-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương giáo dục học 2020 | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Đề cương giáo dục học 2020 | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Tâm lý học giáo dục 278 tài liệu
Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu
Đề cương giáo dục học 2020 | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Đề cương giáo dục học 2020 | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tâm lý học giáo dục 278 tài liệu
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:






















Preview text:
lOMoAR cPSD| 40439748
ĐỀ CƯƠNG GIÁO DỤC HỌC 2021-2022
I- Những vấn đề chung về GDH
1. Phân tích các chức năng xh của GD? Rút ra KLSP
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và
người được giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, giáo dục tác động vào từng cá nhân
để trở thành những nhân cách theo yêu cầu phát triển của xã hội. Giáo dục tác
động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con
người là chủ thể. Những tác động đó, xét dưới góc độ xã hội học, được gọi là
những chức năng xã hội của giáo dục. Giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa
đã thực hiện 3 chức năng xã hội của mình: Chức năng kinh tếsản xuất; chức
năng chính trị- xã hội và chức năng tư tưởng- văn hóa.
1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có
chất lượng cao hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc
đã mất đi bằng cách phát triển những năng lực chung và năng lực chuyên
biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao động cao hơn, thúc
đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội hiện đại đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân
lực: có trình độ học vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động, sáng
tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những yêu cầu của tiến trình
phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một trong giải pháp
quan trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong các nhà
trường, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
- Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
- Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, lOMoAR cPSD| 40439748 bồi dưỡng nhân tài.
- Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát
triển năng lực hành động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến các bộ phận,
các thành phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội...) làm thay
đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần đó bằng cách nâng cao
trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng
tình cảm, củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội,
nhằm duy trì, củng cố thể chế chính trị- xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần
nhất, làm cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội.. ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho
quyền lực “của dân, do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và
của toàn dân. Giáo dục phục vụ cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm: -
Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối,
chủtrương của Đảng, pháp luật của nhà nước. -
Giúp học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối,
chủtrương của Đảng, pháp luật của nhà nước
3. Chức năng tư tưởng – văn hóa
Với chức năng tư tưởng- văn hóa, giáo dục tham gia vào việc xây dựng
một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong xã lOMoAR cPSD| 40439748
hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thấm đến từng con
người, giáo dục hình thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn
hoá của nhân loại, của dân tộc, của cộng đồng được bảo tồn và phát triển, trở
thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm
- Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ
thốnggiáo dục quốc dân, nhằm tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời
- Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là
chức năng quan trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội,
chức năng tư tưởng – văn hóa.
2. Trình bày các tính chất của GD (tính phổ biến nhân văn, tính vĩnh
hằng, vai trò lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại).
Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục -
Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách
rờicủa đời sống xã hội, giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau. -
Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi
xãhội không tồn tại, là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát
triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người. -
Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người,
làcon đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội) lOMoAR cPSD| 40439748 -
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở
mỗigiai đoạn phát triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã
hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội
khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng cũng biến đổi theo. - Giáo
dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế –
xã hội và đáp ứng các yêu cầu kinh tế – xã hội trong những điều kiện cụ
thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử loài người,
không có một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế – xã hội,
cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế – xã hội cũng như cho mọi
quốc gia, chính vì vậy giáo dục mang tính lịch sử. Ở mỗi thời kì lịch sử
khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đích, nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn thiện
dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
Tính giai cấp của giáo dục -
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp. -
Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định – giai cấp thống trị xã hội. -
Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố
vaitròthống trị của mình. -
Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu
tranhgiai cấp – đối với giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. -
Giáo dục làm phương tiện đánh tranh, lật đổ giai cấp thống trị -
Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo
dụcvà nó chi phối, định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục. -
Theo V.I.Lênin: Trong xã hội có giai cấp, không thể có thêm một
nềngiáo dục, một nhà trường nào lại đứng trên hay đứng ngoài giai cấp.
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột,
từ đó hướng tới sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang
cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cơ bản vẫn có những mặt lOMoAR cPSD| 40439748
trái khó tránh được, nhà nước ta đã cố gắng đưa ra những chính sách đảm
bảo công bằng trong giáo dục như:
– Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
– Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp
tụcđược đào tạo lên cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v.v. .
