lĩnh vực công pháp quốc tế, cung cấp cho người học các
kiến thức bản và các kiến thức pháp chuyên ngành về các thiết chế tài phán
quốc tế.
Môn học gồm 4 nhóm vấn đề cnh: (1) Những vấn đề lý luận cơ bản về các
thiết chế tài phán quốc tế (khái niệm, đặc điểm, lịch sử ra đời phát triển của các
thiết chế i phán quốc tế…); (2) Các thiết chế tài phán quốc tế giải quyết tranh chấp
giữa các quốc gia (Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc, Tòa trọng tài thường
trực, Tòa án quốc tế vLuật Biển, Tòa trọng tài quốc tế Luật Biển); (3) Các thiết
chế tài phán hình sự quốc tế (Các tòa án hình sự quốc tế Nuremberg và Tokyo, các
tòa án Hình sự quốc tế Ad hoc Nam tư và Rwanda, Tòa án Hình sự quốc tế theo
Quy chế Rôm năm 1998); và (4) Các thiết chế tài phán quốc tế khác.
4. NỘI DUNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
1 Nội dung 1 Tổng quan về các thiết chế tài phán quốc tế
2 Nội dung 2
Các thiết chế tài phán giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia
3 Nội dung 3
Các thiết chế tài phán hình sự quốc tế
4 Nội dung 4
Các thiết chế tài phán quốc tế khác
NỘI DUNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN QUỐC T
1.1. Khái niệm thiết chế tài phán quốc tế
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các thiết chế tài phán quốc tế
1.3. Phân loại
1.4 Đặc điểm cơ bản của các thiết chế tài phán quốc tế
1.5. Thiết chế tài phán quốc tế và thiết chế tài phán quốc gia
NỘI DUNG 2. CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
GIỮA CÁC QUỐC GIA
2.1. Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc
2.1.1. Tổ chức của Tòa
2.1.2. Chức năng, thẩm quyền của Tòa
lOMoARcPSD| 58886076
4
2.1.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.1.4. Phán quyết của Tòa
2.2. Tòa án quốc tế về Luật Biển
2.2.1. Tổ chức của Tòa
2.2.2. Chức năng, thẩm quyền của Tòa
2.2.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.2.4. Phán quyết của Tòa
2.3. Tòa trọng tài quốc tế về Luật Biển
2.3.1. Tổ chức của Tòa
2.3.2. Chức năng, thẩm quyền của a
2.3.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.3.4. Phán quyết của Tòa
2.4. Tòa trọng tài thường trực Lahaye
2.4.1. Tổ chức của Tòa
2.4.2. Chức năng, thẩm quyền của a
2.4.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.4.4. Phán quyết của Tòa
NỘI DUNG 3. CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN HÌNH SỰ QUỐC T
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của các thiết chế tư pháp hình sự QT
3.1.1. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến trước chiến tranh thế
giới 2
- Tòa án quân sự quốc tế Nuremberg
- Tòa án quân sự quốc tế Tokyo
3.1.2 Giai đoạn từ chiến tranh thế giới 2 đến kết thúc chiến tranh lạnh
- Tòa án Hình sự quốc tế Ad hoc Nam tư cũ
- Tòa án Hình sự quốc tế Rwanda
lOMoARcPSD| 58886076
5
3.2. Tòa án Hình sự quốc tế theo Quy chế Rôm năm 1998
3.2.1. Tổ chức của Tòa án
3.2.2. Thẩm quyền của Tòa án
3.2.3. Thủ tục tố tụng của Tòa án
3.2.4. Phán quyết của tòa án
NỘI DUNG 4. CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN QUỐC TẾ KHÁC
4.1. Thiết chế tài phán trong khuôn khổ WTO
4.2. Thiết chế tài phán trong khuôn khổ ASEAN
4.3. Các thiết chế tài phán khu vực khác
………
7. HỌC LIỆU
7.1. Học liệu bắt buộc:
1. Khoa Luật, Giáo trình Công pháp quốc tế, NXb. ĐHQGHN,
Nội 2013.
2. Nguyễn Hồng Thao, T án công quốc tế, Nxb CTQG, Nội,
2014.
7.2. Học liệu tham khảo:
1. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Tòa án Hình sự quốc tế, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 2012.
2. Đào Thị Thu Hường (2022), Giải quyết tranh chấp Biển Đông - T
các nguyên tắc bản của pháp luật quốc tế (sách chuyên khảo), Nxb.
ĐHQG Hà Nội 2022;
3. Nguyễn Diến, Kinh nghiệm quốc tế về chế giải quyết tranh chấp
chủ quyền biển - đảo (sách chuyên khảo), Nxb. Đại học Quốc Gia Hà
Nội, 2013.
4. Rosenne, Shabtai, The World Court – What it is and How it works,
5th ed. Rev., Dordrecht, 1995.
lOMoARcPSD| 58886076
6
5. Shahabuddeen Mohammend, Presedent in the World Court,
Cambridge University Press, 1996.
6. World Court Digest, Max Planck Institute for Comparative Public
Law and International Law, 1997.
7. Shaw M. N., International Law, Cambridge University Press,
Cambridge, 2008.
7.3. Văn kiện pháp lý quốc tế
1. Hiến chương Liên hợp quốc (1945);
2. Quy chế Tòa án quốc tế 1945;
3. Công ước Viên về Luật điều ước (1969);
4. Công ước Luật Biển (1982);
5. Công ước Lahaye I II về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc
tế (1899 và 1907);
6. Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế (1998);
7. Thỏa thuận về các Quy tắc Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết
tranh chấp
(DSU) - Phụ lục 2 Hiệp định Marrakesh thành lập WTO;
8. Hiến chương ASEAN… ……..
10. Đánh giá kết quả học tập đối với học phần
10.1. Các công cụ, hình thức và tiêu chí đánh giá
10.2. Tỷ trọng đánh giá
Hình thức Tỷ trọng
Điểm đánh giá thường xuyên 10%
Điểm đánh giá giữa k 30%
Điểm thi kết thúc học phần 60%
10.3. Một số yêu cầu cụ thể khác Đối vi bài tập cá nhân:
- Yêu cầu về hình thức: Bài viết từ 2 đến 3 trang trên khổ
giấy A4; cỡ chữ 14; font: Times New Roman hoặc Vn.Time; kích
lOMoARcPSD| 58886076
7
thước các lề trên, dưi, trái, phải theo thứ tự 2.5cm, 2.5cm, 3.5cm,
2cm, dãn dòng 1.5lines (hoặc yêu cầu viết tay); Ngôn ngữ trong sáng,
chuẩn theo tiếng Việt; Tài liệu tham khảo đúng quy định.
- Yêu cầu về nội dung:
+ Xác định đúng vấn đề cần phân tích, bình luận, nghiên cứu.
+ Bài viết đảm bảo tính trung thực, có liên hệ thực tiễn.
Đối với bài tập nhóm
- Yêu cầu về hình thức: Nhóm trình bày báo cáo dưới
dạng tiểu luận, bài viết từ 5 đến 7 trang trên khổ giấy A4; cỡ chữ 14;
font: Times New Roman hoặc Vn.Time; kích thước các lề trên, dưới,
trái, phải theo thứ tự 2.5cm, 2.5cm, 3.5cm, 2cm, dãn dòng 1.5lines
(hoặc yêu cầu viết tay); Ngôn ngữ trong sáng, chuẩn theo tiếng Việt;
Tài liệu tham khảo đúng quy định.
- Yêu cầu về nội dung:
+ Giải quyết trọn vẹn một yêu cầu/nhiệm vụ cụ thể do giảng viên giao cho;
+ Các thành viên của nhóm phải thể hiện được ý thức cũng như khả năng phối hợp
làm việc nhóm khi giải quyết nhiệm vụ được giao;
+ Báo cáo kết quả làm việc nhóm phải ràng, hợp lí, khả thi; phân tích, lập luận
logic, có liên hệ thực tiễn; thể hiện rõ vai trò, mức độ tham gia của từng thành viên
trong nhóm vào việc thực hiện nhiệm vụ chung.
Đối với thi kết thúc học phần:
- Hình thức: Thi viết hoặc thi vấn đáp.
- Nội dung: Toàn bộ các vấn đề đã được học, nghiên cứu thể hiện trong Ngân hàng
câu hỏi ôn tập học phần.
- Thang chấm điểm: Điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm từ 0
đến 10, lẻ đến 0,5 theo năng lực của người học, tuân theo quy định chung của
Khoa.
Duyệt đề cương Chủ Nhiệm Bộ Môn Người biên soạn
lOMoARcPSD| 58886076
8
TS. Đào Thị Thu Hưng
Giáo trình CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
CHƯƠNG 2
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ
3. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh các tranh chấp quốc tế
3.1 Sự hình thành nguyên tắc
Nguyên tắc này hệ quả pháp tất yếu của nguyên tắc cấm sử dụng lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, bởi nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực sẽ không giá trị pháp ý ng buộc các chủ thể luật quốc tế nếu nkhông có
nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.
Mặc dù luật quốc tế ngay từ buổi bình minh đã không còn xa lạ với c biện pháp
hòa nh giải quyết tranh chấp như ngoại giao, đàm phán, trung gian,… nhưa chưa
những quy phạm bắt buộc các quốc gia phải giải quyết tranh chấp chỉ bằng phương pháp
hòa bình không bằng lực. Trong hệ thống Công ước Lahaye 1899 1907 có
Công ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, tuy nhiên, Công ước cũng chỉ kêu
gọi các quốc gia “với khả năng thể thì ngăn ngừa việc dùng vũ lực” và sử dụng tối
đa các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ khí”.
Hiệp ước Paris năm 1928 về khước tchiến tranh đã tuyên bcấm chiến tranh
xâm ược và nêu rõ trách nhiệm cảu các quốc gia chỉ giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hòa bình. Điều 2 của Hiệp ước đã khẳng định các bên “công nhận rằng việc điều
chỉnh hoặc giải quyết mọi tranh chấp, xung đột phát sinh với bất kỳ tính chất và nguyên
nhân nào chỉ có thể tiến hành bằng các phương pháp hòa bình”. Trước khi có Hiệp ước
Paris 1928, các biện pháp hòa bình chỉ là một trong những khả năng để giải quyết tranh
chấp quốc tế. Sau khi Hiệp ước ra đời, việc giải quyết mọi tranh chấp hay bất đồng chỉ
được thực hiện thông qua các biện pháp hòa bình.
Nguyên tắc này được chính thức thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quc tế
lần đầu tiên trong Hiến chương Liên hợp quốc: Tất cả các Thành viên giải quyết các
tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến
hòa bình và an ninh quốc tế, công lý” (khoản 3 Điều 2 Hiến chương), đồng thời, tại
Điều 33, Hiến chương cũng đã xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế:
lOMoARcPSD| 58886076
9
1. Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp
ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải
quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài,
tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp
hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình.
2. Hội đồng Bảo an, nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết tranh chấp
của họ bằng các biện pháp nói trên.”
Nội dung của nguyên tắc này một lần nữa được khẳng định quy định cthể
trong Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc nhiều văn kiện
pháp khác nĐịnh ước Henxinki 1975, Tuyên bMadrite về a bình giải quyết
tranh chấp quốc tế năm 1982, Hiến chương của tổ chức các quốc gia châu Mỹ Latinh,…
3.2 Nội dung nguyên tắc
3.2.1 Tranh chấp quốc tế và tình thế
Để hiểu nội dung của nguyên tắc, trước hết ta cần nắm rõ khái niệm “tranh chấp
quốc tế”. Hiện nay chưa có định nghĩa chính xác được thừa nhận rộng rãi về tranh chấp
quốc tế, tuy nhiên, đa số các tác giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế những vấn đ
phát sinh giữa các chủ thể luaatjq uốc tế và những bất đồng về các vấn đề bản của
quan hệ quốc tế cũng như các ý kiến khác nhau trong việc giải thích điều ước quốc tế.
