lOMoARcPSD| 58886076
“Quyền được lãng quên” là một khái niệm quyền con người mới nổi lên, chỉ được
biết đến nhiều trong khoảng hơn một thập niên gần đây. Gắn liền với quyền được
bảo vệ thông tin/dữ liệu cá nhân và internet, được “quyền lãng quên” được hiểu là
một người có quyền xóa bất kỳ thông tin nào về bản thân mà người đó đã đăng trực
tuyến, bao gồm cả thông tin mà người khác đã đăng lại; chỉnh sửa, hạn chế, loại bỏ
bất kỳ thông tin nào có sẵn trên mạng về bản thân, bất kể nguồn gốc của thông tin
đó hoặc liên kết có liên quan đến cá nhân nếu những thông tin này gây phương hại
tới cá nhân hoặc lợi ích của cộng đồng hay đã lỗi thời và không còn cần thiết. Và
quyền này cũng cần phải cân bằng với các quyền khác của con người như quyền
được tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận…
Ủng hộ về việc ban hành luật về quyền được lãng quên :
- Đây là một quyền nên được ban hành hiện nay trong bối cảnh khoa học công
nghệ phát triển như ngày nay , bên cạnh các cơ hội nó đem lại , vẫn luôn tồn
tại cả những thách thức lớn cho quốc gia nói chung và cá nhân nói riêng .
Trước khi có sự xuất hiện của internet dân gian lan truyền và lưu trữ thông
tin qua lời nói chữ viết nhưng chỉ trong một thời gian nhất định những thông
tin đó gần như bị lãng quên . Khi internet ra đời với các tính năng lan truyền
nhanh lưu truyền lâu và lưu giữ nhiều thông tin đã giúp thông tin tồn tại
không giới hạn .Điều này dẫn đến lo ngại của cá nhân về quyền đối với dữ
liệu của mình khi họ khó có thể kiểm soát và quyết định những thông tin quá
khứ đã được công bố trên internet bơi lẽ các thông tin , dữ liệu này có thể
ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tai và tương lai của họ . Luật hiến pháp có
quy định :
. Theo khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định như sau: “ Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm.”
- Vì vậy người nào đăng tải thông tin mang tính nhạy cảm của người khác lên
internet là xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác
và chính họ cũng đang lạm dụng quyền tự do ngôn luận của công dân , xâm
phạm trực tiếp tới quyền cá nhân đối với hình ảnh của cá nhân quy định tại
khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015:
lOMoARcPSD| 58886076
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả
thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Cũng theo quy định tại “ khoản 3 Điều 32, việc sử dụng hình ảnh mà vi
phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án
ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại
và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Hiện nay , tại Việt Nam chưa có văn bản riêng biệt nào quy định về
quyền được lãng quên , tuy nhiên “ quyền xóa dữ liệu cá nhân” vẫn
tồn
tại rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau : “như hiến pháp 2013,
bộ luật dân sự 2015, luật an toàn thông tin mạng 2015, bộ luật hình sự
2015 luật an ninh mạng 2018”.... Vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải ban
hành luật về “quyền được lãng quên” để có cơ sở pháp lý giúp việc thực
thi dễ dàng hơn . Bất kỳ một cá nhân nào cũng có quyền có đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về những hành vi, việc làm của bản thân miễn là hành vi, việc làm
đó không trái với các quy định của pháp luật. Vậy nên việc cơ quan nhà
nước ban hành luật về quyền được lãng quên là đang bảo vệ quyền cơ
bản của công dân . Người tự ý phát tán những thông tin mang tính nhạy
cảm của người khác lên mạng xã hội là hành vi sai trái, vi phạm pháp
luật, thậm chí có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại
Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại do danh sự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định như sau:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; b) Thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút; c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại
theo
quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất
về tinh thần mà người đó gánh chịu.
lOMoARcPSD| 58886076
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định”.
- “ Đừng để bản thân dính líu vào hành vi vi phạm pháp luật chỉ vì thiếu hiểu
biết pháp luật ”
- Một lần nữa ta phải khẳng định rằng việc ban hành luật về quyền được lãng
quên là việc cần thực hiện và mang tính thứ yếu .
- Tự do ngôn luận không đồng nghĩa với việc thích bày tỏ quan điểm, chính
kiến của cá nhân tùy tiện. Tự do ngôn luận phải được đặt trong khuôn khổ
Hiến pháp, pháp luật.