– Tiến hành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục.
– Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp
nhằmtạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân.
3. Phân tích vai trò của GD đối với sự phát triển nhân cách? Rút ra KLSP cần thiết.
1. Khái niệm con người, cá nhân và nhân cách -
Con người là một thực thể sinh vật- xã hội mang bản chất xã hội, là
chủthể của hoạt động nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao tiếp. -
Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm
vềsinh lý, tâm lý và xã hội trong sự liên hệ thống nhất với các chức năng
xã hôi chung của loài người. -
Nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với
sựtrưởng thành về phẩm chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức
năng xã hội của mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con
người, khẳng định trình độ phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự
phát triển nhân cách cá nhân được biểu hiện qua những dấu hiệu sau: -
Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều
cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp
các chức năng vận động của cơ thể. lOMoAR cPSD| 40439748 -
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời
sống tâm lý của cá nhân: trình độ nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập
trường, thói quen, xúc cảm, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v... -
Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử
trong các mối quan hệ với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức
tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
- Yếu tố Di truyền – Bẩm sinh - Yếu tố Môi trường
- Yếu tố hoạt động cá nhân - Yếu tố giáo dục
4. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục và
người được giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
5. Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát
triển nhân cách, bởi vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì
mục đích nhân cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu.
6. Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển
nhân cách được thể hiện: -
Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và
pháttriển nhân cách của học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực
hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn. -
Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang
lạinhững tiến bộ mà các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh
không thể tạo ra được do tác động tự phát. lOMoAR cPSD| 40439748 -
Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành
phẩmchất lệch lạc không phù hợp vối yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính
là kết quả quan trọng của giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc người phạm pháp. -
Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết
tậthoặc thiểu năng do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có
sự can thiệp sớm, nhờ có phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt cùng với sự
hỗ trợ của các phương tiện khoa học có thể giúp cho người khuyết tật, thiểu
năng phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng khác
nhằm bù trừ những chức năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng. -
Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho
nênkhông những thích ứng với các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trường, hoàn
cảnh trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng
kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc
phù hợp mã di truyền và môi trường không thể thực hiện được.
Chú ý: Liên hệ để xây dựng ví dụ minh họa cho từng nội dung 7 Kết luận sư phạm -
Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình
thành vàphát triển nhân cách. -
Biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học
- Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý: + Phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lý HS
+ Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
+ Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
+ Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục lOMoAR cPSD| 40439748
+ Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tố chất di truyền, tính tích cực trong
hoạt động cá nhân của học sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
4. Nêu các khái niệm cơ bản của GDH (GD nghĩa rộng, nghĩa hẹp, Dạy
học). Mối quan hệ giữa các khái niệm. Cho ví dụ?
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức,
có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục
tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục
lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách,
những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ
chức cho họ các hoạt động và giao lưu.
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm
giúp cho người học lĩnh hội những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động
nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng lực hoạt động sáng tạo, trên cơ
sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của người học
theo mục đích giáo dục. * Phân biệt các khái niệm trên
Các khái niệm trên gắn với các quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng), quá
trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) và quá trình dạy học được phân biệt ở sự
khác nhau về việc thực hiện chức năng trội cuả chúng: -
Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách
toàndiện ở người học sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất -
Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp): phát triển về mặt
phẩmchất ở người học sinh -
Chức năng trội của dạy học triển về mặt năng lực ở người học sinh
5. GD trong xh hiện đại: Đặc điểm xh ngày nay, xu hướng PTGD, định hướng PTGDVN. sách lOMoAR cPSD| 40439748
6. Mục đích, mục tiêu GD, nguyên lý GD.
1. Khái niệm mục đích giáo dục
Mục đích của một hoạt động nói chung là kết quả dự kiến mà mỗi con
người, mỗi hệ thống cần phấn đấu để đạt được. Mục đích có tác dụng định hướng,
chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động. Chất lượng, hiệu quả của một hoạt động phụ
thuộc nhiều vào việc xác định mục đích ban đầu.
Mục đích giáo dục luôn được xem là một phạm trù cơ bản của Giáo dục
học, có vị trí quan trọng trong lý luận và thực tiễn giáo dục. Nó định hướng cho
hệ thống giáo dục từ việc nghiên cứu lý luận đến việc tổ chức các hoạt động thực
tiễn giáo dục và quản lý giáo dục.