“Tình thế” một khái niệm rộng hơn nhưng lại được xác định ít hơn so với
“tranh chấp”. Thông thường, khái niệm “tranh chấp mang tính chất pháp lý nhiều hơn,
còn khái niệm “tình thế” thường thiên về chính trị hơn. Vì vậy, Tòa án quốc tế có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp chứ không giải quyết tình thế. Việc xác định vấn đề nào
đó có là tranh chấp hay tình thế thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Trong thực tin
haotj động cua mình, Hội đồng bảo an không đưa ra các tiêu ccụ thể vấn đề chỉ
được xem xét trong hoàn cảnh cthể. Trong hoạt động của nh, Hội đồng bảo an đã
ra nhiều nghị quyết về tình thế thể đe dọa hòa bình an ninh quốc tế như nghị
quyết về tình hình Nam Phi năm 1960, về tình hình Nam Tư cũ năm 1993, 1994,…
Tóm tại, sự khác nhau bản giữa tranh chấp tình thế mọi tranh chấp đều
c bên chủ thể luật quốc tế tham gia, còn trong mọi tình thế không phải bao giờ
cũng có sự tham gia của các bên chủ thể. Hai khái niệm y có sự gắn tác động
qua lại bởi mọi tranh chấp hay tình thếo dài đều có thể đe dọa việc duy trì hòa nh
và an ninh quốc tế. và đôi khi tình thế có thể gây ra tranh chấp quốc tế.
3.2.2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc
Theo tinh thần của Tuyên bngày 24/10/1970, nguyên tắc hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế bao gồm các nội dung cơ bản sau:
lOMoARcPSD| 58886076
10
- Tất cả các quốc gia sgiải quyết các tranh chấp quốc tế bằng c biện
pháp a bình, không phương hại đến a nh, an ninh, công quốc tế. Các biện
pháp hòa bình có thể là đàm phán, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án…
- Trong trường hợp không đạt được một giải pháp để giải quyết tranh chấp
với các biện pháp nêu trên, các bên có nghĩa vụ tiếp tục tìm kiếm những biện pháp hòa
bình khác để giải quyết tranh chấp mà các bên đã thỏa thuận.
- Các quốc gia trong tranh chấp có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể
làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại và gây nguy hiểm cho việc gigìn a bình và
an ninh thế giới, nghĩa vụ hành động phù hợp với những mục đích và nguyên tắc của
Liên hợp quốc
- Các tranh chấp quốc tế được gii quyết trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền
giữa các quốc gia và phù hợp và tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp
- Không điều nào nói trên ảnh hưởng hoặc phương hại đến những
điều khoản thể áp dụng của Hiến chương, đặc biệt là những điều khoản liên quan đến
việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, đàm phán trực tiếp là biện pháp tốt nhất để giải quyết nhanh
chóng tranh chấp quốc tế, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên và dễ đi đến thỏa thuận
nhượng bộ lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập khu vực quốc tế
trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế cũng quan tâm đến các biện pháp thông
qua tổ chức để giải quyết tranh chấp quốc tế như EU, ASEAN,… và Liên hợp quốc.
CHƯƠNG 19
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ
1. Khái niệm tranh chấp quốc tế
Trong quá trình cùng tồn tại, hợp tác đấu tranh đphát triển của c quốc gia, việc
các tranh chấp phát sinh, tồn tại giữa họ điều tất yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá,
khi các mối quan hệ hợp tác lệ thuộc giữa các quốc gia ngày càng trở lên phổ biến, sâu
sắc thì nguy phát sinh các tranh chấp giữa họ cũng ngày càng trở lên thường trực.
Tính chất và quy mô của các tranh chấp do vậy cũng phức tạp và rộng lớn hơn.
Xét một cách khái quát nhất, tranh chấp quốc tế được hiểu một trạng thái hay tình
huống quốc tế mà trong đó các chủ thể tham gia có sự bất đồng, mâu thuẫn với nhau về
quan điểm, có những đòi hỏi quyền lợi trái ngược nhau.
lOMoARcPSD| 58886076
11
Trong thực tiễn, một số thuật ngữ thể được dùng thay thế cho thuật ngữ tranh chấp
quốc tế, chẳng hạn thuật ngữ tranh cãi quốc tế; bất đồng quốc tế; mâu thuẫn quốc tế;
xung đột quốc tế. Trong các trường hợp đầu, các thuật ngữ được sử dụng ít thông dụng
ít tính pháphơn. Trong trường hợp sau cùng, xung đột quốc tế cũng được hiểu
một tình huống tranh chấp quốc tế nhưng có nh chất trang. Tính chất quốc tế của
một tranh chấp quốc tế thể hiện việc các n tham gia tranh chấp là những quốc gia,
hoặc c thể khác của Luật quốc tế. Việc giải quyết các tranh chấp này phải dựa trên
pháp luật quốc tế (Công pháp quốc tế), theo một chế hay bởi một cơ quan i phán
có tính chất quốc tế. Điều này cho phép phân biệt khái niệm tranh chấp quốc tế sử dụng
trong Luật quốc tế với khái niệm tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dân sự.
Những tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dân sự những tranh chấp giữa
các bên nhân, pháp nhân mang quốc tịch của các quốc gia khác nhau. Việc giải
quyết chúng về nguyên tắc phải áp dụng c quy định của pháp luật quốc gia trước
các cơ quan tài phán của quốc gia.
Trong trường hợp rất biệt, thể tồn tại những tranh chấp giữa quốc gia với
các nhân, pháp nhân của quốc gia khác được giải quyết theo một chế thực sự
mang tính chất quốc tế. dụ về trường hợp này tranh chấp giữa quốc gia với nhà
đầu tư của quốc gia khác, được giải quyết tại Trung tâm quốc tế về giải quyết các tranh
chấp đầu tư (ICSID) trên cơ sở Công ước Washington ngày 18 tháng 3 năm 1965. Theo
quy định củang ước Washington, Trung tâm ICSID thẩm quyền giải quyết tranh
chấp trên sở sự thoả thuận giữa các bên quốc gia tiếp nhận đầu tư và nhà đầu
của nước thành viên khác của Công ước. Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp do các
bên lựa chọn, hoặc pháp luật của nước tiếp nhận đầu Luật quốc tế. Đây thể
được coi là một dạng tranh chấp quốc tế hỗn hợp” và không được bao hàm trong khái
niệm tranh chấp quốc tế trong Luật quốc tế.
2. Phân loại tranh chấp quốc tế
Tuỳ thuộc vào tiêu chỉ được sử dụng, tranh chấp quốc tế có thể được phân thành nhiều
loại khác nhau. Việc phân loại ý nghĩa quan trọng trong xác định cơ chế, thủ tục thích
hợp để giải quyết các tranh chấp quốc tế .
Nếu căn cứ vào tư cách các chủ thể của tranh chấp, có tranh chấp giữa các quốc gia và
tranh chấp giữa các quốc gia với các chthể khác của Luật quốc tế, hoặc tranh chấp
giữa các chủ thể khác của Luật quốc tế với nhau. Trên thực tế, các tranh chấp quốc tế
lOMoARcPSD| 58886076
12
giữa các quốc gia luôn chiếm tuyệt đại đa số các tranh chấp quốc tế nói chung. Các quy
định của Luật quốc tế về giải quyết tranh chấp cũng chủ yếu liên quan đến loại tranh
chấp này.
Nếu căn cứ vào số lượng các chủ thể tham gia tranh chấp, có thể phân biệt các
tranh chấp song phương với các tranh chấp có sự tham gia của nhiều bên. Sụ phân loại
này có ý nghĩa trong việc lực chọn phương thức giải quyết tranh chấp và việc áp dụng
các quy định thủ tục, tố tụng trong giải quyết tranh chấp.
Nếu n cvào tính chất của tranh chấp, thể phân biệt các tranh chấp chính trị với
các tranh chấp pháp lý. Tranh chấp chính trị là tranh chấp giữa các chủ thể về những lợi
ích phi pháp lý những đòi hỏi, lập luận của các bên không dựa trên các tiêu chí pháp
lý. Tranh chấp pháp tranh chấp giữa các chủ thể về việc xác định sự tồn tại, giải
thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Việc phân biệt hai loại tranh chấp này trong
nhiều trường hợp chỉ mang tính tương đối: một tranh chấp chính trị cũng thể chứa
đựng những yếu tố pháp nhất định; mọi tranh chấp pháp quốc tế đều được đặt trong
một bối cảnh chính trị nhất định. Tuy nhiên sự phân biệt này là cần thiết khi về nguyên
tắc chỉ những tranh chấp pháp lý mới có thể được giải quyết bằng con đường xét xử tư
pháp.
Nếu n cứ vào đối ợng tranh chấp, tranh chấp quốc tế thể được phân loại thành
nhiều dạng khác nhau: tranh chấp vbiên giới,nh thổ; tranh chấp vkinh tế, thương
mại; tranh chấp về xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế...
Cuối cùng, nếu căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tranh chấp, có
thể phân biệt các tranh chấp quốc tế thông thường với các tranh chấp quốc tế mà sự
xuất hiện hay kéo dài có thể ảnh hưởng đến hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Luật
quốc tế hiện đại, việc giải quyết các tranh chấp mà sự xuất hiện hay kéo dài có thể gây
tổn hại đến hoà bình và an ninh quốc tế phải tuân thủ những nguyên tắc, quy định nhất
định liên quan đến nghĩa vụ gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế của các quốc gia.
3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình
Xuất phát từ những đặc trưng của Luật quốc tế hiện đại, việc giải quyết các tranh chấp
quốc tế trước hết và chủ yếu thuộc về thẩm quyền của chính các chủ thể của Luật quốc
tế, trên nguyên tắc bình đẳng và tnguyện. Luật quốc tế không những quy định có
tính chất bắt buộc đối với các quốc gia trong việc lựa chọn phương thức, thủ tục hay
lOMoARcPSD| 58886076
13
cách thức cụ thể để giải quyết một tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, khi tồn tại một tranh
chấp, các quốc gia có liên quan có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp đó bằng biện pháp
hoà bình.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hbình một nguyên tắc
bản, có tính chất mệnh lệnh (jus cogens) của Luật quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này
được hình thành và là hệ quả tất yếu từ nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
Điều 1 Công ước Lahaye năm 1907 về giải quyết các tranh chấp quốc tế quy định: “Để
hạn chế tối đa có thể việc sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các quốc gia, các nước ký
kết Công ước thoả thuận sử dụng mọi nỗ lực để đảm bảo giải quyết hoà bình các tranh
chấp quốc tế
Kể từ khi Hiến chương Liên hợp quốc ra đời, Luật quốc tế chuyển từ quy định hạn chế
dùng vũ lực sang quy định cấm sử dụng vũ lực. Nguyên tắc cấm dùng lực trở thành
một nguyên tắc nh chất mệnh lệnh của Luật quốc tế. Nguyên tắc giải quyết các
tranh chấp bằng biện pháp hoà bình từ đó cũng được ghi nhận một trong những
nguyên tắc cơ bản Luật quốc tế.
