Đề cương học kỳ 1 môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội

Đề cương học kỳ 1 môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu

Thông tin:
81 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương học kỳ 1 môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội

Đề cương học kỳ 1 môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

119 60 lượt tải Tải xuống
1. Nêu khái niệm triết học Mác Lênin? Phânch tính tất yếu cho sự
ra đời của triết học Mác-Lênin? Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác
một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học? Ý nghĩa phương pháp
luận của vấn đề nghiên cứu?
KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN: hệ thống quan điểm
duy vật biện chứng về tự nhiên hội, duy thế giới quan
phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động các lực lượng hội tiến bộ trong nhận thức cải
tạo thế giới.
PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU CHO SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT
HỌC MÁC- LÊNIN:
1. Tiền đề về kinh tế - hội:
+Từ giữa những năm của thế kỉ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Tây Âu.
Cuộc cách mạng công nghiệp Pháp đang được hoàn thành, Đức
cũng như tại một số nước Tây âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp
cũng làm cho phương thức sản xuất TBCN lớn lên nhanh chóng trong
lòng hội phong kiến.
=>Nhờ vậy, tính nổi trội của CNTB so với chế độ phong kiến đã được
thể hiện rõ nét. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của CNTB đã làm cho
các mâu thuẫn hội vốn của bộc lộ ngày càng gay gắt (mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa).
+ Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra ngày càng nhiều,
đã chứng tỏ được sự trưởng thành lớn mạnh của giai cấp sản
phong trào công nhân cả về quy tính chất. Tuy nhiên, còn mang
tính tự phát, chủ yếu quyền lợi về kinh tế, thiếu tổ chức lãnh đạo do
chưa nhận thức đầy đủ về sở, mục đích, bản chất cuộc đấu tranh.
=> Chính nhu cầu khách quan nàyphải có mộtkhí lí luận sắc bén
để dẫn đường cho phong trào cách mạng để giai cấp sản thực sự trở
thành giai cấp tiến bộ.
- Triết học c ra đời đã phản ánh đúng lịch sử phong trào đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân đưa phong trào
đấu tranh chuyển từ tự phát sang tự giác.
=> thể nói trong những năm 40 của thế kỉ XIX, sự ra đời của triết
học Mác là một tất yếu lịch sử, không thể sớm hơn cũng không thể
muộn hơn thời điểm đó đã thực sự chín muồi
2. Tiền đề luận
-Hêghen:
C.Mác Ăngghen đã đánh giá rất cao vai trò triết học của Hêghen -
người đầu tiên trong lịch sử triết học trên cơ sở triết học duy tâm đã xây
dựng hệ thống các phạm trù, quy luật của phép biện chứng. Đồng thời
hai ông phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hêghen
=> Từ đó hai ông đã rút ra được hạt nhân quý báu trong triết học của
Hêghen phép biện chứng đã cải tạo, giải phóng cho t đó xây
dựng nên phép biện chứng duy vật, thực sự tạo ra một bước ngoặt cách
mạng trong triết học.
-Phơ-bách: là CNDV nhân bản, siêu hình, duy tâm trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội. Mác và Ăngghen phê phán quan điểm siêu hình về tự
nhiên, duy tâm trong quan niệm về hội của Phơ-bách từ đó xây
dựng CNDVBC cả tự nhiên và xã hội.
3. Tiền đề khoa học- Tự nhiên
Vào những năm đầu TK XIX, khoa học tự nhiên sự phát triển mạnh
mẽ với nhiều phát minh quan trọng đã làm bộc lộ tính chất hạn chế
bất lực của phương pháp duy siêu hình trong nhận thức thế giới,
đồng thời tạo ra sở để hình thành phương pháp duy biện chứng.
Các phát minh đó là:
+Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
+Thuyết tế bào
+Thuyết tiến hóa Đacuyn
=> Đã vạch ra mối liên hệ thống nhất các hình thức vận động vật chất
của thế giới, tính biện chứng của sự vận động và phát triển của
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC ĐÃ TẠO NÊN SỰ BIẾN
ĐỔI Ý NGHĨA CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI, VÌ:
- Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật với
phép biện chứng, tạo lập sự thống nhất không tách rời giữa chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng.
- Triết học Mác đã mở rộng CNDVBC vào xem xét trong lĩnh vực
hội, t đó sáng tạo ra CNDVLS - thành tựu đại nhất của tưởng
khoa học làm cho triết học Mác trở thành CNDV triệt để.
- Sự ra đời của triết học Mác đã xác lập sự thống nhất chặt chẽ giữa
luận và thực tiễn, làm cho triết học Mác không chỉ là công cụ giải thích
thế giới mà còn là công cụ cải tạo thế giới.
- Sự ra đời của triết học Mác đã xác lập sự thống nhất chặt chẽ giữa
tính khoa học và tính cách mạng.
- Triết học Mác là TGQ khoa học của giai cấp công nhân - giai cấp tiến
bộ cách mạng nhất, lợi phù hợp với lợi ích bản của nhân dân
lao động sự phát triển của hội.
- Sự ra đời của triết học Mác đã khắc phục được quan niệm không đúng
coi triết học “khoa học của các khoa học”. Từ đó đã xác định được
đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa học cụ thể
Ý NGHĨA PP LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
- Triết học mác lênin thực hiện chức năng, phương pháp luận chung
nhất phổ biến nhất trong nhận thức hoạt động thực tiễn. Vai trò
phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết
phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học.Phương pháp luận
duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc
phương pháp luận nhất cho hoạt động nhận thức thực tiễn.
- Triết học mác lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học giúp con người
phát triển duy khoa học, đó duy cấp độ phạm trù quy luật.
- Tuy nhiên, triết học mác lênin không phải đơn thuốc vạn năng,
thể giải quyết mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành
động cùng với tri thức triết học, con người cần phải tri thức khoa
học cụ thể kinh nghiệm hoạt động thực tiễn hội trong nhận thức
hoạt động thực tiễn không được Xem thường hoặc tuyệt đối hóa
phương pháp luận triết học.
2. Triết học gì? Phân tích vai trò của triết học trong đời
sống hội, hoạt động nhận thức thực tiễn của con
người? Sự vận dụng triết học trong cuộc sống của bản
thân sinh viên.
TRIẾT HỌC: hệ thống tri thức luận chung nhất của con
người về thế giới, về bản thân, con người, vị trí, vai trò của
con người trong thế giới ấy.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI:
- Triết học vai trò rất quan trọng trong đời sống hội
con người được thể hiện qua các chức năng, trong đó 2
chức năng bản là: + Chức năng thế giới quan: toàn bộ
những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống vị trí của con người trong thế giới
đó. Triết học hạt nhân luận của thế giới quan; triết học
giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố phát triển
thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
+ Chức năng phương pháp luận lý luận về phương pháp,
một hệ thống những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt
động nhận thức thực tiễn của con người. Triết học với
cách hệ thống quan điểm luận về thế giới, không chỉ
biểu hiện một thế giới quan nhất định còn biểu hiện
một phương pháp luận phổ biến chỉ đạo mọi hoạt động nhận
thức thực tiễn của con người.
- Triết học định hướng cho các ngành khoa học cụ thể đi
vào nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của thế giới. - Chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung triết học Mác - Lênin nói riêng
luận khoa học cách mạng soi đường cho giai cấp công
nhân nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới
hình thức mới.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC THỰC TIỄN CỦA CON NGƯỜI:
Vai trò của triết học Mác-Lênin được thể hiện thông qua
chức năng thế giới quan phương pháp luận.
- Chức năng thế giới quan của triết học Mác - Lênin.
+ Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện
chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản. Thế giới quan duy
vật biện chứng là hệ thống những quan điểm, quan niệm duy
vật biện chứng của con người về thế giới cũng như vị trí,
vai trò của con người trong thế giới đó.
+ Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:
* Định hướng cho con người nhận thức thế giới đúng đắn
* Chỉ đạo hoạt động thực tiễn hiệu quả
* sở để xác lập nhân sinh quan tích cực
* sở khoa học để đấu tranh với thế giới quan duy tâm,
tôn giáo, phản khoa học.
- Chức năng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
+ Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức thực tiễn của con người.
Trên sở các nội dung duy vật biện chứng của mình, triết
học Mác - Lênin xây dựng hệ thống những quan điểm,
những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để chỉ
đạo hoạt động nhận thức thực tiễn.
+ Vai trò phương pháp luận của triết học Mác - Lênin:
* Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống
những nguyên tắc, những quy tắc, những yêu cầu, những chỉ
dẫn cho hoạt động nhận thức thực tiễn.
* Hệ thống các khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm t
công cụ nhận thức giúp con người phát triển duy luận
khoa học, đó duy phản ánh đối tượng tầm bản chất,
quy luật
VẬN DỤNG TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN:
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay:
-Thứ nhất. Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế
giới quan. phương pháp luận, nhân sinh quan hệ thống giá trị văn hóa
nhân văn cho sinh viên. như “la bàn" giúp họ định hưởng tỉnh tích
cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây dựng, sáng tạo: Sinh
viên các thời dạo khác nhau các nước khác nhau đều thường đi
tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị
-Thứ hai, thế giới quan nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động
sống của con người, thấu kính qua đó con người thể xác định
mục đích. ý nghĩa cuộc sống ý nghĩa cuộc sống lựa chọn cách
thức đạt mục đích đồ: Triết học đem lại cho sinh viên tri thức về các
mối quan hệ hội, về bản chất, chức năng của nhà nước của pháp
luật, vẽ mục đích tồn tại của con người, về cải thiện cái ác, về môi
quan hệ qua cả nhân với nhà nước hội, về tự do trách nhiệm.
=>Vì vậy, triết học vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
phát triển nhân cách sinh viên
Giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan
cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm
đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là,
triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu được mục đích cao nhất của
con người xây dựng một hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong
đó, mọi người đều một cuộc sống đầy đủ về vật chất tinh thân.
Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng tưởng cộng sản
cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. tưởng giữ vai t quan trọng
trong quá trình hình thành nhân cách sinh viên, lý tưởng là mục đích
cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách
thức đạt đến mục tiêu đề ra. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa
học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức
ấy để tự mình ơn lên. bồi dưỡng tưởng cộng sản, tin tưởng vào
con đường đi lên chủ nghĩa hội. niềm tin, hoài bão, sinh viên
tất y chỉ thực hiện tưởng. Giúp sinh viên tinh thần đấu tranh
với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu
trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đã vào cuộc sống
hưởng thụ. thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, cảm với lợi
ích của đồng loại, của dân tộc
3. Nêu nội dung vấn đề bản của triết học? sao
gọi vấn đề trên vấn đề cơ bản của triết học? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu vấn đề này trong nhận thức
hoạt động thực tiễn của bản thân?
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
-Vấn đề cơ bản của triết học là: mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm
và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản về việc giải quyết nó sẽ quyết
định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng
minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, mặt khác nó cũng là
là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết của
họ. Và theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”
-Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Việc giải quyết hai mặt vấn đề bản của triết học là xuất phát điểm
của các trường phát lớn: chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy tâm; khả tri
luận (thuyết thể biết) bất khả tri luận (thuyết không thể biết).
Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên
và hoài nghi luận
-Mặt thứ nhất (bản thể luận -Mặt thứ hai): : con người khả năng
nhận thức được thế giới hay không?giữa ý thức vật chất, cái nào
trước, cái nào
có sau? Cái nào quyết định cái nào?
+Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức: Chủ
nghĩa
duy vật
thức trước, vật chất sau, ý thức quyết định đến vật chất:
Chủ nghĩa
duy tâm
thức vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn
nhau:
Nhị nguyên luận
+Khả tri luận: khẳng định con người về nguyên tắc thể hiểu được
bản
chất của sự vật (Chiếm đại đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa duy
tâm
cũng như duy vật)
+Bất khả tri luận: về nguyên tắc, con người không thể hiểu được bản
VẤN ĐỀ TRÊN LÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC VÌ:
-Đây là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
- Đây vấn đề nền tảng xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề
còn lại của triết
học.
- tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của triết gia
học thuyết của họ.
- Các học thuyết triết học đều trực tiếp hay gián tiếp phải giải quyết vấn
đề này.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn của bản thân?
- Ý nghĩa : trong nhận thức hoạt động thực tiễn mọi chủ trương,
đường lối , kế hoạch , mục tiêu , chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan , từ những điều kiện , tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan , nếu không làm như vậy chúng ta sẽ
phải gánh chịu hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng
phải chân thực , đúng đắn , tránh hồng hoặc bôi đen đối tượng , không
được gán cho đối tượng cái mà nó không có.
4. Quan niệm của Ăngghen về vận động Tại sao nói vận
động phương thức tồn tại của vật chất? thuộc tính
cố hữu của vật chất? Rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu
vấn đề này. Cho ví dụ minh họa?
a, Quan điểm của Ăng-ghen về vận động: "Vận động, hiểu theo nghĩa
chung nhất, tức được hiểu một phương thức tồn tại của vật chất,
một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
mọi quá trình diễn ra trong trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy”.
b, Tại sao nói vận động phương thức tồn tại, thuộc tính cố hữu của
vật chất?
- Vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất vì:
+ Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng luôn luôn vận động.
+ Bằng vận động thông qua vận động sự vật hiện tượng tồn tại
và thể hiện đặc tính của mình.
+ Nếu không vận động sự vật sẽ không tồn tại nữa.
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất vì:
+ Vận động gắn liền với vật chất, đâu vận động thì đó vật
chất.
+ Chỉ khi nào vật chất mất đi thì vận động mới mất đi.
+ Những vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, vì vậy
vận động cũng không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà tồn tại
vĩnh viễn, tận, hạn, điều này đã được định luật bảo toàn
chuyển hóa năng lượng chứng minh.
c, Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này: cho thấy việc vận động
luôn xảy ra đối với vật chất để có thể hiểu biết, nhìn nhận tổng thể hơn,
sâu hơn khi nghiên cứu, khám phá 1 sự vật, hiện tượng nào đó và có thể
khẳng định rằng vận động là phương thức tồn tại của vật chất theo đúng
quan điểm của Ăng-ghen, điều này
5. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức. Phân
tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức. Ý nghĩa của vấn
đề nghiên cứu trong cuộc sống.
Quan niệm về ý thức: ý thức sự phản ánh thế giới vật
chất khách quan vào bộ óc con người sự cải biến
sáng tạo. Ý thức mối quan hệ hữu với vật
chất”.=> Quá trình hình thành và phát triển ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội của con
người
Nguồn gốc:
+ Nguồn gốc tự nhiên: Nguồn gốc tự nhiên của ý
thức hai yếu tố không thể tách rời nhau bộ óc
con người thế giới bên ngoài tác động lên óc
người.
- Bộ óc người là một dạng vật chất sống đặc biệt,
có tổ chức cao, trải qua quá trình tiến hóa lâu dài
về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của
riêng dạng vật chất này. Ý thức phụ thuộc vào
hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn
thương thì hoạt động ý thức không diễn ra bình
thường hoặc rối loạn.
- Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc
người
- Phản ánh sự tái tạo những đặc điểm của một
hệ thống vật chất này hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Nói
một cách dễ hiểu, phản ánh chính sự chép lại,
chụp lại, kể lại một cái đó. Chép lại lời nói ra
giấy sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng
sự phản ánh.
- Thuộc tính phản ánh của óc người được gọi
riêng bằng phạm trù “ý thức”. Đó sự phản ánh,
sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc
con người.
+ Nguồn gốc xã hội: Điều kiện quyết định, trực tiếp và
quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức những
tiền đề, nguồn gốc hội. Đó lao động, tức Ý
thức xã hội và ngôn ngữ.
- Lao động:
- Thông qua lao động, hay còn gọi hoạt động Ý
thức, nhằm cải tạo thế giới khách quan con
người mới thể phản ánh được, biết được
nhiều mật về thế giới đó, mới ý thức về thế
giới này.
- Nhưng không phải tự nhiên thế giới khách
quan tác động vào bộ óc con người để con
người ý thức. Ý thức được chủ yếu do
con người chủ động tác động vào thế giới khách
quan để cải tạo, biến đổi nhằm tạo ra những
sản phẩm mới.
- Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan,
con người bắt những đối tượng trong hiện thực
(núi, rừng, sông, mỏ than, sắt, đồng…) phải bộc lộ
những thuộc tính, kết cấu, quy luật của mình.
Những bộc lộ này tác động vào bộ óc người để
hình thành ý thức của con người.
- Ngôn ngữ:
- Theo C. Mác, ngôn ngữ cái vỏ vật chất của
duy, hiện thực trực tiếp của tưởng,
không ngôn ngữ, con người không thể ý
thức.
- Ngôn ngữ vừa phương tiện giao tiếp, đồng
thời công cụ của duy. Nhờ ngôn ngữ,
con người mới thể khái quát hóa, trừu
tượng hóa, tức diễn đạt những khái niệm,
phạm trù, để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm
tính.
- Cũng nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của
con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Bản chất:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn vì vậy
bản chất của ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
chính vậy, ý thức sẽ phản ánh thực tế khách quan thế giới của con
người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó
có nghĩa là những nội dung và ý thức đều xuất phát từ thực
tiễn, những yếu tố xuất hiện trong thực tiễn sẽ là cơ sở để ý
thức được hình thành
- Sự phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu
cầu thực tiễn cần sử dụng mà bắt buộc phải tạo ra những giá
trị, phát minh thiết kế hiện đại và hữu ích hơn để đáp ứng cho
nhu cầu thực tế của xã hội.
- Phản ánh ý thức là sự sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng
dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan h
xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất ý thức
có tính xã hội
=> Vậy, bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chân thật và đầy đủ nhất
của ý thức. Hành vi con người cũng chính là yếu tố thể hiện bản chất của ý
thức. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Kết cấu: Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất
phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau.
Có thể chia cấu trúc của ý thức theo hai chiều:
Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô
thức, trong đó tự ý thức ở cấp độ sâu nhất.
Ý nghĩa: Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Biểu hiện ở chỗ: ý thức trang bị
cho con người sự hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp con người
xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp cho hoạt động của mình
tạo nên ở con người tình cảm, niềm tin, ý chí, thôi thúc con người nỗ
lực hành động để đạt được mục tiêu đề ra. Ý thức có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất
ở những mức độ nhất định.
Nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm thúc đẩy
sự phát triển của các điều kiện vật chất. Nếu ý thức phản ánh không
phù hợp với hiện thực thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các điều
kiện vật chất. Song sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời, bởi vì sự
vật vận động theo các quy luật khách quan vốn có của nó, nên nhất
định phải có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu,
không phù hợp.
Trong cuộc đấu tranh, bút chiến về quan hệ vật chất và ý thức
Ph.Ăngghen đã bảo vệ quan điểm của Các Mác và phê phán lại rằng
khi đấu tranh với những người theo chủ nghĩa duy tâm, Mác buộc
phải nhấn mạnh vào cái nguyên lý chủ yếu mà họ phủ nhận, nhưng
không có nghĩa là hạ thấp vai trò của ý thức, tinh thần. Chỉ có chủ
nghĩa duy vật tầm thường, không biện chứng mới phủ nhận, coi nhẹ
tác động của tinh thần mà thôi.
[7]
6. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vật chất. Phân tích quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
1. Quan niệm: Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại , phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa vật chất ý thức: Theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
a) Vật chất quyết định ý thức:
-Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật
chất cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ hình thức phản ánh của
vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
+ Phải sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc
người thế giới khách quan) vật chất trong hội (lao động ngôn
ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện
thực khách quan. Nội dung của ý thức kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn động lực
mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú độ sâu sắc nội dung của ý thức
con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức:
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan, tức thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con
người và được cải biên trong đó. Vậy
nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức:
+Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với
sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người
cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì nhiên ý thức
cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
b) Ý thức tính độc lập tương đối tác động trở lại vật
chất
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức
sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức
“đời sống”
riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất tác động trở lại thế giới vật
chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt
động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những
điều kiện,
hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện chỗ chỉ đạo hoạt động, hành
động của con người, thể quyết định làm cho hoạt động của con người
đúng hay sai, thành công hay
thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới trang
bị cho con
người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế
hoạch,
hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai
hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc
đẩy vật chất
phát triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức thể kìm m sự
phát triển của vật chất
- Thứ , hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to
lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
- sáng tạo của ý thức mặc rất to lớn nhưngTính năng động,
không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa vào các điều kiện khách
quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ
quan. Mọi nhận
thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ thực
tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh
chủ nghĩa
chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho
chiến lược và sách lược cách mạng.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của
nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu
tính sáng
tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri
thức,
phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn
luyện phẩm
chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
Phải nhận thức giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết
hợp hài hòa lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan
7. Phân tích sở luận của quan điểm toàn diện trong
phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận
của quan điểm này? Lấy dụ minh họa sự vận dụng
trong thực tiễn.
*Quan điểm toàn diện là gì:(nguyen li ve moi lien he pho bien)
- Là quan điểm được phản ánh trong phương pháp luận triết học. Khi
các nhìn nhận phải được thể hiện một cách toàn diện.
- Quan điểm mang đến tính đúng đắn trong hoạt động xem xét hay đánh
giá một đối tượng nhất định.
- Các nhà nghiên cứu chỉ ra tính hợp lý cần thiết trong nhu cầu phản ánh
chính xác và hiệu quả đối tượng. Từ đó mà các đánh giá mới mang đến
tính chất khách quan, hiệu quả.
-Quan điểm này thể hiện vai trò của người thực hiện các phân tích trên đối
tượng. Khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc. Không
chỉ nhìn nhận với tính chất tiêu cực hay tích cực theo cảm xúc. Mà phải là
những tiến hành trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đáng giá chuyên môn.
Như vậy các hướng tác động mới nếu có mới mang đến hiệu quả.
*Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến
- Khái niệm mối liên hệ: dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt,
các yếu tố của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới.
- Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến:
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến,
khách quan, nhiều vẻ phong phú nhưng k ngang bằng nhau.
+ Liên hệ có tính khách quan:
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới là cái vốn có
của chúng không phụ thuộc vào ý thức của con người và loại người,
hay do một lực lượng thần bí nào quy định.
Tính khách quan của liên hệ là do tính thống nhất vật chất của thế
giới quy định
+ Liên hệ có tính phổ biến:
Bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại cũng có mối liên hệ với sự vật
hiện tượng khác, các yếu tố, các bộ phận, các quá trình, các giai
đoạn phát triển trong một sự vật cũng có liên hệ với nhau. Không
có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong sự cô lập, tách rời với các sự
vật hiện tượng khác.
Tính phổ biến của liên hệ là do tính thống nhất vật chất của thế giới
quy định.
+ Liên hệ của sự vật có tính đa dạng, phong phú:
Mối liên hệ của các sự vật có nhiều loại khác nhau: mối liên hệ bên
trong và
mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp;
mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên; mối liên hệ bản
chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ về không gian và
mối liên hệ về thời gian...
Song, các mối liên hệ có vai trò, vị trí không như nhau đối với sự
tồn tại phát triển của sự vật. Có mối liên hệ quyết định đến quá
trình tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng, có mối liên hệ
chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn
diện. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem
xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện
tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với
các sự vật, hiện tượng khác.
- Trong nhận thức và thực tiễn phải có trọng tâm, trọng điểm,
không dàn dều
một cách chung chung. Chống quan điểm siêu hình, chủ nghĩa triết
chung và thuật ngụy biện.
*Ví dụ minh hoạ:
Quan điểm này thể hiện trong tất cả các hoạt động có tác động của phản
ánh quan điểm. Như những ví dụ trong đánh giá một con người với những
mặt khác nhau phản ánh trong con người họ. Không thể chỉ thực hiện
quan sát phiến diện từ những thể hiện bên ngoài để đánh giá tính cách hay
thái độ, năng lực của họ. Cũng không thể chỉ dựa trên một hành động để
phán xét con người và cách sống của họ.
(Khi đánh giá, cần có thời gian cho sự quan sát tổng thể. Từ những phản
ánh trong bản chất con người, các mối quan hệ của người này với người
khác. Cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những
nhìn nhận và đánh giá trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ cho ra
những quan điểm toàn diện. Từ đó mà cách nhìn nhận một người được
thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ ràng. Nó không phải là những phù
phiếm của nhận định. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra
các nhận xét.)
8. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Phát triển ?
Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển trong phép
biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu nguyên lý này?
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về “phát triển”:
sự phát triển là một quá trình tiếnTheo quan niệm biện chứng
lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra dần dần, nhảy vọt
đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, không phải lúc
nào sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, rất
quanh co, phức tạp, thậm chí những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển kết quả của quá
trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất,
quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chusự
vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng cấp độ cao
hơn. Quan điểm biện chứng cũng khẳng định nguồn gốc của
sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.
phát triển chỉ sự tăng lên, giảmTheo quan điểm siêunh
thuần túy về lượng, không sự thay đổi về mặt chất của
sự vật; hoặc nếu sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay
đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không
sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những
người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một
quá trình tiến lên liên tục, không bước quanh có, phức
tạp.
Phát triển cũng quá trình phát sinh giải quyết mâu thuẫn
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống
nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng trong hình thái của
sự vật, hiện tượng mới.
*Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển:
- Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật đều vận động, biến đổi không
ngừng,nhưng phát triển là khuynh hướng chung của thế giới,
mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng phong phú.
- Phân tích nội dung nguyên lý:
+ Phát triển mang tính khách quan:
Sự phát triển của sự vật không phụ thuộc vào ý thức của
con người và loài người mà diễn ra tự thân. Bởi vì, nguồn
gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là,
trong sự vật liên tục nảy sinh và giải quyết những mâu
thuẫn. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển.
+ Phát triển mang tính phổ biến:
Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư
duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
+ Phát triển mang tính đa dạng, phong phú:
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi
hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình
phát triển khác nhau. Tồn tại ở không gian, thời gian khác
nhau, sự phát triển của sự vật sẽ khác nhau. Trong quá trình
phát triển của sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật,
hiện tượng khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật
có những bước thụt lùi.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có
quan điểm phát triển. Đó là, trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn
tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển
trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi
lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song phải
thấy khuynh hướng phát triển của sự vật để có được niềm tin
khoa học.
- Kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
9. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng, cái
chung, cái đơn nhất? Phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa cái riêng cái chung. Rút ra ý nghĩa phương pháp
luận của việc nghiên cứu vấn đề này?
*Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng, cái
chung, cái đơn nhất:
- Cái riêng: phạm ttriết học dùng để chỉ một sự vật, một
hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định tồn tại như một
chỉnh thể tương đối độc lập với cái riêng khác
- Cái chung: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung không chỉ một sự vật, hiện ợng,
kết cấu vật chất còn được lặp đi lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng, kết cấu vật chất riêng lẻ khác
- Cái đơn nhất: phạm trù triết học để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính… chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một kết cấu vật chất nhất định không lặp lại sự vật, hiện
tượng hay kết cấu vật chất khác
*Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
- Một là, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình
- Hai là, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung,
không cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, tách rời cái
chung. Giữa những cái riêng ấy bao giờ cũng những cái
chung giống nhau
- Ba là, cái riêng cái toàn bộ nên phong phú hơn cái chung.
Cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng
- Bốn là, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau
trong quá trình phát triển của sự vật. Tức là, trong những điều
kiện nhất định. cái đơn nhất thể chuyển hóa thành cái
chung, cái phổ biến và ngược lại
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Để khái quát cái chung phải xuất phát từ những cái riêng,
muốn tìm cái chung thì không được xa rời những cái riêng
suy luận một cách chủ quan, tùy tiện
- Trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn,
nắm được cái chung chìa khóa để giải quyết cái riêng, để
tránh những vấp váp không cần thiết trong quá trình giải quyết
công việc cụ thể
- Cái chung cái đơn nhất thể chuyển hóa lẫn nhau nên
phải tạo điều kiện để cái chung bất lợi chuyển thành cái đơn
nhất và cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung
10. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân và
kết quả? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên
nhân kết quả. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của
việc nghiên cứu vấn đề này?
*Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân
kết quả:
- Nguyên nhân: phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định
- Kết quả: phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi
xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra
*Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
- Một là, nguyên nhân cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân
luôn có trước kết quả về mặt thời gian
+ Không phải mọi sự nối tiếp nhau về thời gian đều
quan hệ nhân quả
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
- Hai là, mối quan hệ nhân - quả có tính phức tạp, một kết quả có
thể do nhiều nguyên nhân sinh ra
- Ba mối liên hệ nhân quả mối liên hệ tiếp biến. Nguyên
nhân sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không
giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại nó có thể ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực ngược trở lại nguyên nhân
+ Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân kết
quả thể chuyển hóa lẫn nhau. Nghĩa cái trong quan hệ
này được coi nguyên nhân thì trong quan hệ khác lại kết
quả
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, do vậy trong hoạt
động nhận thức hoạt động thực tiễn muốn tìm nguyên nhân
của sự vật, hiện tượng phải m trong bản thân sự vật, hiện
tượng
- Nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm hiểu nguyên
nhân của hiện tượng nào đó cần tìm trong những sự kiện,
những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện
- Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân ra đời của nó cho
nên muốn hiểu sự vật hay muốn cải tạo phải tìm hiểu
nguyên nhân của chúng
11. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nội dung
hình thức? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của
việc nghiên cứu vấn đề này?
· Khái niệm nội dung và hình thức:
- Nội dung: phạm trù triết học chỉ tất cả những mặt, những
yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng
- Hình thức: phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại, biểu
hiện phát triển của sự vật, hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự
vật, hiện tượng không chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài, mà
còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.
· Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
* Bất cứ 1 sự vật nào cũng cả nội dung lẫnnh thức, nd
hình thức mối quan hệ biện chứng thống nhất hữu
với nhau, sự thống nhất này thể hiện ở chỗ:
- Một là, không hình thức không chứa nd cũng như
không nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức
nhất định
- Hai là, nd quyết định hình thức
+ Nd quyết định cả phương thức thể hiện cách thức sản xuất
các yếu tố của hình thức
+ Nd luôn vận động biến đổi còn hình thức tính ổn định
tương đối. Sự biến đổi của nội dung sở của sự biến đổi
của hình thức. Khi nội dung thay đổi thì các hình thức thể
hiện nd sớm muộn cũng biến đổi theo
- Ba là, nd và hình thức có tính độc lập tương đối với nhau
+ Một nội dung có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
+ Cùng 1 hình thức có thể thể hiện những nd khác nhau
+ Hình thức phù hợp với nd sẽ mở đường thúc đẩy sự phát
triển của nd, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển ấy
· Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hoá giữa nội
dung hình thức. nội dung hình thức luôn gắn với
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, cần
chống chủ nghĩa hình thức.
- Trong hoạt động thực tiễn cần phải chủ động sử dụng nhiều
hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn trong
những giai đoạn khác nhau cùng một nội dung trong quá
trình phát triển của sự vậy thể nhiều hình thức, ngược
lại, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.
- Để nhận thức cải tạo sự vật, trước hết phải căn cứ vào nội
dung vì nd quyết định hình thức. Nhưng hình thức có tính độc
lập tương đối tác động trở lại nd, do vậy trong hoạt động
thực tiễn cũng phải thường xuyên đối chiếu giữa nd hình
thức và làm cho hình thức phù hợp với nd để thúc đẩy nd pt.
12. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tất nhiên
ngẫu nhiên? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu vấn đề này?
- Cặp phạm trù là một trong cặp phạmtất nhiên ngẫu nhiên
trù bản của triết học nói chung cũng như của phép biện
chứng duy vật nói riêng.
· Khái niệm về tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên: phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên
nhân bản bên trong sự vật, hiện tượng quy định trong
điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể
khác.
- Ngẫu nhiên: phạm trù triết học chỉ mối liên hệ không bản
chất, do nguyên nhân hoàn cảnh bên ngoài quy định nên
thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này
hoặc có thể xuất hiện thế khác.
· Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, tất nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế, nên
trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào tất nhiên chứ không thể
dựa vào ngẫu nhiên.
- Thứ 2, tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý nên trong
hoạt động nhận thức chỉ thể chỉ ra được tất nhiên bằng
cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải đi qua.
- Thứ 3, ngẫu nhiên ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển, thậm
chí còn thể làm cho tiến trình phát triển của sự vật hiện
tượng đột ngột biến đổi.
- Thứ 4, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên là tương đối nên
sau khi nhận thức được các điều kiện thể tạo ra sự chuyển
hoá trên, thể tạo điều kiện thuận lợi để “biến” ngẫu nhiên
phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên tất nhiên không phù
hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên.
13. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất
hiện tượng? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bản
chất hiện tượng. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận
của việc nghiên cứu vấn đề này?
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất hiện
tượng:
phạm trù triết học dùng để chỉ tổng thể cácBản chất:
mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng thể
hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng
: Là phạm trù triết học dùng để chỉ những biểuHiện tượng
hiện biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định bên ngoài, mặt dễ biến đổi hơn hình thức
thể hiện của bản chất đối tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất
và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
Cả đều thực, tồn tại khách quan bất kể conbản chất hiện tượng
người có nhận thức được hay không.
- Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định.
Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng
chịt với nhau, trong đó những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn
định. Những mối liên hệ này tạo nên của sự vật.bản chất
+ Sự vật tồn tại khách quan. những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định lại bên trong sự vật, do đó, đương nhiên chúng
cũng tồn tại khách quan
+ Hiện tượng bản chất chỉ sự biểu hiện của ra bên ngoài để
chúng ta nhìn thấy, nên cũng tồn tại khách quan.hiện tượng
2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Không những tồn tại khách quan, còn mối bản chất hiện tượng
liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
– Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
* Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+ bao giờ cũng bộc lộ ra qua . Bất kỳ Bản chất hiện tượng bản chất
nào cũng được bộc lộ qua những tương ứng.hiện tượng
+ bao giờ cũng sự biểu hiện của . Bất kỳHiện tượng bản chất
hiện tượng bản chất nào cũng sự bộc lộ của mức độ nào đó nhiều
hoặc ít.
Về căn bản, phù hợp với nhau. Khôngbản chất và hiện tượng
bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần .hiện tượng
Ngược lại, cũng không có nào lại không phải là sự biểu hiệnhiện tượng
của một nhất định.bản chất
– Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất hiện tượng thay đổi t tương ứng với cũng sẽ
thay đổi theo.
Khi mất đi thì biểu hiện nó cũng mất đi.bản chất hiện tượng
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa , giữa cái quybản chất và hiện tượng
định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình,
vạn vẻ của ta thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng
biệt, tìm ra quy luật phát triển của những ấy.hiện tượng
3. Tuy thống nhất với nhau, bản chất hiện tượng cũng sự mâu
thuẫn:
Sự thống nhất giữa bản chất hiện tượng sự thống nhất biện
chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy thống nhất với nhau, về bản chấthiện tượng
căn bản phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với
nhau hoàn toàn.
Sở dĩ như vậy là vì của sự vật bao giờ cũng được thể hiệnbản chất
ra thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh.
Các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến
hiện tượng hiện tượng, đưa vào nội dung của những thay đổi nhất định.
Kết quả là, biểu hiện nhưng không phải sựhiện ợng bản chất
biểu hiện y nguyên .bản chất
Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa thểbản chất và hiện tượng
hiện ở chỗ:
+ phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tạiBản chất
và phát triển của sự vật. Còn phản ánh cái cá biệt.hiện tượng
vậy, cùng một thể biểu hiện ra ngoài bằng sốbản chất
hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện hoàn
cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi phụ thuộc không những vàohiện tượng
bản chất bản chất, còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó được biểu
hiện. Chính thế, phong phú hơn Ngược lại, hiện tượng bản chất. bản
chất sâu sắc hơn .hiện tượng
+ mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan.Bản chất
Còn là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.hiện tượng
Các hiện tượng bản chất biểu hiện không phải dưới dạng y
nguyên như vốn có dưới hình thức đã được cải biến, nhiềubản chất
khi xuyên tạc nội dung thực sự của . dụ: Nhúng một phầnbản chất
cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế
cái thước vẫn thẳng
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn
định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
tình hình đó do nội dung của được quyết định khônghiện tượng
chỉ
bởi của sự vật, còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoàibản chất
của nó, bởi tác động qua lại của với các sự vật xung quanh.Các điều
kiện tồn tại bên ngoài đó sự tác động qua lại của sự vật này với sự
vật khác lại thường xuyên biến đổi. vậy, thường xuyênhiện tượng
biến đổi, trong khi vẫn giữa nguyên.bản chất
Tuy nhiên, điều đó khôngnghĩa là luôn giữ nguyênbản chất
như từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi. cũng biến đổi,bản chất
nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, bản chất chỉ thể hiện mình thông qua hiện tượng hiện
tượng lại thường biểu hiện bản chất dưới hình thức đã bị cải biến nên
trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài
(hiện tượng), cần đi sâu vào bên trong để tìm hiểu làm sáng tỏ
bản chất thường ẩn giấu mình sau hiện tượng, dựa vào các quy luật
khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, bản chất sự thống nhất giữa các mặt, các mối liên hệ tất
nhiên vốn của sự vật, hiệnợng, bản chất địa bàn thống lĩnh của
các mâu thuẫn biện chứng chúng được giải quyết trong quá trình
phát triển dẫn đến sự biến đổi của bản chất, tạo ra sự chuyển hóa của
đối tượng từ dạng này sang dạng khác nên các phương pháp đã được áp
dụng vào hoạt động trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương
pháp khác, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng.
14.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của
quy luật lượng chất. Nội dung quy luật chuyển hóa từ
sự biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất
ngược lại Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vị trí, vai trò của
quy luật lượng- chất:
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động
phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự
vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến
ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận
động phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự
vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa những bước
đột phá vượt bậc.
Nội dung của quy luật được vạch ra thông qua việc làm
các khái niệm, phạm trù sau:
là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốnChất
có của
sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành
nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
dụ:.Nguyên t đồng nguyên tử lượng 63,54 đvC, nhiệt độ
nóng
chảy 1083C, nhiệt độ sôi 2880C…những thuộc tính này nói lên
những
chất riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác.
.Hình tròn vùng trong giới hạn bởi một mặt phẳng vòng
tròn phân
biệt với hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc bằng nhau
* Đặc điểm của chất:
mang tính khách quan: chất cái vốn của sự vật hiện-Chất
tượng, nằm
bên trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con
người. Chẳng hạn vị mặn của muối, ngọt của đường cái khách quan,
tồn tại ở
bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ
quan của
con người mà có thể áp đặt được nó.
sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự -Chất
vật.
.Thuộc tính những tính chất của sự vật, cái vốn của sự vật.
Những
thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua
lại của
sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang
hợp của
lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nó với ánh sáng mặt
trời hay
tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước.
.Thuộc tính của sự vật thuộc tính bản thuộc tính không
bản.
Những thuộc tính bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy
định sự tồn
tại vận động phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay
mất đi thì
sự vật mới thay đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ
các mối
quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh
thành thuộc
tính bản thuộc tính không bản cũng chỉ mang tính tương đối.
Trong
mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này thuộc tính bản thể hiện sự
chất của
sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc.
dụ:Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính khả
năng chế
tạo, sử dụng công cụ, duy thuộc tính bản của con người còn
các
thuộc tính không thuộc tính bản. Xong trong quan hệ giữa con
người với
nhau thì những thuộc tính của con người như về nhận dạng về dấu vân
tay lại
trở thành thuộc tính cơ bản
Mỗi sự vật hiện tượng đều quá trình tồn tại phát triển qua nhiều
giai
đoạn trong mỗi giai đoạn ấy lại chất riêng. Như vậy mỗi sự vật
hiện tượng
không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
dụ: những mức độ trưởng thành của nhân một con người từ
ấu thơ ->
mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó
một
chất.
.Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo
thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi
kết cấu của sự vật trong hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các
yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau.
dụ như kim cương than chì đều cùng thành phần hóa học do
các
nguyên tố cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các
nguyên tử
cacbon khác nhau thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau.
Kim
cương rất cứng còn than chì mềm.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó
chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa
thay
đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay
đổi về
lượng của nhiệt độ t 40-50C chưa làm cho trạng thái lỏng của nước
thay đổi
một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn của sựLượng
vật,
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát
triển
của sự vật cũng như các thuộc tính của nó
* Biểu hiện của lượng
Các yếu tố biểu hiện số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận,
đại lượng tốc độ nhịp điệu vận động phát triển của sự vật, hiện
tượng.
Lượng còn biểu hiện kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ,
tổng số ít
hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu
sắc
đậm hay nhạt...
dụ như đối với phân tử nước(H2O). Lượng số nguyên tử tạo
thành nó,
tức hai nguyên tử hidro (H) một nguyên tử oxi (O) hay Quốc gia
Việt Nam
có Dân số: >90 triệu người và Diện tích :331698km²
* Đặc điểm của lượng
mang tính khách quan một dạng biểu hiện của vật-Lượng
chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian tồn tại trong thời gian
nhất định.
Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu
tố
quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật,
hiện
tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức
tạp
theo
Lượng thể được xác định bằng các đơn vị đo ờng cụ thể hoặc
thể
nhận thức bằng con đường trừu tượng khái quát hóa.Trong thực tế
lượng
của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như
vận tốc
của ánh sáng 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao
gồm hai
nguyên tử hidro liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó
những
lượng chỉ thể biểu thị dưới dạng trừu tượng khái quát như trình
độ nhận
thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công
dân,...
trong những trường hợp đó chúng ta chỉ thể nhận thức được lượng
của sự
vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
thường xuyên biến đổi:Có những lượng biểu thị yếu tố kết- Lượng
cấu
bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học,
số
lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu
tố
quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự
vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó gì, các thông số về
lượng
không ổn định thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến
đổi
của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng hai phương diện khác nhau của cùng một
sự vật,
hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, hội duy.
Hai
phương diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa
chất và
lượng của sự vật, hiện tượng chỉ mang tính tương đối. những tính
quy định
trong mối quan hệ này chất nhưng trong mối quan hệ khác lại
lượng.
Chẳng hạn , số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói
lên chất
lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể
quy
định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng tính quy định về
chất của sự
vật, hiện tượng
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
* Sự thống nhất giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng sự thống nhất giữa mặt
chất và
mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính
quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng một loại
chất
tương ứng và ngược lại. như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấuVí dụ
tạo liên
kết nguyên tử hiđro 1 nguyên tử oxi) thì 1 phân tử nước (H20) được
hình
thành với tập hợp các tính chất bản, khách quan, vốn của là:
không
màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axit,…
luôn thống nhất hữu với nhau, không tách rời“Chất” “lượng”
nhau,
tác động lẫn nhau một cách . biện chứng Sự thống nhất giữa chất
lượng ở
trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.Bất cứ sự thay đổi nào
về lượng
cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về của sự vật, hiệnchất
tượng
* Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Trong mối quan hệ giữa chất lượng thì chất mặt tương đối ổn
định,
còn lượng mặt biến đổi hơn nên sự vận động phát triển của sự vật
bao giờ
cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn
ra theo
xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay
đổi về
chất của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật
thay
đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi bản. Chẳng hạn, khi ta
nung một
thỏi thép đặc biệt trong lò, nhiệt độ của nung thể lên tới hàng
trăm độ,
thậm chí lên tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn trạng thái rắn chứ
chưa
chuyển sang trạng thái lỏng.
Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất
định, thì chất sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn
đó gọi là
độ. Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất lượng,
khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, hiện tượng. vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện
tượng
vẫn còn nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Chỉ khi
nào
lượng thay đổi đến giới hạn nhất định( đến độ )mới dẫn đến sự thay đổi
về chất
như vậy sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất thay đổi và kết quả
là sự
vật hiện tượng cũ mất đi sự vật hiện tượng mới ra đời.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó chính điểm nút. Điểm nút thời điểm
mà tại
đó sự thay đổi về ợng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật
tích lũy
đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới
và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của
sự vật
đó, quá trình này diễn ra liên tiếp trong sự vật vậy sự vật luôn
phát triển
chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của thay đổi gây ra gọi bước
nhảy.
Bước nhảy phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về
lượng khi
đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra
đời của
chất mới. Đây chính bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển
của sự
vật, hiện tượng. Bước nhảy sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát
triển và
là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình
vận
động, phát triển liên tục của sự vật hiện tượng. Trong thế giới luôn
diễn ra
quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra
một
đường nút tận, thể hiện cách thức vận động phát triển của sự vật
từ thấp
đến cao.
Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ:
Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể
lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C
(độ).
Khi ợng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc
100°C đó
(điểm nút) t tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ
trạng thái
lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy)
N vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự
tích luỹ
về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về
chất.
Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi
do
tác động của những điều kiện khách quan chủ quan quy định. Chẳng
hạn,
thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác
nhau.Có những nước mất 150 năm, những nước mất 60 m nhưng
cũng có
những nước chỉ mất 15 năm.
Tùy vào sự vật, hiện tượng; tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào
điều kiện , trong đó sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều
hình
thức bước nhảy.
*Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần:
-Bước nhảy đột biến: bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất
ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới
hạn
thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
-Bước nhảy dần dần bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng
cách
tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ
dần
dần mất đi.
Ví dụ như ,Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần
dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước
nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn
bộ và
bước nhảy cục bộ:
-Bước nhảy toàn bộ bước nhảy làm thay đổi chất của toàn b các mặt,
các
yếu tố cấu thành sự vật.
-Bước nhảy cục bộ: bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những
yếu tố
riêng lẻ của sự vật.
dụ như trong hiện thực, các sự vật thuộc tính đa dạng, phong phú
nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục
bộ. Sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ
để
thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức chúng ta đang thực hiện những bước
nhảy
cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội
trên đất nước ta.
*Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng
thay
đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song
sự tác
động của chất đối với lượng nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất
mới
thay thế chất cũ, quy định quy tốc độ phát triển của lượng mới
trong
một độ mới.
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác
động trở lại đối với lượng, được biểu hiện chỗ: chất mới sẽ tạo ra một
lượng
mới phù hợp với để sự thống nhất mới giữa chất lượng. Sự tác
động
ấy thể hiện: chất mới thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ,
nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn như, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là
thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn
hoá
của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu,
quy
mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống như vậy khi nước trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận
tốc
của các phân tử nước tăng hơn, thể tích của nước trạng thái hơi sẽ lớn
hơn
thể tích của trạng thái lỏng với cùng một khối lượng tính chất hoà tan
một
số chất tan của nó cũng sẽ khác đi, v v
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng.
Từ
những sự phân tích trên thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng
sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới
hạn
của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước
nhảy;
chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác
động
đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu
về phương diện chất lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật
hiện
tượng.
- Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự
vật,
đồng thời phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về
lượng của
sự vật. dụ như khi nghiên cứu về các chất trong hoá hay hữu cơ,
người
ta không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học bản vốn
của nó
còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng
các
nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó thể tạo ra sự biến đổi
của các
chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.
- Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh(không chịu tích lũy về mặt
lượng lại muốn biến đổi v chất) tưởng bảo thủ hữu
khuynh(lượng đã
tích lũy đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy) trong công tác
thực tiễn. dụ như một người thực hiện kinh doanh nhưng chưa tích lũy
đủ kiến
thức về lượng thì khả năng thất bại sẽ rất cao
- Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp
với
từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể.
- Quy luật này còn yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn
phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật hiện
tượng do
đó phải biết chọn phương pháp phù hợp với tác động phương thức liên
kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật của chúng.
15. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò
của quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối
lập. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập? Ý nghĩa phương pháp luận của quy
luật này?
Quan niệm của Mác- Lênin:
quy luật bản chất tất nhiên, phổ biến lặp đi lặp lại giữa các mặt,
yếu tố, thuộc tính bên trong của mỗi sự vật hay giữa các sự vật
hiện tượng với nhau.
Nội dung quy luật:
Vị trí, vai trò của quy luật: Chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự
phát triển
Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những tính quy định khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau,
tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng: trạng thái các mặt đối lập liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau, bài trừ phủ định lẫn nhau
Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển
Ý nghĩa PPL của quy luật:
Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến, là cái vốn có của sự vật hiện
tượng, do đó nghiên cứu sự vật hiện tượng phải xem xét quá trình
phát sinh, phát triển của mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết
mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn
16. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phủ định biện
chứng Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ
định. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
Khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật
khác, giai đoạn vận động, phát triển này bằng giai đoạn vận động,
phát triển khác. Theo nghĩa đó, không phải bất cứ sự phủ định nào
cũng dẫn tới quá trình phát triển.
+ Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tạo ra
những điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật.
dụ, quá trình “hạt giống nảy mầm”. Trong trường hợp này: cái mầm
ra đời từ cái hạt; sự ra đời của sự phủ định biện chứng đối
với cái hạt, nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình sinh tồn và
phát triển.
2. Vai trò và đặc trưng của phép phủ định biện chứng:
– Vai trò của phủ định biện chứng đối với sự phát triển
Phủ định biện chứng giữ vai trò tạo ra những điều kiện, tiền đề phát
triển của sự vật bởi vì: phủ định biện chứngsự tự thân phủ định
xuất phát từ nhu cầu tất yếu của sự phát triển. Đồng thời quá
trình phủ định đó, một mặt kế thừa được những yếu tố của sự vật
cũ, cần thiết cho sự phát triển của nó, tạo ra khả năng phát huy
mới của các nhân tố cũ; mặt khác lại khắc phục, lọc bỏ, vượt qua
được những hạn chế của sự vật cũ, nhờ đó sự vật phát triển
trình độ cao hơn.
– Đặc trưng của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng sự “tự thân phủ định”, tức sự phủ định xuất
phát từ nhu cầu tồn tại, phát triển của sự vật: sự vật chỉ có thể tồn
tại, phát triển một khi tất yếu phải vượt qua hình thái tồn
tại dưới hình thái mới. Tính chất đó của sự phủ định cũng còn gọi
tính khách quan của sự phủ định. Mặt khác, quá trình phủ định
biện chứng cũng là quá trình bao hàm trong đó tính chất kế thừa
kế thừa các yếu tố nội dung trong hình thái mới, nhờ đó chẳng
những nội dung được bảo tồn còn thể phát huy vai trò
tích cực của nó cho quá trình phát triển của sự vật.
Tính khách quan: nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong
bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong
sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn sự vật luôn luôn
phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào
sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng
nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí
của con người. Con người chỉ thể tác động làm cho quá trình
phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật
phát triển của sự vật.
Kế thừa: phủ định biện chứng kết quả của sự phát triển tự thân
của sự vật, nên nó không thể sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn
cái cũ. Cái mới chỉ thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra
đời không xóa bỏ hoàn toàn cái chọn lọc, giữ lại cải
tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ
cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự
phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng khẳng
định.
dụ, quá trình vận động của bản (k) từ hình thái bản tiền tệ
sang hình thái bản hàng hoá (tư liệu sản xuất sức lao động)
là một sự phủ định trong quá trình vận động, phát triển của tư bản.
Quá trình này có sự thay đổi hình thái tồn tại của tư bản nhưng nội
dung giá trị của tư bản được bảo tồn dưới hình thái mới – hình thái
khả năng khi tiêu dùng trong sản xuất thì chẳng những khả
năng tái tạo giá trịcòn có khả năng làm tăng giá tr mới của
tư bản.
– “Phủ định của phủ định”
Khái niệm “phủ định của phủ định” hay “phủ định cái phủ định” hoặc
“phủ định sự phủ định” có 2 nghĩa cơ bản:
+ Một là, dùng để chỉ quá trình phủ định lặp đi lặp lại trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật. (A B -C.., trong đó: A bị B phủ
định, nhưng đến lượt nó lại bị C phủ định,…).
dụ, quá trình vận động, phát triển của hội loài người: hội
chiếm hữu lệ ra đời sự phủ định đối với xã hội nguyên thuỷ,
đến lượt nó lại bị xã hội phong kiến phủ định,…
+ Hai là, dùng để chỉ quá trình vận động, phát triển diễn ra dưới hình
thức tính chu kỳ “xoáy ốc”: sự lặp lại hình thái ban đầu của mỗi
chu kỳ phát triển nhưng trên một sở cao hơn qua hai lần phủ
định cơ bản.
dụ, tính chu kỳ của quá trình vận động tăng trưởng, phát triển của
một giống loài thực vật:… hạt cây những hạt mới…; hoặc sự
vận động tăng trưởng phát triển của bản (k):… T H (Tlsx +
Slđ)… H’ – T’ (T + t)…
3. Nội dung của quy luật phủ định biện chứng:
Sự ra đời tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá
trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay
thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó
không còn nữa bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó những
nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ
định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như sự vật đã tồn tại, song không phải
sự trùng lặp hoàn toàn, được bổ sung những nhân tố
mới chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp vi sự phát
triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ
định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu
kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ
định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo
tồn bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông
qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày
càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt
khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với
cách cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong
mình xu hướng dẫn tới s phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ
định).
Trong s vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của
những lần phủ định biện chứng tận, cái mới phủ định cái cũ,
nhưng rồi cái mới lại trở nên lại bị cái mới sau phủ định. Cứ
như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh
hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách tận
theo đường “xoáy ốc” hay “vòng xoáy trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ
định của phủ định, cái mới được ra đời lặp lại cái cũ nhưng trên cơ
sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” sự biểu thị ràng, đầy đủ các
đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế
thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” thể
hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự
phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật
do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là
kết quả đấu tranh chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản
thân sự vật giữa mặt khẳng định mặt phủ định. S phủ định
lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với
cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư
cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và trở lại
cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn như cái cũ mà trên cơ
sở cao hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định
và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của
cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các
giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn
đã qua, vậy, nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết
quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển cũng điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự
vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự
vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật
phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
4. Ý nghĩa phương pháp luận phủ định biện chứng:
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ sự phát triển khuynh
hướng chung, tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường
thẳng nhưng quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định,
nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn
phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng,
đặc biệt các hiện tượng hội, do vậy cần phải kiên trì đổi
mới, khắc phục khuynh hướng bi quan, chán nản, dao động trước
những khó khăn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái
mới, cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự
vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó
cái tiến bộ hơn, giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái
cũ. vậy, trong nhận thức hoạt động thực tiễn, cần nhận
thức đúng về cái mới thái độ đúng đối với cái mới đồng thời
chủ động phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
Phải cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết
sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư
vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.
luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu bản
chất, tính quy luật, những hình thức phương pháp nhận thức,
vấn đề chân lý. giải đáp một cách đúng đắn đầy đủ mặt thứ
hai trong vấn đề cơ bản của triết học.
17. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn. Phân
tích vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức của
con người? Ý nghĩa phương pháp luận?
-Theo quan điểm của triết học Mác Lênin: Thực tiễn
những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thứ nhất, thực tiễn sở, mục đích, động lực chủ yếu
trực tiếp của nhận thức
* sao lại nói thực tiễn là sở của nhận thức? Xuất phát từ
sự thật rằng mọi tri thức trực tiếp hay gián tiếp đối với
bất đối tượng con người nào, bất trình độ kinh
nghiệm hay luận đều bắt nguồn t thực tiễn. Thực tiễn
cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi luận.
Thông qua những hoạt động thực tiễn, con người tác động
vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc
tính, những quy luật để con người thể nhận thức được
chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên ngoài bằng
thực tiễn chứ không phải bằng luận. Chính từ trong quá
trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con
người được hình thành phát triển. Lúc đầu con người
thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành
so sánh, phân ch, tổng hợp, khái quát hóa... để phản ánh
bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để
xây dựng thành khoa học, lý luận.
* Thực tiễn còn mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức
về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng
phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức
phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Nếu luận, khoa học
không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không bất
cứ ý nghĩa nào.
* Thực tiễn động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn diện hơn về thế
giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ phương hướng phát triển
của nhận thức là kết quả của thực. Trong quá trình hoạt động
thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng không ngừng
biến đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức khám phá thế giới, làm sâu sắc phong phú vốn tri
thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi
hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn tri thức, biết cách tổng kết
kinh nghiệm, khái quát lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời
phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của
con người cần tới khoa học - từ đó dẫn đến sự ra đời của