Mục đích giáo dục chính là mô hình lý tưởng về sản phẩm giáo dục. Đó là
mô hình khách quan về nhân cách người học sinh mà nhà trường và xã hội phải
đào tạo, trong đó nêu lên những thuộc tính cơ bản, những nét đặc trưng cơ bản về
một kiểu người phù hợp với yêu cầu của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể. Những yêu cầu thể hiện trong mục đích giáo dục chính là các chuẩn mực, bao
hàm các hệ thống giá trị về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, về đạo đức, thẩm mỹ mà
xã hội cũng như thời đại đặt ra cho ngành giáo dục.
Mục đích giáo dục phản ánh kết quả mong muốn trong tương lai của quá
trình giáo dục. Vì vậy, mục đích giáo dục còn được là sản phẩm dự kiến của giáo
dục, được xây dựng theo “đơn đặt hàng’ của xã hội về một kiểu người (kiểu nhân
cách). Mục đích giáo dục phải được xây dựng trước khi tiến hành các hoạt động giáo dục cụ thể.
2. Khái niệm mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục có phạm vi bao quát rộng đối với toàn bộ cấu trúc hệ
thống và các lĩnh vực khác nhau của hệ thống giáo dục quốc dân. Khi vận dụng
vào từng cấp độ, từng bộ phận người ta đề cập đến thuật ngữ mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục là những tiêu chí, chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể đối với
từng khâu, từng nhiệm vụ, từng nội dung của quá trình giáo dục phải đạt được sau
một hoạt động giáo dục. lOMoAR cPSD| 40439748
Mục tiêu giáo dục là biểu hiện cụ thể của mục đích giáo dục. Mục tiêu giáo
dục là những bậc thang nối tiếp nhau dẫn đến mục đích giáo dục, khi các mục tiêu
giáo dục đạt được có nghĩa là chúng ta đã tiệm cận tới mục đích giáo dục. II- QTGD (Nghĩa hẹp)
1. Khái niệm, cấu trúc của QTGD
2. Đặc điểm, bản chất của QTGD (nghĩa hẹp)
Khái niệm quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo
dục, người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện
tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Đặc điểm của quá trình giáo dục
a. Giáo dục là một quá trình có tính mục đích: Mọi tác động giáo dục
đều có mục đích nhất định.
Mục đích giáo dục xuất phát từ những yêu cầu xã hội về phẩm chất nhân
các con người, bị chi phối bởi trình độ kinh tế xã hội.
- Giáo dục là một quá trình có tính lâu dài: Quá trình giáo dục nhằm hình
thành những phẩm chất, những nhân cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời
gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính chất lâu dài của quá trình giáo dục đựoc
xem xét ở các góc độ sau:
+ Quá trình giáo dục được thực hiện trong suốt cả cuộc đời con người từ
khi sinh ra cho đến khi không còn sống nữa (Giáo dục suốt đời).
+ Vệc hình thành một phẩm chất nhân cách cũng cần có thời gian lâu dài.
Việc hình thành vả trở nên bền vững, ổn định của một hành vi, thói quen của cá
nhân đòi hỏi một thời gian lâu dài đi từ nhận thức đến niềm tin, thái độ đến hành
vi thói quen, công việc đó không phải một sớm một chiều mà có được.
+Quá trình hình thành một phẩm chất nhân cách đòi hỏi một thời gian lâu
dài, việc sửa đổi, cải tạo một nét nhân cách lài đòi hỏi lâu dài hơn. lOMoAR cPSD| 40439748
+ Những phẩm chất mới của nhân cách chỉ có được và trở nên vững chắc
khi người được giáo dục tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện và thể
nghiệm, thể hịên, đấu tranh bản thân trong cuộc sống thực tế để trở thành kinh
nghiệm sống của chính mình càng đòi hỏi một thời gian lâu dài.
+ Kết quả tác động giáo dục, nhất là các tác động nhằm hình thành nhận
thức mới, niềm tin ...thường khó nhận thấy ngay và có thể kết quả đó lại bị biến
đổi hoặc bị mất đi. Do đó công tác giáo dục phải đựoc tiến hành bền bỉ, liên tục
theo một kế hoạch ổn định, lâu dài đồng thời trong quá trình giáo dục phải phát
huy cao độ tính tự giác, nỗ lực tự giáo dục kéo dài, liên tục của người được giáo
dục thì mới đạt được hiệu quả cả quá trùnh giáo dục.