Cụ thể, nguyên tắc các quốc gia giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp
hoà bình hiện nay được quy định tại khoản 3 điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc,
được cụ thể htại chương VI của Hiến chương về giải quyết hoà bình các tranh chấp
quốc tế. Nội dung của nguyên tắc sau đó được khẳng định và cụ thể hoá trong Tuyên bố
ngày 24 tháng 10 năm 1974 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc bản
của Luật quốc tế điều chỉnh c quan hhữu nghị hợp tác giữa các quốc gia. Tuyên
bố nêu rõ: “Mọi quốc gia có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế giữa họ với các
quốc gia khác thông qua các biện pháp hoà bình, theo cách hoà bình an ninh
quốc tế cũng như công lý không bị đe doạ”.
Trên phương diện lý thuyết, có rất nhiều các biện pháp khác nhau để giải quyết
một cách hoà bình một tranh chấp quốc tế. thể phân các biện pháp này thành nhiều
loại khác nhau, trên những tiêu chí khác nhau: Biện pháp đàm phán, thương lượng trực
tiếp giữa các bên tranh chấp với các biện pháp có sự tham gia của bên thứ ba; Các biện
pháp sử dụng cơ chế đàm phán, ngoại giao với các biện pháp sử dụng chế xét xử
bằng trọng i, toà án. Ngoài ra, các tranh chấp quốc tế cũng thể được giải quyết
lOMoARcPSD| 58886076
14
thông qua chế của một tổ chức quốc tế. Cơ chế này thể kết hợp đồng thời nhiều
loại biện pháp nêu trên.
Trên phương diện thực tiễn, việc lựa chọn biện pháp nào để giải quyết một tranh
chấp cụ thể hoặc phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên tham gia tranh chấp, n cứ bối
cảnh, tính chất của từng tranh chấp, hoặc phụ thuộc vào sự thoả thuận, cam kết đã có
trước đó của họ.
Như vậy, để đồng thời đảm bảo tính khái quát và cụ thể ở mức độ cần thiết trong
xem xét c biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế, chương này đề cập đến
ba nhóm các biện pháp cơ bản: Nhóm thứ nhất bao gồm các biện pháp mang tính ngoại
giao, phi tư pháp; Nhóm thứ hai bao gồm các biện pháp xét xử của trọng tài hay toà án;
Nhóm thứ ba bao gồm các biện pháp thông qua cơ chế của tổ chức quốc tế.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ BẰNG CÁC BIỆN PHÁP NGOẠI GIAO
1. Đàm phán trực tiếp
Đàm phán trực tiếp biện pháp cổ điển nhất nhưng cũng phbiến nhất trong giải quyết
các tranh chấp quốc tế. Ưu điểm của biện pháp này hiển nhiên thể hiện ở tính trực tiếp
của nó. Thông qua đàm phán, các quan điểm, lập trường cũng như yêu sách cụ thể của
mỗi bên được thể hiện nhất, trực tiếp nhất. Đàm phán trực tiếp cũng ưu điểm
hạn chế được ảnh hưởng, tác động của bên thứ ba vào quan hệ tranh chấp.
Pháp luật quốc tế không quy định cụ thvề thủ tục, cách thức đàm phán giải quyết
tranh chấp. Quyết định về các vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên,
tuỳ thuộc vào bối cảnh của từng tranh chấp cụ thể. Tuy nhiên, để sử dụng các biện pháp
giải quyết tranh chấp khác, chẳng hạn biện pp t xử, thì đàm phán thể được coi
một giai đoạn bắt buộc. Trong trường hợp đàm phán là một giai đoạn bắt buộc để giải
quyết tranh chấp, nghĩa vụ đàm phán không đồng nghĩa với nghĩa vụ phải đạt đến một
kết quả nhất định. Tiêu chí quyết định để đánh giá việc thực hiện nghĩa vđàm phán
chỉ là thái độ thiện chí của mối bên.
Kết quả của đàm phán sau khi được cơ quan thẩm quyền của mỗi bên xác nhận, chấp
nhận sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên.
2. Môi giới
Môi giới được hiểu là biện pháp mà thông qua đó một bên thứ ba đối với quan
hệ tranh chấp dựa trên những ảnh hưởng, uy tín của mình giúp các bên tranh chấp tiếp
lOMoARcPSD| 58886076
15
xúc, gặp gỡ để tìm các giải pháp cho quan hệ tranh chấp. Biện pháp môi giới có nguồn
gốc tập quán và được pháp điển hoá trong các Công ước Lahaye năm 1899 và 1907 về
giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Biện pháp môi giới một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường
ngoại giao, có sự tham gia của n thứ ba nhưng ở mức độ hạn chế nhất. Vai trò của bên
môi giới chỉ giới hạn ở việc tác động, tạo điều kiện cho các bên tranh chấp ngồi lại cùng
nhau, hoặc lần đầu hoặc sau một thời gian gián đoạn để giải quyết tranh chấp. Bên môi
giới thể một quốc gia, một tổ chức quốc tế, nhưng thông thường một nhân vật
chính trị, ngoại giao có uy tín, có vị trí trung lập trong quan hệ với các bên tranh chấp.
3. Trung gian
Trung gian cũng là một biện pháp giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
được ghi nhận trong Công ước Lahaye năm 1899 1907. Hiện nay, biện pháp này
được đề cập đến trong điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như trong hầu hết các
văn kiện quốc tế quan trọng khác có liên quan đến giải quyết tranh chấp quốc tế.
Về mặt bản chất, không có sự khác biệt giữa biện pháp môi giới biện pháp trung
gian: cả hai biện pháp đều thể hiện sự tham gia của bên thứ ba với mục đích giúp đỡ,
tạo điều kiện cho các bên tranh chấp đi đến thoả thuận, và đều phải thoả mãn điều kiện
về vai trò trung lập, không áp đặt của bên thứ ba. Sự khác biệt duy nhất giữa hai biện
pháp này mức độ tham gia của bên thứ ba: vai trò của bên môi giới chỉ dừng lại
việc giúp các bên tranh chấp ngồi lại cùng nhau trong khi vai trò của bên trung gian còn
tiếp tục kéo dài trong cả quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, nếu hoàn thành
tốt việc giúp các bên tranh chấp gặp ghoặc quay lại đàm phán thì rất có thể bên môi
giới lại được các bên tranh chấp đề nghị tiếp tục tham gia quá trình giải quyết tranh chấp
với tư cách bên trung gian.
Bên trung gian có vai trò trong việc truyền đạt thông tin, quan điểm của các bên tranh
chấp với nhau, đưa ra những sáng kiến, kiến nghị giúp các bên thu hẹp khoảng cách
tranh chấp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, ý kiến của bên trung gian không có giá trị
ràng buộc đối với các n tranh chấp. Trong quá trình đóng vai trò trung gian, bên trung
gian nghĩa vụ hành xử trên nguyên tắc trung thực, trung lập. Mặt khác, bên trung
gian cũng nghĩa vụ bảo mật các thông tin được khi tham gia vào quá trình giải
quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
lOMoARcPSD| 58886076
16
4. Uỷ ban điều tra
Uỷ ban điều tra ng là một hình thức tham gia của bên thứ ba vào quá trình giải quyết
một tranh chấp quốc tế. Biện pháp này nguồn gốc tập quán, được pháp điển hoá trong
Công ước Lahaye năm 1907 và hiện nay được ghi nhận trong điều 33 của Hiến chương
Liên hợp quốc cũng như trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng khác.
Uỷ ban điều tra không vai trò trực tiếp trong việc tìm kiếm các giải pháp cho cuộc
trách chấp, mà chỉ giới hạn ở việc tìm kiếm, xác định những sự kiện, tình huống khách
quan là nguyên nhân hay bối cảnh của tranh chấp. Việc thành lập uỷ ban điều tra không
phải nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong một tranh chấp. Trong trường hợp các
bên tranh chấp cho rằng việc thành lập một uỷ ban điều tracần thiết thì họ sẽ kết
một thoả thuận, trong đó xác định rõ cách thức thành lập, thành phần của uỷ ban, các sự
việc cần điều tra, cũng như thời hạn và giới hạn điều tra.
Các kết quả làm việc của Uban điều tra được thể hiện trong một báo cáo gửi
cho các bên tranh chấp và không có giá trị ràng buộc đối với các bên.
5. Uỷ ban hoà giải
Việc sử dụng uỷ ban hgiải để giải quyết tranh chấp quốc tế một thực tiễn lâu đời
trong quan hệ quốc tế. Biện pháp này được ghi nhận trong Lahaye m 1907, tại điều
33 của Hiến chương Liên hợp quốc trong nhiều điều ước quốc tế đa phương, song
phương giữa các quốc gia.
Trong số các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao s
tham gia của bên thứ ba thì biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua uỷ ban hoà giải
có tính thể chế nhiều nhất, thể hiện vai trò của bên thứ ba rõ nét nhất. Nhiệm vụ của uỷ
ban hoà giải xem t toàn bcác khía cạnh của vụ tranh chấp, bao gồm cả các khía
cạnh thực tiễn và khía cạnh pháp lý, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp có tính khuyến nghị
đối với vtranh chấp cho các bên. Việc sử dụng uỷ ban hoà giải để giải quyết tranh chấp
không phải là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên tranh chấp, trừ trường hợp các bên
đã có thoả thuận trước như vậy. Uỷ ban hoà giải có thể là một cơ quan thường trực được
thành lập trước đó được các bên chấp nhận, hoặc là một uỷ ban có tính chất vụ việc
(ad-hoc) được các bên thành lập khi tranh chấp đã phát sinh. Về cơ chế hoạt động, uỷ
ban hoà giải có những điểm tương đồng với một cơ quan xét xử, chẳng hạn đảm bảo sự
đối chất, tranh tụng giữa các bên, xem xét vụ tranh chấp cả dưới góc độ sự kiện và góc
lOMoARcPSD| 58886076
17
độ pháp lý. Tuy nhiên, điểm đặc trưng cơ bản để uỷ ban hoà giải không phải một
quan xét xử là tính chất không ràng buộc của kết luận của nó. Giải pháp mà uỷ ban kiến
nghị đối với vụ tranh chấp không có giá trị bắt buộc đối với các bên.
III. C BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
PHÁP, XÉT XỬ
Khác với các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao, các biện pháp
giải quyết tranh chấp bằng con đường xét xử luôn đem lại kết quả một phán quyết
của quan xét xử giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên,
cũng giống như trường hợp các biện pháp ngoại giao, việc sử dụng trọng tài hay toà án
để giải quyết tranh chấp quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thoả thuận, chấp nhận của tất
cả các bên tranh chấp.
Sự ra đời nhanh tróng của nhiều thiết chế trng tài, toà án quốc tế trong i thập niên
trở lại đây được nhiều học giả trong lĩnh vực pháp luật quốc tế gọi là xu hướng “pháp
hoáquá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều này một mặt cho thấy niềm tin,
nhu cầu của c quốc gia đối với các thiết chế xét xử quốc tế ngày một ng lên, mặt
khác cũng cho thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết nhiều hơn trên cơ
sở những tiêu chí pháp lý và thông qua những thủ tục ngày càng được thể chế hoá chặt
chẽ hơn.
Việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương thức xét xử trọng tài được thực hiện
qua hai hình thức bản trọng tài quốc tế vụ việc trọng tài quốc tế thường trực.
Trong phần y chỉ nghiên cứu những vấn đchung nhất của phương thức trọng tài
quốc tế nói chung, có đề cập đến hai thiết chế trọng tài thường trực là Ttrọng tài quốc
tế thường trực Lahaye được thành lập trên sở các Công ước Lahaye năm 1899 và
1907 Trọng i Luật biển được thành lập trên sở Công ước Luật biển năm 1982
của Liên hợp quốc.
Hiện nay, tồn tại một số lượng khá lớn các toà án quốc tế giải quyết c tranh chấp giữa
các quốc gia. Đó thể là những toà án có thẩm quyền chung, giải quyết tất cả các tranh
chấp quốc tế có tính chất pháp lý như trường hợp Toà án Công lý quốc tế của Liên hợp
quốc, hay những toà án chuyên ngành, giải quyết những tranh chấp quốc tế trong một
lĩnh vực nhất định như Tán Luật biển quốc tế được thành lập trên sở Công ước
Luật biển năm 1982. Đó cũng thể là những tòa án mang tính chất khu vực thẩm
quyền được giới hạn trong một, hoặc một số lĩnh vực hợp tác của các quốc gia khu vực
lOMoARcPSD| 58886076
18
như trường hợp các toà án về nhân quyền châu Âu, châu Mỹ. Hoặc đặc biệt hơn,
trường hợp Toà án công châu Âu vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc tế
khu vực, vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc gia. Phần này của giáo trình
sẽ tập trung nghiên cứu hai toà án điển hình Toà án công lý quốc tế của Liên hợp quốc
và Toà án công lý châu Âu.
Ngoài ra, đã hoặc đang còn tại một số các thiết chế toà án quốc tế khác nToà án New
Remberg, T án Tokyo xét xử các tội phạm chiến tranh sau đại chiến thế giới thứ II;
T án hình sự xét xử các tội phạm xảy ra tại Nam Tư cũ; Toà án hình sự xét xử các tội
phạm xảy ra tại Rwuanda; và Toà án hình sự quốc tế Roma. Đây những toà án được
thành lập trên cơ sở Luật quốc tế, hoạt động theo những cơ chế thực sự mang tinh chất
quốc tế. Tuy nhiên, chúng ch chức năng xét xử hình sự những hành vi tội phạm
của các nhân, không chức ng giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia
nên chúng sẽ không được đề cập đến trong phần này.
1. Trọng tài quốc tế
a. Khái niệm và lịch sử của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế một thiết chế giải quyết tranh chấp quốc tế thẩm quyền được
xác lập trên cơ sở thoả thuận, thông qua thủ tục xét xử để đưa ra một phán quyết có giá
trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp.
Việc sdụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp quốc tế có lịch sử lâu đời
trong quan hệ quốc tế. Thực tiễn trọng tài được ghi nhận ngay từ thời kỳ cổ đại, và tiếp
tục phát triển trong thời kỳ trung cổ, trước khi sự ra đời của mô hình nhà nước hiện
đại. Trong các thời kỳ này chỉ tồn tại hình thức trọng tài quốc tế vụ việc, nhằm giải
quyết những tranh chấp cụ thể.
Những điều ước quốc tế quan trọng sớm nht đề cập đến hình thức trọng tài quốc
tế thường trực các Công ước quốc tế Lahaye năm 1899 1907 về giải quyết các
tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở hai công ước này đã hình thành lên T trọng tài quốc tế
Lahaye. Vào năm 1953, Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã xây dựng một
văn kiện bao gồm các quy định mẫu về thủ tục trọng tài giải quyết tranh chấp quốc tế
giữa các quốc gia. Các quy định mẫu y đề cập đến việc thành lập hội đồng trọng tài,
xác định thẩm quyền của trọng tài, thủ tục trọng tài hiệu lực pháp quyết của trọng tài.
Tuy nhiên, các quy định này chỉ có giá trị tham khảo đối với các quốc gia.
lOMoARcPSD| 58886076
19
b. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế
Thẩm quyền của trọng tài quốc tế xuất phát tsthoả thuận của c bên tranh chấp.
Thoả thuận này có thể nằm trong một điều ước quốc tế được ký kết từ trước giữa các
quốc gia, quy định tranh chấp hoặc các tranh chấp phát sinh giữa họ sẽ được giải quyết
bằng trọng tài. Thoả thuận về trọng tài cũng có thể là một văn bản được kết riêng
biệt giữa các bên về việc đem một tranh chấp cụ thể đã phát sinh ra giải quyết bằng
trọng tài.
Việc kết thoả thuận trọng tài phải tôn trọng sự bình đẳng và tự nguyện của các
bên. Gía trị pháp lý của thoả thuận trọng tài được xem xét giống như khi xem t giá trị
pháp lý của một điều ước quốc tế. Trong trường hợp có tranh chấp về giá trị pháp lý của
thoả thuận trọng i hay thẩm quyền của trọng tài thì chính trọng tài người có quyền
giải quyết.
Thông thường, trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý, tức là những tranh
chấp về sự tồn tại, giải thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Tuy nhiên, cũng không
loại trừ khả năng trọng tài có thể được các bên yêu cầu giải quyết một tranh chấp chính
trị. Trong trường hợp như vậy, để giải quyết tranh chấp, trọng tài thể dựa trên nguyên
tắc công bằng (ex aequo et bono). c. Cách thức tổ chức của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế có hai hình thức tổ chứctrọng tài vụ việc và trọng tài thường trực.
Trong trường hợp trọng tài vụ việc, việc lựa chọn trọng tài viên, thành lập hội đồng
trọng tài, xác định các quy định tố tụng trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận
của các bên. Trong trường hợp trọng tài thường trực, các vấn đề này được quy định
trước trong điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Thiết chế trọng i quốc tế thường trực tiêu biểu nhất là Toà trọng tài thường trực
trụ stại Lahaye, được thành lập hoạt động trên sở Công ước Lahaye năm 1899
Công ước Lahaye I năm 1907. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng tính thường trực của
T trọng tài Lahaye không thực sự đúng như n gọi của nó. Toà trọng tài Lahaye không
hề một quan xét xử thường trực nào thay vào đó một danh sách c trọng
tài viên được chỉ định bởi các quốc gia là thành viên của các công ước Lahaye 1899 và
1907. quan thường trực duy nhất của Ttrọng tài Lahaye là Văn phòng quốc tế
đóng vai trò cơ quan thư ký, tác nghiệp của Toà. Mỗi khi có tranh chấp chuyển đến,
việc thành lập hội đồng trọng tài tại Ttrọng tài thường trực Lahaye cũng gặp những
khó khăn tương tự như trường hợp thành lập hội đồng trọng tài vụ việc.
lOMoARcPSD| 58886076
20
Một thiết chế trọng tài quốc tế thường trực khác là Toà trọng i quốc tế về Luật biển.
T trọng tài quốc tế về Luật biển là một trong những quan trọng tài, tán th
được c nước thành viên Công ước Luật biển năm 1982 lựa chọn m quan giải
quyết tranh chấp. Ttrọng i Luật biển thẩm quyền bắt buộc trong nhiều trường
hợp theo quy định tại điều 287 của Công ước Luật biển: khi các bên tranh chấp vào thời
điểm chấp nhận Công ước đã lựa chọn Toà là cơ quan giải quyết tranh chấp; khi các bên
tranh chấp, hoặc một bên tranh chấp đã không lựa chọn cơ quan tài phán nào được nên
tại điều 287; khi các bên tranh chấp sự lựa chọn khác nhau về quan giải quyết
tranh chấp. So với các cơ quan giải quyết tranh chấp khác như Toà án Công lý quốc tế,
T án Luật biển, và Toà trọng tài đặc biệt, rõ ràng Công ước Luật biển ưu tiên việc xác
định thẩm quyền cho Ttrọng tài hơn. Ngoài các quy định của bản thân Công ước, T
trọng tài còn được quy định bởi Phụ lục VII của Công ước. Cũng như trường hợp của
T trọng tài thường trực Lahaye, T trọng tài quốc tế về Luật biển không thực sự
một thiết chế thường trực. Thay vào đó là một danh sách các trọng tài viên do các quốc
gia thành viên đăng với Tổng Liên hơp quốc. Khi có vụ tranh chấp, các bên
lựa chọn các trọng tài trong số danh ch trên để lập hội đồng trọng tài. Trong trường
hợp có khăn vviệc chọn trọng tài viên giữa các bên tranh chấp, Phụ lục VII quy định
sự can thiệp của Chánh toà án quốc tế về Luật biển. Toà trọng tài Luật biển cũng không
quan thư thường trực. Cuối cùng, Toà cũng không bản nội quy, quy tắc t
tụng riêng. Quy tắc tố tụng do chính các trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài thoả
thuận xây dựng cho từng vụ việc.
Một hội đồng trọng tài luôn luôn có số lượng trọng tài viên ở số lẻ. Trong một số
trường hợp, hội đồng trọng tài chỉ có một trọng tài viên duy nhất. Nếu hội đồng trọng
tài 3 trọng tài viên thì thông thường mỗi bên tranh chấp sẽ cử một trọng tài viên mang
quốc tịch nước mình, trọng tài viên thứ ba còn lại sẽ do các bên tranh chấp hoặc do hai
trọng tài viên đã được chỉ định lựa chọn, nhưng phải mang quốc tích nước thứ ba. Cách
thức tương tự cũng được áp dụng trong trường hợp số lượng trọng tài viên là 5, hay 7.
Các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận rằng tất cả các trọng tài viên đều mang quốc
tịch của nước không phải là bên tranh chấp.
d. Tố tụng và giá trị phán quyết của trọng tài quốc tế
Các quy tắc tố tụng của trọng tài quốc tế hoàn toàn do các quốc gia tranh chấp quyết
định nếu đó là một hội đồng trọng i vụ việc. Nếu vviệc được giải quyết bởi một tổ

Preview text:

lOMoARcP SD| 5888 607 6 1 . Đề cương 2. Chương 2 Giáo trình 3. Chương 19 Giáo trình
ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN (TÓM TẮT)
CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN QUỐC TẾ - HK1 2023- 2024
1. Giảng viên: TS. Đào Thị Thu Hường
Bộ môn Luật Quốc tế, Phòng 213, Nhà E1 Khoa Luật - ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Hà Nội. -
Điện thoại: 024 754 8514; Email: daothuhuongkhoaluat@gmail.com
2. THÔNG TIN CHUNG VỀ HỌC PHẦN -
Tên học phần: Các thiết chế tài phán quốc tế - Mã học phần: INL2008;
Số tín chỉ: 02 - Phân bổ giờ tín chỉ: + Lý thuyết: 24 + Thực hành: 0 + Tự học: 6 -
Bộ môn phụ trách: Bộ môn Luật quốc tế - Khoa Luật, ĐHQGHN Điện thoại: 04. 37548514 Email: bomonlqt@gmail.com
3. CHUẨN ĐẦU RA CỦA HỌC PHẦN 3.1. Về kiến thức
CLO1: Nắm được các kiến thức lý luận cơ bản về các thiết chế tài phán quốc tế, bao
gồm: khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển, phân loại các thiết chế tài phán
quốc tế, đặc điểm phân biệt thiết chế tài phán quốc tế và thiết chế tài phán quốc gia;
nắm được những kiến thức lý luận và thực tiễn về chức năng, thẩm quyền, cơ cấu tổ
chức, thủ tục tố tụng, phán quyết của những thiết chế tài phán quan trọng như Tòa
án công lý quốc tế, Tòa án quốc tế về Luật Biển, Tòa trọng tài quốc tế về Luật Biển,
Tòa án Hình sự quốc tế… cũng như của một số thiết chế tài phán mang tính khu vực. 1 lOMoARcP SD| 5888 607 6
CLO2: Vận dụng tổng hợp các kiến thức lý luận và thực tiễn về các thiết chế tài
phán quốc tế nêu trên để có thể đưa ra nhưng bình luận, nhận xét về các vụ việc điển
hình đã được giải quyết và các ý kiến/kết luận tư vấn pháp lý đã được đưa ra tại các
thiết chế tài phán này; rút ra được bài học kinh nghiệm cho các quốc gia nói chung
và Việt Nam nói riêng trong việc sử dụng các thiết chế tài phán quốc tế. CLO3:
Đánh giá được khả năng sử dụng các thiết chế tài phán quốc tế vào việc giải quyết
tranh chấp quốc tế, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam. CLO4: Đề
xuất được các giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các thiết chế phán quốc tế trong
chiến lược giải quyết các tranh chấp mà Việt Nam đang phải đối diện với một số quốc gia hiện nay. 3.2. Về kĩ năng
CLO5: Hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản về phân tích, bình luận tổng
hợp, đánh giá các tình huống, vụ việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan tài phán quốc tế.