khoa học.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết
học Mác - Lênin đã từng cho rằng: "vấn đề tìm hiểu xem
duy con người thể đạt tới chân khách quan hay không
hoàn toàn không phải một vấn đề luận, một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học tiêu chuẩn logic riêng
tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn toàn cho tiêu chuẩn
thực tiễn xét đến cùng còn phụ thuộc tiêu chuẩn
thực tiễn.
Thực tiễn tiêu chuẩn của chân vừa tuyệt đối cũng vừa
tương đối. Tuyệt đối đây bởi thực tiễn chính tiêu
chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất
cả thực tiễn thể kiểm nghiệm được chân còn phải
dựa vào thực tiễn mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tính
tương đối của thực tiễn thể hiện chỗ thực tiễn không
ngừng biến đổi phát triển. Thực tiễn cũng không tránh
khỏi yếu tố chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng một quá trình
được thực hiện bởi con người. Chính sự biến đổi không
ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con
người biến thành chân lý tuyệt đối cuối cùng. Những tri thức
liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn
thể thực tiễn trong quá khứ, hiện tại hay thậm chí tương
lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều
chỉnh và phát triển toàn diện nhất.
-Phương pháp luận ý nghĩa như cách để xác định hướng đi
cho tiến trình nghiên cứu một đề tài tìm ra cấu trúc logic
nhất cho các công trình khoa học hiện tại.
18. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của
nhận thức. Trình bày quá trình nhận thức của con
người? Phân tích mối quan hệ biện chứng của quá trình
nhận thức? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức sự phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người: “Tri giác biểu tượng
của chúng ta hình ảnh của các vật đó”; “Cảm giác của
chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ hình ảnh của thế giới
bên ngoài; nhiên nếu không cái bị phản ánh thì
không thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh tồn tại một
cách độc lập với cái phản ánh” . Điều này thể hiện quan
niệm duy vật về nhận thức, chống lại quan niệm duy tâm về
nhận thức. Nhưng bản chất của nhận thức là sự phản ánh tích
cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc con người. Đây
một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu
thuẫn chứ không phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động
nhất thời: “Nhận thức sự tiến gần mãi mãi tận
của duy đến khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong
ởng con người phải được hiểu không phải một cách
“chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động,
không mâu thuẫn, trong quá trình vĩnh viễn của vận
động, của sự nảy sinh mâu thuẫn sự giải quyết những
mâu thuẫn đó”
-Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định
nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan
vào trong bộ óc của con người, tính tích cực, năng động,
sáng tạo, trên sở thực tiễn.. Sự nhận thức của con người
vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang
tính trực giác.
-Nhận thức nói chung quá trình tâm phản ánh hiện thực
khách quan bản thân con người thông qua các giác quan
dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bản thân. Theo đó,
nhận thức ở mức độ thấp sẽ là nhận thức cảm tínhở mức
độ cao hơn nhận thức tính. Hai loại nhận thức này
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn
nhau trong cùng một hoạt động thống nhất của con người.
Nhận thức cảm tính được coimức độ nhận thức đầu tiên
thấp nhất của con người, phản ánh được những thuộc tính
bên ngoài, những cái trực tiếp tác động tới giác quan của
con người, gồm có cảm giác và tri giác.
Nhận thức tính được coi nhận thức mức độ cao hơn
của con người. Theo đó phản ánh những thuộc tính bên
trong hay những mối quan hệ mang tính quy luật của hiện
thực khách quan một cách gián tiếp, gồm duy
tượng.
Theo Lênin đưa ra quan điểm cụ thể như sau: “Từ trực quan
sinh động đến duy trừu tượng, t duy trừu ợng đến
thực tiễn đó con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Như vậy, ta nhận thấy, con đường biện chứng của quá trình
nhận thức thực chất sẽ bao gồm hai khâu sau:
– Nhận thức cảm tính bao gồm: Cảm giác; Tri giác; Biểu tượng.
Cụ thể như sau:
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) được hiểu bản
chính những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc
trưng bản giai đoạn nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động) nhận thức sẽ được thực hiện trong mối liên hệ trực
tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cụ thể như cảm
giác, tri giác, biểu tượng. Các thành phần của nhận thức cảm
tính (trực quan sinh động) cụ thể như sau:
+ Cảm giác được hiểu bản chính tri thức được sinh ra do
sự tác động trực tiếp của các sự vật, hiện tượng lên các giác
quan cụ thể của con người. Cảm giác phản ánh đến từng
mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của các sự vật,
hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác đó chính là
thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác thì đó lại
hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+ Tri giác được hiểu cơ bản chính là sự tổng hợp của nhiều cảm
giác riêng biệt vào một mối liên hệ tính thống nhất
cũng từ đó mà đã tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh
về sự vật, hiện tượng.
+ Biểu tượng t sẽ được hình thành dựa vào sự phối hợp hoạt
động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan quá trình này
cũng đã có sự tham gia của các yếu tố cụ thể như: phân tích,
trừu tượng khả năng ghi nhận thông tin của não người.
Thực chất thì ta nhận thấy rằng, đây cũng chính là nấc thang
cao tính chất phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức
cảm tính. Đây cũng chính nh ảnh cảm tính tương đối
hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong
não người bởi các tác động nào đó được tái hiện lại
khi các sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm
tính.
Trong biểu tượng thì cũng đã có những phản ánh gián tiếp về sự
vật, hiện tượng với biểu tượng, con người cũng đã thể
hình dung được cơ bản về sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng
con người về căn bản vẫn chưa nắm được sự chuyển hóa từ
sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
– Nhận thức lý tính bao gồm: Khái niệm; Phán đoán; Suy luận.
Ta nhận thấy rằng, nhận thức tính sẽ bắt nguồn từ trực quan
sinh động nhận thức tính cũng sẽ bắt nguồn từ những
lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính cũng đã góp phần có thể
phản ánh sâu sắc, chính xác đầy đủ hơn về khách thể
nhận thức. Cụ thể về các thành phần của nhận thức tính
bao gồm:
+ Khái niệm được hiểu bản chính hình thức bản của
duy trừu tượng. Khái niệm thực chất sẽ vừa tính khách
quan, bên cạnh đó thì lại vừa tính chủ quan khi thực
hiện phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính bản
tính bản chất chung nhất của các sự vật, hiện tượng dựa
vào sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin
đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
+ Phán đoán được hiểu bản chính hình thức duy thực
hiện việc liên kết các khái niệm lại với nhau để nhằm mục
đích thể khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một
thuộc tính cụ thể nào đó của sự vật, hiện tượng; phán đoán
cũng chính hình thức được sử dụng để thể phản ánh
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán
hình thức biểu hiện giúp thể diễn đạt các quy luật
khách quan.
+ Suy luận (suy lý) được hiểu bản chính hình thức của
duy thực hiện việc liên kết các phán đoán lại với nhau để
nhằm mục đích thể thông qua đó rút ra tri thức mới theo
phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những
phán đoán tiên đề. Suy luận trong thực tế hiện nay vai trò
quan trọng trong duy trừu tượng, bởi thực chất thì suy
luận đã giúp thể hiện quá trình vận động của duy đi từ cái
đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết.
Nghiên cứu là một quá trình thử nghiệm trí tuệ bao gồm một
tập hợp các phương pháp được áp dụng một cách hệ
thống, với mục đích điều tra một vấn đề hoặc chủ đề, cũng
như mở rộng hoặc phát triển kiến thức của nó, thể lợi
ích khoa học, nhân văn, xã hội hoặc công nghệ. .
Mục đích chính yếu của nghiên cứu bản (khác với nghiên
cứu ứng dụng) thu thập dữ kiện, phát kiến, diễn giải, hay
nghiên cứu phát triển những phương pháp hệ thống
mục tiêu thúc đẩy sự phát triển tri thức nhân loại.
19. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chân lý. Phân
tích các tính chất của chân lý? Ý nghĩa của vấn đề nghiên
cứu?
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn
kiểm nghiệm.
Chân sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. vậy,
chân cũng được hình thành phát triển từng bước phụ thuộc vào các
yếu tố:
+ Sự phát triển của sự vật khách quan;
+ Điều kiện lịch sử – cụ thể của ;nhận thức
+ Hoạt động thực tiễn, và
+ Hoạt động nhận thức của con người.
Như thế, do sự biến đổi của nhiều yếu tố, một “thông tin” hôm nay có thể
được gọi là chân lý, nhưng thời gian về sau chưa chắc là chân lý.
Ngược lại, một “thông tin” mới phát hiện thể chưa được công nhận
chân lý, nhưng về sau có thể được gọi là chân lý.
Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá
trình. tưởng (= con người) không nên hình dung chân dưới dạng một
sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ
mờ), không khuynh hướng, không vận động.
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương
đối. Điều này thể hiện như sau:
1. Tính khách quan của chân lý (hay: chân lý là khách quan)
Nghĩa là, tuy chân nhận thức của con người nhưng nội dung của
không phụ thuộc vào con người.
Ví dụ:
+ Trái đất xoay quanh mặt trời: Đây là chân lý khách quan dù con người đã
nhận thức được hay chưa.
+ Khủng long là loài động vật xuất hiện trên trái đất trước loài người.
– Chủ nghĩa duy vật có quan điểm mang tính nguyên tắc là thừa nhận chân
khách quan. Nếu phủ nhận chân khách quan thì nhất định sẽ dẫn tới
thuyết không thể biết và chủ nghĩa chủ quan.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính khách quan của chân lý có
nghĩa thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới sự phản ánh thế
giới đó vào trong bộ óc con người.
Nội dung mà chân lý phản ánh thuộc về thế giới khách quan. Chân lý chỉ có
con người, nhưng nội dung của chân lý lại không lệ thuộc vào con người
mà chỉ lệ thuộc vào sự vật khách quan được chân lý đó phản ánh.
2. Tính cụ thể của chân lý (hay: chân lý là cụ thể)
– Điều này nghĩa là không có chân lý trừu tượng, mơ hồ.
Chân đạt được trong quá trình nhận thức bao giờ cũng gắn liền với một
lĩnh vực cụ thể của hiện thực, được phát triển trong những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể đó.
Chân cụ thể bởi đối tượng chân phản ánh bao giờ cũng tồn
tại một cách cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những
quan hệ cụ thể.
Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn với điều kiện lịch sử – cụ thể. Nếu
thoát khỏi điều kiện lịch sử cụ thể, thì cái vốn gọi là chân sẽ không còn
là chân lý nữa.
3. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý
Như đã phân tích, con người đạt tới chân lý trong quá trình vận động vô tận
của nhận thức thế giới khách quan với cả một chuỗi những sự trừu tượng,
những sự hình thành các khái niệm, quy luật.
Những khái niệm bao quát một cách tương đối, gần đúng những quy luật
phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động phát triển, tạo nên một
bức tranh khoa học về thế giới khách quan.
Nhưng con người nhận thức chân lý khách quan như thế nào? Có thể nhận
thức được một cách tức thời, toàn bộ, tuyệt đối, điều kiện hay chỉ gần
đúng, có điều kiện?
Trả lời câu hỏi đó tức phải xem xét quan hệ giữa tính tuyệt đối tính
tương đối của chân lý. Ở đây, ta có chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
Mối quan hệ giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối biểu hiện mối quan
hệ biện chứng giữa quá trình tận của sự nhận thức thế giới khách quan
với khả năng, kết quả nhận thức có hạn ở từng thời điểm cụ thể của lịch sử
nhận thức.
3.1. Chân lý tương đối là gì?
Chân tương đối tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh
trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức.
chân tương đối, sự phản ánh hiện thực khách quan bị giới hạn
những mặt, những bộ phận nhất định và bị chế ước bởi điều kiện lịch sử.
3.2. Chân lý tuyệt đối là gì?
Chân tuyệt đốitri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách
quan.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì theo bản chất của
nó, tư duy con người thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân
lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối.
Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái
tổng số ấy của chân tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân của mọi
định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy
theo sự tăng tiến của tri thức.
Sở như vậy thế giới khách quan là vô cùng tận,biến đổi, phát triển
không ngừng, không giới hạn tận cùng, còn nhận thức của từng con
người, từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử khách quan
bởi năng lực chủ quan.
Việc thừa nhận tính tương đối của chân không loại trừ việc chấp nhận,
chút ít, chân tuyệt đối. Trong tính tương đối đó vẫn chứa đựng một
phần, một yếu tố của chân lý tuyệt đối.
20. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về sản xuất vật
chất. Phân tích vai trò của sản xuất vật chất đối với sự
tồn tại phát triển của hội loài người. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này?
1. Sản xuất vật chất
Sự khác biệt bản giữa loài người loài vật chính chỗ: loài vật chỉ
có thể thỏa mãn nhu cầu của nó bằng những cái có sẵn trong tự nhiên, còn
con người muốn thỏa mãn nhu cầu tồn tại phát triển của mình thì phải
sản xuất ra những vật phẩm. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “điểm khác biệt
căn bản giữa xã hội loài người với loài vật là ở chỗ; loài vật may lắm chỉ hái
lượm, trong khi con người lại sản xuất”(1). Sản xuất hoạt động riêng
của con người hội loài người, bao gồm ba quá trình: sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá
trình đó mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sản xuất vật chất
giữ vai trò quyết định. Vậy, sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá
trình con người sáng tạosử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra những vật
phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó cho sự tồn tại phát triển của con người
và xã hội loài người.
2. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự
tồn tại phát triển của của hội loài
người
Trong quá trình tồn tại phát triển của mình, con người chinh phục, cải
biến tự nhiên không phải chỉ vớicách là những cá nhân riêng lẻ, còn
với cách những thành viên trong một cộng đồng hội. Sống trong
một cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt
động với nhau, nhất là trong hoạt động lao động sản xuất. Con người và
hội không thể tách rời tự nhiên, họ chỉ thể tồn tại phát triển dựa vào
tự nhiên trên sở làm biến đổi tự nhiên. Không tự nhiên hội
thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản
xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên,
biến đổi hội, trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự tồn tại phát
triển của con người, của xã hội loài người. Trình độ sản xuất của con người
càng cao (thì con người càng điều kiện để thỏa mãn những nhu cầu vật
chất của mình do vậy, cũng làm phong phú thêm đời sống hội, đời
sống tinh thần của mình. Qua đó, con người tự hoàn thiện chính bản thân
mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong quá trình sản xuất vật chất con người luôn luôn tìm mọi cách
để làm biến đổi tự nhiên, biến đổi hội, đồng thời làm biến đổi bản
thân mình. Chính sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất đã
quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống hội, quyết
định sự phát triển hội. Do đó, khi nghiên cứu các hiện tượng
hội, chúng ta phải xuất phát từ sở sâu xa của nó, đó sản xuất
vật chất.
21. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về lực lượng sản
xuất quan hệ sản xuất. Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. Đảng
ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ này như thế nào
trong thực tiễn?
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về lực lượng sản xuất
quan hệ sản xuất
1) Lực lượng sản xuất
- Khái niệm: lực lượng sản xuất sự kết hợp giữa người lao động
với liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất năng lực thực tiễn làm
biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội
- Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận bản: liệu sản xuất
và người lao động.
+Tư liệu sản xuất những liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm
liệu lao động đối tượng lao động. Trong đó liệu lao động
bao gồm công cụ lao động ( máy móc,…) đối tượng lao động
khác ( phương tiện vận chuyển bảo quản sản phẩm……). Đối
tượng lao động những yếu tố nguyên nhiên vật liệu sẵn trong
tự nhiên (gỗ, than đá,…) hoặc nhân tạo (polime,….).
+Người lao động chủ thể của quá trình lao động sản xuất,
người tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động để
tạo ra sản phẩm, bao gồm (thể lực, trí lực, tâm lực). Đây nguồn
lực bản, tận đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, với sự phát
triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri thức khoa
học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
2) Quan hệ sản xuất
- Khái niệm: quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật
chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, thể
hiện quan hệ sở hữu đối với liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản sản xuất trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ
trong phân phối sản phẩm do xã hội làm ra
II. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất hai mặt của phương
thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương
thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định
làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ
sản xuất bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuấtbằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới ra đời thay thế.
Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản
xuất như sau:
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất cũng tính độc lập tương đối tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất,
phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao
động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải
tiến công cụ lao động.Sự tác động của quan hệ sản xuất lực
lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc tích cực, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển khi phù hợp hoặc tiêu cực, kìm
hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp.
III. Đảng ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ này như thế nào
trong thực tiễn?
-Trước thời điểm đổi mới (năm 1986), việc vận dụng, giải quyết mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất đã mắc phải
bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, bảo thủ trì trệ; không tuân
theo các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
(Trong xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của
công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới
hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành
phần kinh tế khác, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp,
sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu nhân một cách ạt,) dẫn
đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài,
sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Nền
kinh tế tăng trưởng thấp thực chất không phát triển. Sản
xuất không tích luỹ, chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm
trước luôn tăng ở mức hai con số
-Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986 đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm,và đã rút ra
bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
hành động theo quy luật khách quan”.
+Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: Phải từng bước
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát triển lực lượng sản xuất,
coi đó tiêu chuẩn đánh giá việc xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
đã khẳng định phải giải phóng sức sản xuất, đồng thời đưa ra chủ
trương điều chỉnh lớn cơ cấu sản xuất, bố trí lại cơ cấu đầu tư; xây
dựng hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất trình độ của lực lượng sản xuất; cải tạo hội chủ
nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu
quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
+ Đại hội VII nêu định hướng: "Phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu". Đồng
thời xác định: Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
+Từ thực tiễn đổi mới của đất nước, Đại hội VIII khẳng định: Lấy
việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên
trong bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao
hiệu quả kinh tế hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm
mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
+Đại hội IX khẳng định thêm: Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá
hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng hội chủ
nghĩa thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
thể nói, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng
trong 35 năm qua quá trình ngày càng nhận thức vận dụng
đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tế ở Việt Nam khi chúng ta
đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại hội nhập quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng là phù hợp với quy
luật khách quan, ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa. Song, thực tế những
thời điểm vẫn chưa được vận dụng, nhận thứcràng cụ thể trong
đường lối, chính sách của Đảng, điều này cần phải được tiếp tục
nghiên cứu làm rõ, tránh gây nhận thức sai lầm trong nhân dân, bị
các phần tử hội lợi dụng gây phản động, ảnh hưởng đến con
đường chúng ta đang đi con đường độc lập dân tộc chủ
nghĩa xã hội
22. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế
- hội.Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái
kinh tế - hội? Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề
nghiên cứu?
I.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế -
hội
-Hình thái kinh tế - hội một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử (hay còn gọi chủ nghĩa duy vật biện chứng về hội)
dùng để chỉ hội từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho hội đó, phù hợp với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất, với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó
chính là các hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện
chứng giữa các mặt trong đời sống hội tồn tại trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định.
-Hình thái kinh tế - hội là một hệ thống hoàn chỉnh,cấu trúc
phức tạp, trong đó các mặt bản lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh
tế - hội vị trí riêng tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất
với nhau.
- Theo chủ nghĩa Mác- thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuầnLênin
tự xuất
hiện 5 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao:
+ Hình thái kinh tế - hội cộng sản nguyên thủy (công nguyên
thủy)
+ Hình thái kinh tế - hội chiếm hữu lệ (giai cấp chủ mang
sứ mệnh
lịch sử chuyển từ cộng sản nguyên thuỷ lên HTKTXHHTKT XH
chiếm
hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông nô
+ Hình thái kinh tế - hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm
địa chủ
và nông dân
+ Hình thái kinh tế - hội bản chủ nghĩa (giai cấp sản) gồm
tri thức,
tiểu tư sản
+ Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân)
II. Phân tích quá trình lịch sử tnhiên của hình thái kinh tế -
hội
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo luận cấu
trúc hình thái kinh tế - hội, C.Mác đã cho rằng Sự phát triển
của những hình thái kinh tế - hội một quá trình lịch sử - tự
nhiên”
- Trước hết, ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
(hay còn gọi sở hạ tầng) cùng với kiến trúc thượng tầng tác
động biện chứng, tạo nên sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội,
thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy luật bản là quy luật
quan hệ sản xuất hợp với trình độ của lực lượng sản xuất phù
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội.
Như vậy, thể nói, sự vận động & phát triển của hội không
tuân theo ý chí chủ quan của con người tuân theo các quy luật
khách quan, đó các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình
thái kinh tế - xã hội.
- Sự vận động phát triển của xã hội, mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, vv… bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất
trước hết sự biến đổi, phát triển của công cụ sản xuất sự phát
triển về tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Khi lực
lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Từ đó dẫn đến sự
thay đổi về chất của sở hạ tầng hội sau đó sự biến đổi,
phát triển căn bản của kiến trúc thượng tầng hội. Lênin từng
nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về
hội là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ hội vào những quan
hệ sản xuất, đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của
những lực lượng sản xuất thì người ta mới được một sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái hội một
quá trình lịch sử - tự nhiên".
- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá
trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế -hội trong lịch
sử nhân loạisự phát triển của lịch sử hội loài người có thể đo
sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò
quyết định chính sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới
sự tác động của quy luật khách quan lịch sử nhân loại, xét
trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các
hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ - chiếm hữu nô lệ -
phong kiến - bản chủ nghĩa - hội chủ nghĩa. Trong đó, thống
nhất giữa quy luật chung bản phổ biến với quy luật đặc thù
quy luật riêng của lịch sử. Từ đó ta thể kết luận, tiến trình lịch
sử hội loài người kết quả của sự thống nhất giữa logic lịch
sử. Logic chỗ, toàn bộ tiến trình lịch sử loài người sự kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Còn về lịch
sử, các hình thái kinh tế - hội như những trạng thái khác nhau
về chất trong tiến trình lịch sử, với những điều kiện về không gian,
thời gian cụ thể, với các tiêu chỉ về sự phát triển của lực lượng sản
xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng của mỗi
hội cụ thể
- Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy
luật khách quan của sự vận động, phát triển hội, chủ nghĩa Mác
- Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác. Đó
sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương
quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp hội, truyền
thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của
tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng
người trong lịch sử, v.v. Từ đó, tạo nên tính phong phú, đa dạng
trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất đó thể bao
hàm những phát triển "bỏ qua" một hay một vài hình tháibước
kinh tế - hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy
đều phải những điều kiện khách quan chủ quan nhất định.
Sự thống nhất giữa lịch sử trong tiến trình lịch sử - tựlogic
nhiên của hội loài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối
với lịch sử phát triển toàn thế giới sự phát triển "bỏ qua" một
hay vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ
thể. Đó rút ngắn các giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài
người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
dụ: Việt Nam Lào hai quốc gia đã bỏ qua hình thái bản
chủ
nghĩa để quá độ từ hình thái phong kiến lên hình thái hội chủ
nghĩa.
- Hình thái kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa ra đời tất yếu
khách quan của lịch sử hội. Phát triển xu hướng tất yếu,
bản của lịch sử hội loài người. Chủ nghĩa bản không phải
nấc thang phát triển cuối cùng của hội loài người. Chính những
mâu thuẫn bản trong lòng hội bản đã quyết định sự vận
động phát triển của hội loài người. Những tiền đề vật chất cho
sự vận động phát triển hội đã xuất hiện ngay trong lòng hội
tư bản sử. Logic ở chỗ, toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế
tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Còn về
lịch sử, các hình thái kinh tế - hội như những trạng thái khác
nhau về chất trong tiến trình lịch sử, với những điều kiện về không
gian, thời gian cụ thể, với các tiêu chỉ về sự phát triển của lực lượng
sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng của
mỗi xã hội cụ thể
III.
23. Khái niệm tồn tại hội ý thức hội theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin. Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại hội ý thức hội? Ý nghĩa của
vấn đề nghiên cứu?
1.Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái
niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội là :
*Tồn tại xã hội là:
-Khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chấtxã hội giữa
con người với tự nhiên giữa con người với nhau; trong đó, quan
hệ giữa con người với tự nhiên quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau hai quan hệ bản. Những mối quan hệ này xuất
hiện trong quá trình hình thànhhội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
-Tồn tại hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất
vật chất; điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số mật đ dân
số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất thành phần bản
nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v
cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
thức hội mặt tinh thần của đời sống hội, bao gồm tình
cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận…. nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển khác nhau.
-Hiểu đơn giản thì ý thức hội những quan hệ tinh thần giữa con
người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội
cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác nhau (ý
thức hội thông thường ý thức luận (khoa học); tâm hội
hệ tưởng) các hình thái của ý thức hội thức chính trị,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học …)
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại hội ý thức
xã hội
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra
và quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu
hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội,
điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không
thể tìm nguồn gốc tưởng ấy trong đầu óc con người, phải tìm
nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức
xã hội
- Khi tồn tại hội thay đổi một cách căn bản, nhất khi phương
thức sản xuất đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức hội cũng phải
thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi hội mất đi thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập
tương đối này biểu hiện đặc biệt trong lĩnh vực tâm hội như
trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại hội do những
nguyên nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người; thường
diễn ra với tốc độ nhanh ý thức hội thể không phản ánh kịp
thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại
xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại
hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
- Ý thức hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tưởng của con người đặc biệt
những tưởng khoa học tiên tiến, thể vượt trước sự phát triển
của tồn tại hội, dự báo được tương lai, tác dụng tổ chức chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào
hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của
đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hóa vai trò của ý thức hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy
vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tích
cực của ý thức hội trong đời sống hội. Mức độ ảnh hưởng của
tưởng đối với sự phát triển của hội phụ thuộc vào những điều
kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế
tưởng đó sinh ra.
3.Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại hội ý thức hội hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống hội. vậy, công cuộc cải tạo hội cũ, xây
dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại
xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại hội là điều kiện bản nhất để
thay đổi ý thức hội. Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận này
luôn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng
cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực
của đời sống hội tinh thần hội đối với quá trình phát triển kinh
tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
24. Khái niệm tồn tại hội ý thức hội theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin. Phân tích tính độc lập tương
đối vai trò của ý thức hội đối với tồn tại hội? Ý
nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
1.Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái
niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội là :
*Tồn tại xã hội là:
-Khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chấtxã hội giữa
con người với tự nhiên giữa con người với nhau; trong đó, quan
hệ giữa con người với tự nhiên quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau hai quan hệ bản. Những mối quan hệ này xuất
hiện trong quá trình hình thànhhội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
-Tồn tại hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất
vật chất; điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số mật đ dân
số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất thành phần bản
nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v
cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
thức hội mặt tinh thần của đời sống hội, bao gồm tình
cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận…. nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển khác nhau.
-Hiểu đơn giản thì ý thức hội những quan hệ tinh thần giữa con
người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội
cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác nhau (ý
thức hội thông thường ý thức luận (khoa học); tâm hội
hệ tưởng) các hình thái của ý thức hội thức chính trị,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học …)
2.Phân tích tính độc lập tương đối vai trò của ý thức
hội đối với tồn tại xã hội
– Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Lịch sử hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường
hợp khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng
thì lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể thì điều đó biểu hiện rằng ý thức
hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại hội, ý thức
hội trong trường hợp này đã biểu hiện tính độc lập tương đối.
Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ
dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng hội mới chúng ta sẽ cần
phải thường xuyên tăng cường công tác tưởng, đấu tranh chống
lại âm mưu hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt
tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
– Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
Triết học Mác Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất
định tưởng của con người, đặc biệt những tưởng khoa học tiên
tiến sẽ thể vượt trước sự phát triển của tồn tại hội, các
tưởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Lý do mà ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là do đặc điểm
của tưởng khoa học quy định. tưởng khoa học thường khái
quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển
chung của hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ,
hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội trong tương lai.
Khi chúng ta nói rằng, tưởng tiên tiến thể vượt trước tồn tại
hội thì không nghĩa ý thức hội không còn bị tồn tại hội quyết
định. Mà là cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
– Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển:
Trong lịch sử phát triển của đời sống tinh thần hội, những quan
điểm luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống
không những quan điểm luận này sẽ được tạo ra trênsở kế
thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
vậy, khi chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ
thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào
lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những
nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Bởi ý thức hội tính kế thừa, nên khi các chủ thể thực hiện