Kết luận sư phạm: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn
nóng, vội vàng, đốt cháy giai đoạn. Nhà giáo dục cần phải có đức tính kiên trì,
bền bỉ, có tính tự kiềm chế cao.
b. Giáo dục là một quá trình có tính phức tạp và chịu tác động bởi nhiều nhân tố:
Tính phức tạp được thể thiện ở chỗ:
+ Tính phức tạp của quá trình giáo dục trước hết nằm ở đối tượng của nó.
Đối tượng của quá trình giáo dục là con người, thực chất là tâm hồn con người,
cái người khác không trực tiếp nhìn thấy, còn đối tượng của các quá trình hoạt
động khác có thể nhìn thấy được một cách trực quan, có thể tri giác trực tiếp. Quá
trình giáo dục tạo ra sự chuyển biến trong tâm hồn mỗi con người cũng không thể
đánh giá ngay được, khó định lượng được một cách rõ ràng. Mỗi cá nhân là một
thế giới đầy bí ẩn và hết sứ phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian và điều kiện mới
có thể nhận thức được.
+ Thứ hai kết quả quá trình giáo dục chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố
khách quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài khác nhau. Vì vậy trong quá trình
tiến hành giáo dục nhà giáo dục cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố khách
quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài của quá trình giáo dục. Đó là các điều kịên
kinh tế chính trị, tôn giáo, phong tục tập quán, văn hoá...đặc điểm tâm sinh lý, lOMoAR cPSD| 40439748
hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình...của đối tượng. Muốn giáo dục có hiệu quả
nhà giáo dục phải hiểu đối tượng, nắm bắt được đối tượng.
+ Thứ ba, kết quả quá trình giáo dục không nhìn thấy ngay được, không
đánh giá ngay được, là những cái khó định tính, định lượng một cách chính xác.
Kết quả giáo dục phải có thời gian, có điều kiện , hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài.
Vì vậy việc đánh giá con người, đánh giá kết quả quá trình giá dục phải hết sức
thận trọng, đòi hỏi phải có phương pháp phù hơp, phải có thời gian và hoàn. Kết
quả của hoạt động giáo dục nhiều khi không tỷ lệ thuận với cường độ lao động,
với sự đầu tư... tất cả những điều đó nói lên tính khoá khăn, phức tạp của quá trình giáo dục.
c Quá trình giáo dục bao giờ cũng mang tính cụ thể:
Quá trình giáo dục đựơc thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu
của mối cá nhân. Với tư cách là người được giáo dục, tiếp nhận các tác động giáo
dục theo những quy luật chung mang tính khái quát, đồng thời giáo dục lại phải
chú ý tới những đặc điểm riêng biệt, cụ thể của đối tượng thì mới có hiệu quả do
tránh được những tác động một các cứng nhắc, công thức giáo điều.
Tính cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện:
+ Tác động giáo dục theo từng cá nhân người được giáo dục với nhữung
tình huống giáo dục cụ thể, riêng biệt.
+ Mỗi học sinh đề là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó về trình
độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, về tình cảm, thói quen…nên
quá trình tác động giáo dục phải ohù hợp với cái riêng, cụ thể của họ, giáo dục
phải đi sát, phù hợp với đối tượng chính là thể hiện sự nhận thức đúng đắn về đặc
điểm này của quá trình giáo dục.
+ Công tác giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể:
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi, điều kiện hoàn cảnh sống, những diễn biết phức tạp, éo
le cảu từng tình huống cụ thể để nhà giáo dục có thể tìm thấy hoặc dự đoán những
nguyên nhân của các biểu hiện ( thái độ, hành vi, thói quen ) từ đó mới có biện pháp phù hợp. lOMoAR cPSD| 40439748
+ Quá trình giáo dục luôn phải giả quyết những mâu thuẫn, xung đột cụ thể
giữa yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục và phẩm chất, năng lực tâm lý của người được
giáo dục . Mâu thuẫn trong quá trình giáo dục thường nảy khi học sinh phải giải
quyết một nhiệm vụ giáo dục mới nhưng trình độ giáo dục hiện có lại chưa đủ.
+ Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý rèn luyện, luyện tập phương thức,
thao tác, kỹ năng thể hiện các yêu cầu, nội dung giáo dục, biến những yêu cầu từ
bên ngoài thành nét tính cách riêng, độc đáo của mỗi con người. Đó cũng chính
là kết quả phải đạt được của quá trình giáo dục.
+ Quá trình giáo dục được diên ra trong thời gian, thời điểm, không gian
với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Kết quả quá trình giáo dục cũng mang tính cụ thể đối với từng loại dối
tượng giáo dục, đối với từng mặt, từng yêu cầu giáo dục hoặc tổng quát trọn vẹn
của một quá trình giáo dục cho những đối tượng cụ thể.
Vì giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể tức là giáo dục phải phù hợp với từng
cá nhân cụ thể, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mới có hiệu quả nên trong quá
trình giáo dục, nhà giáo dục phải thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát
học sinh để hiểu tường tận về các em, có vậy mới có thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
d Quá trình giáo dục thống nhất biến chứng với quá trình dạy học -
Giáo dục và dạy học là hai quá trình có cùng mục đích là hình thành
và phát triển nhân cách, tuy nhiên chúng không đồng nhất. -
Dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có
chấtlượng và hiệu quả nội đung học vấn; giáo dục hình thành những phẩm chất
đạo đức, hành vi, thói quen. . . hai hoạt động này không tách biệt mà có quan hệ
biện chứng với nhau. Trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan
và các phẩm chất đạo đức của học sinh được hình thành và phát triển, ngược lại,
giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy hoạt động đạt kết quả cao, dạy học là quá
trình điều khiển được, còn quá trình giáo dục là quá trình phức tạp khó kiểm soát. lOMoAR cPSD| 40439748 -
Học sinh là khách thể (đối tượng) của quá trình giáo dục, là chủ thể
củaquá trình tựu giáo dục: Trong quá trình giáo dục học sinh luôn nhận các tác
động giáo dục từ phía nhà giáo dục các lực lượng giáo dục khác, khi đó học sinh
là khách thể của quá trình giáo dục. Nhưng khi tiếp nhận các tác động giáo dục
đó, người học không hoàn toàn thụ động mà là một thực thể xã hội, có ý thức
mang tính tích cực, học sinh với tư cách là chủ thể của quá trình giáo dục khi nó
tự giác, chủ động và tích cực thực hiện các yêu cầu của giáo dục từ bên ngoài.
Hiệu quả quá trình giáo dục phụ thuộc rất lớn vào vào tính chủ thể này củ người được giáo dục.
Tóm lại: Trên đây là những đặc điểm cơ bản của quá trình giáo dục. Để
thực hiện tốt quá trình giáo dục, các nhà giáo dục cần nghiên cứu kỹ và nắm vững
được những đặc điểm nêu trên của quá trình giáo dục.
Những căn cứ xác định bản chất của quá trình giáo dục -
Quá trình xã hội hóa cá nhân: Đây là quá trình biến cá nhân thành
mộtthành viên của xã hội, có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào các hoạt động xã hội. -
Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục : Đây là
mốiquan hệ sư phạm – một loại quan hệ xã hội đặc thù.
Bản chất của Quá trình giáo dục
Bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các
hoạt động và giao lưu cho người được giáo dục tham gia một cách tự giác, tích
cực, độc lập, sáng tạo nhằm chuyển hóa những yêu cầu và những chuẩn mực của
xã hội quy định thành hành vi và thói quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ sở đó,
thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
a. Quá trình giáo dục – quá trình xã hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các
yêu cầu khách quan thành yêu cầu chủ quan của cá nhân
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở
thành những thành viên xã hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai
mặt: vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, lOMoAR cPSD| 40439748
vừa có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội làm cho nó tồn tại và phát triển.
Những nét bản chất của cá nhân con người chính là do các mối quan hệ xã hội
hợp thành. Quá trình giáo dục là quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được
các quan hệ xã hội và các giá trị của nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời
sống xã hội: kinh tế, văn hóa – xã hội, đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng
xử … nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và yêu cầu của xã hội.
Khi đứa trẻ mới sinh ra, ý thức, nhân cách của nó chưa được hình thành.