CLO6: Thành thạo một số kỹ năng trong tìm kiếm, thu thập và xử lý các văn bản
pháp lý quốc tế, án lệ, thông tin thực tiễn quốc tế; Phát triển kỹ năng lập luận, thuyết
trình trước công chúng; kỹ năng làm việc nhóm; phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo.
3.3. Về phẩm chất, thái độ
CLO7: Có năng lực tự học, tinh thần chủ động, sáng tạo, lập kế hoạch học tập,
nghiên cứu tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, trau dồi kỹ năng để nâng cao trình độ;
Có khả năng làm việc độc lập, hợp tác làm việc theo nhóm; có khả năng đưa ra các
kết luận chuyên môn chính xác và biết lập luận để bảo vệ các kết luận đó;
CLO8: Nhận thức và có thái độ đúng đắn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của
các thiết chế tài phán quốc tế trong bối cảnh hiện nay; Hình thành thái độ khách
quan, có nhận thức quan điểm rõ ràng về việc học tập, nghiên cứu Luật quốc tế, vận
dụng pháp luật quốc tế vào công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay.
4. TÓM TẮT NỘI DUNG HỌC PHẦN 2 lOMoARcP SD| 5888 607 6
Môn học này thuộc lĩnh vực công pháp quốc tế, cung cấp cho người học các
kiến thức cơ bản và các kiến thức pháp lí chuyên ngành về các thiết chế tài phán quốc tế.
Môn học gồm 4 nhóm vấn đề chính: (1) Những vấn đề lý luận cơ bản về các
thiết chế tài phán quốc tế (khái niệm, đặc điểm, lịch sử ra đời và phát triển của các
thiết chế tài phán quốc tế…); (2) Các thiết chế tài phán quốc tế giải quyết tranh chấp
giữa các quốc gia (Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc, Tòa trọng tài thường
trực, Tòa án quốc tế về Luật Biển, Tòa trọng tài quốc tế Luật Biển); (3) Các thiết
chế tài phán hình sự quốc tế (Các tòa án hình sự quốc tế Nuremberg và Tokyo, các
tòa án Hình sự quốc tế Ad hoc Nam tư cũ và Rwanda, Tòa án Hình sự quốc tế theo
Quy chế Rôm năm 1998); và (4) Các thiết chế tài phán quốc tế khác.
4. NỘI DUNG CHI TIẾT HỌC PHẦN 1 Nội dung 1
Tổng quan về các thiết chế tài phán quốc tế 2 Nội dung 2
Các thiết chế tài phán giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia 3 Nội dung 3
Các thiết chế tài phán hình sự quốc tế 4 Nội dung 4
Các thiết chế tài phán quốc tế khác
NỘI DUNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm thiết chế tài phán quốc tế
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các thiết chế tài phán quốc tế 1.3. Phân loại
1.4 Đặc điểm cơ bản của các thiết chế tài phán quốc tế
1.5. Thiết chế tài phán quốc tế và thiết chế tài phán quốc gia
NỘI DUNG 2. CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA CÁC QUỐC GIA
2.1. Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc 2.1.1. Tổ chức của Tòa
2.1.2. Chức năng, thẩm quyền của Tòa 3 lOMoARcP SD| 5888 607 6
2.1.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.1.4. Phán quyết của Tòa
2.2. Tòa án quốc tế về Luật Biển 2.2.1. Tổ chức của Tòa
2.2.2. Chức năng, thẩm quyền của Tòa
2.2.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.2.4. Phán quyết của Tòa
2.3. Tòa trọng tài quốc tế về Luật Biển 2.3.1. Tổ chức của Tòa
2.3.2. Chức năng, thẩm quyền của Tòa
2.3.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.3.4. Phán quyết của Tòa
2.4. Tòa trọng tài thường trực Lahaye 2.4.1. Tổ chức của Tòa
2.4.2. Chức năng, thẩm quyền của Tòa
2.4.3. Thủ tục tố tụng của Tòa
2.4.4. Phán quyết của Tòa
NỘI DUNG 3. CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của các thiết chế tư pháp hình sự QT
3.1.1. Giai đoạn trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến trước chiến tranh thế giới 2
- Tòa án quân sự quốc tế Nuremberg
- Tòa án quân sự quốc tế Tokyo
3.1.2 Giai đoạn từ chiến tranh thế giới 2 đến kết thúc chiến tranh lạnh
- Tòa án Hình sự quốc tế Ad hoc Nam tư cũ
- Tòa án Hình sự quốc tế Rwanda 4 lOMoARcP SD| 5888 607 6
3.2. Tòa án Hình sự quốc tế theo Quy chế Rôm năm 1998
3.2.1. Tổ chức của Tòa án
3.2.2. Thẩm quyền của Tòa án
3.2.3. Thủ tục tố tụng của Tòa án
3.2.4. Phán quyết của tòa án
NỘI DUNG 4. CÁC THIẾT CHẾ TÀI PHÁN QUỐC TẾ KHÁC
4.1. Thiết chế tài phán trong khuôn khổ WTO
4.2. Thiết chế tài phán trong khuôn khổ ASEAN
4.3. Các thiết chế tài phán khu vực khác ……… 7. HỌC LIỆU
7.1. Học liệu bắt buộc:
1. Khoa Luật, Giáo trình Công pháp quốc tế, NXb. ĐHQGHN, Hà Nội 2013.
2. Nguyễn Hồng Thao, Toà án công lý quốc tế, Nxb CTQG, Hà Nội, 2014.
7.2. Học liệu tham khảo:
1. Nguyễn Ngọc Chí, Giáo trình Tòa án Hình sự quốc tế, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 2012.
2. Đào Thị Thu Hường (2022), Giải quyết tranh chấp Biển Đông - Từ
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế (sách chuyên khảo), Nxb. ĐHQG Hà Nội 2022;
3. Nguyễn Bá Diến, Kinh nghiệm quốc tế về cơ chế giải quyết tranh chấp
chủ quyền biển - đảo (sách chuyên khảo), Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2013.
4. Rosenne, Shabtai, The World Court – What it is and How it works,
5th ed. Rev., Dordrecht, 1995. 5 lOMoARcP SD| 5888 607 6
5. Shahabuddeen Mohammend, Presedent in the World Court,
Cambridge University Press, 1996.
6. World Court Digest, Max Planck Institute for Comparative Public
Law and International Law, 1997.
7. Shaw M. N., International Law, Cambridge University Press, Cambridge, 2008.
7.3. Văn kiện pháp lý quốc tế
1. Hiến chương Liên hợp quốc (1945);
2. Quy chế Tòa án quốc tế 1945;
3. Công ước Viên về Luật điều ước (1969);
4. Công ước Luật Biển (1982);
5. Công ước Lahaye I và II về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế (1899 và 1907);
6. Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế (1998);
7. Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp
(DSU) - Phụ lục 2 Hiệp định Marrakesh thành lập WTO;
8. Hiến chương ASEAN… ……..
10. Đánh giá kết quả học tập đối với học phần
10.1. Các công cụ, hình thức và tiêu chí đánh giá
10.2. Tỷ trọng đánh giá Hình thức Tỷ trọng
Điểm đánh giá thường xuyên 10%
Điểm đánh giá giữa kỳ 30%
Điểm thi kết thúc học phần 60%
10.3. Một số yêu cầu cụ thể khác  Đối với bài tập cá nhân: -
Yêu cầu về hình thức: Bài viết từ 2 đến 3 trang trên khổ
giấy A4; cỡ chữ 14; font: Times New Roman hoặc Vn.Time; kích 6 lOMoARcP SD| 5888 607 6
thước các lề trên, dưới, trái, phải theo thứ tự 2.5cm, 2.5cm, 3.5cm,
2cm, dãn dòng 1.5lines (hoặc yêu cầu viết tay); Ngôn ngữ trong sáng,
chuẩn theo tiếng Việt; Tài liệu tham khảo đúng quy định. - Yêu cầu về nội dung:
+ Xác định đúng vấn đề cần phân tích, bình luận, nghiên cứu.
+ Bài viết đảm bảo tính trung thực, có liên hệ thực tiễn.  Đối với bài tập nhóm -
Yêu cầu về hình thức: Nhóm trình bày báo cáo dưới
dạng tiểu luận, bài viết từ 5 đến 7 trang trên khổ giấy A4; cỡ chữ 14;
font: Times New Roman hoặc Vn.Time; kích thước các lề trên, dưới,
trái, phải theo thứ tự 2.5cm, 2.5cm, 3.5cm, 2cm, dãn dòng 1.5lines
(hoặc yêu cầu viết tay); Ngôn ngữ trong sáng, chuẩn theo tiếng Việt;
Tài liệu tham khảo đúng quy định. - Yêu cầu về nội dung:
+ Giải quyết trọn vẹn một yêu cầu/nhiệm vụ cụ thể do giảng viên giao cho;
+ Các thành viên của nhóm phải thể hiện được ý thức cũng như khả năng phối hợp
làm việc nhóm khi giải quyết nhiệm vụ được giao;
+ Báo cáo kết quả làm việc nhóm phải rõ ràng, hợp lí, khả thi; phân tích, lập luận
logic, có liên hệ thực tiễn; thể hiện rõ vai trò, mức độ tham gia của từng thành viên
trong nhóm vào việc thực hiện nhiệm vụ chung.
 Đối với thi kết thúc học phần:
- Hình thức: Thi viết hoặc thi vấn đáp.
- Nội dung: Toàn bộ các vấn đề đã được học, nghiên cứu thể hiện trong Ngân hàng
câu hỏi ôn tập học phần.
- Thang chấm điểm: Điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm từ 0
đến 10, lẻ đến 0,5 theo năng lực của người học, tuân theo quy định chung của Khoa. Duyệt đề cương Chủ Nhiệm Bộ Môn Người biên soạn 7 lOMoARcP SD| 5888 607 6 TS. Đào Thị Thu Hường
Giáo trình CÔNG PHÁP QUỐC TẾ CHƯƠNG 2
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ …
3. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh các tranh chấp quốc tế
3.1 Sự hình thành nguyên tắc
Nguyên tắc này là hệ quả pháp lý tất yếu của nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, bởi nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực sẽ không có giá trị pháp ý ràng buộc các chủ thể luật quốc tế nếu như không có
nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.
Mặc dù luật quốc tế ngay từ buổi bình minh đã không còn xa lạ với các biện pháp
hòa bình giải quyết tranh chấp như ngoại giao, đàm phán, trung gian,… nhưa chưa có
những quy phạm bắt buộc các quốc gia phải giải quyết tranh chấp chỉ bằng phương pháp
hòa bình mà không bằng vũ lực. Trong hệ thống Công ước Lahaye 1899 và 1907 có
Công ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, tuy nhiên, Công ước cũng chỉ kêu
gọi các quốc gia “với khả năng có thể thì ngăn ngừa việc dùng vũ lực” và “sử dụng tối
đa các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng vũ khí”.