việc nghiên cứu một tưởng nào đó đều sẽ cần phải dựa quan
hệ kinh tế hiện phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tưởng
trước đó.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức hội trong sự phát
triển của chúng:
Ta nhận thấy rằng, ý thức hội bao gồm nhiều b phận, nhiều hình
thái khác nhau, theo nguyên mối liên h thì giữa các bộ phận hay
các hình thái này sẽ không tách rời nhau, nhiều bộ phận, nhiều
hình thái này sẽ thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động
giữa nhiều bộ phận, nhiều hình thái đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức
những mặt, những tính chất không phải kết quả phản ánh một
cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời
đại khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể những hình
thái ý thức nào đó nổi lên ng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình
thái khác nhau.
– Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hoá vai trò của ý thức hội chủ nghĩa duy vật lịch sử
còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích
cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Do tính độc lập tương đối nên ý thức hội thể tác động trở
lại lên tồn tại hội theo 2 xu hướng:( vai trò của ý thức hội với
tồn tại xã hội )
+ Nếu ý thức hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của
tồn tại hội thì thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại hội.
Vai trò này thuộc về ý thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức hội phản ánh sai lệch, xuyên tạc các quy luật khách
quan của tồn tại hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại
hội. Tác động này thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu,
phản động. Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc
vào mức độ thâm nhập của vào trong phong trào của quần chúng
nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để phổ biến tri thức
khoa học luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng thời
để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản
động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân
dân)
3.Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
- Là cơ sở để chống lại chủ nghĩa duy vật tầm thường chủ nghĩa duy
vật kinh tế là những quan điểm không thấy hoặc phủ nhận tác động
tích cực của xã hội.
- Cần phát huy vai trò của các yếu tố trong ý thức xã hội vào công
cuộc xây dựng xã hội mới chú trọng đúng mức lĩnh vực tư tưởng loại
bỏ những tư tưởng thói quen lạc hậu.
25. Khái niệm sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay?
26. Khái niệm giai cấp đấu tranh giai cấp theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin. Phân tích khái niệm giai cấp
đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
khái niệm :
* Định nghĩa giai cấp của Lênin cho thấy, giai cấp một phạm trù kinh tế -
xã hội có tính lịch sử, tồn tại gắn với những hệ thống sản xuất xã hội dựa trên
cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
* Định nghĩa giai cấp của Lênin là định nghĩa khoa học, có giá trị to lớn về lý
luận thực tiễn, cơ sở để nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của
giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho giai cấp sản sở khoa học
để nhận thức vai trò lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và
xây dựng xã hội mới.
+ Định nghĩa đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các
tập đoàn người to lớnlợi ích căn bản đối lập nhau trong một phương thức
sản xuất xã hội nhất định.
phân tích :
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-
cong-nghe-thanh-pho-ho-chi-minh/triet-hoc-mac-le-
nin/van-de-giai-cap-va-dau-tranh-giai-cap/28871415
27. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc. Phân
tích các đặc trưng bản của dân tộc Việt Nam? Ý nghĩa
của vấn đề nghiên cứu?
I-Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc:
A-Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét
văn hóa đặc thù hay chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất,
quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình,
gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và
truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước.
B-Đặc trưng của dân tộc:
Dân tộc thường được nhận biết thông qua các đặc trưng chủ yếu sau:
+) Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một trong những
đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở
liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững
chắc cho cộng đồng dân tộc.
+) Có thể tập trung cư trú trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc
hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần
rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
+) Có ngôn ngữ riêng hoặc có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ
chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn
hóa, tình cảm...
+) Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn
hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với
nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc.
C-Xu hướng phát triển khách quan của dân tộc:
+) Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc
mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân cư
độc lập. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu
tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu
hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
+) Xu hướng thứ hai,các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc
ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác
động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong
xã hội tư bản đã xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các
dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc,
thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
II-Các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam:
Nước ta có 54 dân tộc anh em.Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc
còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước.Có 10 dân
tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người, 20 dân tộc có số dân
dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1
ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người.
Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết
dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành
truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh
chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm
lịch sử cho đến ngày nay. Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng
lúa nước, một kết cấu nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử
chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một
quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu
hướng khách quan khiến các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung
vận mệnh lịch sử, chung một tương lai tiền đồ. Tuy vậy, bên cạnh những
mặt tích cực thì có nơi có lúc cũng xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan
hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng
mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ của nước ta. Do
đó, phát huy truyền thống đoàn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kỵ dân tộc
kiên quyết đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng
yếu của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu
vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không
thành địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc nước ta không có lãnh th
riêng, không có nền kinh tế riêng và sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc
và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân
tộc, giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc
phục dần sự chênh lệch để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước
ta.nhiều dân tộc có trình độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên.
Đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng
nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù chữ và tái mù chữ
còn xuất hiện ở nhiều nơi.Đường giao thông và phương tiện đi lại còn khó
khăn, điện và nước phục vụ cho đời sống còn rất khan hiếm, thông tin, bưu
điện còn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân ở nhiều nơi nhất là ở
những vùng xa xôi, hẻo lánh...Do điều kiện tự nhiên, xã hội,hậu quả của
các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên các dân tộc mới có sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa....
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú.
Bởi vì bất cứ dân tộc nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa
riêng, phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân
tộc bằng những bản sắc văn hóa độc đáo.Đặc trưng của sắc thái văn hóa
dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật, tình cảm dân
tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dòng họ.... dân tộc
chữ viết riêng :Thái , Chăm, Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với
một vài tôn giáo truyền thống như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo
Thiên Chúa ...Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn
hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa
dạng mang bản sắc văn hóa của từng dân tộc càng làm phong phú thêm
nền văn hóa của cộng đồng.Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số
cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về
chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng
biên giới, các vùng núi cao, hải đảo...nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số
trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ
dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực.
III-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
28. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước. Phân
tích đặc trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác Lênin? Sự vận dụng của Đảng Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay
I-Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước:
A-Nguồn gốc:
+) Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước, đó là thời
kỳ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia giai
cấp.
+) Nguồn gốc sâu xa của nhà nước chính là do sự phát triển của llsx,
trước hết là công cụ lao động. LLSX ptrien đã làm cho chế độ sở hữu tư
nhân ra đời, các g/c bóc lột và bị bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa
chủ nô và nô lệ, 2 g/c đối kháng đầu tiên trong lsu dẫn đến nguy cơ hủy
diệt luôn cả xã hội. Để điều này không xảy ra, một cơ quan quyền lực
đặc biệt đã ra đời=> Nhà nước.
+) Nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước chính là mâu thuẫn g/c gay
gắt không điều hòa được.
Như vậy sự ra đời của nhà nước là yếu tố khách quan làm cho mâu
thuẫn g/c diễn ra trong vòng trật tự có thể duy trì chế độ kt-xh và g/c
thống trị mới.
B-Quan điểm:
+) 2 chức năng cơ bản của nhà nước: Giai cấp và xã hội
+) Nhà nước ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được, nhà nước là tổ chức của g/c nắm giữ những tư liệu sx chủ
yếu trong xã hội. Nnuoc bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của 1 g/c
nhất định. Mọi NN đều là công cụ để bve sự thống trị của g/c thống trị,
điều đó trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong
chế độ quân ch. Nhà nước tư sản dân chủ nhất cũng chỉ là công cụ để
bảo vệ sự thống trị của g/c tư sản đối với g/c vô sản. Chức năng g/c
của nhà nước thể hiện ở chỗ nó là công cụ, phương tiện để bảo vệ lợi
ích của g/c thống trị . Lenin cũng chỉ ra rằng: “ Nhà nước là một tổ chức
quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một g/c nào
đó”; “Bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để g/c này trấn áp g/c
khác, rằng nền cộng hòa tư sản dân chủ nhất cũng là một bộ máy để g/c
tư sản áp bức g/c vô sản”.
Để duy trì sự thống trị của g/c thống trị thì NN phải bve quan hệ sản
xuất có lợi cho g/c thống trị, bve hệ tư tưởng của g/c thống trị, làm cho
tư tưởng đó giữ vị trí chủ đạo trong đs văn hóa, tinh thần của xã hội.
Nhà nước vô sản ( NN XHCN ) có Cnang củng cố và ptrien cơ sở kte có
lợi cho g/c vô sản. Nói về Cnang g/c của NN vô sản, trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, C.Mác viết: “G/c vô sản sẽ dùng sự thống trị chính
trị của mình để đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay g/c tư sản, để tập trung
tca những ccsx vào trong tay NN, tức là trong tay g/c vô sản đã được tổ
chức thành g/c thống trị, để tăng thật nhanh số lượng những llsx”.
V.I.Lenin cho rằng g/c vô sản “ vẫn cần có NN để vừa bve chế độ công
hữu về tư liệu sx, vừa bve bình đẳng về lđ và bình đẳng trong việc phân
chia các sp”.
NN bve lợi ích của g/c thống trị bằng mọi bphap, trong đó có cả bphap
bạo lực. V.I.Lenin cho rằng NN chính là công cụ “ bảo đảm cho một
bphan của dân cư thi hành bạo lực 1 cách có hệ thống chống lại bphan
khác”. Quân đội thường trực và cảnh sát của NN là lực lượng thực thi
các bp cưỡng chế, bạo lực. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, g/c bóc lột
do còn tiềm lực, đc sự giúp đỡ của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước nên luôn tìm cách để khôi phục quyền lực đã mất, luôn chống
phá lại nhà nước vô sản.Vì vậy NN vô sản vẫn cần thiết phải dùng bp
bạo lực đối với các lực lượng phản động này. Tuy nhiên, việc sd bạo lực
của NN VSan khác so với các NN trước đây. Các NN của g/c bóc lột
dùng bạo lực của thiểu số đối vs đại đa số quần chúng lao động, còn
nhà nước vô sản dùng bạo lực của đại đa số quần chúng đối với thiểu
số bóc lột muốn khôi phục lại vị trí thống trị của mình.
Không chỉ nói đến chức năng g/c của NN, cnghia Mac-Lenin còn nói
đến Cnang xh của NN. Cnang XH của NN chính là t/man ở mức độ nào
đó nhu cầu của các giai tầng khác trong xh, tức là phải thực hiện những
chính sách đem lại lợi ích cho các giai tầng bị trị ở mức độ nhất định,
dù cho những csach đó có thể ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt của g/c
thống trị. NN nào cũng phải g/q những vcv chung of toàn xh, tca các g/c
trong xh đều đc hưởng lợi khi NN thực hiện những cvc đó. VD: NN
bảo đảm trật tự an toàn xh, chống ô nhiễm môi trường,... Nói tóm lại, khi
bve và thực hiện lợi ích của mình thì g/c thống trị cũng phải quan tâm và
đảm bảo lợi ích của g/c bị trị ở 1 mức độ nhất định để g/c đó kh rơi vào
cùng cực. Việc t/h chức năng xh ở đây “ có nhiệm vụ làm dịu bớt sự
xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự, làm cho
nhân dân chấp nhận sự bóc lột ở mức độ nhất định. Khi NN thực hiện
CNang XH, NN tồn tại vs hình thức đại diện cho lợi ích chung. Từ đó
nhiều ng lầm tg rằng NN là của chung, không đại diện cho 1 g/c nào cả.
II-Đặc trưng, bản chất của nhà nước theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin:
A-Đặc trưng:
Các nhà nước trong lịch sử có sự khác nhau về bản chất, nhưng tất
cả các nhà nước đều có những đặc trưng (dấu hiệu) cơ bản chung.
Những đặc trưng này để phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị
– xã hội, với tổ chức thị tộc nguyên thủy trước kia.
Thứ nhất, Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt
với bộ máy thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội.
Khi xuất hiện nhà nước đã lập nên quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà
nước tổ chức quyền lực đặc biệt, không còn hòa nhập với dân
nữa. Không những thế, nhà nước còn bộ máy cưỡng chế gắn liền
với quân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam những quan cưỡng
chế khác. Đây là những cơ quan mà không tồn tại trong chế độ thị tộc
nguyên thủy cũng như trong các tổ chức khác.
Bản chất của quyền lực chính trị của nhà nước thuộc về một thiểu số
giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của hội, bộ máy nhà
nước đã được hoàn thiện để thực hiện quản lý xã hội.
Thứ hai, Nhà nước lãnh thổ thực hiện sự quản dân theo
theo các đơn vị hành chính lãnh thổ (dấu hiệu dân cư và lãnh thổ).
Phạm vi thực hiện quyền lực của nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ
nhà nước. Nhà nước quản dân theo các đơn vị hành chính,
không phụ thuộc vào quan điểm chính trị, giới tính, huyết thống, nghề
nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản tập trung, thống nhất của nhà
nước. Mối quan hệ giữa người dân với nhà nước được thể hiện
nhất thông qua chế định quốc tịch, một chế định xác lập sự phụ thuộc
của công dân vào một nhà nước nhất định tương ứng, nhà nước
cũng phải những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình.
Việc quản dân theo lãnh thổ đây không giản đơn chỉ áp dụng
đối với người mang quốc tịch nước sở tại cả với người nước
ngoài, cho dù quy chế pháp của người nước ngoài hạn chế
khác với công dân nước sở tại.
Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia quyền tối cao của nhà nước về đối nội độc
lập về đối ngoại. Hay nói cách khác, chủ quyền quốc gia quyền tự
quyết của quốc gia đó về các vấn đề đối nội đối ngoại. Nhà nước
người đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp cho toàn hội
về đối nội đối ngoại. Chủ quyền quốc gia thể hiện tính độc lập
không phụ thuộc của nhà nước trong việc giải quyết các công việc đối
nội và đối ngoại của mình.
Khái niệm chủ quyền quốc gia cũng chỉ khái niệm tương đối. Ngày
nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền
quốc gia không đồng nhất với đóng cửa không giao lưu với các quốc
gia, các tổ chức quốc tế khác. Ngược lại, việc tham gia hợp tác quốc
tế cũng không nghĩa đánh mất chủ quyền quốc gia. Nhà nước
cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn tại trong sự tách
rời, biệt lập với các quốc gia khác. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay
cho thấy nhà nước nào cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế,
diễn đàn quốc tế cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác những nghĩa
vụ khác nhau. dụ: Việt Nam đang tham gia các tổ chức quốc tế
như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO, IMF, UN, UNCTAD, UNESCO, WFTU,
WHO, WIPO, WMO, APEC, ASEM…; Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh
đòi hỏi sự chung sức của nhiều quốc gia: AIDS, Cúm gia cầm H5N1,
Nạn khủng bố, môi trường…
Thứ , nhà nước tổ chức duy nhất quyền ban hành pháp luật
và đảm bảo sự thực hiện pháp luật.
Nhà nước đại diện chính thức cho toàn hội. Chỉ nhà nước
mới quyền ban hành pháp luật quản dân cư, các hoạt động
hội bằng pháp luật. Pháp luật tính bắt buộc chung, được đảm
bảo thực hiện bằng nhà nước với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế,
thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước những điều kiện khách
quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy với các tổ chức phi
nhà nước không có đặc trưng này..
Thứ năm, nhà nước quy định các loại thuế và thực hiện thu thuế dưới
hình
thức bắt buộc.
Nhà nước nào cũng quyền định ra thu các loại thuế dưới hình
thức bắt buộc. Thuế được sử dụng để nuôi sống bộ máy nhà nước,
thực hiện các hoạt động chung của toàn hội. Mục đích bản của
việc thu thuế để nuôi sống một bộ máy nhà nước, những cán bộ
công chức, những người không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho
hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức khác không
phải nhà nước không đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học
thu quỹ lớp để phục vụ chong việc của lớp; Đoàn thanh niên thu
đoàn phí để chi trả cho hoạt động Đoàn; Câu lạc bộ bóng đá thu tiền
để chi trả cho hoạt động chung…đó không phải là thu thuế.
Từ vấn đề bộ máy nhà nước, dân cư và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia
thực chất đều do pháp luật đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy,
đây những vấn đề quan trọng, cần thiết đều đối tượng điều
chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên mục đích của việc đưa ra 5 đặc trưng
cuối cùng để chỉ ra những đặc điểm riêng của nhà nước các tổ
chức, đơn vị phi nhà nước không có đc.
B-Bản chất:
1-Tính xã hội của NN:
Thứ nhất, để tồn tại phát triển, nhà nước nào cũng phải quan tâm
giải quyết các vấn đề chung của hội. Trước tiên nhà nước được
hiểu là một tổ chức quyền lực công cộng.
Chẳng hạn, người Việt Nam ngay từ đều biết đến hai hình ảnh
“nước ng đến đâu, núi đồi cao đến đó” (Sự tích Sơn Tinh Thủy
Tinh) hình ảnh “một cậu ba tuổi nhổ tre đánh giặc” (Sự tích
Thánh Gióng). Hai hình ảnh đó nhắc nhở người dân Việt Nam rằng
ngay từ đầu dân tộc này đã phải giải quyết hai yêu cầu thường trực,
khách quan của hội đó nhu cầu trị thủy chống giặc ngoại
xâm.
Để giải quyết những công việc này đòi hỏi phải có sự liên kết, một sự
tổ chức thành một thực thể cao hơn làng (công nông thôn). Hai
yếu tố trị thủy chống giặc ngoại xâm không mặc nhiên ra đời nhà
nước, nhưng những yếu tố khởi đầu, thúc đẩy nhanh quá trình
hình thành nhà nước Việt Nam đồng thời quy định chức năng
của nhà nước sau này. Tính hội đây thậm chí còn nảy sinh sớm
trước cả tính giai cấp. Điều này không phải ngoại lệ các nhà
nước đầu tiên Phương Đông như Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc,
ấn Độ cổ đại, thậm chí các nhà nước Phương Tây như Hy Lạp
hay La Mã, nhà nước cũng nảy sinh từ hội trước tiên sự ra đời
của với vai trò một tổ chức quyền lực công cộng, duy trì trật
tự, ổn định xã hội.
Thứ hai, bất kỳ nhà nước nào cũng sẽ không thể tồn tại, phát triển
được nếu như giai cấp thống trị tuyệt đối không chú ý, quan tâm, bảo
vệ quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp khác, kể cả những giai tầng
không có quan điểm, tiếng nói giống với giai cấp mình.
Chẳng hạn, trong Bộ Quốc triều hình luật thời Việt Nam rất
nhiều những quy định bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế
trong hội như người già, phụ nữ, trẻ em, lệ, người tàn tật,
người quả…Không những thế, Bộ luật này còn nhiều quy định
ràng trách nhiệm của quan lại hệ quả pháp trong trường hợp
quan lại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ của
mình.
Hay trong Bộ luật Hammurabi Lưỡng cổ đại Điều 2 quy
định về trách nhiệm của Thẩm Phán: “Nếu thẩm phán xử một vụ kiện
ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn
bản do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền
phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta
sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và không bao giờ có
thể trở thành thẩm phán lần nữa”. Quy định về trách nhiệm của thẩm
phán cho thấy thời kỳ này rất coi trọng công tác xét xử, rất coi trọng
trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm phán. Cũng trong Bộ luật này
đã có một số quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Thứ ba, mức độ thể hiện thực hiện vai trò hội của các nhà
nước không hoàn toàn giống nhau. Tính xã hội của nhà nước chịu sự
quy định, chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: thể chế chính trị, sự
phát triển kinh tế- hội, các mối tương quan lực lượng, truyền
thống, phong tục tập quán; hoàn cảnh lịch sử, việc cam kết thực
thi các điều ước quốc tế…
Nhiều nhà nước đương đại hiện nay đã thực hiện rất nhiều những
chính sách xã hội như chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách an
sinh hội, chính sách lao động việc làm, chính sách bảo vệ môi
trường, chính sách về phòng, chống tội phạm tệ nạn
hội….Nhiều nhà nước đều tuyên bố cam kết xây dựng nhà nước
pháp quyền, nhà nước dân chủ đó quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Họ thiết lậpchế phân quyền, cơ chế giám sát bên trong
giữa các cơ quan nhà nước, giữa các đảng phái chính trị giám sát
bên ngoài nhằm kiểm soát hành vi của công quyền. Trong phạm vi
quốc tế hiện nay, sự phát triển phát huy vai trò ngày càng lớn của
các hình thức tổ chức tự nguyện và tự quản phi vụ lợi.
hội hiện đại cũng chứng kiến vai trò ngày càng lớn của các công
ty xuyên quốc gia trong việc cung cấp tri thức công nghệ quan
trọng nhất cho các nền kinh tế. Các tổ chức hội dân sự đóng vai
trò vấn chính sách, phản biện hội, tổ chức các công việc công
ích để đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng hội nhà nước
thị trường không đủ khả năng đảm nhận. Nhà nước không chỉ đơn
thuần định ra, thiết lập các quy tắc chính thức, áp dụng cưỡng chế
bắt các tổ chức nhân phải tuân theo, nhà nước còn một
“đấu thủ quan trọng nhất trong các trò chơi kinh tế”. Trong hội hiện
đại, trước những thay đổi to lớn đang diễn ra trong đời sống chính trị
hội các quốc gia khác nhau, vai trò của nhà nước dịch vụ
công ng các nhu cầu về bảo đảm an toàn, an ninh không ngừng
tăng lên.
2- Tính g/c của NN:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, nhà nước nào cũng
tính giai cấp sâu sắc. Hay nói cách khác, tính giai cấp của nhà nước
cũng một thuộc tính khách quan phổ biến tồn tại mọi nhà
nước. Điều này thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, nhà nước chỉ ra đời trong hội giai cấp. Hay nói cách
khác. trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa hữu xuất
hiện, chưa có sự phân hóa giai cấp, thì ở đó chưa có nhà nước.
Thứ hai, nhà nước là do giai cấp thống trị xã hội tổ chức nên, phục vụ
quyền lợi chủ yếu, trước hết cho giai cấp thống trị hội. Từ khi
nhà nước xuất hiện đến nay thì tùy thuộc o rất nhiều yếu tố như
chế độ chính trị, tương quan lực lượng giai cấp, những điều kiện kinh
tế, văn hóa hội, đảng phái, bối cảnh kinh tế, quốc tế vv… mức
độ thể hiện ng như phương diện thực thi tính giai cấp luôn sự
khác nhau nhất định.
Chẳng hạn, trong nhà nước phong kiến Việt Nam, tính giai cấp được
thể hiện chỗ nhà nước do giai cấp thống trị tổ chức nên, bảo vệ
quyền lợi cho nhà vua, giai cấp địa chủ. Thông qua việc phong cấp
đất cho quý tộc, pháp luật cũngsự ưu ái cho những quan lại trong
bộ máy nhà nước, dụ Điều 3 của Bộ luật Hồng Đức về chế độ Bát
nghị. Tuy nhiên, xét toàn diện thì mức độ thể hiện, mức độ thực thi
quyền lực các triều đại Việt Nam cũng không hoàn toàn giống
nhau. Trong lịch sử Việt Nam những triều đại xuất hiện những vị
vua anh minh, tiến hành nhiều cuộc cải cách thành công như dưới
thời trị vì của vua Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông và
nhiều vị vua khác.
Thứ ba, sự thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt là kinh tế,
chính trị tưởng. Xét một cách logic, thông qua nhà nước, giai
cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Cũng
nắm được quyền lực nhà nước, hệ tưởng của giai cấp thống trị
trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội. Quyền lực chính trị do nhiều tổ
chức thực hiện, nhưng nhà nước công cụ chủ yếu của quyền lực
chính trị.
Tóm lại, theo cách hiểu của chnghĩa Mác Lênin, nhà nước một
bộ máy, công cụ quyền lực đặc biệt, một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai
cấp thống trị hội, đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ giai cấp
những nhiệm vụ chung nảy sinh từ bản chất của xã hội.
III- Sự vận dụng của Đảng Nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về chức năng g/c và chức năng
xh của NN đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng trong quá
trình xd hoàn thiện NN XHCNVN. Vận dụng của CN Mác-Lênin
về chức năng g/c, Đảng Cộng Sản VN khẳng định: “Đấu tranh dtoc và
đấu tranh g/c tiếp tục dra dưới nhiều nh thức”. VN hiện nay các
thế lực phản động vẫn tìm cách xóa bỏ chế độ hội chủ nghĩa n
việc sử dụng bạo lực của nhà nước Việt Nam vẫn còn tồn tại. Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định rằng xây dựng bảo vệ tổ quốc Việt
Nam hội chủ nghĩa nhiệm vụ xuyên suốt,thường xuyên gắn
chặt với nhau.Tại đại hội đảng XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định rằng,Đảm bảo an ninh,Quốc phòng một trong bốn trụ cột của
Việt Nam được xác định nhiệm vụ trọng yếu,Thường xuyên.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin,Khi thực hiện chức năng giai cấp,Nhà
nước phải xây dựng bảo vệ sở kinh tế của giai cấp thống
trị.Vận dụng quan điểm đó,Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định chức
năng giai cấp của nhà nước Việt Nam hiện nay giữ vững định
hướng hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Đại hội đảng IX
Xác định nên kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
hình kinh tế tổng quát của Việt Nam.Đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa “Có nhiều hình thức sở hữu,
Nhiều thành phần kinh tế,Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò ch
đạo;Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc”. Định hướng hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường,Trước hết đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện chỗ,
“làm đòn bẩy để nhanh tăng trưởng kinh tế giải quyết những vấn
đề hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, Các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển, Làm lực lượng vật chất để nhàớc thực hiện
chức năng điều tiết và quảnmô, Tạo nền tảng cho chế độ hội
mới”. Đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh
tế thị trường còn phát huy mặt tích cực, Khắc phục những mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường. Về điều này, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định “ Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
nền kinh tế thị trường đều sử dụng mặt tích cực của phục vụ
mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường…Có những mặt tiêu cực màu thuận
với bản chất của chủ nghĩa hội…Đi o kinh tế thị trường,Phải
kiên quyết đấu tranh khắc phục, Hạn chế tối đa những khuynh hướng
tiêu cực đó”; “Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa sự
quản của nhà nước. Nhà nước Việt Nam nhà nước hội chủ
nghĩa, Quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, Chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, Sử dụng chế thị trường, Áp dụng các hình
thức kinh tế phương pháp quản của kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, Giải phóng sức sản xuất, Phát huy mặt tích cực, Hạn
chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường”
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, Giai cấp thống trị
cùng cố sự thống trị của mình bằng cách làm cho hệ tưởng của
giai cấp mình thống trị trong đời sống xã hội. Vận dụng quan điểm đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam ch trương làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin
,tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của
xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mác Lênin về chức năng hội
của nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, Nhà nước Việt
Nam nhà nước của dân,Do dân dân,Mọi đường lối ,chính
sách của nhà nước đều là vì dân.
Trong bối cảnh hiện nay ,nhà nước Việt Nam cần phải quan tâm đến
chức năng hội ,vì nhiều vấn đề hội đặt ra ( Như thất
nghiệp ,sự phân hóa giàu nghèo,dịch bệnh nhiễm môi trường…).
Những vấn đề đó đang đòi hỏi nhà nước Việt Nam phải nâng cao
hiệu quả thực hiện chức năng hội. Chủ trương kết hợp tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội chính là việc nhà nước
Việt Nam quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội của Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay,Việc thực hiện chức năng
hội của nhà nước Việt Nam cũng mang tính hội nhập quốc tế. Đối
tượng thực hiện chức năng hội của nhà nước Việt Nam hiện nay
không chỉ hướng tới công dân của mình. Hội nhập quốc tế sẽ làm gia
tăng hợp tác quốc tế. Các tổ chức nhân thuộc mọi giai tầng của
các nước trên thế giới sẽ đến Việt Nam nhiều hơn. Các cá nhân và tổ
chức nước ngoài lợi ích nhu cầu rất đa dạng.Để đáp ứng
những nhu cầu ,lợi ích đa dạng của các tổ chứcnhân nước ngoài,
thu hút họ đến Việt Nam hợp tác ,nhà nước đã nâng cao năng lực
thực hiện chức năng hội của mình ,giải quyết những nhu cầu ,lợi
ích của họ. Trong quá trình hội nhập quốc tế,Có nhiều tổ chức ,cá
nhân Việt Nam học tập ,làm ăn ,sinh sống nước ngoài, thế, Nhà
nước cũng đã quan tâm bảo đảm lợi ích nhu cầu chính đáng của các
tổ chức cá nhân của Việt Nam ở nước ngoài.
Hiện nay đang nảy sinh nhiều vấn đề toàn cầu một quốc gia đơn
lẻ không thể giải quyết được. Để giải quyết những vấn đề đó nhà
nước Việt Nam đã phải phối hợp chặt chẽ Với các nhà nước khác
trong việc thực hiện chức năng hội. Những vấn đề hội Việt
Nam đã đang quan tâm giải quyết n xóa đói giảm nghèo ,thực
hiện nh đẳng giới ,phòng chống dịch bệnh cũng vấn đề chung
của các nhà nước khác.
Trong điều kiện hiện nay ,nhu cầu của con người đa dạng hơn rất
nhiều ,nhà nước khó có thể đáp ứng kịp thời những nhu cầu đa dạng
của người Việt Nam.
Khi thực hiện chức năng hội, nhà nước Việt Nam đã chế
chính sách phù hợp để khai thác mọi tiềm năng ,động viên mọi nguồn
lực trong nhân dân các thành phần kinh tế ,thực hiện chủ trương
xã hội hóa kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm.
Đặc biệt, để giải quyết những vấn đề an sinh xã hội như xóa đói giảm
nghèo ,giải quyết thất nghiệp ,phòng chống bệnh dịch ,vệ sinh môi
trường ,khắc phục thiên tai ,nhà nước đã phối hợp với các nhân
,tổ chức xã hội .Đó là biểu hiện sinh động của việc cả xã hội cùng nhà
nước thực hiện chức năng xã hội.
29. Cách mạng hội gì? Phân tích vai trò của trong sự
phát triển của xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
-Cách mạng xã hội được hiểu theo hai tầng nghĩa:
+theo nghĩa rộng cách mạng hội: sự biến đổi tính chất
bước
ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là
phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã hội lỗi thời bằng hình thái
kinh
tế-xã hội cao hơn.
+ Theo nghĩa hẹp, cách mạng hội việc lật đổ một chế độ
chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tốt đẹp hơn.
-Vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội:
+Các cuộc cách mạnghội vai trò to lớn trong
đời sống xã hội
Chỉ cách mạng hội mới thay thế được quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, mới thay thế được hình thái
kinh tế hội bằng hình thái kinh tế hội mới
cao hơn. Cách mạng hội bước chuyển đại trong
đời sống hội về kinh tế chính trị văn hoá
tưởng. Trong thời kỳ cách mạng hội, năng lực sáng
tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách
cao độ như C.Mác coi cách mạng xã hội là “đầu tàu” của
lịch sử.
+Lịch sử hội loài người đã trải qua các quá
trình chuyển biến cách mạng hội: Thứ nhất, từ
cộng đồng nguyên thuỷ lên chế độ chiếm hữu lệ; Thứ
hai, từ chế độ chiếm hữu lệ n chế độ phong kiến;
Thứ ba, từ chế đ phong kiến lên chế đ bản chủ
nghĩa; Thứ tư, từ chế độ bản chủ nghĩa lên chế độ
hội chủ nghĩa. Và lịch sử càng tiến lên thì đặc trưng
vai trò của cách mạng hội càng trở nên đầy đủ
rệt hơn.
-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+CMXH là một trong những phương thức, động lực phát
triển của xã hội.
+C.Mác: CMXH “đầu tàu của lịch sử”, “bà đỡ” cho
mọi xã hội cũ đang thai nghén trong nó một xã hội mới.
30. Nêu khái niệm quần chúng nhân dân. Phân tích vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa của vấn đề này trong
việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.
-Quần chúng nhân dân: Tập hợp đông đảo những con người, hoạt động
trong một không gian hay thời gian xác định. thể bao gồm nhiều
thành phần tầng lớp hội, giai cấp đang hoạt động trong một hội
xác định.
-Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân:
+ Họ là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.
VD: Con người không ngừng sản xuất tạo ra các mặt hàng thiết yếu cho
cuộc sống như lúa, rau và các loại thực phẩm khác. Ngoài ra, con người
ngày càng sáng tạo ra các phát minh tiên tiến giúp cho xã hội loài người
ngày càng phát triển.
+ Họ là những người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.
VD: Toàn dân Việt Nam luôn nhớ đến ngày mùng 10/3 âm lịch hàng
năm.
Nhiều người gần xa tập trung về tỉnh Phú Thọ để viếng thăm và tỏ lòng
biết ơn công lao của các vị vua Hùng. Đây truyền thống "uống nước
nhớ nguồn" được giữ gìn bao đời nay đó là giá trị văn hóa tinh thần của
nhân dân ta.
+ Họ là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Hoạt động phát triển hội Mẫu thuẫn giữa giai cấp (Thống trị bị
trị) Đấu tranh giai cấp Cách mạng hội Cách mạng sự nghiệp của
QCND.
*Trong mọi cuộc cách mạng hội, những giai đoạn biến đổi
của hội thì QCND lực lượng chủ yếu, bản quyết định
thắng lợi của mọi cuộc cách mạng, cải biến của hội. (Mọi
cuộc cách mạng cần lực lượng, lực lượng tạo nên sức mạnh
từ QCND) QCND là người sáng tạo ra lịch sử)
VD: Chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước thời Tây Sơn được
phát triển từ cuộc khởi nghĩa nông dân chống áp bức phong kiến
thành cuộc chiến tranh toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn này chính cuộc khởi nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và từ nguyện vọng của nhân dân.
- Ý nghĩa:
+Yếu tố quyết định, căn bản nhất, quan trọng nhất của lực lượng sản
xuất là quần chúng nhân dân lao động
+Quần chúng nhân dân lực lượng sản xuất bản của mọi hội,
trực tiếp sản xuất ra của cài vật chất đáp ng nhu cầu tồn tại phát
triển của con người, của xã hội - đây là nhu cẩu quan trọng bậc nhất của
mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
| 1/81

Preview text:

1. Nêu khái niệm triết học Mác – Lênin? Phân tích tính tất yếu cho sự
ra đời của triết học Mác-Lênin? Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác
là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học? Ý nghĩa phương pháp
luận của vấn đề nghiên cứu?

KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN: là hệ thống quan điểm
duy vật biện chứng về tự nhiên xã hội, và tư duy – thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU CHO SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN:
1. Tiền đề về kinh tế - xã hội:
+Từ giữa những năm của thế kỉ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Tây Âu.
Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành, ở Đức
cũng như ở tại một số nước Tây âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp
cũng làm cho phương thức sản xuất TBCN lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến.
=>Nhờ vậy, tính nổi trội của CNTB so với chế độ phong kiến đã được
thể hiện rõ nét. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của CNTB đã làm cho
các mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt (mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa).
+ Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra ngày càng nhiều, nó
đã chứng tỏ được sự trưởng thành và lớn mạnh của giai cấp vô sản và
phong trào công nhân cả về quy mô và tính chất. Tuy nhiên, còn mang
tính tự phát, chủ yếu là quyền lợi về kinh tế, thiếu tổ chức lãnh đạo do
chưa nhận thức đầy đủ về cơ sở, mục đích, bản chất cuộc đấu tranh.
=> Chính nhu cầu khách quan này là phải có một vũ khí lí luận sắc bén
để dẫn đường cho phong trào cách mạng để giai cấp vô sản thực sự trở thành giai cấp tiến bộ.
- Triết học Mác ra đời đã phản ánh đúng lịch sử phong trào đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân, giai cấp công nhân đưa phong trào
đấu tranh chuyển từ tự phát sang tự giác.
=> Có thể nói trong những năm 40 của thế kỉ XIX, sự ra đời của triết
học Mác là một tất yếu lịch sử, không thể sớm hơn cũng không thể
muộn hơn vì thời điểm đó đã thực sự chín muồi 2. Tiền đề lí luận -Hêghen:
C.Mác và Ăngghen đã đánh giá rất cao vai trò triết học của Hêghen -
người đầu tiên trong lịch sử triết học trên cơ sở triết học duy tâm đã xây
dựng hệ thống các phạm trù, quy luật của phép biện chứng. Đồng thời
hai ông phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hêghen
=> Từ đó hai ông đã rút ra được hạt nhân quý báu trong triết học của
Hêghen là phép biện chứng và đã cải tạo, giải phóng cho nó từ đó xây
dựng nên phép biện chứng duy vật, thực sự tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong triết học.
-Phơ-bách: là CNDV nhân bản, siêu hình, duy tâm trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội. Mác và Ăngghen phê phán quan điểm siêu hình về tự
nhiên, duy tâm trong quan niệm về xã hội của Phơ-bách và từ đó xây
dựng CNDVBC cả tự nhiên và xã hội.
3. Tiền đề khoa học- Tự nhiên
Vào những năm đầu TK XIX, khoa học tự nhiên có sự phát triển mạnh
mẽ với nhiều phát minh quan trọng đã làm bộc lộ rõ tính chất hạn chế
và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức thế giới,
đồng thời tạo ra cơ sở để hình thành phương pháp tư duy biện chứng. Các phát minh đó là:
+Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng +Thuyết tế bào +Thuyết tiến hóa Đacuyn
=> Đã vạch ra mối liên hệ thống nhất các hình thức vận động vật chất
của thế giới, tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC ĐÃ TẠO NÊN SỰ BIẾN
ĐỔI CÓ Ý NGHĨA CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI, VÌ:

- Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật với
phép biện chứng, tạo lập sự thống nhất không tách rời giữa chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng.
- Triết học Mác đã mở rộng CNDVBC vào xem xét trong lĩnh vực xã
hội, từ đó sáng tạo ra CNDVLS - thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học làm cho triết học Mác trở thành CNDV triệt để.
- Sự ra đời của triết học Mác đã xác lập sự thống nhất chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn, làm cho triết học Mác không chỉ là công cụ giải thích
thế giới mà còn là công cụ cải tạo thế giới.
- Sự ra đời của triết học Mác đã xác lập sự thống nhất chặt chẽ giữa
tính khoa học và tính cách mạng.
- Triết học Mác là TGQ khoa học của giai cấp công nhân - giai cấp tiến
bộ và cách mạng nhất, có lợi phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân
lao động và sự phát triển của xã hội.
- Sự ra đời của triết học Mác đã khắc phục được quan niệm không đúng
coi triết học là “khoa học của các khoa học”. Từ đó đã xác định được
đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa học cụ thể
Ý NGHĨA PP LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
- Triết học mác lênin thực hiện chức năng, phương pháp luận chung
nhất phổ biến nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vai trò
phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết là
phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học.Phương pháp luận
duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc
phương pháp luận nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Triết học mác lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học giúp con người
phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù quy luật.
- Tuy nhiên, triết học mác lênin không phải là đơn thuốc vạn năng, có
thể giải quyết mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành
động cùng với tri thức triết học, con người cần phải có tri thức khoa
học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn xã hội trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn không được Xem thường hoặc tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học.
2. Triết học là gì? Phân tích vai trò của triết học trong đời
sống xã hội, hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người? Sự vận dụng triết học trong cuộc sống của bản thân sinh viên.

TRIẾT HỌC: Là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về bản thân, con người, vị trí, vai trò của
con người trong thế giới ấy.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI:
- Triết học có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội
con người được thể hiện qua các chức năng, trong đó có 2
chức năng cơ bản là: + Chức năng thế giới quan: là toàn bộ
những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới
đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; triết học
giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển
thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
+ Chức năng phương pháp luận là lý luận về phương pháp,
là một hệ thống những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Triết học với tư
cách là hệ thống quan điểm lý luận về thế giới, không chỉ
biểu hiện là một thế giới quan nhất định mà còn biểu hiện là
một phương pháp luận phổ biến chỉ đạo mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người.
- Triết học định hướng cho các ngành khoa học cụ thể đi
vào nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của thế giới. - Chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là
lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN CỦA CON NGƯỜI:
Vai trò của triết học Mác-Lênin được thể hiện thông qua
chức năng thế giới quan và phương pháp luận.
- Chức năng thế giới quan của triết học Mác - Lênin.
+ Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện
chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản. Thế giới quan duy
vật biện chứng là hệ thống những quan điểm, quan niệm duy
vật và biện chứng của con người về thế giới cũng như vị trí,
vai trò của con người trong thế giới đó.
+ Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:
* Định hướng cho con người nhận thức thế giới đúng đắn
* Chỉ đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả
* Là cơ sở để xác lập nhân sinh quan tích cực
* Là cơ sở khoa học để đấu tranh với thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
- Chức năng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
+ Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn của con người.
Trên cơ sở các nội dung duy vật biện chứng của mình, triết
học Mác - Lênin xây dựng hệ thống những quan điểm,
những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để chỉ
đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn.
+ Vai trò phương pháp luận của triết học Mác - Lênin:
* Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống
những nguyên tắc, những quy tắc, những yêu cầu, những chỉ
dẫn cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
* Hệ thống các khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm trù là
công cụ nhận thức giúp con người phát triển tư duy lý luận
khoa học, đó là tư duy phản ánh đối tượng ở tầm bản chất, quy luật
VẬN DỤNG TRIẾT HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN:
Vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay:
-Thứ nhất. Triết học đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế
giới quan. phương pháp luận, nhân sinh quan hệ thống giá trị văn hóa
nhân văn cho sinh viên. nó như “la bàn" giúp họ định hưởng tỉnh tích
cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây dựng, sáng tạo: Sinh
viên ở các thời dạo khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi
tiên phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị
-Thứ hai, thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động
sống của con người, là thấu kính mà qua đó con người có thể xác định
mục đích. ý nghĩa cuộc sống và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách
thức đạt mục đích đồ: Triết học đem lại cho sinh viên tri thức về các
mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp
luật, vẽ mục đích tồn tại của con người, về cải thiện và cái ác, về môi
quan hệ qua cả nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm.
=>Vì vậy, triết học có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách sinh viên
Giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan
cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm
đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là,
triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu được mục đích cao nhất của
con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trong
đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thân.
Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho
sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản
cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng
trong quá trình hình thành nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích
cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách
thức đạt đến mục tiêu đề ra. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa
học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức
ấy để tự mình vươn lên. bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên
tất có y chỉ thực hiện lý tưởng. Giúp sinh viên có tinh thần đấu tranh
với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu
trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đã vào cuộc sống
hưởng thụ. thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi
ích của đồng loại, của dân tộc
● 3. Nêu nội dung vấn đề cơ bản của triết học? Vì sao
gọi vấn đề trên là vấn đề cơ bản của triết học? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu vấn đề này trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn của bản thân?

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
-Vấn đề cơ bản của triết học là: mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm
và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản về việc giải quyết nó sẽ quyết
định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng
minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, mặt khác nó cũng là
là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết của
họ. Và theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”
-Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm
của các trường phát lớn: chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy tâm; khả tri
luận (thuyết có thể biết) – bất khả tri luận (thuyết không thể biết).
Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận
-Mặt thứ nhất (bản thể luận): -Mặt thứ hai : con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không?giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào
có sau? Cái nào quyết định cái nào?
+Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức: Chủ nghĩa duy vật
+Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất: Chủ nghĩa duy tâm
+Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhau: Nhị nguyên luận
+Khả tri luận: khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản
chất của sự vật (Chiếm đại đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật)
+Bất khả tri luận: về nguyên tắc, con người không thể hiểu được bản
VẤN ĐỀ TRÊN LÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC VÌ:
-Đây là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới
- Đây là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
- Là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ.
- Các học thuyết triết học đều trực tiếp hay gián tiếp phải giải quyết vấn đề này.
● Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn của bản thân?
- Ý nghĩa : trong nhận thức và hoạt động thực tiễn mọi chủ trương,
đường lối , kế hoạch , mục tiêu , chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan , từ những điều kiện , tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan , nếu không làm như vậy chúng ta sẽ
phải gánh chịu hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện tượng
phải chân thực , đúng đắn , tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng , không
được gán cho đối tượng cái mà nó không có.
4. Quan niệm của Ăngghen về vận động Tại sao nói vận
động là phương thức tồn tại của vật chất? Là thuộc tính
cố hữu của vật chất? Rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu
vấn đề này. Cho ví dụ minh họa?

a, Quan điểm của Ăng-ghen về vận động: "Vận động, hiểu theo nghĩa
chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là
một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
b, Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại, thuộc tính cố hữu của vật chất?
- Vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất vì:
+ Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng luôn luôn vận động.
+ Bằng vận động và thông qua vận động mà sự vật hiện tượng tồn tại
và thể hiện đặc tính của mình.
+ Nếu không vận động sự vật sẽ không tồn tại nữa.
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất vì:
+ Vận động gắn liền với vật chất, ở đâu có vận động thì ở đó có vật chất.
+ Chỉ khi nào vật chất mất đi thì vận động mới mất đi.
+ Những vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi, vì vậy
vận động cũng không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà tồn tại
vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, điều này đã được định luật bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng chứng minh.
c, Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này: cho thấy rõ việc vận động
luôn xảy ra đối với vật chất để có thể hiểu biết, nhìn nhận tổng thể hơn,
sâu hơn khi nghiên cứu, khám phá 1 sự vật, hiện tượng nào đó và có thể
khẳng định rằng vận động là phương thức tồn tại của vật chất theo đúng
quan điểm của Ăng-ghen, điều này
5. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về ý thức. Phân
tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức. Ý nghĩa của vấn
đề nghiên cứu trong cuộc sống.

● Quan niệm về ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến
và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật
chất”.=> Quá trình hình thành và phát triển ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội của con người ● Nguồn gốc:
+ Nguồn gốc tự nhiên: Nguồn gốc tự nhiên của ý
thức có hai yếu tố không thể tách rời nhau là bộ óc
con người và thế giới bên ngoài tác động lên óc người. -
Bộ óc người là một dạng vật chất sống đặc biệt,
có tổ chức cao, trải qua quá trình tiến hóa lâu dài
về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của
riêng dạng vật chất này. Ý thức phụ thuộc vào
hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn
thương thì hoạt động ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn. -
Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người -
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một
hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Nói
một cách dễ hiểu, phản ánh chính là sự chép lại,
chụp lại, kể lại một cái gì đó. Chép lại lời nói ra
giấy là sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng là sự phản ánh. -
Thuộc tính phản ánh của óc người được gọi
riêng bằng phạm trù “ý thức”. Đó là sự phản ánh,
sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con người.
+ Nguồn gốc xã hội: Điều kiện quyết định, trực tiếp và
quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là những
tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao động, tức là Ý
thức xã hội và ngôn ngữ. - Lao động:
- Thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động Ý
thức, nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con
người mới có thể phản ánh được, biết được
nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế giới này.
- Nhưng không phải tự nhiên mà thế giới khách
quan tác động vào bộ óc con người để con
người có ý thức. Ý thức có được chủ yếu là do
con người chủ động tác động vào thế giới khách
quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm tạo ra những sản phẩm mới.
- Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan,
con người bắt những đối tượng trong hiện thực
(núi, rừng, sông, mỏ than, sắt, đồng…) phải bộc lộ
những thuộc tính, kết cấu, quy luật của mình.
Những bộc lộ này tác động vào bộ óc người để
hình thành ý thức của con người. - Ngôn ngữ:
- Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của
tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng,
không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
- Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, đồng
thời là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ,
con người mới có thể khái quát hóa, trừu
tượng hóa, tức là diễn đạt những khái niệm,
phạm trù, để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính.
- Cũng nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của
con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. ● Bản chất:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn vì vậy mà
bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Và
chính vì vậy, ý thức sẽ phản ánh thực tế khách quan thế giới của con người. -
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó
có nghĩa là những nội dung và ý thức đều xuất phát từ thực
tiễn, những yếu tố xuất hiện trong thực tiễn sẽ là cơ sở để ý thức được hình thành -
Sự phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu
cầu thực tiễn cần sử dụng mà bắt buộc phải tạo ra những giá
trị, phát minh thiết kế hiện đại và hữu ích hơn để đáp ứng cho
nhu cầu thực tế của xã hội. -
Phản ánh ý thức là sự sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng
dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ
xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất ý thức có tính xã hội
=> Vậy, bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chân thật và đầy đủ nhất
của ý thức. Hành vi con người cũng chính là yếu tố thể hiện bản chất của ý
thức. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
● Kết cấu: Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất
phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau.
Có thể chia cấu trúc của ý thức theo hai chiều:
❖ Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí, ý chí..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
❖ Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô
thức, trong đó tự ý thức ở cấp độ sâu nhất.
● Ý nghĩa: Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Biểu hiện ở chỗ: ý thức trang bị
cho con người sự hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp con người
xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp cho hoạt động của mình
tạo nên ở con người tình cảm, niềm tin, ý chí, thôi thúc con người nỗ
lực hành động để đạt được mục tiêu đề ra. Ý thức có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất
ở những mức độ nhất định.
● Nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm thúc đẩy
sự phát triển của các điều kiện vật chất. Nếu ý thức phản ánh không
phù hợp với hiện thực thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các điều
kiện vật chất. Song sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm thời, bởi vì sự
vật vận động theo các quy luật khách quan vốn có của nó, nên nhất
định phải có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.
● Trong cuộc đấu tranh, bút chiến về quan hệ vật chất và ý thức
Ph.Ăngghen đã bảo vệ quan điểm của Các Mác và phê phán lại rằng
khi đấu tranh với những người theo chủ nghĩa duy tâm, Mác buộc
phải nhấn mạnh vào cái nguyên lý chủ yếu mà họ phủ nhận, nhưng
không có nghĩa là hạ thấp vai trò của ý thức, tinh thần. Chỉ có chủ
nghĩa duy vật tầm thường, không biện chứng mới phủ nhận, coi nhẹ
tác động của tinh thần mà thôi.[7]
6. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vật chất. Phân tích quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận?

1. Quan niệm: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại , phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức: Theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
a) Vật chất quyết định ý thức:
-Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật
chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của
vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
+ Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc
người và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn
ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện
thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan trong đầu óc con người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực
mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức
con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức:
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con
người và được cải biên trong đó. Vậy
nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức:
+Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với
sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người
cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức
cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống”
riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành
động của con người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người
đúng hay sai, thành công hay
thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con
người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch,
hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự
phát triển của vật chất
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to
lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
-Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng
không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định,
phải dựa vào các điều kiện khách
quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
● Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận
thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực
tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa
chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược và sách lược cách mạng.
● Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng
tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức,
phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
● Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan
7. Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong
phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận
của quan điểm này? Lấy ví dụ minh họa và sự vận dụng trong thực tiễn.