Các chuẩn mực, các quy tắc … của xã hội vốn tồn tại khách quan bên ngoài, độc
lập với đứa trẻ. Quá trình trẻ lớn lên trong môi trường văn minh của xã hội loài
người, thẩm thấu những giá trị văn hóa của loài người để tạo ra nhân cách của
chính mình – quá trình xã hội hóa con người. Đó là quá trình giúp trẻ biến những
yêu cầu khách quan của xã hội thành ý thức, thành niềm tin và thái độ, thành
những thuộc tính, những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình
này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ khỏi bản thân những quan niệm, những biểu
hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b. Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho
đối tượng giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người – bản chất xã hội
trong mỗi cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm
lĩnh được các kinh nghiệm xã hội.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của
con người và cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách
của cá nhân. Tâm lí học đã khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc
vùa là động lực của sự hình thành và phát triển nhân cách.
Các thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển
phải có hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc
nhóm người) được tổ chức một cách khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt
động tiên tiến, phong phú, cá nhân được tham gia vào các hoạt động và giao lưu
đó thì sẽ có rất nhiều cơ hội tốt cho sự phát triển. lOMoAR cPSD| 40439748
Chính vì vậy quá trình giáo dục vừa mang tính chất của hoạt động, vừa
mang tính chất của giao lưu. Giáo dục là một quá trình tác động qua lại mang tính
xã hội giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, giữa các đối tượng giáo dục với
nhau và với các lực lượng, các quan hệ xã hội trong và ngoài nhà trường.
Kết luận sư phạm -
Cần tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú, hấp dẫn cho họcsinh. -
Bồi dưỡng tính tự tin và tinh thần tập thể cho học sinh trong khi tổ chức
cáchoạt động giáo dục -
Phát huy tính tích cực của học sinh trong các hoạt động do nhường tổ chức….
3. Động lực, logic (các khâu) của QTGD (nghĩa hẹp). Rút ra KLSP.
Trình bày động lực của quá trình giáo dục. -
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, mọi quá trình trong thế
giớikhách quan đều luôn vận động và phát triển không ngừng là do có sự đấu
tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, nghĩa là do có cá mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. -
Động lực của một quá trình hoạt động là kết quả của việc giải quyết
nhữngmâu thuẫn bên trong, bên ngoài của quá trình đó, trong đó, việc giải quyết
các mâu thuẫn bên trong có ý nghĩa quyết định sự phát triển, việc giải quyết các
mâu thuẫn bên ngoài tạo điều kiện cho sự phát triển. -
Quá trình giáo dục cũng luôn vận động và phát triển không ngừng do có
cácmâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn bên trong của quá trình giáo dục là mâu thuẫn giữa các thành
tố và mâu thuẫn giữa các yếu tố của quá trình giáo dục.
Ví dụ về mâu thuẫn bên trong giữa các thành tố và mâu thuẫn giữa các yếu
tố của quá trình giáo dục. lOMoAR cPSD| 40439748
Trong quá trình giáo dục: mục đích nhiệm vụ giáo dục đã được được đổi
mới, nâng cao trong khi đó chương trình nội dung giáo dục chưa được đổi mới,
phương pháp giáo dục còn lạc hậu…
Nhà giáo dục đặt ra những yêu cầu nhiệm vụ giáo dục cao đối với người
được giáo dục, trong khi đó khả năng trình độ giáo dục hiện có ở người được giáo dục còn bị hạn chế.
Ví dụ về mâu thuẫn bên trong giữa các thành tố và mâu thuẫn giữa các yếu
tố của quá trình giáo dục
Trong nhân tố người được giáo dục thường nảy sinh những mâu thuẫn:
giữa lời nói và việc làm, giữa tình cảm và lý trí.
Trong nhân tố nhà giáo dục thường có mâu thuẫn giữa trình độ chuyên
môn thì tốt song lại non kém về trình độ sư phạm trong giao tiếp ứng xử với người được giáo dục.
+ Mâu thuẫn bên ngoài của quá trình giáo dục là mâu thuẫn giữa các
thành tố của quá trình giáo dục với các nhân tố của môi trường kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học, kĩ thuật, công nghệ…
Ví dụ: Mâu thuẫn giữa sự tiến bộ xã hội với mục đích, nhiệm vụ, nội
dung, phương pháp giáo dục.