Hiệp ước Paris năm 1928 về khước từ chiến tranh đã tuyên bố cấm chiến tranh
xâm ược và nêu rõ trách nhiệm cảu các quốc gia chỉ giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hòa bình. Điều 2 của Hiệp ước đã khẳng định các bên “công nhận rằng việc điều
chỉnh hoặc giải quyết mọi tranh chấp, xung đột phát sinh với bất kỳ tính chất và nguyên
nhân nào chỉ có thể tiến hành bằng các phương pháp hòa bình”. Trước khi có Hiệp ước
Paris 1928, các biện pháp hòa bình chỉ là một trong những khả năng để giải quyết tranh
chấp quốc tế. Sau khi Hiệp ước ra đời, việc giải quyết mọi tranh chấp hay bất đồng chỉ
được thực hiện thông qua các biện pháp hòa bình.
Nguyên tắc này được chính thức thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
lần đầu tiên trong Hiến chương Liên hợp quốc: “Tất cả các Thành viên giải quyết các
tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến
hòa bình và an ninh quốc tế, và công lý” (khoản 3 Điều 2 Hiến chương), đồng thời, tại
Điều 33, Hiến chương cũng đã xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế: 8 lOMoARcP SD| 5888 607 6
“1. Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp
ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải
quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài,
tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp
hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình.
2. Hội đồng Bảo an, nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết tranh chấp
của họ bằng các biện pháp nói trên.”
Nội dung của nguyên tắc này một lần nữa được khẳng định và quy định cụ thể
trong Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc và nhiều văn kiện
pháp lý khác như Định ước Henxinki 1975, Tuyên bố Madrite về hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế năm 1982, Hiến chương của tổ chức các quốc gia châu Mỹ Latinh,… 3.2 Nội dung nguyên tắc
3.2.1 Tranh chấp quốc tế và tình thế
Để hiểu nội dung của nguyên tắc, trước hết ta cần nắm rõ khái niệm “tranh chấp
quốc tế”. Hiện nay chưa có định nghĩa chính xác được thừa nhận rộng rãi về tranh chấp
quốc tế, tuy nhiên, đa số các tác giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế là những vấn đề
phát sinh giữa các chủ thể luaatjq uốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của
quan hệ quốc tế cũng như các ý kiến khác nhau trong việc giải thích điều ước quốc tế.
“Tình thế” là một khái niệm rộng hơn nhưng lại được xác định ít hơn so với
“tranh chấp”. Thông thường, khái niệm “tranh chấp mang tính chất pháp lý nhiều hơn,
còn khái niệm “tình thế” thường thiên về chính trị hơn. Vì vậy, Tòa án quốc tế có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp chứ không giải quyết tình thế. Việc xác định vấn đề nào
đó có là tranh chấp hay tình thế thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Trong thực tiễn
haotj động cua mình, Hội đồng bảo an không đưa ra các tiêu chí cụ thể mà vấn đề chỉ
được xem xét trong hoàn cảnh cụ thể. Trong hoạt động của mình, Hội đồng bảo an đã
ra nhiều nghị quyết về vá tình thế có thể đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế như nghị
quyết về tình hình Nam Phi năm 1960, về tình hình Nam Tư cũ năm 1993, 1994,…
Tóm tại, sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp và tình thế là mọi tranh chấp đều
có các bên chủ thể luật quốc tế tham gia, còn trong mọi tình thế không phải bao giờ
cũng có sự tham gia của các bên chủ thể. Hai khái niệm này có sự gắn bó và tác động
qua lại bởi mọi tranh chấp hay tình thế kéo dài đều có thể đe dọa việc duy trì hòa bình
và an ninh quốc tế. và đôi khi tình thế có thể gây ra tranh chấp quốc tế.
3.2.2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc
Theo tinh thần của Tuyên bố ngày 24/10/1970, nguyên tắc hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế bao gồm các nội dung cơ bản sau: 9 lOMoARcP SD| 5888 607 6 -
Tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện
pháp hòa bình, không phương hại đến hòa bình, an ninh, và công lý quốc tế. Các biện
pháp hòa bình có thể là đàm phán, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án… -
Trong trường hợp không đạt được một giải pháp để giải quyết tranh chấp
với các biện pháp nêu trên, các bên có nghĩa vụ tiếp tục tìm kiếm những biện pháp hòa
bình khác để giải quyết tranh chấp mà các bên đã thỏa thuận. -
Các quốc gia trong tranh chấp có nghĩa vụ từ bỏ bất kỳ hành vi nào có thể
làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại và gây nguy hiểm cho việc giữ gìn hòa bình và
an ninh thế giới, có nghĩa vụ hành động phù hợp với những mục đích và nguyên tắc của Liên hợp quốc -
Các tranh chấp quốc tế được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền
giữa các quốc gia và phù hợp và tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp -
Không có điều nào nói trên có ảnh hưởng hoặc phương hại đến những
điều khoản có thể áp dụng của Hiến chương, đặc biệt là những điều khoản liên quan đến
việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, đàm phán trực tiếp là biện pháp tốt nhất để giải quyết nhanh
chóng tranh chấp quốc tế, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên và dễ đi đến thỏa thuận
nhượng bộ lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế
trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế cũng quan tâm đến các biện pháp thông
qua tổ chức để giải quyết tranh chấp quốc tế như EU, ASEAN,… và Liên hợp quốc. CHƯƠNG 19
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ
1. Khái niệm tranh chấp quốc tế
Trong quá trình cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh để phát triển của các quốc gia, việc
các tranh chấp phát sinh, tồn tại giữa họ là điều tất yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá,
khi các mối quan hệ hợp tác lệ thuộc giữa các quốc gia ngày càng trở lên phổ biến, sâu
sắc thì nguy cơ phát sinh các tranh chấp giữa họ cũng ngày càng trở lên thường trực.
Tính chất và quy mô của các tranh chấp do vậy cũng phức tạp và rộng lớn hơn.
Xét một cách khái quát nhất, tranh chấp quốc tế được hiểu là một trạng thái hay tình
huống quốc tế mà trong đó các chủ thể tham gia có sự bất đồng, mâu thuẫn với nhau về
quan điểm, có những đòi hỏi quyền lợi trái ngược nhau. 10 lOMoARcP SD| 5888 607 6
Trong thực tiễn, một số thuật ngữ có thể được dùng thay thế cho thuật ngữ tranh chấp
quốc tế, chẳng hạn thuật ngữ tranh cãi quốc tế; bất đồng quốc tế; mâu thuẫn quốc tế;
xung đột quốc tế. Trong các trường hợp đầu, các thuật ngữ được sử dụng ít thông dụng
và ít tính pháp lý hơn. Trong trường hợp sau cùng, xung đột quốc tế cũng được hiểu là
một tình huống tranh chấp quốc tế nhưng có tính chất vũ trang. Tính chất quốc tế của
một tranh chấp quốc tế thể hiện ở việc các bên tham gia tranh chấp là những quốc gia,
hoặc các thể khác của Luật quốc tế. Việc giải quyết các tranh chấp này phải dựa trên
pháp luật quốc tế (Công pháp quốc tế), theo một cơ chế hay bởi một cơ quan tài phán
có tính chất quốc tế. Điều này cho phép phân biệt khái niệm tranh chấp quốc tế sử dụng
trong Luật quốc tế với khái niệm tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dân sự.
Những tranh chấp quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dân sự là những tranh chấp giữa
các bên là cá nhân, pháp nhân mang quốc tịch của các quốc gia khác nhau. Việc giải
quyết chúng về nguyên tắc phải áp dụng các quy định của pháp luật quốc gia và trước
các cơ quan tài phán của quốc gia.
Trong trường hợp rất cá biệt, có thể tồn tại những tranh chấp giữa quốc gia với
các cá nhân, pháp nhân của quốc gia khác và được giải quyết theo một cơ chế thực sự
mang tính chất quốc tế. Ví dụ về trường hợp này là tranh chấp giữa quốc gia với nhà
đầu tư của quốc gia khác, được giải quyết tại Trung tâm quốc tế về giải quyết các tranh
chấp đầu tư (ICSID) trên cơ sở Công ước Washington ngày 18 tháng 3 năm 1965. Theo
quy định của Công ước Washington, Trung tâm ICSID có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp trên cơ sở sự thoả thuận giữa các bên là quốc gia tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư
của nước thành viên khác của Công ước. Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp do các
bên lựa chọn, hoặc pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và Luật quốc tế. Đây có thể
được coi là một dạng tranh chấp quốc tế “hỗn hợp” và không được bao hàm trong khái
niệm tranh chấp quốc tế trong Luật quốc tế.
2. Phân loại tranh chấp quốc tế
Tuỳ thuộc vào tiêu chỉ được sử dụng, tranh chấp quốc tế có thể được phân thành nhiều
loại khác nhau. Việc phân loại có ý nghĩa quan trọng trong xác định cơ chế, thủ tục thích
hợp để giải quyết các tranh chấp quốc tế .
Nếu căn cứ vào tư cách các chủ thể của tranh chấp, có tranh chấp giữa các quốc gia và
tranh chấp giữa các quốc gia với các chủ thể khác của Luật quốc tế, hoặc tranh chấp
giữa các chủ thể khác của Luật quốc tế với nhau. Trên thực tế, các tranh chấp quốc tế 11 lOMoARcP SD| 5888 607 6
giữa các quốc gia luôn chiếm tuyệt đại đa số các tranh chấp quốc tế nói chung. Các quy
định của Luật quốc tế về giải quyết tranh chấp cũng chủ yếu liên quan đến loại tranh chấp này.
Nếu căn cứ vào số lượng các chủ thể tham gia tranh chấp, có thể phân biệt các
tranh chấp song phương với các tranh chấp có sự tham gia của nhiều bên. Sụ phân loại
này có ý nghĩa trong việc lực chọn phương thức giải quyết tranh chấp và việc áp dụng
các quy định thủ tục, tố tụng trong giải quyết tranh chấp.
Nếu căn cứ vào tính chất của tranh chấp, có thể phân biệt các tranh chấp chính trị với
các tranh chấp pháp lý. Tranh chấp chính trị là tranh chấp giữa các chủ thể về những lợi
ích phi pháp lý mà những đòi hỏi, lập luận của các bên không dựa trên các tiêu chí pháp
lý. Tranh chấp pháp lý là tranh chấp giữa các chủ thể về việc xác định sự tồn tại, giải
thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Việc phân biệt hai loại tranh chấp này trong
nhiều trường hợp chỉ mang tính tương đối: một tranh chấp chính trị cũng có thể chứa
đựng những yếu tố pháp lý nhất định; mọi tranh chấp pháp lý quốc tế đều được đặt trong
một bối cảnh chính trị nhất định. Tuy nhiên sự phân biệt này là cần thiết khi về nguyên
tắc chỉ những tranh chấp pháp lý mới có thể được giải quyết bằng con đường xét xử tư pháp.
Nếu căn cứ vào đối tượng tranh chấp, tranh chấp quốc tế có thể được phân loại thành
nhiều dạng khác nhau: tranh chấp về biên giới, lãnh thổ; tranh chấp về kinh tế, thương
mại; tranh chấp về xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế...
Cuối cùng, nếu căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tranh chấp, có
thể phân biệt các tranh chấp quốc tế thông thường với các tranh chấp quốc tế mà sự
xuất hiện hay kéo dài có thể ảnh hưởng đến hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Luật
quốc tế hiện đại, việc giải quyết các tranh chấp mà sự xuất hiện hay kéo dài có thể gây
tổn hại đến hoà bình và an ninh quốc tế phải tuân thủ những nguyên tắc, quy định nhất
định liên quan đến nghĩa vụ gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế của các quốc gia.
3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình
Xuất phát từ những đặc trưng của Luật quốc tế hiện đại, việc giải quyết các tranh chấp
quốc tế trước hết và chủ yếu thuộc về thẩm quyền của chính các chủ thể của Luật quốc
tế, trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện. Luật quốc tế không có những quy định có
tính chất bắt buộc đối với các quốc gia trong việc lựa chọn phương thức, thủ tục hay 12 lOMoARcP SD| 5888 607 6
cách thức cụ thể để giải quyết một tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, khi tồn tại một tranh
chấp, các quốc gia có liên quan có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp đó bằng biện pháp hoà bình.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình là một nguyên tắc
cơ bản, có tính chất mệnh lệnh (jus cogens) của Luật quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này
được hình thành và là hệ quả tất yếu từ nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
Điều 1 Công ước Lahaye năm 1907 về giải quyết các tranh chấp quốc tế quy định: “Để
hạn chế tối đa có thể việc sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các quốc gia, các nước ký
kết Công ước thoả thuận sử dụng mọi nỗ lực để đảm bảo giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế”
Kể từ khi Hiến chương Liên hợp quốc ra đời, Luật quốc tế chuyển từ quy định hạn chế
dùng vũ lực sang quy định cấm sử dụng vũ lực. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực trở thành
một nguyên tắc có tính chất mệnh lệnh của Luật quốc tế. Nguyên tắc giải quyết các
tranh chấp bằng biện pháp hoà bình từ đó cũng được ghi nhận là một trong những
nguyên tắc cơ bản Luật quốc tế.
Cụ thể, nguyên tắc các quốc gia giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp
hoà bình hiện nay được quy định tại khoản 3 điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc,
được cụ thể hoá tại chương VI của Hiến chương về giải quyết hoà bình các tranh chấp
quốc tế. Nội dung của nguyên tắc sau đó được khẳng định và cụ thể hoá trong Tuyên bố
ngày 24 tháng 10 năm 1974 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản
của Luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia. Tuyên
bố nêu rõ: “Mọi quốc gia có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế giữa họ với các
quốc gia khác thông qua các biện pháp hoà bình, theo cách mà hoà bình và an ninh
quốc tế cũng như công lý không bị đe doạ”.
Trên phương diện lý thuyết, có rất nhiều các biện pháp khác nhau để giải quyết
một cách hoà bình một tranh chấp quốc tế. Có thể phân các biện pháp này thành nhiều
loại khác nhau, trên những tiêu chí khác nhau: Biện pháp đàm phán, thương lượng trực
tiếp giữa các bên tranh chấp với các biện pháp có sự tham gia của bên thứ ba; Các biện
pháp sử dụng cơ chế đàm phán, ngoại giao với các biện pháp sử dụng cơ chế xét xử
bằng trọng tài, toà án. Ngoài ra, các tranh chấp quốc tế cũng có thể được giải quyết 13 lOMoARcP SD| 5888 607 6
thông qua cơ chế của một tổ chức quốc tế. Cơ chế này có thể kết hợp đồng thời nhiều
loại biện pháp nêu trên.
Trên phương diện thực tiễn, việc lựa chọn biện pháp nào để giải quyết một tranh
chấp cụ thể hoặc phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên tham gia tranh chấp, căn cứ bối
cảnh, tính chất của từng tranh chấp, hoặc phụ thuộc vào sự thoả thuận, cam kết đã có trước đó của họ.
Như vậy, để đồng thời đảm bảo tính khái quát và cụ thể ở mức độ cần thiết trong
xem xét các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế, chương này đề cập đến
ba nhóm các biện pháp cơ bản: Nhóm thứ nhất bao gồm các biện pháp mang tính ngoại
giao, phi tư pháp; Nhóm thứ hai bao gồm các biện pháp xét xử của trọng tài hay toà án;
Nhóm thứ ba bao gồm các biện pháp thông qua cơ chế của tổ chức quốc tế.
II. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ BẰNG CÁC BIỆN PHÁP NGOẠI GIAO 1. Đàm phán trực tiếp
Đàm phán trực tiếp là biện pháp cổ điển nhất nhưng cũng phổ biến nhất trong giải quyết
các tranh chấp quốc tế. Ưu điểm của biện pháp này hiển nhiên thể hiện ở tính trực tiếp
của nó. Thông qua đàm phán, các quan điểm, lập trường cũng như yêu sách cụ thể của
mỗi bên được thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất. Đàm phán trực tiếp cũng có ưu điểm là
hạn chế được ảnh hưởng, tác động của bên thứ ba vào quan hệ tranh chấp.
Pháp luật quốc tế không có quy định cụ thể về thủ tục, cách thức đàm phán giải quyết
tranh chấp. Quyết định về các vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên,
tuỳ thuộc vào bối cảnh của từng tranh chấp cụ thể. Tuy nhiên, để sử dụng các biện pháp
giải quyết tranh chấp khác, chẳng hạn biện pháp xét xử, thì đàm phán có thể được coi
là một giai đoạn bắt buộc. Trong trường hợp đàm phán là một giai đoạn bắt buộc để giải
quyết tranh chấp, nghĩa vụ đàm phán không đồng nghĩa với nghĩa vụ phải đạt đến một
kết quả nhất định. Tiêu chí quyết định để đánh giá việc thực hiện nghĩa vụ đàm phán
chỉ là thái độ thiện chí của mối bên.
Kết quả của đàm phán sau khi được cơ quan có thẩm quyền của mỗi bên xác nhận, chấp
nhận sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên. 2. Môi giới
Môi giới được hiểu là biện pháp mà thông qua đó một bên thứ ba đối với quan
hệ tranh chấp dựa trên những ảnh hưởng, uy tín của mình giúp các bên tranh chấp tiếp 14 lOMoARcP SD| 5888 607 6
xúc, gặp gỡ để tìm các giải pháp cho quan hệ tranh chấp. Biện pháp môi giới có nguồn
gốc tập quán và được pháp điển hoá trong các Công ước Lahaye năm 1899 và 1907 về
giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Biện pháp môi giới là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường
ngoại giao, có sự tham gia của bên thứ ba nhưng ở mức độ hạn chế nhất. Vai trò của bên
môi giới chỉ giới hạn ở việc tác động, tạo điều kiện cho các bên tranh chấp ngồi lại cùng
nhau, hoặc lần đầu hoặc sau một thời gian gián đoạn để giải quyết tranh chấp. Bên môi
giới có thể là một quốc gia, một tổ chức quốc tế, nhưng thông thường là một nhân vật
chính trị, ngoại giao có uy tín, có vị trí trung lập trong quan hệ với các bên tranh chấp. 3. Trung gian
Trung gian cũng là một biện pháp giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
được ghi nhận trong Công ước Lahaye năm 1899 và 1907. Hiện nay, biện pháp này
được đề cập đến trong điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như trong hầu hết các
văn kiện quốc tế quan trọng khác có liên quan đến giải quyết tranh chấp quốc tế.
Về mặt bản chất, không có sự khác biệt giữa biện pháp môi giới và biện pháp trung
gian: cả hai biện pháp đều thể hiện sự tham gia của bên thứ ba với mục đích giúp đỡ,
tạo điều kiện cho các bên tranh chấp đi đến thoả thuận, và đều phải thoả mãn điều kiện
về vai trò trung lập, không áp đặt của bên thứ ba. Sự khác biệt duy nhất giữa hai biện
pháp này là mức độ tham gia của bên thứ ba: vai trò của bên môi giới chỉ dừng lại ở
việc giúp các bên tranh chấp ngồi lại cùng nhau trong khi vai trò của bên trung gian còn
tiếp tục kéo dài trong cả quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, nếu hoàn thành
tốt việc giúp các bên tranh chấp gặp gỡ hoặc quay lại đàm phán thì rất có thể bên môi
giới lại được các bên tranh chấp đề nghị tiếp tục tham gia quá trình giải quyết tranh chấp
với tư cách bên trung gian.
Bên trung gian có vai trò trong việc truyền đạt thông tin, quan điểm của các bên tranh
chấp với nhau, đưa ra những sáng kiến, kiến nghị giúp các bên thu hẹp khoảng cách
tranh chấp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, ý kiến của bên trung gian không có giá trị
ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Trong quá trình đóng vai trò trung gian, bên trung
gian có nghĩa vụ hành xử trên nguyên tắc trung thực, trung lập. Mặt khác, bên trung
gian cũng có nghĩa vụ bảo mật các thông tin có được khi tham gia vào quá trình giải
quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên tranh chấp. 15 lOMoARcP SD| 5888 607 6 4. Uỷ ban điều tra
Uỷ ban điều tra cũng là một hình thức tham gia của bên thứ ba vào quá trình giải quyết
một tranh chấp quốc tế. Biện pháp này có nguồn gốc tập quán, được pháp điển hoá trong
Công ước Lahaye năm 1907 và hiện nay được ghi nhận trong điều 33 của Hiến chương
Liên hợp quốc cũng như trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng khác.
Uỷ ban điều tra không có vai trò trực tiếp trong việc tìm kiếm các giải pháp cho cuộc
trách chấp, mà chỉ giới hạn ở việc tìm kiếm, xác định những sự kiện, tình huống khách
quan là nguyên nhân hay bối cảnh của tranh chấp. Việc thành lập uỷ ban điều tra không
phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong một tranh chấp. Trong trường hợp các
bên tranh chấp cho rằng việc thành lập một uỷ ban điều tra là cần thiết thì họ sẽ ký kết
một thoả thuận, trong đó xác định rõ cách thức thành lập, thành phần của uỷ ban, các sự
việc cần điều tra, cũng như thời hạn và giới hạn điều tra.
Các kết quả làm việc của Uỷ ban điều tra được thể hiện trong một báo cáo gửi
cho các bên tranh chấp và không có giá trị ràng buộc đối với các bên. 5. Uỷ ban hoà giải
Việc sử dụng uỷ ban hoà giải để giải quyết tranh chấp quốc tế là một thực tiễn lâu đời
trong quan hệ quốc tế. Biện pháp này được ghi nhận trong Lahaye năm 1907, tại điều
33 của Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều điều ước quốc tế đa phương, song
phương giữa các quốc gia.
Trong số các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao có sự
tham gia của bên thứ ba thì biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua uỷ ban hoà giải
có tính thể chế nhiều nhất, thể hiện vai trò của bên thứ ba rõ nét nhất. Nhiệm vụ của uỷ
ban hoà giải là xem xét toàn bộ các khía cạnh của vụ tranh chấp, bao gồm cả các khía
cạnh thực tiễn và khía cạnh pháp lý, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp có tính khuyến nghị
đối với vụ tranh chấp cho các bên. Việc sử dụng uỷ ban hoà giải để giải quyết tranh chấp
không phải là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên tranh chấp, trừ trường hợp các bên
đã có thoả thuận trước như vậy. Uỷ ban hoà giải có thể là một cơ quan thường trực được
thành lập trước đó và được các bên chấp nhận, hoặc là một uỷ ban có tính chất vụ việc
(ad-hoc) được các bên thành lập khi tranh chấp đã phát sinh. Về cơ chế hoạt động, uỷ
ban hoà giải có những điểm tương đồng với một cơ quan xét xử, chẳng hạn đảm bảo sự
đối chất, tranh tụng giữa các bên, xem xét vụ tranh chấp cả dưới góc độ sự kiện và góc 16 lOMoARcP SD| 5888 607 6
độ pháp lý. Tuy nhiên, điểm đặc trưng cơ bản để uỷ ban hoà giải không phải là một cơ
quan xét xử là tính chất không ràng buộc của kết luận của nó. Giải pháp mà uỷ ban kiến
nghị đối với vụ tranh chấp không có giá trị bắt buộc đối với các bên.
III. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP, XÉT XỬ
Khác với các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại giao, các biện pháp
giải quyết tranh chấp bằng con đường xét xử luôn đem lại kết quả là một phán quyết
của cơ quan xét xử có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên,
cũng giống như trường hợp các biện pháp ngoại giao, việc sử dụng trọng tài hay toà án
để giải quyết tranh chấp quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thoả thuận, chấp nhận của tất cả các bên tranh chấp.
Sự ra đời nhanh tróng của nhiều thiết chế trọng tài, toà án quốc tế trong vài thập niên
trở lại đây được nhiều học giả trong lĩnh vực pháp luật quốc tế gọi là xu hướng “tư pháp
hoá” quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều này một mặt cho thấy niềm tin,
nhu cầu của các quốc gia đối với các thiết chế xét xử quốc tế ngày một tăng lên, mặt
khác cũng cho thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết nhiều hơn trên cơ
sở những tiêu chí pháp lý và thông qua những thủ tục ngày càng được thể chế hoá chặt chẽ hơn.
Việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương thức xét xử trọng tài được thực hiện
qua hai hình thức cơ bản là trọng tài quốc tế vụ việc và trọng tài quốc tế thường trực.
Trong phần này chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất của phương thức trọng tài
quốc tế nói chung, có đề cập đến hai thiết chế trọng tài thường trực là Toà trọng tài quốc
tế thường trực Lahaye được thành lập trên cơ sở các Công ước Lahaye năm 1899 và
1907 và Trọng tài Luật biển được thành lập trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
Hiện nay, tồn tại một số lượng khá lớn các toà án quốc tế giải quyết các tranh chấp giữa
các quốc gia. Đó có thể là những toà án có thẩm quyền chung, giải quyết tất cả các tranh
chấp quốc tế có tính chất pháp lý như trường hợp Toà án Công lý quốc tế của Liên hợp
quốc, hay những toà án chuyên ngành, giải quyết những tranh chấp quốc tế trong một
lĩnh vực nhất định như Toà án Luật biển quốc tế được thành lập trên cơ sở Công ước
Luật biển năm 1982. Đó cũng có thể là những tòa án mang tính chất khu vực mà thẩm
quyền được giới hạn trong một, hoặc một số lĩnh vực hợp tác của các quốc gia khu vực 17 lOMoARcP SD| 5888 607 6
như trường hợp các toà án về nhân quyền ở châu Âu, châu Mỹ. Hoặc đặc biệt hơn, là
trường hợp Toà án công lý châu Âu vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc tế
khu vực, vừa mang những đặc điểm của một toà án quốc gia. Phần này của giáo trình
sẽ tập trung nghiên cứu hai toà án điển hình là Toà án công lý quốc tế của Liên hợp quốc
và Toà án công lý châu Âu.
Ngoài ra, đã hoặc đang còn tại một số các thiết chế toà án quốc tế khác như Toà án New
Remberg, Toà án Tokyo xét xử các tội phạm chiến tranh sau đại chiến thế giới thứ II;
Toà án hình sự xét xử các tội phạm xảy ra tại Nam Tư cũ; Toà án hình sự xét xử các tội
phạm xảy ra tại Rwuanda; và Toà án hình sự quốc tế Roma. Đây là những toà án được
thành lập trên cơ sở Luật quốc tế, hoạt động theo những cơ chế thực sự mang tinh chất
quốc tế. Tuy nhiên, vì chúng chỉ có chức năng xét xử hình sự những hành vi tội phạm
của các cá nhân, không có chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia
nên chúng sẽ không được đề cập đến trong phần này. 1. Trọng tài quốc tế
a. Khái niệm và lịch sử của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế là một thiết chế giải quyết tranh chấp quốc tế mà thẩm quyền được
xác lập trên cơ sở thoả thuận, thông qua thủ tục xét xử để đưa ra một phán quyết có giá
trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp.
Việc sử dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp quốc tế có lịch sử lâu đời
trong quan hệ quốc tế. Thực tiễn trọng tài được ghi nhận ngay từ thời kỳ cổ đại, và tiếp
tục phát triển trong thời kỳ trung cổ, trước khi có sự ra đời của mô hình nhà nước hiện
đại. Trong các thời kỳ này chỉ tồn tại hình thức trọng tài quốc tế vụ việc, nhằm giải
quyết những tranh chấp cụ thể.
Những điều ước quốc tế quan trọng sớm nhất đề cập đến hình thức trọng tài quốc
tế thường trực là các Công ước quốc tế Lahaye năm 1899 và 1907 về giải quyết các
tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở hai công ước này đã hình thành lên Toà trọng tài quốc tế
Lahaye. Vào năm 1953, Uỷ ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc đã xây dựng một
văn kiện bao gồm các quy định mẫu về thủ tục trọng tài giải quyết tranh chấp quốc tế
giữa các quốc gia. Các quy định mẫu này đề cập đến việc thành lập hội đồng trọng tài,
xác định thẩm quyền của trọng tài, thủ tục trọng tài và hiệu lực pháp quyết của trọng tài.
Tuy nhiên, các quy định này chỉ có giá trị tham khảo đối với các quốc gia. 18 lOMoARcP SD| 5888 607 6
b. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế
Thẩm quyền của trọng tài quốc tế xuất phát từ sự thoả thuận của các bên tranh chấp.
Thoả thuận này có thể nằm trong một điều ước quốc tế được ký kết từ trước giữa các
quốc gia, quy định tranh chấp hoặc các tranh chấp phát sinh giữa họ sẽ được giải quyết
bằng trọng tài. Thoả thuận về trọng tài cũng có thể là một văn bản được ký kết riêng
biệt giữa các bên về việc đem một tranh chấp cụ thể đã phát sinh ra giải quyết bằng trọng tài.
Việc ký kết thoả thuận trọng tài phải tôn trọng sự bình đẳng và tự nguyện của các
bên. Gía trị pháp lý của thoả thuận trọng tài được xem xét giống như khi xem xét giá trị
pháp lý của một điều ước quốc tế. Trong trường hợp có tranh chấp về giá trị pháp lý của
thoả thuận trọng tài hay thẩm quyền của trọng tài thì chính trọng tài là người có quyền giải quyết.
Thông thường, trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý, tức là những tranh
chấp về sự tồn tại, giải thích hay áp dụng một quy định pháp luật. Tuy nhiên, cũng không
loại trừ khả năng trọng tài có thể được các bên yêu cầu giải quyết một tranh chấp chính
trị. Trong trường hợp như vậy, để giải quyết tranh chấp, trọng tài có thể dựa trên nguyên
tắc công bằng (ex aequo et bono). c. Cách thức tổ chức của trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế có hai hình thức tổ chức là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực.
Trong trường hợp trọng tài vụ việc, việc lựa chọn trọng tài viên, thành lập hội đồng
trọng tài, xác định các quy định tố tụng trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận
của các bên. Trong trường hợp trọng tài thường trực, các vấn đề này được quy định
trước trong điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài.
Thiết chế trọng tài quốc tế thường trực tiêu biểu nhất là Toà trọng tài thường trực
có trụ sở tại Lahaye, được thành lập và hoạt động trên cơ sở Công ước Lahaye năm 1899
và Công ước Lahaye I năm 1907. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng tính thường trực của
Toà trọng tài Lahaye không thực sự đúng như tên gọi của nó. Toà trọng tài Lahaye không
hề có một cơ quan xét xử thường trực nào mà thay vào đó là một danh sách các trọng
tài viên được chỉ định bởi các quốc gia là thành viên của các công ước Lahaye 1899 và
1907. Cơ quan thường trực duy nhất của Toà trọng tài Lahaye là Văn phòng quốc tế
đóng vai trò là cơ quan thư ký, tác nghiệp của Toà. Mỗi khi có tranh chấp chuyển đến,
việc thành lập hội đồng trọng tài tại Toà trọng tài thường trực Lahaye cũng gặp những
khó khăn tương tự như trường hợp thành lập hội đồng trọng tài vụ việc. 19 lOMoARcP SD| 5888 607 6
Một thiết chế trọng tài quốc tế thường trực khác là Toà trọng tài quốc tế về Luật biển.
Toà trọng tài quốc tế về Luật biển là một trong những cơ quan trọng tài, toà án có thể
được các nước thành viên Công ước Luật biển năm 1982 lựa chọn làm cơ quan giải
quyết tranh chấp. Toà trọng tài Luật biển có thẩm quyền bắt buộc trong nhiều trường
hợp theo quy định tại điều 287 của Công ước Luật biển: khi các bên tranh chấp vào thời
điểm chấp nhận Công ước đã lựa chọn Toà là cơ quan giải quyết tranh chấp; khi các bên
tranh chấp, hoặc một bên tranh chấp đã không lựa chọn cơ quan tài phán nào được nên
tại điều 287; khi các bên tranh chấp có sự lựa chọn khác nhau về cơ quan giải quyết
tranh chấp. So với các cơ quan giải quyết tranh chấp khác như Toà án Công lý quốc tế,
Toà án Luật biển, và Toà trọng tài đặc biệt, rõ ràng Công ước Luật biển ưu tiên việc xác
định thẩm quyền cho Toà trọng tài hơn. Ngoài các quy định của bản thân Công ước, Toà
trọng tài còn được quy định bởi Phụ lục VII của Công ước. Cũng như trường hợp của
Toà trọng tài thường trực Lahaye, Toà trọng tài quốc tế về Luật biển không thực sự là
một thiết chế thường trực. Thay vào đó là một danh sách các trọng tài viên do các quốc
gia thành viên đăng ký với Tổng tư ký Liên hơp quốc. Khi có vụ tranh chấp, các bên
lựa chọn các trọng tài trong số danh sách trên để lập hội đồng trọng tài. Trong trường
hợp có khăn về việc chọn trọng tài viên giữa các bên tranh chấp, Phụ lục VII quy định
sự can thiệp của Chánh toà án quốc tế về Luật biển. Toà trọng tài Luật biển cũng không
có cơ quan thư ký thường trực. Cuối cùng, Toà cũng không có bản nội quy, quy tắc tố
tụng riêng. Quy tắc tố tụng do chính các trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài thoả
thuận xây dựng cho từng vụ việc.
Một hội đồng trọng tài luôn luôn có số lượng trọng tài viên ở số lẻ. Trong một số
trường hợp, hội đồng trọng tài chỉ có một trọng tài viên duy nhất. Nếu hội đồng trọng
tài có 3 trọng tài viên thì thông thường mỗi bên tranh chấp sẽ cử một trọng tài viên mang
quốc tịch nước mình, trọng tài viên thứ ba còn lại sẽ do các bên tranh chấp hoặc do hai
trọng tài viên đã được chỉ định lựa chọn, nhưng phải mang quốc tích nước thứ ba. Cách
thức tương tự cũng được áp dụng trong trường hợp số lượng trọng tài viên là 5, hay 7.
Các bên tranh chấp cũng có thể thoả thuận rằng tất cả các trọng tài viên đều mang quốc
tịch của nước không phải là bên tranh chấp.
d. Tố tụng và giá trị phán quyết của trọng tài quốc tế
Các quy tắc tố tụng của trọng tài quốc tế hoàn toàn do các quốc gia tranh chấp quyết
định nếu đó là một hội đồng trọng tài vụ việc. Nếu vụ việc được giải quyết bởi một tổ 20