*Quan điểm toàn diện là gì:(nguyen li ve moi lien he pho bien)
- Là quan điểm được phản ánh trong phương pháp luận triết học. Khi
các nhìn nhận phải được thể hiện một cách toàn diện.
- Quan điểm mang đến tính đúng đắn trong hoạt động xem xét hay đánh
giá một đối tượng nhất định.
- Các nhà nghiên cứu chỉ ra tính hợp lý cần thiết trong nhu cầu phản ánh
chính xác và hiệu quả đối tượng. Từ đó mà các đánh giá mới mang đến
tính chất khách quan, hiệu quả.
-Quan điểm này thể hiện vai trò của người thực hiện các phân tích trên đối
tượng. Khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật hay sự việc. Không
chỉ nhìn nhận với tính chất tiêu cực hay tích cực theo cảm xúc. Mà phải là
những tiến hành trên lý trí, kinh nghiệm và trình độ đáng giá chuyên môn.
Như vậy các hướng tác động mới nếu có mới mang đến hiệu quả. *Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ: dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt,
các yếu tố của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới.
- Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến:
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến,
khách quan, nhiều vẻ phong phú nhưng k ngang bằng nhau.
+ Liên hệ có tính khách quan:
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới là cái vốn có
của chúng không phụ thuộc vào ý thức của con người và loại người,
hay do một lực lượng thần bí nào quy định.
Tính khách quan của liên hệ là do tính thống nhất vật chất của thế giới quy định
+ Liên hệ có tính phổ biến:
Bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại cũng có mối liên hệ với sự vật
hiện tượng khác, các yếu tố, các bộ phận, các quá trình, các giai
đoạn phát triển trong một sự vật cũng có liên hệ với nhau. Không
có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong sự cô lập, tách rời với các sự vật hiện tượng khác.
Tính phổ biến của liên hệ là do tính thống nhất vật chất của thế giới quy định.
+ Liên hệ của sự vật có tính đa dạng, phong phú:
Mối liên hệ của các sự vật có nhiều loại khác nhau: mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp;
mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên; mối liên hệ bản
chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ về không gian và
mối liên hệ về thời gian...
Song, các mối liên hệ có vai trò, vị trí không như nhau đối với sự
tồn tại phát triển của sự vật. Có mối liên hệ quyết định đến quá
trình tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng, có mối liên hệ
chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem
xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện
tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với
các sự vật, hiện tượng khác.
- Trong nhận thức và thực tiễn phải có trọng tâm, trọng điểm, không dàn dều
một cách chung chung. Chống quan điểm siêu hình, chủ nghĩa triết
chung và thuật ngụy biện. *Ví dụ minh hoạ:
Quan điểm này thể hiện trong tất cả các hoạt động có tác động của phản
ánh quan điểm. Như những ví dụ trong đánh giá một con người với những
mặt khác nhau phản ánh trong con người họ. Không thể chỉ thực hiện
quan sát phiến diện từ những thể hiện bên ngoài để đánh giá tính cách hay
thái độ, năng lực của họ. Cũng không thể chỉ dựa trên một hành động để
phán xét con người và cách sống của họ.
(Khi đánh giá, cần có thời gian cho sự quan sát tổng thể. Từ những phản
ánh trong bản chất con người, các mối quan hệ của người này với người
khác. Cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những
nhìn nhận và đánh giá trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ cho ra
những quan điểm toàn diện. Từ đó mà cách nhìn nhận một người được
thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ ràng. Nó không phải là những phù
phiếm của nhận định. Chỉ khi hiểu hết về người đó bạn mới có thể đưa ra các nhận xét.)
8. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Phát triển ?
Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển trong phép
biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu nguyên lý này?

* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về “phát triển”:
– Theo quan niệm biện chứng sự phát triển là một quá trình tiến
lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra dần dần, nhảy vọt
đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, không phải lúc
nào sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, mà rất
quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá
trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất,
là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kì sự
vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao
hơn. Quan điểm biện chứng cũng khẳng định nguồn gốc của
sự phát triển nằm trong bản thân sự vật.
– Theo quan điểm siêu hì
nh phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của
sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay
đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không
có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những
người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một
quá trình tiến lên liên tục, không có bước quanh có, phức tạp.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống
nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của
sự vật, hiện tượng mới.
*Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển:
- Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật đều vận động, biến đổi không
ngừng,nhưng phát triển là khuynh hướng chung của thế giới,
mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng phong phú.
- Phân tích nội dung nguyên lý:
+ Phát triển mang tính khách quan:
Sự phát triển của sự vật không phụ thuộc vào ý thức của
con người và loài người mà diễn ra tự thân. Bởi vì, nguồn
gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là,
trong sự vật liên tục nảy sinh và giải quyết những mâu
thuẫn. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển.
+ Phát triển mang tính phổ biến:
Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư
duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
+ Phát triển mang tính đa dạng, phong phú:
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi
hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình
phát triển khác nhau. Tồn tại ở không gian, thời gian khác
nhau, sự phát triển của sự vật sẽ khác nhau. Trong quá trình
phát triển của sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật,
hiện tượng khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật
có những bước thụt lùi.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có
quan điểm phát triển. Đó là, trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn
tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển
trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi
lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song phải
thấy khuynh hướng phát triển của sự vật để có được niềm tin khoa học.
- Kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
9. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng, cái
chung, cái đơn nhất? Phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa cái riêng và cái chung. Rút ra ý nghĩa phương pháp
luận của việc nghiên cứu vấn đề này?

*Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cái riêng, cái chung, cái đơn nhất:
- Cái riêng: Là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một
hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định tồn tại như một
chỉnh thể tương đối độc lập với cái riêng khác
- Cái chung: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung không chỉ có một sự vật, hiện tượng,
kết cấu vật chất mà còn được lặp đi lặp lại trong nhiều sự vật,
hiện tượng, kết cấu vật chất riêng lẻ khác
- Cái đơn nhất: Là phạm trù triết học để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một hiện tượng,
một kết cấu vật chất nhất định mà không lặp lại ở sự vật, hiện
tượng hay kết cấu vật chất khác
*Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
-
Một là, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình
- Hai là, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung,
không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, tách rời cái
chung. Giữa những cái riêng ấy bao giờ cũng có những cái chung giống nhau
- Ba là, cái riêng là cái toàn bộ nên phong phú hơn cái chung.
Cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng
- Bốn là, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau
trong quá trình phát triển của sự vật. Tức là, trong những điều
kiện nhất định. cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái
chung, cái phổ biến và ngược lại
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Để khái quát cái chung phải xuất phát từ những cái riêng,
muốn tìm cái chung thì không được xa rời những cái riêng và
suy luận một cách chủ quan, tùy tiện
- Trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn,
nắm được cái chung là chìa khóa để giải quyết cái riêng, để
tránh những vấp váp không cần thiết trong quá trình giải quyết công việc cụ thể
- Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau nên
phải tạo điều kiện để cái chung bất lợi chuyển thành cái đơn
nhất và cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung
10. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân và
kết quả? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên
nhân và kết quả. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của
việc nghiên cứu vấn đề này?

*Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định
- Kết quả: là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi
xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra
*Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
-
Một là, nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân
luôn có trước kết quả về mặt thời gian
+ Không phải mọi sự nối tiếp nhau về thời gian đều là quan hệ nhân quả
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
- Hai là, mối quan hệ nhân - quả có tính phức tạp, một kết quả có
thể do nhiều nguyên nhân sinh ra
- Ba là mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ tiếp biến. Nguyên
nhân sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không
giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại nó có thể ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực ngược trở lại nguyên nhân
+ Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân và kết
quả có thể chuyển hóa lẫn nhau. Nghĩa là cái trong quan hệ
này được coi là nguyên nhân thì trong quan hệ khác lại là kết quả
*Ý nghĩa phương pháp luận:
- Mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, do vậy trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn muốn tìm nguyên nhân
của sự vật, hiện tượng phải tìm trong bản thân sự vật, hiện tượng
- Nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm hiểu nguyên
nhân của hiện tượng nào đó cần tìm trong những sự kiện,
những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện
- Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân ra đời của nó cho
nên muốn hiểu rõ sự vật hay muốn cải tạo nó phải tìm hiểu rõ nguyên nhân của chúng
11. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nội dung và
hình thức? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nội
dung và hình thức. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của
việc nghiên cứu vấn đề này?

· Khái niệm nội dung và hình thức:
- Nội dung: Là phạm trù triết học chỉ tất cả những mặt, những
yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng
- Hình thức: là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại, biểu
hiện và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội dung của sự
vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà
còn là cái thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.
· Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
* Bất cứ 1 sự vật nào cũng có cả nội dung lẫn hình thức, nd và
hình thức có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ
với nhau, sự thống nhất này thể hiện ở chỗ:
- Một là, không có hình thức mà không chứa nd cũng như
không có nội dung nào mà lại không tồn tại trong hình thức nhất định
- Hai là, nd quyết định hình thức
+ Nd quyết định cả phương thức thể hiện và cách thức sản xuất
các yếu tố của hình thức
+ Nd luôn vận động biến đổi còn hình thức có tính ổn định
tương đối. Sự biến đổi của nội dung là cơ sở của sự biến đổi
của hình thức. Khi nội dung thay đổi thì các hình thức thể
hiện nd sớm muộn cũng biến đổi theo
- Ba là, nd và hình thức có tính độc lập tương đối với nhau
+ Một nội dung có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
+ Cùng 1 hình thức có thể thể hiện những nd khác nhau
+ Hình thức phù hợp với nd sẽ mở đường và thúc đẩy sự phát
triển của nd, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển ấy
· Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hoá giữa nội
dung và hình thức. Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, cần
chống chủ nghĩa hình thức.
- Trong hoạt động thực tiễn cần phải chủ động sử dụng nhiều
hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn trong
những giai đoạn khác nhau vì cùng một nội dung trong quá
trình phát triển của sự vậy có thể có nhiều hình thức, ngược
lại, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.
- Để nhận thức và cải tạo sự vật, trước hết phải căn cứ vào nội
dung vì nd quyết định hình thức. Nhưng hình thức có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại nd, do vậy trong hoạt động
thực tiễn cũng phải thường xuyên đối chiếu giữa nd và hình
thức và làm cho hình thức phù hợp với nd để thúc đẩy nd pt.
12. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tất nhiên và
ngẫu nhiên? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận của việc
nghiên cứu vấn đề này?
- Cặp phạm trù tất nhiênngẫu nhiên là một trong cặp phạm
trù cơ bản của triết học nói chung cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng.
· Khái niệm về tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên: là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên
nhân cơ bản bên trong sự vật, hiện tượng quy định và trong
điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác.
- Ngẫu nhiên: là phạm trù triết học chỉ mối liên hệ không bản
chất, do nguyên nhân hoàn cảnh bên ngoài quy định nên có
thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này
hoặc có thể xuất hiện thế khác.
· Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, tất nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế, nên
trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên.
- Thứ 2, tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý nên trong
hoạt động nhận thức chỉ có thể chỉ ra được tất nhiên bằng
cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải đi qua.
- Thứ 3, ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển, thậm
chí còn có thể làm cho tiến trình phát triển của sự vật hiện
tượng đột ngột biến đổi.
- Thứ 4, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên là tương đối nên
sau khi nhận thức được các điều kiện có thể tạo ra sự chuyển
hoá trên, có thể tạo điều kiện thuận lợi để “biến” ngẫu nhiên
phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên và tất nhiên không phù
hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên.
13. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất và
hiện tượng? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bản
chất và hiện tượng. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận
của việc nghiên cứu vấn đề này?

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất và hiện tượng:
Bản chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ tổng thể các
mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể
hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của đối tượng
Hiện tượng: Là phạm trù triết học dùng để chỉ những biểu
hiện biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định ở bên ngoài, là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức
thể hiện của bản chất đối tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng: bản chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con
người có nhận thức được hay không. - Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định.
Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng
chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn
định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để
chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối
liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
– Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
* Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất
nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ
hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có
bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng.
Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một nhất định. bản chất
– Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất thay đổi thì hiện
tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi mất đi thì bản chất
hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy
định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình,
vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá
biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
3. Tuy thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn:
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về
căn bản là phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện
ra thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh.
Các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến
hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên . bản chất
– Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản
chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại
và phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số
hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào
bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu
hiện. Chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản
chất sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan.
Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y
nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều
khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần
cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn
định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ
bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài
của nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.Các điều
kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự
vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên
biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên
như cũ từ lúc ra đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi,
nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, bản chất chỉ thể hiện mình thông qua hiện tượng và hiện
tượng lại thường biểu hiện bản chất dưới hình thức đã bị cải biến nên
trong mọi hoạt động, không thể chỉ nhận biết sự biểu hiện bên ngoài
(hiện tượng), mà cần đi sâu vào bên trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ
bản chất thường ẩn giấu mình sau hiện tượng, dựa vào các quy luật
khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, bản chất là sự thống nhất giữa các mặt, các mối liên hệ tất
nhiên vốn có của sự vật, hiện tượng, bản chất là địa bàn thống lĩnh của
các mâu thuẫn biện chứng và chúng được giải quyết trong quá trình
phát triển dẫn đến sự biến đổi của bản chất, tạo ra sự chuyển hóa của
đối tượng từ dạng này sang dạng khác nên các phương pháp đã được áp
dụng vào hoạt động cũ trước đây cũng phải thay đổi bằng các phương
pháp khác, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng.
14.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của
quy luật lượng – chất. Nội dung quy luật chuyển hóa từ
sự biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và
ngược lại Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?

Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vị trí, vai trò của quy luật lượng- chất:
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và
phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự
vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến
ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận
động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự
vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.
Nội dung của quy luật được vạch ra thông qua việc làm rõ
các khái niệm, phạm trù sau:
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ:.Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng
chảy là 1083C, nhiệt độ sôi là 2880C…những thuộc tính này nói lên những
chất riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác.
.Hình tròn là vùng trong mặt phẳng giới hạn bởi một vòng tròn phân
biệt với hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc bằng nhau
* Đặc điểm của chất:
-Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm
bên trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Chẳng hạn vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở
bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của
con người mà có thể áp đặt được nó. -Chất
sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.
.Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những
thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của
sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang hợp của
lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nó với ánh sáng mặt trời hay
tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước.
.Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn
tại vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì
sự vật mới thay đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối
quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh thành thuộc
tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong
mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện sự chất của
sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc.
Ví dụ:Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế
tạo, sử dụng công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các
thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với
nhau thì những thuộc tính của con người như về nhận dạng về dấu vân tay lại
trở thành thuộc tính cơ bản
Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai
đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng
không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ ->
mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
.Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi
kết cấu của sự vật trong hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các
yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau.
Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các
nguyên tố cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử
cacbon là khác nhau vì thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau. Kim
cương rất cứng còn than chì mềm.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó
chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay
đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về
lượng của nhiệt độ từ 40-50C chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật,
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật cũng như các thuộc tính của nó * Biểu hiện của lượng
Các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở
đại lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít
hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt...
Ví dụ như đối với phân tử nước(H2O). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó,
tức hai nguyên tử hidro (H) và một nguyên tử oxi (O) hay Quốc gia Việt Nam
có Dân số: >90 triệu người và Diện tích :331698km²
* Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.
Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố
quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện
tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo
Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể
nhận thức bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa.Trong thực tế lượng
của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc
của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm hai
nguyên tử hidro liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những
lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận
thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,...
trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự
vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
- Lượng thường xuyên biến đổi:Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu
bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số
lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố
quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự
vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng
không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi
của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật,
hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai
phương diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và
lượng của sự vật, hiện tượng chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định
trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
Chẳng hạn , số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất
lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy
định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật, hiện tượng
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
* Sự thống nhất giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất
tương ứng và ngược lại.
như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu Ví dụ tạo liên
kết nguyên tử hiđro và 1 nguyên tử oxi) thì 1 phân tử nước (H20) được hình
thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không
màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axit,…
“Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau,
tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở
trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.Bất cứ sự thay đổi nào về lượng
cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng
* Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn định,
còn lượng là mặt biến đổi hơn nên sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ
cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo
xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay
đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung một
thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ,
thậm chí lên tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa
chuyển sang trạng thái lỏng.
Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất
định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là
độ. Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng
vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Chỉ khi nào
lượng thay đổi đến giới hạn nhất định( đến độ )mới dẫn đến sự thay đổi về chất
như vậy sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất thay đổi và kết quả là sự
vật hiện tượng cũ mất đi sự vật hiện tượng mới ra đời.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là thời điểm mà tại
đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy
đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật
đó, quá trình này diễn ra liên tiếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển
chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi
đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và
là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận
động, phát triển liên tục của sự vật hiện tượng. Trong thế giới luôn diễn ra
quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một
đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao.
Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ:
Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể
lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ).
Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái
lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy)
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ
về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do
tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng hạn,
thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác
nhau.Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng có
những nước chỉ mất 15 năm.
Tùy vào sự vật, hiện tượng; tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào
điều kiện , trong đó sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
*Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần:
-Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn
thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
-Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ như ,Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần
dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước
nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ:
-Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật.
-Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để
thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy
cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
*Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay
đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác
động của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới
thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới.
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác
động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng
mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động
ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn như, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là
thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá
của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống như vậy khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc
của các phân tử nước tăng hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn
thể tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng tính chất hoà tan một
số chất tan của nó cũng sẽ khác đi, v v
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ
những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn
của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy;
chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động
đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu
về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật hiện tượng.
- Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật,
đồng thời phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của
sự vật. Ví dụ như khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người
ta không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó
mà còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các
nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của các
chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.
- Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh(không chịu tích lũy về mặt
lượng mà lại muốn biến đổi về chất) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh(lượng đã
tích lũy đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy) trong công tác
thực tiễn. Ví dụ như một người thực hiện kinh doanh nhưng chưa tích lũy đủ kiến
thức về lượng thì khả năng thất bại sẽ rất cao
- Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với
từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể.
- Quy luật này còn yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật hiện tượng do
đó phải biết chọn phương pháp phù hợp với tác động và phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật của chúng.
15. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò
của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập? Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?

Quan niệm của Mác- Lênin:
quy luật là bản chất tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các mặt,
yếu tố, thuộc tính bên trong của mỗi sự vật hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Nội dung quy luật:
⁃ Vị trí, vai trò của quy luật: Chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển
⁃ Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau,
tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
⁃ Mâu thuẫn biện chứng: là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau, bài trừ phủ định lẫn nhau
⁃ Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển
Ý nghĩa PPL của quy luật:
⁃ Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến, là cái vốn có của sự vật hiện
tượng, do đó nghiên cứu sự vật hiện tượng phải xem xét quá trình
phát sinh, phát triển của mâu thuẫn.
⁃ Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết
mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn
16. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phủ định biện
chứng Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ
định. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?

Khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật
khác, giai đoạn vận động, phát triển này bằng giai đoạn vận động,
phát triển khác. Theo nghĩa đó, không phải bất cứ sự phủ định nào
cũng dẫn tới quá trình phát triển.
+ Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tạo ra
những điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật.
Ví dụ, quá trình “hạt giống nảy mầm”. Trong trường hợp này: cái mầm
ra đời từ cái hạt; sự ra đời của nó là sự phủ định biện chứng đối
với cái hạt, nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình sinh tồn và phát triển.
2. Vai trò và đặc trưng của phép phủ định biện chứng:
– Vai trò của phủ định biện chứng đối với sự phát triển
Phủ định biện chứng giữ vai trò tạo ra những điều kiện, tiền đề phát
triển của sự vật bởi vì: phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định
– xuất phát từ nhu cầu tất yếu của sự phát triển. Đồng thời quá
trình phủ định đó, một mặt kế thừa được những yếu tố của sự vật
cũ, cần thiết cho sự phát triển của nó, tạo ra khả năng phát huy
mới của các nhân tố cũ; mặt khác lại khắc phục, lọc bỏ, vượt qua
được những hạn chế của sự vật cũ, nhờ đó sự vật phát triển ở trình độ cao hơn.
– Đặc trưng của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là sự “tự thân phủ định”, tức là sự phủ định xuất
phát từ nhu cầu tồn tại, phát triển của sự vật: sự vật chỉ có thể tồn
tại, phát triển một khi nó tất yếu phải vượt qua hình thái cũ và tồn
tại dưới hình thái mới. Tính chất đó của sự phủ định cũng còn gọi
là tính khách quan của sự phủ định. Mặt khác, quá trình phủ định
biện chứng cũng là quá trình bao hàm trong đó tính chất kế thừa –
kế thừa các yếu tố nội dung cũ trong hình thái mới, nhờ đó chẳng
những nội dung cũ được bảo tồn mà còn có thể phát huy vai trò
tích cực của nó cho quá trình phát triển của sự vật.
Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong
bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong
sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn
phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào
sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có
nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí
của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình
phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật
phát triển của sự vật.
Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân
của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn
cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra
đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải
tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở
cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự
phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.
Ví dụ, quá trình vận động của tư bản (k) từ hình thái tư bản tiền tệ
sang hình thái tư bản hàng hoá (tư liệu sản xuất và sức lao động)
là một sự phủ định trong quá trình vận động, phát triển của tư bản.
Quá trình này có sự thay đổi hình thái tồn tại của tư bản nhưng nội
dung giá trị của tư bản được bảo tồn dưới hình thái mới – hình thái
có khả năng khi tiêu dùng trong sản xuất thì chẳng những có khả
năng tái tạo giá trị cũ mà còn có khả năng làm tăng giá trị mới của tư bản.
– “Phủ định của phủ định”
Khái niệm “phủ định của phủ định” hay “phủ định cái phủ định” hoặc
“phủ định sự phủ định” có 2 nghĩa cơ bản:
+ Một là, dùng để chỉ quá trình phủ định lặp đi lặp lại trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật. (A – B -C.., trong đó: A bị B phủ
định, nhưng đến lượt nó lại bị C phủ định,…).
Ví dụ, quá trình vận động, phát triển của xã hội loài người: xã hội
chiếm hữu nô lệ ra đời là sự phủ định đối với xã hội nguyên thuỷ,
đến lượt nó lại bị xã hội phong kiến phủ định,…
+ Hai là, dùng để chỉ quá trình vận động, phát triển diễn ra dưới hình
thức có tính chu kỳ “xoáy ốc”: sự lặp lại hình thái ban đầu của mỗi
chu kỳ phát triển nhưng trên một cơ sở cao hơn qua hai lần phủ định cơ bản.
Ví dụ, tính chu kỳ của quá trình vận động tăng trưởng, phát triển của
một giống loài thực vật:… hạt – cây – những hạt mới…; hoặc sự
vận động tăng trưởng và phát triển của tư bản (k):… T – H (Tlsx +
Slđ)… H’ – T’ (T + t)…
3. Nội dung của quy luật phủ định biện chứng:
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá
trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay
thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó
không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những
nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ
định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải
là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố
mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát
triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ
định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu
kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ
định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo
tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông
qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt
khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư
cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong
mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của
những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ,
nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ
như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh
hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận
theo đường “xoáy ốc” hay “vòng xoáy trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ
định của phủ định, cái mới được ra đời lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các
đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế
thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” thể
hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là
do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là
kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản
thân sự vật – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định
lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với
cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư
cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và trở lại
cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn như cái cũ mà trên cơ sở cao hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định
và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của
cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các
giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn
đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết
quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự
vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự
vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật
phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
4. Ý nghĩa phương pháp luận phủ định biện chứng:
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh
hướng chung, là tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường
thẳng nhưng quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định,
nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn
phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng,
đặc biệt là các hiện tượng xã hội, và do vậy cần phải kiên trì đổi
mới, khắc phục khuynh hướng bi quan, chán nản, dao động trước
những khó khăn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái
mới, vì cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự
vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó là
cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái
cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần có nhận
thức đúng về cái mới và có thái độ đúng đối với cái mới đồng thời
chủ động phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết
sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư
vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.
Lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu bản
chất, tính quy luật, những hình thức và phương pháp nhận thức,
vấn đề chân lý. Nó giải đáp một cách đúng đắn và đầy đủ mặt thứ
hai trong vấn đề cơ bản của triết học.
17. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn. Phân
tích vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức của
con người? Ý nghĩa phương pháp luận?

-Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “ Thực tiễn là
những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và
trực tiếp của nhận thức
* Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ
sự thật rằng mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với
bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì trình độ kinh
nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn
cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi lý luận.
Thông qua những hoạt động thực tiễn, con người tác động
vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc
tính, những quy luật để con người có thể nhận thức được
chúng. Con người vốn quan hệ với thế giới bên ngoài bằng
thực tiễn chứ không phải bằng lý luận. Chính từ trong quá
trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con
người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người
thường thu nhận tài liệu một cách chủ quan, sau đó tiến hành
so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... để phản ánh
bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để
xây dựng thành khoa học, lý luận.
* Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù
về vấn đề, khía cạnh hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng
phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây, kết quả nhận thức
phải hướng dẫn và chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học
không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
* Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn giúp con người nhận thức toàn diện hơn về thế
giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển
của nhận thức là kết quả của thực. Trong quá trình hoạt động
thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng không ngừng
biến đổi theo. Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức và khám phá thế giới, làm sâu sắc và phong phú vốn tri
thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực tiễn đòi
hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn tri thức, biết cách tổng kết
kinh nghiệm, khái quát lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành khoa học. Hoạt động thực tiễn của
con người cần tới khoa học - từ đó dẫn đến sự ra đời của khoa học.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm của triết
học Mác - Lênin đã từng cho rằng: "vấn đề tìm hiểu xem tư
duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không
hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý. Nhận thức khoa học có tiêu chuẩn logic riêng
tuy nhiên chúng không thể thay thế hoàn toàn cho tiêu chuẩn
thực tiễn và xét đến cùng nó còn phụ thuộc và tiêu chuẩn thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa tuyệt đối mà cũng vừa
tương đối. Tuyệt đối ở đây là bởi thực tiễn chính là tiêu
chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Không phải tất
cả thực tiễn có thể kiểm nghiệm được chân lý mà còn phải
dựa vào thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tính
tương đối của thực tiễn thể hiện ở chỗ thực tiễn không
ngừng biến đổi và phát triển. Thực tiễn cũng không tránh
khỏi yếu tố chủ quan bởi lẽ thực tiễn cũng là một quá trình
và được thực hiện bởi con người. Chính sự biến đổi không
ngừng của thực tiễn đã ngăn cản những tri thức của con
người biến thành chân lý tuyệt đối cuối cùng. Những tri thức
liên tục bị kiểm nghiệm bởi các giai đoạn của thực tiễn có
thể thực tiễn trong quá khứ, hiện tại hay thậm chí là tương
lai. Để từ đó nhận thức của con người được bổ sung, điều
chỉnh và phát triển toàn diện nhất.
-Phương pháp luận có ý nghĩa như cách để xác định hướng đi
cho tiến trình nghiên cứu một đề tài và tìm ra cấu trúc logic
nhất cho các công trình khoa học hiện tại.
18. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của
nhận thức. Trình bày quá trình nhận thức của con
người? Phân tích mối quan hệ biện chứng của quá trình
nhận thức? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?

Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người: “Tri giác và biểu tượng
của chúng ta là hình ảnh của các vật đó”; “Cảm giác của
chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới
bên ngoài; và dĩ nhiên là nếu không có cái bị phản ánh thì
không thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh tồn tại một
cách độc lập với cái phản ánh” . Điều này thể hiện quan
niệm duy vật về nhận thức, chống lại quan niệm duy tâm về
nhận thức. Nhưng bản chất của nhận thức là sự phản ánh tích
cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc con người. Đây là
một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết mâu
thuẫn chứ không phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động
và nhất thời: “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận
của tư duy đến khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong
tư tưởng con người phải được hiểu không phải một cách
“chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động,
không mâu thuẫn, mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận
động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thuẫn đó”
-Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định
nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan
vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động,
sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.. Sự nhận thức của con người
vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác.
-Nhận thức nói chung là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực
khách quan và bản thân con người thông qua các giác quan
và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bản thân. Theo đó,
nhận thức ở mức độ thấp sẽ là nhận thức cảm tính và ở mức
độ cao hơn là nhận thức lý tính. Hai loại nhận thức này có
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn
nhau trong cùng một hoạt động thống nhất của con người.
– Nhận thức cảm tính được coi là mức độ nhận thức đầu tiên và
thấp nhất của con người, phản ánh được những thuộc tính
bên ngoài, là những cái trực tiếp tác động tới giác quan của
con người, gồm có cảm giác và tri giác.
– Nhận thức lý tính được coi là nhận thức ở mức độ cao hơn
của con người. Theo đó nó phản ánh những thuộc tính bên
trong hay những mối quan hệ mang tính quy luật của hiện
thực khách quan một cách gián tiếp, gồm có tư duy và tượng.
Theo Lênin có đưa ra quan điểm cụ thể như sau: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Như vậy, ta nhận thấy, con đường biện chứng của quá trình
nhận thức thực chất sẽ bao gồm hai khâu sau:
– Nhận thức cảm tính bao gồm: Cảm giác; Tri giác; Biểu tượng. Cụ thể như sau:
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) được hiểu cơ bản
chính là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc
trưng cơ bản ở giai đoạn nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động) là nhận thức sẽ được thực hiện trong mối liên hệ trực
tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cụ thể như là cảm
giác, tri giác, biểu tượng. Các thành phần của nhận thức cảm
tính (trực quan sinh động) cụ thể như sau:
+ Cảm giác được hiểu cơ bản chính là tri thức được sinh ra do
sự tác động trực tiếp của các sự vật, hiện tượng lên các giác
quan cụ thể của con người. Cảm giác phản ánh đến từng
mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của các sự vật,
hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác đó chính là
thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác thì đó lại là
hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+ Tri giác được hiểu cơ bản chính là sự tổng hợp của nhiều cảm
giác riêng biệt vào một mối liên hệ có tính thống nhất và
cũng từ đó mà đã tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh
về sự vật, hiện tượng.
+ Biểu tượng thì sẽ được hình thành dựa vào sự phối hợp hoạt
động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và quá trình này
cũng đã có sự tham gia của các yếu tố cụ thể như: phân tích,
trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người.
Thực chất thì ta nhận thấy rằng, đây cũng chính là nấc thang
cao và có tính chất phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức
cảm tính. Đây cũng chính là hình ảnh cảm tính tương đối
hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng và nó được lưu lại trong
não người và bởi vì có các tác động nào đó được tái hiện lại
khi các sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm tính.
Trong biểu tượng thì cũng đã có những phản ánh gián tiếp về sự
vật, hiện tượng và với biểu tượng, con người cũng đã có thể
hình dung được cơ bản về sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng
con người về căn bản vẫn chưa nắm được sự chuyển hóa từ
sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
– Nhận thức lý tính bao gồm: Khái niệm; Phán đoán; Suy luận.
Ta nhận thấy rằng, nhận thức lý tính sẽ bắt nguồn từ trực quan
sinh động và nhận thức lý tính cũng sẽ bắt nguồn từ những
lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính cũng đã góp phần có thể
phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể
nhận thức. Cụ thể về các thành phần của nhận thức lý tính bao gồm:
+ Khái niệm được hiểu cơ bản chính là hình thức cơ bản của tư
duy trừu tượng. Khái niệm thực chất sẽ vừa có tính khách
quan, bên cạnh đó thì nó lại vừa có tính chủ quan khi thực
hiện phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có
tính bản chất và chung nhất của các sự vật, hiện tượng dựa
vào sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin mà
nó đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt
động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
+ Phán đoán được hiểu cơ bản chính là hình thức tư duy thực
hiện việc liên kết các khái niệm lại với nhau để nhằm mục
đích có thể khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một
thuộc tính cụ thể nào đó của sự vật, hiện tượng; phán đoán
cũng chính là hình thức được sử dụng để có thể phản ánh
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán
là hình thức biểu hiện và giúp có thể diễn đạt các quy luật khách quan.
+ Suy luận (suy lý) được hiểu cơ bản chính là hình thức của tư
duy thực hiện việc liên kết các phán đoán lại với nhau để
nhằm mục đích có thể thông qua đó rút ra tri thức mới theo
phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những
phán đoán tiên đề. Suy luận trong thực tế hiện nay có vai trò
quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi thực chất thì suy
luận đã giúp thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái
đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết.
Nghiên cứu là một quá trình thử nghiệm và trí tuệ bao gồm một
tập hợp các phương pháp được áp dụng một cách có hệ
thống, với mục đích điều tra một vấn đề hoặc chủ đề, cũng
như mở rộng hoặc phát triển kiến thức của nó, có thể là lợi
ích khoa học, nhân văn, xã hội hoặc công nghệ. .
Mục đích chính yếu của nghiên cứu cơ bản (khác với nghiên
cứu ứng dụng) là thu thập dữ kiện, phát kiến, diễn giải, hay
nghiên cứu và phát triển những phương pháp và hệ thống vì
mục tiêu thúc đẩy sự phát triển tri thức nhân loại.
19. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chân lý. Phân
tích các tính chất của chân lý? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm.
– Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy,
chân lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Sự phát triển của sự vật khách quan;
+ Điều kiện lịch sử – cụ thể của nhận thức;
+ Hoạt động thực tiễn, và
+ Hoạt động nhận thức của con người.
– Như thế, do sự biến đổi của nhiều yếu tố, một “thông tin” hôm nay có thể
được gọi là chân lý, nhưng thời gian về sau chưa chắc là chân lý.
Ngược lại, một “thông tin” mới phát hiện có thể chưa được công nhận là
chân lý, nhưng về sau có thể được gọi là chân lý.
Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá
trình. Tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một
sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ
mờ), không khuynh hướng, không vận động.
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương
đối. Điều này thể hiện như sau:
1. Tính khách quan của chân lý (hay: chân lý là khách quan)
– Nghĩa là, tuy chân lý là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó
không phụ thuộc vào con người. Ví dụ:
+ Trái đất xoay quanh mặt trời: Đây là chân lý khách quan dù con người đã
nhận thức được hay chưa.
+ Khủng long là loài động vật xuất hiện trên trái đất trước loài người.
– Chủ nghĩa duy vật có quan điểm mang tính nguyên tắc là thừa nhận chân
lý khách quan. Nếu phủ nhận chân lý khách quan thì nhất định sẽ dẫn tới
thuyết không thể biết và chủ nghĩa chủ quan.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính khách quan của chân lý có
nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh thế
giới đó vào trong bộ óc con người.
Nội dung mà chân lý phản ánh thuộc về thế giới khách quan. Chân lý chỉ có
ở con người, nhưng nội dung của chân lý lại không lệ thuộc vào con người
mà chỉ lệ thuộc vào sự vật khách quan được chân lý đó phản ánh.
2. Tính cụ thể của chân lý (hay: chân lý là cụ thể)
– Điều này nghĩa là không có chân lý trừu tượng, mơ hồ.
Chân lý đạt được trong quá trình nhận thức bao giờ cũng gắn liền với một
lĩnh vực cụ thể của hiện thực, và được phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó.
– Chân lý là cụ thể bởi vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ cũng tồn
tại một cách cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những quan hệ cụ thể.
Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn với điều kiện lịch sử – cụ thể. Nếu
thoát khỏi điều kiện lịch sử – cụ thể, thì cái vốn gọi là chân lý sẽ không còn là chân lý nữa.
3. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý
Như đã phân tích, con người đạt tới chân lý trong quá trình vận động vô tận
của nhận thức thế giới khách quan với cả một chuỗi những sự trừu tượng,
những sự hình thành các khái niệm, quy luật.
Những khái niệm bao quát một cách tương đối, gần đúng những quy luật
phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động và phát triển, tạo nên một
bức tranh khoa học về thế giới khách quan.
Nhưng con người nhận thức chân lý khách quan như thế nào? Có thể nhận
thức được một cách tức thời, toàn bộ, tuyệt đối, vô điều kiện hay chỉ gần đúng, có điều kiện?
Trả lời câu hỏi đó tức là phải xem xét quan hệ giữa tính tuyệt đối và tính
tương đối của chân lý. Ở đây, ta có chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
Mối quan hệ giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối biểu hiện mối quan
hệ biện chứng giữa quá trình vô tận của sự nhận thức thế giới khách quan
với khả năng, kết quả nhận thức có hạn ở từng thời điểm cụ thể của lịch sử nhận thức.
3.1. Chân lý tương đối là gì?
Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh
trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức.
Ở chân lý tương đối, sự phản ánh hiện thực khách quan bị giới hạn ở
những mặt, những bộ phận nhất định và bị chế ước bởi điều kiện lịch sử.
3.2. Chân lý tuyệt đối là gì?
Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì theo bản chất của
nó, tư duy con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân
lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối.
Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái
tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý của mọi
định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy
theo sự tăng tiến của tri thức.
Sở dĩ như vậy vì thế giới khách quan là vô cùng tận, nó biến đổi, phát triển
không ngừng, không có giới hạn tận cùng, còn nhận thức của từng con
người, từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử khách quan và bởi năng lực chủ quan.
Việc thừa nhận tính tương đối của chân lý không loại trừ việc chấp nhận,
dù là chút ít, chân lý tuyệt đối. Trong tính tương đối đó vẫn chứa đựng một
phần, một yếu tố của chân lý tuyệt đối.
20. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất vật
chất. Phân tích vai trò của sản xuất vật chất đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này?
1. Sản xuất vật chất
Sự khác biệt cơ bản giữa loài người và loài vật chính là ở chỗ: loài vật chỉ
có thể thỏa mãn nhu cầu của nó bằng những cái có sẵn trong tự nhiên, còn
con người muốn thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình thì phải
sản xuất ra những vật phẩm. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “điểm khác biệt
căn bản giữa xã hội loài người với loài vật là ở chỗ; loài vật may lắm chỉ hái
lượm, trong khi con người lại sản xuất”(1). Sản xuất là hoạt động riêng có
của con người và xã hội loài người, nó bao gồm ba quá trình: sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá
trình đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sản xuất vật chất
giữ vai trò quyết định. Vậy, sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá
trình con người sáng tạo và sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra những vật
phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người.
2. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự
tồn tại và phát triển của của xã hội loài người
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người chinh phục, cải
biến tự nhiên không phải chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà còn
với tư cách là những thành viên trong một cộng đồng xã hội. Sống trong
một cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt
động với nhau, nhất là trong hoạt động lao động sản xuất. Con người và xã
hội không thể tách rời tự nhiên, họ chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa vào
tự nhiên và trên cơ sở làm biến đổi tự nhiên. Không có tự nhiên và xã hội
thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản
xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên,
biến đổi xã hội, trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát
triển của con người, của xã hội loài người. Trình độ sản xuất của con người
càng cao (thì con người càng có điều kiện để thỏa mãn những nhu cầu vật
chất của mình và do vậy, cũng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời
sống tinh thần của mình. Qua đó, con người tự hoàn thiện chính bản thân
mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong quá trình sản xuất vật chất con người luôn luôn tìm mọi cách
để làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản
thân mình. Chính sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất đã
quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết
định sự phát triển xã hội. Do đó, khi nghiên cứu các hiện tượng xã
hội, chúng ta phải xuất phát từ cơ sở sâu xa của nó, đó là sản xuất vật chất.
21. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đảng
ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thực tiễn?

I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1) Lực lượng sản xuất
- Khái niệm: lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động
với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm
biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội

- Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao động.
+Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động
bao gồm công cụ lao động ( máy móc,…) và đối tượng lao động
khác ( phương tiện vận chuyển và bảo quản sản phẩm……). Đối
tượng lao động là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong
tự nhiên (gỗ, than đá,…) hoặc nhân tạo (
polime,….).
+Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, là
người tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động để
tạo ra sản phẩm, bao gồm (thể lực, trí lực, tâm lực). Đây là nguồn
lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, với sự phát
triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri thức khoa
học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

2) Quan hệ sản xuất
- Khái niệm: quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật
chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, thể
hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản lí sản xuất và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ
trong phân phối sản phẩm do xã hội làm ra

II. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương
thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất –
quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương
thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định
làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của
sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới ra đời thay thế.

Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất như sau:
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất.

+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất,
phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao
động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải
tiến công cụ lao động.Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm
hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp.

III. Đảng ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong thực tiễn?
-Trước thời điểm đổi mới (năm 1986), việc vận dụng, giải quyết mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã mắc phải

bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, bảo thủ và trì trệ; không tuân
theo các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

(Trong xác lập quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của
công hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới
hai hình thức toàn dân và tập thể; kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành
phần kinh tế khác, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp,
sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt,) dẫn
đến lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài,
sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Nền
kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Sản
xuất không có tích luỹ, chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm
trước luôn tăng ở mức hai con số

-Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ
VI năm 1986 đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm,và đã rút ra
bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan”.

+Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: Phải từng bước
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát triển lực lượng sản xuất,
coi đó là tiêu chuẩn đánh giá việc xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
đã khẳng định phải giải phóng sức sản xuất, đồng thời đưa ra chủ
trương điều chỉnh lớn cơ cấu sản xuất, bố trí lại cơ cấu đầu tư; xây
dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; cải tạo xã hội chủ
nghĩa theo nguyên tắc bảo đảm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu
quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.

+ Đại hội VII nêu định hướng: "Phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu". Đồng
thời xác định: Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

+Từ thực tiễn đổi mới của đất nước, Đại hội VIII khẳng định: Lấy
việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên

trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao
hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm
mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.

+Đại hội IX khẳng định rõ thêm: Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá
hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.

Có thể nói, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng
trong 35 năm qua là quá trình ngày càng nhận thức và vận dụng
đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tế ở Việt Nam khi chúng ta
đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng là phù hợp với quy
luật khách quan, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Song, thực tế có những
thời điểm vẫn chưa được vận dụng, nhận thức rõ ràng cụ thể trong
đường lối, chính sách của Đảng, điều này cần phải được tiếp tục
nghiên cứu làm rõ, tránh gây nhận thức sai lầm trong nhân dân, bị
các phần tử cơ hội lợi dụng gây phản động, ảnh hưởng đến con
đường mà chúng ta đang đi – con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

22. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế
- xã hội.Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái
kinh tế - xã hội? Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề nghiên cứu?

I.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội
-Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội)

dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó
chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện
chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định.

-Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc
phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh
tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

- Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuần tự xuất
hiện 5 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao:
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy)
+ Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ (giai cấp chủ nô mang sứ mệnh
lịch sử chuyển từ HTKT XH cộng sản nguyên thuỷ lên HTKTXH chiếm
hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông nô
+ Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ và nông dân
+ Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm tri thức, tiểu tư sản
+ Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân)
II. Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế - xã hội
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo luận cấu
trúc hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã cho rằng “ Sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”

- Trước hết, ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
(hay còn gọi là cơ sở hạ tầng) cùng với kiến trúc thượng tầng tác
động biện chứng, tạo nên sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội,
thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy luật cơ bản là quy luật quan hệ sản xuất

phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội.

→ Như vậy, có thể nói, sự vận động & phát triển của xã hội không
tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các quy luật
khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình
thái kinh tế - xã hội.

- Sự vận động phát triển của xã hội, mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, vv… bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà
trước hết là sự biến đổi, phát triển của công cụ sản xuất và sự phát
triển về tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Khi lực
lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Từ đó dẫn đến sự
thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng xã hội và sau đó là sự biến đổi,
phát triển căn bản của kiến trúc thượng tầng xã hội. Lênin từng
nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về
xã hội là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của
những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên".

- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá
trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch
sử nhân loại và sự phát triển của lịch sử xã hội loài người có thể đo
sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò
quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới
sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét
trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các
hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ - chiếm hữu nô lệ -
phong kiến - tư bản chủ nghĩa - xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thống
nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với quy luật đặc thù và
quy luật riêng của lịch sử. Từ đó ta có thể kết luận, tiến trình lịch
sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa logic và lịch

sử. Logic ở chỗ, toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Còn về lịch
sử, các hình thái kinh tế - xã hội như những trạng thái khác nhau
về chất trong tiến trình lịch sử, với những điều kiện về không gian,
thời gian cụ thể, với các tiêu chỉ về sự phát triển của lực lượng sản
xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội cụ thể

- Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy
luật khách quan của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác
- Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác. Đó
là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương
quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền
thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của
tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng
người trong lịch sử, v.v. Từ đó, tạo nên tính phong phú, đa dạng
trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất đó có thể bao
hàm những
bước phát triển "bỏ qua" một hay một vài hình thái
kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy
đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Sự thống nhất giữa
logic và lịch sử trong tiến trình lịch sử - tự
nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển tuần tự đối
với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển "bỏ qua" một
hay vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ
thể. Đó là rút ngắn các giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài
người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.

Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ
nghĩa để quá độ từ hình thái phong kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu
khách quan của lịch sử xã hội. Phát triển là xu hướng tất yếu, cơ
bản của lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản không phải là
nấc thang phát triển cuối cùng của xã hội loài người. Chính những
mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết định sự vận
động phát triển của xã hội loài người. Những tiền đề vật chất cho
sự vận động phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội
tư bản sử. Logic ở chỗ, toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế
tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Còn về
lịch sử, các hình thái kinh tế - xã hội như những trạng thái khác
nhau về chất trong tiến trình lịch sử, với những điều kiện về không

gian, thời gian cụ thể, với các tiêu chỉ về sự phát triển của lực lượng
sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội cụ thể
III.
23. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?

1.Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái
niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội là : *Tồn tại xã hội là:
-Khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa
con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan
hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất
hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
-Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất
vật chất; điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số và mật độ dân
số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản
nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v
cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
*Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình
cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận…. nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
-Hiểu đơn giản thì ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con
người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội
có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác nhau (ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (khoa học); tâm lý xã hội
và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học …)
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra
và quyết định ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu
hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội,
điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không
thể tìm nguồn gốc tư tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm
nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương
thức sản xuất đã thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập
tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội như
trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người; thường
diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp
thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại
xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển
của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác dụng tổ chức chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào
hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của
đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy
vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tích
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của
tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều
kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
3.Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại
xã hội và ý thức xã hội.
Cần quán triệt rằng thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để
thay đổi ý thức xã hội. Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận này
luôn trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Một mặt phải coi trọng
cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực
của đời sống xã hội tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh
tế, công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nước.
24. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích tính độc lập tương
đối và vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội? Ý
nghĩa của vấn đề nghiên cứu?

1.Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái
niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội là : *Tồn tại xã hội là:
-Khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa
con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan
hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất
hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
-Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất
vật chất; điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số và mật độ dân
số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản
nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v
cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
*Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình
cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận…. nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
-Hiểu đơn giản thì ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con
người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội
có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác nhau (ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (khoa học); tâm lý xã hội
và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học …)
2.Phân tích tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã
hội đối với tồn tại xã hội
– Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Lịch sử xã hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường
hợp khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng
thì nó lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể thì điều đó biểu hiện rằng ý thức xã
hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, ý thức xã
hội trong trường hợp này đã biểu hiện tính độc lập tương đối.
Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ
dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới chúng ta sẽ cần
phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống
lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt
tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
– Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
Triết học Mác – Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất
định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên
tiến sẽ có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, các tư
tưởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Lý do mà ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là do đặc điểm
của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái
quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển
chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ,
hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội trong tương lai.
Khi chúng ta nói rằng, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã
hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết
định. Mà là cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
– Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển:
Trong lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội, những quan
điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống
không mà những quan điểm lý luận này sẽ được tạo ra trên cơ sở kế
thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Vì vậy, khi chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ
thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào
lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những
nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Bởi vì ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi các chủ thể thực hiện
việc nghiên cứu một tư tưởng nào đó đều sẽ cần phải dựa và quan
hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó.
– Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:
Ta nhận thấy rằng, ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình
thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận hay
các hình thái này sẽ không tách rời nhau, mà nhiều bộ phận, nhiều
hình thái này sẽ thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động
giữa nhiều bộ phận, nhiều hình thái đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức
có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một
cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời
đại khác nhau và tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình
thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác nhau.
– Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà chủ nghĩa duy vật lịch sử
còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích
cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
– Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở
lại lên tồn tại xã hội theo 2 xu hướng:( vai trò của ý thức xã hội với tồn tại xã hội )
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của
tồn tại xã hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội.
Vai trò này thuộc về ý thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tạc các quy luật khách
quan của tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã
hội. Tác động này thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu,
phản động. Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc
vào mức độ thâm nhập của nó vào trong phong trào của quần chúng
nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để phổ biến tri thức
khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng thời
để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản
động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân)
3.Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
- Là cơ sở để chống lại chủ nghĩa duy vật tầm thường chủ nghĩa duy
vật kinh tế là những quan điểm không thấy hoặc phủ nhận tác động tích cực của xã hội.
- Cần phát huy vai trò của các yếu tố trong ý thức xã hội vào công
cuộc xây dựng xã hội mới chú trọng đúng mức lĩnh vực tư tưởng loại
bỏ những tư tưởng thói quen lạc hậu.
25. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay?

26. Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích khái niệm giai cấp
và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
khái niệm :
* Định nghĩa giai cấp của Lênin cho thấy, giai cấp là một phạm trù kinh tế -
xã hội có tính lịch sử, tồn tại gắn với những hệ thống sản xuất xã hội dựa trên
cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
* Định nghĩa giai cấp của Lênin là định nghĩa khoa học, có giá trị to lớn về lý
luận và thực tiễn, là cơ sở để nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của
giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho giai cấp vô sản cơ sở khoa học
để nhận thức vai trò lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và xây dựng xã hội mới.
+ Định nghĩa đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các
tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau trong một phương thức
sản xuất xã hội nhất định. phân tích :
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-
cong-nghe-thanh-pho-ho-chi-minh/triet-hoc-mac-le-
nin/van-de-giai-cap-va-dau-tranh-giai-cap/28871415
27. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc. Phân
tích các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam? Ý nghĩa
của vấn đề nghiên cứu?

I-Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc: A-Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét
văn hóa đặc thù hay chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất,
quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình,
gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và
truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước.
B-Đặc trưng của dân tộc:
Dân tộc thường được nhận biết thông qua các đặc trưng chủ yếu sau:
+) Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là một trong những
đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở
liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững
chắc cho cộng đồng dân tộc.
+) Có thể tập trung cư trú trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc
hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần
rất quan trọng gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
+) Có ngôn ngữ riêng hoặc có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ
chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, tình cảm...
+) Có nét tâm lý riêng (nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn
hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn bó với
nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc.
C-Xu hướng phát triển khách quan của dân tộc:
+) Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc
mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân cư
độc lập. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu
tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu
hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
+) Xu hướng thứ hai,các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc
ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác
động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong
xã hội tư bản đã xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các
dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc,
thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
II-Các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam:
Nước ta có 54 dân tộc anh em.Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc
còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước.Có 10 dân
tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người, 20 dân tộc có số dân
dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1
ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người.
Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết
dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành
truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh
chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm
lịch sử cho đến ngày nay. Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng
lúa nước, một kết cấu nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử
chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một
quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là xu
hướng khách quan khiến các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung
vận mệnh lịch sử, chung một tương lai tiền đồ. Tuy vậy, bên cạnh những
mặt tích cực thì có nơi có lúc cũng xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan
hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng
mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ của nước ta. Do
đó, phát huy truyền thống đoàn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kỵ dân tộc và
kiên quyết đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng
yếu của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu
vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không
thành địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc nước ta không có lãnh thổ
riêng, không có nền kinh tế riêng và sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc
và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân
tộc, giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc
phục dần sự chênh lệch để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước
ta.nhiều dân tộc có trình độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên.
Đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng
nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù chữ và tái mù chữ
còn xuất hiện ở nhiều nơi.Đường giao thông và phương tiện đi lại còn khó
khăn, điện và nước phục vụ cho đời sống còn rất khan hiếm, thông tin, bưu
điện còn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân ở nhiều nơi nhất là ở
những vùng xa xôi, hẻo lánh...Do điều kiện tự nhiên, xã hội,hậu quả của
các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên các dân tộc mới có sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa....
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú.
Bởi vì bất cứ dân tộc nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa
riêng, phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân
tộc bằng những bản sắc văn hóa độc đáo.Đặc trưng của sắc thái văn hóa
dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật, tình cảm dân
tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dòng họ.... dân tộc có
chữ viết riêng :Thái , Chăm, Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với
một vài tôn giáo truyền thống như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo
Thiên Chúa ...Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn
hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa
dạng mang bản sắc văn hóa của từng dân tộc càng làm phong phú thêm
nền văn hóa của cộng đồng.Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số
cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về
chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng
biên giới, các vùng núi cao, hải đảo...nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số
trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ
dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực.
III-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
28. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước. Phân
tích đặc trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin? Sự vận dụng của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay

I-Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước: A-Nguồn gốc:
+) Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước, đó là thời
kỳ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia giai cấp.
+) Nguồn gốc sâu xa của nhà nước chính là do sự phát triển của llsx,
trước hết là công cụ lao động. LLSX ptrien đã làm cho chế độ sở hữu tư
nhân ra đời, các g/c bóc lột và bị bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa
chủ nô và nô lệ, 2 g/c đối kháng đầu tiên trong lsu dẫn đến nguy cơ hủy
diệt luôn cả xã hội. Để điều này không xảy ra, một cơ quan quyền lực
đặc biệt đã ra đời=> Nhà nước.
+) Nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước chính là mâu thuẫn g/c gay
gắt không điều hòa được.
Như vậy sự ra đời của nhà nước là yếu tố khách quan làm cho mâu
thuẫn g/c diễn ra trong vòng trật tự có thể duy trì chế độ kt-xh và g/c thống trị mới. B-Quan điểm:
+) 2 chức năng cơ bản của nhà nước: Giai cấp và xã hội
+) Nhà nước ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được, nhà nước là tổ chức của g/c nắm giữ những tư liệu sx chủ
yếu trong xã hội. Nnuoc bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của 1 g/c
nhất định. Mọi NN đều là công cụ để bve sự thống trị của g/c thống trị,
điều đó trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong
chế độ quân ch. Nhà nước tư sản dân chủ nhất cũng chỉ là công cụ để
bảo vệ sự thống trị của g/c tư sản đối với g/c vô sản. Chức năng g/c
của nhà nước thể hiện ở chỗ nó là công cụ, phương tiện để bảo vệ lợi
ích của g/c thống trị . Lenin cũng chỉ ra rằng: “ Nhà nước là một tổ chức
quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một g/c nào
đó”; “Bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để g/c này trấn áp g/c
khác, rằng nền cộng hòa tư sản dân chủ nhất cũng là một bộ máy để g/c
tư sản áp bức g/c vô sản”.
Để duy trì sự thống trị của g/c thống trị thì NN phải bve quan hệ sản
xuất có lợi cho g/c thống trị, bve hệ tư tưởng của g/c thống trị, làm cho
tư tưởng đó giữ vị trí chủ đạo trong đs văn hóa, tinh thần của xã hội.
Nhà nước vô sản ( NN XHCN ) có Cnang củng cố và ptrien cơ sở kte có
lợi cho g/c vô sản. Nói về Cnang g/c của NN vô sản, trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, C.Mác viết: “G/c vô sản sẽ dùng sự thống trị chính
trị của mình để đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay g/c tư sản, để tập trung
tca những ccsx vào trong tay NN, tức là trong tay g/c vô sản đã được tổ
chức thành g/c thống trị, để tăng thật nhanh số lượng những llsx”.
V.I.Lenin cho rằng g/c vô sản “ vẫn cần có NN để vừa bve chế độ công
hữu về tư liệu sx, vừa bve bình đẳng về lđ và bình đẳng trong việc phân chia các sp”.
NN bve lợi ích của g/c thống trị bằng mọi bphap, trong đó có cả bphap
bạo lực. V.I.Lenin cho rằng NN chính là công cụ “ bảo đảm cho một
bphan của dân cư thi hành bạo lực 1 cách có hệ thống chống lại bphan
khác”. Quân đội thường trực và cảnh sát của NN là lực lượng thực thi
các bp cưỡng chế, bạo lực. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, g/c bóc lột
do còn tiềm lực, đc sự giúp đỡ của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước nên luôn tìm cách để khôi phục quyền lực đã mất, luôn chống
phá lại nhà nước vô sản.Vì vậy NN vô sản vẫn cần thiết phải dùng bp
bạo lực đối với các lực lượng phản động này. Tuy nhiên, việc sd bạo lực
của NN VSan khác so với các NN trước đây. Các NN của g/c bóc lột
dùng bạo lực của thiểu số đối vs đại đa số quần chúng lao động, còn
nhà nước vô sản dùng bạo lực của đại đa số quần chúng đối với thiểu
số bóc lột muốn khôi phục lại vị trí thống trị của mình.
Không chỉ nói đến chức năng g/c của NN, cnghia Mac-Lenin còn nói
đến Cnang xh của NN. Cnang XH của NN chính là t/man ở mức độ nào
đó nhu cầu của các giai tầng khác trong xh, tức là phải thực hiện những
chính sách đem lại lợi ích cho các giai tầng bị trị ở mức độ nhất định,
dù cho những csach đó có thể ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt của g/c
thống trị. NN nào cũng phải g/q những vcv chung of toàn xh, tca các g/c
trong xh đều đc hưởng lợi khi NN thực hiện những cvc đó. VD: NN
bảo đảm trật tự an toàn xh, chống ô nhiễm môi trường,... Nói tóm lại, khi
bve và thực hiện lợi ích của mình thì g/c thống trị cũng phải quan tâm và
đảm bảo lợi ích của g/c bị trị ở 1 mức độ nhất định để g/c đó kh rơi vào
cùng cực. Việc t/h chức năng xh ở đây “ có nhiệm vụ làm dịu bớt sự
xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự, làm cho
nhân dân chấp nhận sự bóc lột ở mức độ nhất định. Khi NN thực hiện
CNang XH, NN tồn tại vs hình thức đại diện cho lợi ích chung. Từ đó
nhiều ng lầm tg rằng NN là của chung, không đại diện cho 1 g/c nào cả.
II-Đặc trưng, bản chất của nhà nước theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin: A-Đặc trưng:
Các nhà nước trong lịch sử có sự khác nhau về bản chất, nhưng tất
cả các nhà nước đều có những đặc trưng (dấu hiệu) cơ bản chung.
Những đặc trưng này để phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị
– xã hội, với tổ chức thị tộc nguyên thủy trước kia.
Thứ nhất, Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt
với bộ máy thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội.
Khi xuất hiện nhà nước đã lập nên quyền lực chính trị đặc biệt. Nhà
nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, không còn hòa nhập với dân cư
nữa. Không những thế, nhà nước còn có bộ máy cưỡng chế gắn liền
với quân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam và những cơ quan cưỡng
chế khác. Đây là những cơ quan mà không tồn tại trong chế độ thị tộc
nguyên thủy cũng như trong các tổ chức khác.
Bản chất của quyền lực chính trị của nhà nước thuộc về một thiểu số
giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, bộ máy nhà
nước đã được hoàn thiện để thực hiện quản lý xã hội.
Thứ hai, Nhà nước có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư theo
theo các đơn vị hành chính lãnh thổ (dấu hiệu dân cư và lãnh thổ).
Phạm vi thực hiện quyền lực của nhà nước là trên toàn bộ lãnh thổ
nhà nước. Nhà nước quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính,
không phụ thuộc vào quan điểm chính trị, giới tính, huyết thống, nghề
nghiệp nhằm đảm bảo cho sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà
nước. Mối quan hệ giữa người dân với nhà nước được thể hiện rõ
nhất thông qua chế định quốc tịch, một chế định xác lập sự phụ thuộc
của công dân vào một nhà nước nhất định và tương ứng, nhà nước
cũng phải có những nghĩa vụ nhất định đối với công dân của mình.
Việc quản lý dân cư theo lãnh thổ ở đây không giản đơn chỉ áp dụng
đối với người mang quốc tịch nước sở tại mà cả với người nước
ngoài, cho dù quy chế pháp lý của người nước ngoài hạn chế và
khác với công dân nước sở tại.
Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của nhà nước về đối nội và độc
lập về đối ngoại. Hay nói cách khác, chủ quyền quốc gia là quyền tự
quyết của quốc gia đó về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Nhà nước
là người đại diện chính thức, đại diện về mặt pháp lý cho toàn xã hội
về đối nội và đối ngoại. Chủ quyền quốc gia thể hiện tính độc lập và
không phụ thuộc của nhà nước trong việc giải quyết các công việc đối
nội và đối ngoại của mình.
Khái niệm chủ quyền quốc gia cũng chỉ là khái niệm tương đối. Ngày
nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bảo vệ chủ quyền
quốc gia không đồng nhất với đóng cửa không giao lưu với các quốc
gia, các tổ chức quốc tế khác. Ngược lại, việc tham gia hợp tác quốc
tế cũng không có nghĩa là đánh mất chủ quyền quốc gia. Nhà nước
cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác không thể tồn tại trong sự tách
rời, biệt lập với các quốc gia khác. Xu hướng toàn cầu hóa hiện nay
cho thấy nhà nước nào cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế,
diễn đàn quốc tế và cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác những nghĩa
vụ khác nhau. Ví dụ: Việt Nam đang tham gia các tổ chức quốc tế
như: ASEAN, FAO, IAEA, ILO, IMF, UN, UNCTAD, UNESCO, WFTU,
WHO, WIPO, WMO, APEC, ASEM…; Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh
đòi hỏi sự chung sức của nhiều quốc gia: AIDS, Cúm gia cầm H5N1,
Nạn khủng bố, môi trường…
Thứ tư, nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật
và đảm bảo sự thực hiện pháp luật.
Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội. Chỉ có nhà nước
mới có quyền ban hành pháp luật và quản lý dân cư, các hoạt động
xã hội bằng pháp luật. Pháp luật có tính bắt buộc chung, được đảm
bảo thực hiện bằng nhà nước với các biện pháp tổ chức, cưỡng chế,
thuyết phục tùy theo bản chất nhà nước và những điều kiện khách
quan khác. Các tổ chức thị tộc nguyên thủy và với các tổ chức phi
nhà nước không có đặc trưng này..
Thứ năm, nhà nước quy định các loại thuế và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc.
Nhà nước nào cũng có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình
thức bắt buộc. Thuế được sử dụng để nuôi sống bộ máy nhà nước,
thực hiện các hoạt động chung của toàn xã hội. Mục đích cơ bản của
việc thu thuế là để nuôi sống một bộ máy nhà nước, những cán bộ
công chức, những người không trực tiếp làm ra của cải vật chất cho
xã hội. Chỉ nhà nước mới được thu thuế, các tổ chức khác không
phải là nhà nước không có đặc trưng này. Chẳng hạn, một lớp học
thu quỹ lớp để phục vụ cho công việc của lớp; Đoàn thanh niên thu
đoàn phí để chi trả cho hoạt động Đoàn; Câu lạc bộ bóng đá thu tiền
để chi trả cho hoạt động chung…đó không phải là thu thuế.
Từ vấn đề bộ máy nhà nước, dân cư và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia
thực chất đều do pháp luật và đương nhiên vấn đề thuế cũng vậy,
đây là những vấn đề quan trọng, cần thiết và đều là đối tượng điều
chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên mục đích của việc đưa ra 5 đặc trưng
cuối cùng là để chỉ ra những đặc điểm riêng của nhà nước mà các tổ
chức, đơn vị phi nhà nước không có đc. B-Bản chất: 1-Tính xã hội của NN:
Thứ nhất, để tồn tại và phát triển, nhà nước nào cũng phải quan tâm
giải quyết các vấn đề chung của xã hội. Trước tiên nhà nước được
hiểu là một tổ chức quyền lực công cộng.
Chẳng hạn, người Việt Nam ngay từ bé đều biết đến hai hình ảnh
“nước dâng đến đâu, núi đồi cao đến đó” (Sự tích Sơn Tinh – Thủy
Tinh) và hình ảnh “một cậu bé ba tuổi nhổ tre đánh giặc” (Sự tích
Thánh Gióng). Hai hình ảnh đó nhắc nhở người dân Việt Nam rằng
ngay từ đầu dân tộc này đã phải giải quyết hai yêu cầu thường trực,
khách quan của xã hội đó là nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm.
Để giải quyết những công việc này đòi hỏi phải có sự liên kết, một sự
tổ chức thành một thực thể cao hơn làng (công xã nông thôn). Hai
yếu tố trị thủy và chống giặc ngoại xâm không mặc nhiên ra đời nhà
nước, nhưng là những yếu tố khởi đầu, thúc đẩy nhanh quá trình
hình thành nhà nước ở Việt Nam và đồng thời quy định chức năng
của nhà nước sau này. Tính xã hội ở đây thậm chí còn nảy sinh sớm
và có trước cả tính giai cấp. Điều này không phải ngoại lệ vì các nhà
nước đầu tiên ở Phương Đông như Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc,
ấn Độ cổ đại, thậm chí là các nhà nước ở Phương Tây như Hy Lạp
hay La Mã, nhà nước cũng nảy sinh từ xã hội và trước tiên sự ra đời
của nó là với vai trò là một tổ chức quyền lực công cộng, duy trì trật tự, ổn định xã hội.
Thứ hai, bất kỳ nhà nước nào cũng sẽ không thể tồn tại, phát triển
được nếu như giai cấp thống trị tuyệt đối không chú ý, quan tâm, bảo
vệ quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp khác, kể cả những giai tầng
không có quan điểm, tiếng nói giống với giai cấp mình.
Chẳng hạn, trong Bộ Quốc triều hình luật thời Lê ở Việt Nam có rất
nhiều những quy định bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế
trong xã hội như người già, phụ nữ, trẻ em, nô lệ, người tàn tật,
người cô quả…Không những thế, Bộ luật này còn có nhiều quy định
rõ ràng trách nhiệm của quan lại và hệ quả pháp lý trong trường hợp
quan lại không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ của mình.
Hay trong Bộ luật Hammurabi ở Lưỡng Hà cổ đại ở Điều 2 có quy
định về trách nhiệm của Thẩm Phán: “Nếu thẩm phán xử một vụ kiện
mà ra phán quyết bằng văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn
bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị tiền
phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta
sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm phán vĩnh viễn và không bao giờ có
thể trở thành thẩm phán lần nữa”. Quy định về trách nhiệm của thẩm
phán cho thấy thời kỳ này rất coi trọng công tác xét xử, rất coi trọng
trách nhiệm xét xử công bằng của thẩm phán. Cũng trong Bộ luật này
đã có một số quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Thứ ba, mức độ thể hiện và thực hiện vai trò xã hội của các nhà
nước không hoàn toàn giống nhau. Tính xã hội của nhà nước chịu sự
quy định, chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: thể chế chính trị, sự
phát triển kinh tế- xã hội, các mối tương quan lực lượng, truyền
thống, phong tục tập quán; hoàn cảnh lịch sử, việc cam kết và thực
thi các điều ước quốc tế…
Nhiều nhà nước đương đại hiện nay đã thực hiện rất nhiều những
chính sách xã hội như chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách an
sinh xã hội, chính sách lao động – việc làm, chính sách bảo vệ môi
trường, chính sách về phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã
hội….Nhiều nhà nước đều tuyên bố và cam kết xây dựng nhà nước
pháp quyền, nhà nước dân chủ ở đó quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Họ thiết lập cơ chế phân quyền, cơ chế giám sát bên trong
giữa các cơ quan nhà nước, giữa các đảng phái chính trị và giám sát
bên ngoài nhằm kiểm soát hành vi của công quyền. Trong phạm vi
quốc tế hiện nay, sự phát triển và phát huy vai trò ngày càng lớn của
các hình thức tổ chức tự nguyện và tự quản phi vụ lợi.
Xã hội hiện đại cũng chứng kiến vai trò ngày càng lớn của các công
ty xuyên quốc gia trong việc cung cấp tri thức và công nghệ quan
trọng nhất cho các nền kinh tế. Các tổ chức xã hội dân sự đóng vai
trò tư vấn chính sách, phản biện xã hội, tổ chức các công việc công
ích để đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng xã hội mà nhà nước và
thị trường không đủ khả năng đảm nhận. Nhà nước không chỉ đơn
thuần định ra, thiết lập các quy tắc chính thức, áp dụng cưỡng chế
bắt các tổ chức và cá nhân phải tuân theo, mà nhà nước còn là một
“đấu thủ quan trọng nhất trong các trò chơi kinh tế”. Trong xã hội hiện
đại, trước những thay đổi to lớn đang diễn ra trong đời sống chính trị
– xã hội ở các quốc gia khác nhau, vai trò của nhà nước và dịch vụ
công cùng các nhu cầu về bảo đảm an toàn, an ninh không ngừng tăng lên. 2- Tính g/c của NN:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào cũng có
tính giai cấp sâu sắc. Hay nói cách khác, tính giai cấp của nhà nước
cũng là một thuộc tính khách quan và phổ biến tồn tại ở mọi nhà
nước. Điều này thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, nhà nước chỉ ra đời trong xã hội có giai cấp. Hay nói cách
khác. trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có tư hữu xuất
hiện, chưa có sự phân hóa giai cấp, thì ở đó chưa có nhà nước.
Thứ hai, nhà nước là do giai cấp thống trị xã hội tổ chức nên, phục vụ
quyền lợi chủ yếu, trước hết là cho giai cấp thống trị xã hội. Từ khi
nhà nước xuất hiện đến nay thì tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố như
chế độ chính trị, tương quan lực lượng giai cấp, những điều kiện kinh
tế, văn hóa xã hội, đảng phái, bối cảnh kinh tế, quốc tế vv… mà mức
độ thể hiện cũng như phương diện thực thi tính giai cấp luôn có sự khác nhau nhất định.
Chẳng hạn, trong nhà nước phong kiến Việt Nam, tính giai cấp được
thể hiện ở chỗ nhà nước là do giai cấp thống trị tổ chức nên, bảo vệ
quyền lợi cho nhà vua, giai cấp địa chủ. Thông qua việc phong cấp
đất cho quý tộc, pháp luật cũng có sự ưu ái cho những quan lại trong
bộ máy nhà nước, ví dụ Điều 3 của Bộ luật Hồng Đức về chế độ Bát
nghị. Tuy nhiên, xét toàn diện thì mức độ thể hiện, mức độ thực thi
quyền lực ở các triều đại ở Việt Nam cũng không hoàn toàn giống
nhau. Trong lịch sử Việt Nam có những triều đại xuất hiện những vị
vua anh minh, tiến hành nhiều cuộc cải cách thành công như dưới
thời trị vì của vua Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông và nhiều vị vua khác.
Thứ ba, sự thống trị của giai cấp được thể hiện trên ba mặt là kinh tế,
chính trị và tư tưởng. Xét một cách logic, thông qua nhà nước, giai
cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Cũng
vì nắm được quyền lực nhà nước, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
trở thành hệ tư tưởng thống trị xã hội. Quyền lực chính trị do nhiều tổ
chức thực hiện, nhưng nhà nước là công cụ chủ yếu của quyền lực chính trị.
Tóm lại, theo cách hiểu của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước là một
bộ máy, công cụ quyền lực đặc biệt, là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai
cấp thống trị xã hội, đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ giai cấp và
những nhiệm vụ chung nảy sinh từ bản chất của xã hội.
III- Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về chức năng g/c và chức năng
xh của NN đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam vận dụng trong quá
trình xd và hoàn thiện NN XHCNVN. Vận dụng qđ của CN Mác-Lênin
về chức năng g/c, Đảng Cộng Sản VN khẳng định: “Đấu tranh dtoc và
đấu tranh g/c tiếp tục dra dưới nhiều hình thức”. Ở VN hiện nay các
thế lực phản động vẫn tìm cách xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa nên
việc sử dụng bạo lực của nhà nước Việt Nam vẫn còn tồn tại. Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định rằng xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ xuyên suốt,thường xuyên và gắn
chặt với nhau.Tại đại hội đảng XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định rằng,Đảm bảo an ninh,Quốc phòng là một trong bốn trụ cột của
Việt Nam và được xác định là nhiệm vụ trọng yếu,Thường xuyên.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin,Khi thực hiện chức năng giai cấp,Nhà
nước phải xây dựng và bảo vệ cơ sở kinh tế của giai cấp thống
trị.Vận dụng quan điểm đó,Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định chức
năng giai cấp của nhà nước Việt Nam hiện nay là giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Đại hội đảng IX
Xác định nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát của Việt Nam.Đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “Có nhiều hình thức sở hữu,
Nhiều thành phần kinh tế,Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo;Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc”. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường,Trước hết là đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở chỗ, Nó
“làm đòn bẩy để nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn
đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, Các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển, Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, Tạo nền tảng cho chế độ xã hội
mới”. Đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh
tế thị trường còn là phát huy mặt tích cực, Khắc phục những mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường. Về điều này, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định “ Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý
nền kinh tế thị trường là đều sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ
mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường…Có những mặt tiêu cực màu thuận
với bản chất của chủ nghĩa xã hội…Đi vào kinh tế thị trường,Phải
kiên quyết đấu tranh khắc phục, Hạn chế tối đa những khuynh hướng
tiêu cực đó”; “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của nhà nước. Nhà nước Việt Nam là nhà nước xã hội chủ
nghĩa, Quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, Chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, Sử dụng cơ chế thị trường, Áp dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, Giải phóng sức sản xuất, Phát huy mặt tích cực, Hạn
chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường”
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, Giai cấp thống trị
cùng cố sự thống trị của mình bằng cách làm cho hệ tư tưởng của
giai cấp mình thống trị trong đời sống xã hội. Vận dụng quan điểm đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin
,tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mác Lênin về chức năng xã hội
của nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, Nhà nước Việt
Nam là nhà nước của dân,Do dân và vì dân,Mọi đường lối ,chính
sách của nhà nước đều là vì dân.
Trong bối cảnh hiện nay ,nhà nước Việt Nam cần phải quan tâm đến
chức năng xã hội ,vì có nhiều vấn đề xã hội đặt ra ( Như thất
nghiệp ,sự phân hóa giàu nghèo,dịch bệnh ,ô nhiễm môi trường…).
Những vấn đề đó đang đòi hỏi nhà nước Việt Nam phải nâng cao
hiệu quả thực hiện chức năng xã hội. Chủ trương kết hợp tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội chính là việc nhà nước
Việt Nam quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội của Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay,Việc thực hiện chức năng
xã hội của nhà nước Việt Nam cũng mang tính hội nhập quốc tế. Đối
tượng thực hiện chức năng xã hội của nhà nước Việt Nam hiện nay
không chỉ hướng tới công dân của mình. Hội nhập quốc tế sẽ làm gia
tăng hợp tác quốc tế. Các tổ chức cá nhân thuộc mọi giai tầng của
các nước trên thế giới sẽ đến Việt Nam nhiều hơn. Các cá nhân và tổ
chức nước ngoài có lợi ích và nhu cầu rất đa dạng.Để đáp ứng
những nhu cầu ,lợi ích đa dạng của các tổ chức cá nhân nước ngoài,
thu hút họ đến Việt Nam hợp tác ,nhà nước đã nâng cao năng lực
thực hiện chức năng xã hội của mình ,giải quyết những nhu cầu ,lợi
ích của họ. Trong quá trình hội nhập quốc tế,Có nhiều tổ chức ,cá
nhân Việt Nam học tập ,làm ăn ,sinh sống ở nước ngoài, vì thế, Nhà
nước cũng đã quan tâm bảo đảm lợi ích nhu cầu chính đáng của các
tổ chức cá nhân của Việt Nam ở nước ngoài.
Hiện nay đang nảy sinh nhiều vấn đề toàn cầu mà một quốc gia đơn
lẻ không thể giải quyết được. Để giải quyết những vấn đề đó nhà
nước Việt Nam đã phải phối hợp chặt chẽ Với các nhà nước khác
trong việc thực hiện chức năng xã hội. Những vấn đề xã hội mà Việt
Nam đã và đang quan tâm giải quyết như xóa đói giảm nghèo ,thực
hiện bình đẳng giới ,phòng chống dịch bệnh cũng là vấn đề chung của các nhà nước khác.
Trong điều kiện hiện nay ,nhu cầu của con người đa dạng hơn rất
nhiều ,nhà nước khó có thể đáp ứng kịp thời những nhu cầu đa dạng của người Việt Nam.
Khi thực hiện chức năng xã hội, nhà nước Việt Nam đã có cơ chế
chính sách phù hợp để khai thác mọi tiềm năng ,động viên mọi nguồn
lực trong nhân dân và các thành phần kinh tế ,thực hiện chủ trương
xã hội hóa kết hợp nhà nước và nhân dân cùng làm.
Đặc biệt, để giải quyết những vấn đề an sinh xã hội như xóa đói giảm
nghèo ,giải quyết thất nghiệp ,phòng chống bệnh dịch ,vệ sinh môi
trường ,khắc phục thiên tai ,nhà nước đã phối hợp với các cá nhân
,tổ chức xã hội .Đó là biểu hiện sinh động của việc cả xã hội cùng nhà
nước thực hiện chức năng xã hội.
29. Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của nó trong sự
phát triển của xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
-Cách mạng xã hội được hiểu theo hai tầng nghĩa:
+theo nghĩa rộng cách mạng xã hội: Là sự biến đổi có tính chất bước
ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là
phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế-xã hội cao hơn.
+ Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ
chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tốt đẹp hơn.
-Vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội:
+Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội
Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, mới thay thế được hình thái
kinh tế – xã hội cũ bằng hình thái kinh tế – xã hội mới
cao hơn. Cách mạng xã hội là bước chuyển vĩ đại trong
đời sống xã hội về kinh tế – chính trị – văn hoá – tư
tưởng. Trong thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng
tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách
cao độ như C.Mác coi cách mạng xã hội là “đầu tàu” của lịch sử.
+Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các quá
trình chuyển biến cách mạng xã hội: Thứ nhất, từ
cộng đồng nguyên thuỷ lên chế độ chiếm hữu nô lệ; Thứ
hai, từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến;
Thứ ba, từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ
nghĩa; Thứ tư, từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã
hội chủ nghĩa. Và lịch sử càng tiến lên thì đặc trưng và
vai trò của cách mạng xã hội càng trở nên đầy đủ và rõ rệt hơn.
-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+CMXH là một trong những phương thức, động lực phát triển của xã hội.
+C.Mác: CMXH là “đầu tàu của lịch sử”, là “bà đỡ” cho
mọi xã hội cũ đang thai nghén trong nó một xã hội mới.
30. Nêu khái niệm quần chúng nhân dân. Phân tích vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa của vấn đề này trong
việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.

-Quần chúng nhân dân: Tập hợp đông đảo những con người, hoạt động
trong một không gian hay thời gian xác định. Có thể bao gồm nhiều
thành phần tầng lớp xã hội, giai cấp đang hoạt động trong một xã hội xác định.
-Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân:
+ Họ là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.
VD: Con người không ngừng sản xuất tạo ra các mặt hàng thiết yếu cho
cuộc sống như lúa, rau và các loại thực phẩm khác. Ngoài ra, con người
ngày càng sáng tạo ra các phát minh tiên tiến giúp cho xã hội loài người ngày càng phát triển.
+ Họ là những người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.
VD: Toàn dân Việt Nam luôn nhớ đến ngày mùng 10/3 âm lịch hàng năm.
Nhiều người gần xa tập trung về tỉnh Phú Thọ để viếng thăm và tỏ lòng
biết ơn công lao của các vị vua Hùng. Đây là truyền thống "uống nước
nhớ nguồn" được giữ gìn bao đời nay đó là giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân ta.
+ Họ là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Hoạt động phát triển xã hội Mẫu thuẫn giữa giai cấp (Thống trị và bị
trị) Đấu tranh giai cấp Cách mạng xã hội Cách mạng là sự nghiệp của QCND.
*Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, những giai đoạn biến đổi
của xã hội thì QCND là lực lượng chủ yếu, cơ bản quyết định
thắng lợi của mọi cuộc cách mạng, cải biến của xã hội. (Mọi
cuộc cách mạng cần có lực lượng, lực lượng tạo nên sức mạnh
từ QCND) QCND là người sáng tạo ra lịch sử)
VD: Chiến tranh toàn dân bảo vệ đất nước thời Tây Sơn được
phát triển từ cuộc khởi nghĩa nông dân chống áp bức phong kiến
thành cuộc chiến tranh toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn này chính là cuộc khởi nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và từ nguyện vọng của nhân dân. - Ý nghĩa:
+Yếu tố quyết định, căn bản nhất, quan trọng nhất của lực lượng sản
xuất là quần chúng nhân dân lao động
+Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội,
trực tiếp sản xuất ra của cài vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người, của xã hội - đây là nhu cẩu quan trọng bậc nhất của
mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.