- Động lực của quá trình giáo dục là kết quả của việc phát hiện và giải quyết
các mâu thuẫn của quá trình giáo dục. Trong đó, việc giải quyết các mâu thẫn bên
trong có ý nghĩa quyết định sự phát triển, việc giải quyết những mâu thuẫn bên
ngoài tạo ra điều kiện cho sự phát triển. Tuy nhiên, trong những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể, việc giải quyết các mâu thuẫn bên ngoài lại có ý nghĩa hết sức quan
trọng cho sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục. Logic:
Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự vận động hợp quy luật của quá trình
giáo dục, nhằm đảm bảo cho người được giáo dục đi từ trình độ tri thức, xúc cảm,
tình cảm và hành vi, thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội tương
ứng từ lúc bắt đầu tham gia một hoạt động giáo dục nào đó, đến trình độ trình độ lOMoAR cPSD| 40439748
tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn
mực xã hội, tương ứng với lúc kết thúc hoạt động giáo dục.
Các khâu của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất
kì một phẩm chất nhân cách nào đó đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời
sống tâm lý cá nhân: nhận thức, tình cảm, kĩ năng hành động ý chí, … Từ lý luận
và thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy quá trình giáo dục diễn ra theo các khâu cơ bản sau: a.
Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức về các
chuẩnmực xã hội đã quy định
Các chuẩn mực xã hội là thước đo giá trị hành vi của con người được xã hội thừa
nhận, có tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của cá nhân, của nhóm xã hội
trong những điều kiện nhất định. Chuẩn mực xã hội cũng chính là những điều
kiện mà xã hội kiểm tra hành vi của cá nhân và cá nhân lại có thể sử dụng nó để
kiểm tra hành vi của mình trên cơ sở đó hướng tới sự phát triển xã hội.
Trong xã hội tồn tại rất nhiều hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội: giá trị
chuẩn mực về pháp luật, chuẩn mực về đạo đức, chuẩn mực về truyền thống,
chuẩn mực về phong tục tập quán, chuẩn mực về thẩm mỹ…Trong đó, nhiều loại
chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa vào nội dung quá trình giáo dục.
Nhận thức là cơ sở, là kim chỉ nam cho sự hình thành và điều chỉnh tình
cảm, thái độ, hành vi của mỗi cá nhân. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực
thực hiện theo các chuẩn mực xã hội đã quy định. Đòi hỏi nhà giáo dục cần phải
tác động tới nhận thức của người được giáo dục, giúp cho người được giáo dục
nắm vững được những tri thức về các chuẩn mực xã hội bao gồm:
- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.
- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm các khái niệm tương ứng) -
Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó. lOMoAR cPSD| 40439748
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa,
kinh khái niệm về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn mực
xã hội, những giá trị văn hóa sẽ được hình thành. b.
Tổ chức điều kiển người được giáo dục hình thành niềm tin và tình
cảmtích cực với các chuẩn mực xã hội quy định
Chính trong quá trình hình thành, phát triển tri thức về các chuẩn mực xã
hội cho người được giáo dục thì thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực đối với các
chuẩn mực xã hội ở họ dần được hình thành.
Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực xã hội được thể
hiện ở người được giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau: -
Người được giáo dục nắm được nghiệm sống, sự trải nghiệm
của mỗingười, là sản phẩm của quá trình học tập và tự tu dưỡng. Đối với
học sinh phổ thông, giáo dục ý thức cá nhân là khâu cực kì quan trọng, quá
trình này được thực hiện thông qua quá trình học tập và các hoạt động rèn
luyện trong và ngoài nhà trường. Qua đó những những tri thức về các chuẩn mực xã hội -
Tin về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân
lý đúngđắn của các chuẩn mực xã hội -
Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩnmực xã hội. -
Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội -
Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩnmực xã hội -
Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi của
người kháccó mâu thuẫn với những chuẩn mực xã hội.
Chính niềm tin đó cùng với những tri thức tương ứng thu lượm được sẽ tạo
nên ở người được giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức
nói chung, niềm tin nói riêng cho người được giáo dục đã làm nảy nở những xúc
cảm, tình cảm tốt đẹp đối với các chuẩn mực xã hội. Những xúc cảm, tình cảm lOMoAR cPSD| 40439748
tích cực đó như là những “chất men” kích thích người được giáo dục chuyển hoá
ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.
Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy: -
Nếu ý thức về các chuẩn mực xã hội của người được giáo dục
bị hạn chế thì tình cảm tương ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành
vi tương ứng mang tính chất hình thức, thậm chí không hình thành hoặc rơi
vào tình trạng sai lệch. -
Nếu người được giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực
xã hộimà không có tình cảm tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan
cứng nhắc và thậm chí không hình thành hay sai lệch: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu” -
Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực xã hội một cách
không tựgiác sẽ dẫn đến tình trạng nói và làm không đi đôi với nhau và kết
quả giáo dục là hình thành bộ mặt nhân cách giả tạo.
Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình
cảm tích cực cho học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bè bạn,
xã hội, đối với tự nhiên và môi trường xung quanh là điều có ý nghĩa rất quan
trọng. Giáo dục xây dựng niềm tin cho các em vào chân lí, lẽ phải, giáo dục tình
cảm yêu mến, kính trọng thầy cô giáo, cha mẹ; thân ái với bạn bè,… và đồng thời
chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch lạc, thiếu trong
sáng làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục. c.
Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi và thói
quenhành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã quy định
Nhân cách của mỗi ngưòi được thể hiện bằng hành vi và thói quen hành vi
của họ chứ không chỉ dừng ở sự hiểu biết của họ. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất
của bộ mặt tâm lí, đạo đức của con người.
Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở người được giáo dục phẩm
chất nhân cách của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu xã hội. Do
đó, quá trình giáo dục quan trọng nhất là phải tổ chức, điều khiển ngưòi được giáo lOMoAR cPSD| 40439748
dục tham gia vào những mối quan hệ hoạt động và giao lưu để họ tự rèn luyện
nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội và lặp đi lặp
lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi văn hóa khi đã trở
thành thói quen sẽ mang tính bền vững và tự động hóa trong cách ứng xử của mọi
tình huống cuộc sống hàng ngày của người được giáo dục.
Hành vi và thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong quá trình
hoạt động và được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống.
Giáo dục hành vi, thói quen hành vi có văn hóa là kết quả của cả một quá trình
học tập tu dưỡng và rèn luyện lâu dài của người được giáo dục.
Chính vì vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong
phú dưới nhiều hình thức khác nhau và ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi
dưỡng cho người được giáo dục ý thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh
giá thường xuyên trên cơ sở đó các thói quen hành vi đạo đức của người được
giáo dục mới được hình thành.
Lưu ý: những hành vi hình thành ở người được giáo dục phải thoả mãn các tiêu chí sau đây:
• Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không?
• Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không?
• Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không?
• Hành vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào?
Tóm lại: Các khâu trên đây của quá trình giáo dục tác động đồng bộ tới
nhận thức, tình cảm, hành vi thói quen của người được giáo dục có mối quan hệ
mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau thậm trí là thâm nhập vào nhau: nhận thức là
cơ sở là điều kiện cần cho việc hình thành tình cảm, hành vi tương ứng ở người
được giáo dục; Niềm tin, tình cảm là động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động để biến
nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi và rèn luyện hành vi là yếu
tố quyết định sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục. lOMoAR cPSD| 40439748
Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục
đòi hỏi nhà giáo dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên.
Việc vận dụng các khâu sao cho phù hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ
giáo dục và hoàn cảnh cụ thể nhằm phát huy tính hiệu quả của quá trình giáo dục.
4. Các nguyên tắc của quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) ở trường phổ thông
hiện nay. (trang 107)
5. Nội dung, các nhóm PP, các PPGD của QTGD (nghĩa hẹp). Giải thích:
Tại sao phải lựa chọn phối hợp các PPGD trong tổ chức hoạt động giáo dục. (trang 117)
III- Công tác chủ nhiệm ở trường phổ thông
1. Trình bày vai trò, chức năng, nhiệm vụ của GVCN
2. Phân tích nội dung, phương pháp giáo dục của GVCN
3. Giải quyết các tình huống SP
IV- Hoạt động trải nghiệm ở trường PT
1. Ý nghĩa, đặc điểm, yêu cầu tổ chức HDTN
2. Nội dung, phương thức tổ chức ( hình thức tổ chức), quy trình tổ chức HDTN
3. Lựa chọn chủ đề HDTN ở trường phổ thông, thiết kế HDTN.