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58886076
“Quyền được lãng quên” là một khái niệm quyền con người mới nổi lên, chỉ được
biết đến nhiều trong khoảng hơn một thập niên gần đây. Gắn liền với quyền được
bảo vệ thông tin/dữ liệu cá nhân và internet, được “quyền lãng quên” được hiểu là
một người có quyền xóa bất kỳ thông tin nào về bản thân mà người đó đã đăng trực
tuyến, bao gồm cả thông tin mà người khác đã đăng lại; chỉnh sửa, hạn chế, loại bỏ
bất kỳ thông tin nào có sẵn trên mạng về bản thân, bất kể nguồn gốc của thông tin
đó hoặc liên kết có liên quan đến cá nhân nếu những thông tin này gây phương hại
tới cá nhân hoặc lợi ích của cộng đồng hay đã lỗi thời và không còn cần thiết. Và
quyền này cũng cần phải cân bằng với các quyền khác của con người như quyền
được tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận…
Ủng hộ về việc ban hành luật về quyền được lãng quên :
- Đây là một quyền nên được ban hành hiện nay trong bối cảnh khoa học công
nghệ phát triển như ngày nay , bên cạnh các cơ hội nó đem lại , vẫn luôn tồn
tại cả những thách thức lớn cho quốc gia nói chung và cá nhân nói riêng .
Trước khi có sự xuất hiện của internet dân gian lan truyền và lưu trữ thông
tin qua lời nói chữ viết nhưng chỉ trong một thời gian nhất định những thông
tin đó gần như bị lãng quên . Khi internet ra đời với các tính năng lan truyền
nhanh lưu truyền lâu và lưu giữ nhiều thông tin đã giúp thông tin tồn tại
không giới hạn .Điều này dẫn đến lo ngại của cá nhân về quyền đối với dữ
liệu của mình khi họ khó có thể kiểm soát và quyết định những thông tin quá
khứ đã được công bố trên internet bơi lẽ các thông tin , dữ liệu này có thể
ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tai và tương lai của họ . Luật hiến pháp có quy định :
 . Theo khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 quy định như sau: “ Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm.”
- Vì vậy người nào đăng tải thông tin mang tính nhạy cảm của người khác lên
internet là xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác
và chính họ cũng đang lạm dụng quyền tự do ngôn luận của công dân , xâm
phạm trực tiếp tới quyền cá nhân đối với hình ảnh của cá nhân quy định tại
khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015: lOMoAR cPSD| 58886076
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả
thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Cũng theo quy định tại “ khoản 3 Điều 32, việc sử dụng hình ảnh mà vi
phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án
ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại
và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.”
• Hiện nay , tại Việt Nam chưa có văn bản riêng biệt nào quy định về
quyền được lãng quên , tuy nhiên “ quyền xóa dữ liệu cá nhân” vẫn tồn
tại rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau : “như hiến pháp 2013,
bộ luật dân sự 2015, luật an toàn thông tin mạng 2015, bộ luật hình sự
2015 luật an ninh mạng 2018”.... Vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải ban
hành luật về “quyền được lãng quên” để có cơ sở pháp lý giúp việc thực
thi dễ dàng hơn . Bất kỳ một cá nhân nào cũng có quyền có đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; tự quyết định và tự chịu trách
nhiệm về những hành vi, việc làm của bản thân miễn là hành vi, việc làm
đó không trái với các quy định của pháp luật. Vậy nên việc cơ quan nhà
nước ban hành luật về quyền được lãng quên là đang bảo vệ quyền cơ
bản của công dân . Người tự ý phát tán những thông tin mang tính nhạy
cảm của người khác lên mạng xã hội là hành vi sai trái, vi phạm pháp
luật, thậm chí có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại
Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại do danh sự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định như sau:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
• a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;  b) Thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút;  c) Thiệt hại khác do luật quy định.
• 2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo
quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất
về tinh thần mà người đó gánh chịu. lOMoAR cPSD| 58886076
• Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định”.
- “ Đừng để bản thân dính líu vào hành vi vi phạm pháp luật chỉ vì thiếu hiểu biết pháp luật ”
- Một lần nữa ta phải khẳng định rằng việc ban hành luật về quyền được lãng
quên là việc cần thực hiện và mang tính thứ yếu .
- Tự do ngôn luận không đồng nghĩa với việc thích bày tỏ quan điểm, chính
kiến của cá nhân tùy tiện. Tự do ngôn luận phải được đặt trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật.
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân.