lOMoARcPSD| 61429799
KIỂM TRA GIỮA
I. Tự luận
1. Anh (chị) hãy phân tích các quy định của DSU để làm sáng tỏ nhận định sau
đây: “Tham vấn vừa là một phương thức giải quyết tranh chấp vừa là một giai đoạn
bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO”.
Tham vấn là một phương thức giải quyết tranh chấp:
- Điều 4.2 DSU quy định “Mỗi Thành viên cam kết dành những cân nhắc thiện chí
tạo hội thỏa đáng cho việc tham vấn về bất kỳ ý kiến nào do một Thành
viên khác đưa ra liên quan đến những biện pháp ảnh hưởng tới sự vận hành
của bất cứ hiệp định có liên quan nào được thực hiện trên lãnh thổ của Thành
viên này”. Theo quy định trên, tham vấn một phương thức giải quyết tranh
chấp trực tiếp và chủ yếu được khuyến khích trong DSU. Các bên được khuyến
khích giải quyết tranh chấp thông qua tham vấn. Đây cũng chính là cách giải
quyết các bất đồng một cách thân thiện và nhanh chóng.
- Điều 4.5 cũng quy định các n trong tranh chấp phải cố gắng giải quyết tranh
chấp bằng tham vấn trước khi chuyển sang các giai đoạn tiếp theo trong quy trình
giải quyết tranh chấp. Tham vấn giúp các bên hội trao đổi thông tin, hiểu
hơn về quan điểm của nhau, tìm kiếm giải pháp thỏa đáng không cần
phải đi đến giai đoạn tranh tụng chính thức.
Tham vấn không chỉ là một phương thức còn là một giai đoạn bắt buộc trong
quy trình giải quyết tranh chấp của WTO.
- Điều 4.3 quy định rằng trừ khi thỏa thuận khác, các bên phải trả lời yêu cầu
này trong vòng 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu và phải tham gia vào tham
vấn một cách thiện chí trong thời hạn không quá 30 ngày sau ngày nhận được
yêu cầu để cố gắng đạt được giải pháp thỏa đáng cho các bên.
- Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày kể từ ngày
nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn thể yêu cầu lập ban hội thẩm
theo quy định tại điều 4.7. Bên nguyên đơn thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm
trong thời hạn 60 ngày nói trên nếu các bên tham vấn cùng cho rằng việc tham
vấn đã không giải quyết được tranh chấp.
- Ngoài ra, trong trường hợp khẩn cấp, kể cả những trường hợp liên quan đến
hàng dễ hỏng, các Thành viên phải tiến hành tham vấn trong khoảng thời gian
lOMoARcPSD| 61429799
không q10 ngày sau khi nhận được yêu cầu theo quy định tại điều 4.8. Nếu
việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày sau
ngày nhận được yêu cầu, bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm.
=> Như vậy, tham vấn một giai đoạn bắt buộc cũng một phương thức
giải quyết tranh chấp trong WTO. Điều này giúp đảm bảo rằng các n cơ hội
giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và thân thiện trước khi chuyển sang các
giai đoạn tranh tụng chính thức, đồng thời tuân thủ quy trình giải quyết tranh
chấp của WTO một cách có hệ thống và hiệu quả.
2. Anh (chị) hãy bình luận về phạm vi áp dụng của Công ước Viên năm 1980 của
Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Phạm vi áp dụng: Điều 1.1
Công ước Viên 1980 đã quy định rất cụ thể phạm vi áp dụng cho các HĐMBHHQT giữa
các bên trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau. Được quy định rất tại Khoản
1 điều 1 Công ước này:
“1. Công ước này áp dụng cho các HĐMBHH giữa c bên trụ sở thương
mại tại các quốc gia khác nhau:
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của công ước
b. Khi theo các quy tắc quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên
Công ước này.
Qua quy định trên ta có thể thấy CISG được áp dụng trong hai trường hợp:
Thứ nhất căn cứ vào dấu hiệu trụ sở thương mại của chủ thể có quan hệ với nước
là thanh viên Công ước Viên 1980.
Đây trường hợp áp dụng trực tiếp, thường được áp dụng phổ biến nhất trong
CISG, đây là trường hợp khi các quốc gia phê chuẩn hoặc tham gia Công ước thì Công
ước trở thành một phần nội luật của quốc gia đó sẽ đương nhiên được áp dụng đối
với các giao dịch giữa các công dân của quốc gia thành viên đó.
Ví dụ: Trong trường hợp Doanh nghiệp VN có trụ sở thương mại tại VN ký kết
HĐMBHH với một doanh nghiệp trụ sở thương mại tại Úc; VN Úc đều thành
viên của Công ước Viên. Như vậy, trong trường hợp này các doanh nghiệp đều dễ dàng
thấy được Công ước Viên sẽ được áp dụng. Thực tiễn áp dụng cho thấy, khi ký kết hợp
lOMoARcPSD| 61429799
đồng, các bên thường chủ yếu quan tâm về các điều khoản số lượng, chất lượng, thanh
toán,.. nhưng khi tranh chấp xảy ra các bên lúng túng chưa biết có luật nào áp dụng
để xử thì CISG hỗ trợ cho các bên trong công đoạn này. dụ: Cứ đối tác o của
VN thành viên của Công ước Viên 1980 rồi thì khi ta kết hợp đồng xuất khẩu,
nhập khẩu với họ thì đương nhiên, công ước Viên sẽ tự động điều chỉnh một cách trực
tiếp.
Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế
nhiều trụ sở kinh doanh đặt nhiều quốc gia khác nhau thì Công ước Viên 1980 s
áp dụng nếu trụ sở kinh doanh đó quan hệ gần gũi nhất với hợp đồng được đặt tại
quốc gia thành viên của Công ước (Điều 10), hoặc đối với những bên không trụ sở
kinh doanh thì sẽ lấy nơi trú thường xuyên của họ làm sở c định (nơi trú
thường xuyên của các chủ thể nằm trên lãnh thổ của nước thành viên của Công ước
này).
Trường hợp thứ hai, khi theo các quy tắc của quốc tế thì luật áp dụng là luật của
quốc gia thành viên CISG.
Nếu trường hợp thứ nhất được coi trường hợp áp dụng "trực tiếp", thì đây
trường hợp áp dụng "gián tiếp" Công ước đã mở rộng đáng kể phạm vi áp dụng cho các
hợp đồng giữa một bên địa điểm kinh doanh tại Quốc gia thành viên bên kia tại
một quốc gia chưa phải là thành viên của Công ước. Về nguyên tắc nếu cả hai quốc gia
đều thành viên của Công ước này rồi thì skhông đề cập tới vấn đề. nếu cả hai
quốc gia đều là thành viên thì đương nhiên CISG sẽ được áp dụng.
dụ: Người n (Việt Nam) bán một cà phê cho người mua (Indonesia).
Tranh chấp phát sinh và người mua kiện người bán ra Tòa án thành phố Hồ Chí Minh.
Theo đó, Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tranh chấp sẽ sử dụng pháp
quốc tế Việt Nam. Quy phạm xung đột cho hợp đồng hiện hành là Điều 683 Bộ luật Dân
sự 2015. Theo Điều 683.2.a, nếu các bên không thỏa thuận luật áp dụng thì luật của
nước mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng là luật của nước nơi người bántrú
nếu nhân hoặc nơi thành lập nếu pháp nhân (đối với hợp đồng mua bán hàng
hóa). Nơi này chính Việt Nam. Như vậy, quy tắc xung đột hợp đồng của pháp quốc
tế Việt Nam dẫn chiếu đến luật Việt Nam, Việt Nam một quốc gia thành viên công
ước CISG nên CISG được áp dụng thay cho luật quốc gia Việt Nam (kết quả áp dụng
Điều 1.1.b)
lOMoARcPSD| 61429799
Tuy nhiên, sẽ trường hợp các bên trong hợp đồng mua bán có thỏa thuận chọn
luật của một nước thành viên Công ước nhưng quốc gia này bảo lưu Điều 1.1.b theo
quy định tại Điều 95 Công ước. Khi đó luật quốc gia này sẽ áp dụng hay CISG. Thực tế
một số quốc gia bảo u như vậy họ không muốn CISG thay thế luật nội địa
của họ trong những hợp đồng có một bên có trụ sở ở quốc gia không phải là thành viên
Công ước. Trong trường hợp các bên chọn luật các nước y thì CISG sẽ không áp dụng
ưu tiên so với luật quốc gia, tiêu biểu Singapore: 1 quốc gia đã lựa chọn bảo lưu điều
1.1.b
Phạm vi không áp dụng: Điều 2,3,5
CISG sẽ không được áp dụng trong một số hợp đồng mua bán đặc biệt được quy định
trong điều 2, điều 3, điều 5 Công ước Viên 1980 (chắc dừng đoạn này được rồi, đoạn
dưới là phân tích từng điều luật)
- Theo quy định tại Điều 2 CISG, những hợp đồng CISG không áp dụng được
phân thành 3 nhóm chính dựa theo mục đích hàng hóa được mua bán, loại
giao dịch giữa các bên loại hàng hóa được bán. Dựa vào mục đích của việc
mua hàng, theo Điều 2.a, CISG không áp dụng nếu hàng được mua để phục vụ
mục đích cá nhân hoặc gia đình. Một hợp đồng tiêu dùng thuộc trường hợp loại
trừ áp dụng CISG khi ý định dùng cho cá nhân hoặc gia đình được bên bán biết
được trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ chứng minh rằng
bên bán không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết ý định tiêu dùng của người
mua thuộc về bên đòi sự áp dụng của CISG. Dựa vào loại giao dịch, theo Điều
2.b CISG không áp dụng cho các giao dịch bán đấu giá, bởi vì giao dịch bán đấu
giá các quy định đặc thù trong pháp luật của các quốc gia nên nên để những
giao dịch này tiếp tục được điều chỉnh bởi những quy định đó mặc dù người đấu
giá thành công thể đến từ một quốc gia khác. Điều 2.c loại trừ việc áp dụng
CISG cho những giao dịch mua bán hàng a để thi hành luật hoặc các quyết
định pháp, bởi các giao dịch này thường chịu sự điều chỉnh của các quy
định đặc thù theo pháp luật quốc gia nơi giao dịch được thực hiện. Điều 2.d loại
trừ các giao dịch mua bán chứng khoán, bởi những giao dịch này liên quan
đến những vấn đề khác với thương mại hàng hóa thông thường, một số hệ
thống pháp luật không xem chứng khoán là một loại hàng hóa. Dựa vào loại
hàng a, Điều 2.e loại trừ áp dụng CISG cho những giao dịch mua bán tàu thủy,
máy bay, thủy phi cơ. Điều 2.f loại trừ áp dụng Công ước cho giao dịch mua bán
lOMoARcPSD| 61429799
điện năng trên sở rằng trong một số hệ thống pháp luật, điện năng không được
xem hàng hóa và mua bán quốc tế điện năng liên quan đến những vấn đề đặc thù
so với những vấn đề thông thường của mua bán hàng hóa quốc tế.
- Một trường hợp khác CISG không áp dụng được quy định trong Điều 3
liên quan đến các hợp đồng cung ứng dịch vụ. Điều 3.1 quy định rằng CISG vẫn
áp dụng cho hợp đồng cung ứng hàng hóa được chế tạo hoặc sản xuất theo yêu
cầu của người mua. Tuy nhiên, nếu bên mua cung cấp phần lớn nguyên liệu cần
thiết cho việc chế tạo hoặc sản xuất hàng hóa, hợp đồng sẽ gần hơn với hợp đồng
cung ứng dịch vụ hoặc lao động hơn mua bán hàng hóa thông thường. Điều
3.2 nhấn mạnh rằng Công ước sẽ không áp dụng đối với các hợp đồng mà trong
đó, nghĩa vụ chủ yếu của bên giao hàng cung ứng lao động hoặc các dịch v
khác. Đây trường hợp những hợp đồng không chỉ nghĩa vụ giao hàng
còn có những nghĩa vụ liên quan như thực hiện một công việc hay cung cấp một
dịch vụ. Khi đó, muốn CISG áp dụng, nghĩa vụ giao hàng phải chủ yếu. Để
xác định được rằng nghĩa vụ giao hàng là chủ yếu so với các nghĩa vụ cung cấp
dịch vụ đi kèm, giá trị kinh tế của hai nghĩa vụ phải được so sánh. Nếu nghĩa vụ
cung cấp lao động hoặc dịch vụ lớn hơn 50% nghĩa vụ của người bán, Công ước
sẽ không được áp dụng và ngược lại.
- Trường hợp CISG bị loại trừ áp dụng nữa theo Điều 5 là đối với trách nhiệm của
bên bán trong trường hợp hàng hóa y thiệt hại đến tính mạng hoặc sức khỏe
của một người nào đó. do CISG không cạnh tranh với luật quốc gia về trách
nhiệm sản phẩm
3. Anh (chị) hãy giải thích tại sao nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) luôn một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất để đảm bảo mục tiêu tự do hóa thương mại của
WTO.
- Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) một trong những nguyên tắc cốt lõi của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại
+ sở pháp : Nguyên tắc NT được thể hiện trong tất cả ba hiệp định chính của WTO
(GATT, GATS TRIPS). được xây dựng tại Điều III của GATT năm 1947, Điều
17 (XVII) của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và tại Điều III của Hiệp
định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
+ Nội dung nguyên tắc:
lOMoARcPSD| 61429799
+) Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành
cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không m
hơn so với ưu đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung
cấp của nước mình.
+) Điều này nghĩa nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa sản
phẩm, dịch vụ, ncung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp
nước ngoài về thuế các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh
tranh.
+) Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan, và dựa trên nguyên
tắc đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên được đối xử
bình đẳng với nhau trên thị trường của ớc nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu như nước
nhập khẩu tùy tiện áp dụng thuế nội địa và các quy định mang tính phân biệt đối
xử giữa hàng nhập khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục đích bảo hộ ngành
sản xuất trong ớc thì hiệu quả của việc tự do hóa thương mại kể trên sẽ không
còn ý nghĩa. Chính thế hai nguyên tắc y được áp dụng kết hợp nhằm bảo
đảm điều kiện cạnh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm nhập khẩu từ các
nước thành viên còn giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa của nước
nhập khẩu. Cùng với lý do đó mà hai nguyên tắc này được coi là hòn đá tảng của
GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân biệt đối xử tự do hóa
thương mại giữa các nước thành viên.
+ Ngoại lệ chung và riêng:
1. Theo quy định của pháp luật Việt Nam
*Nguyên tắc áp dụng ( Điều 4 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong
thương mại quốc tế năm 2002)
Nhà nước Việt Nam áp dụng Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế trên sở các
nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi.
*Ngoại lệ áp dụng
Điều 5 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế
năm 2002 quy định về các ngoại lệ chung như sau:
Không áp Đối xử quốc gia trong trường hợp cần thiết để bảo đảm lợi ích quốc phòng,
an ninh quốc gia, bảo vệ các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc, bảo vệ sức khỏe
con người, bảo vệ động vật, thực vật môi trường, ngăn chặn các hành vi gian lận
thương mại. ( Điều 5 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương
mại quốc tế năm 2002)
lOMoARcPSD| 61429799
Không áp dụng Đối xử quốc gia đối với những nước tiến hành hoặc tham gia tiến hành
các hoạt động chống lại độc lập, chquyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ( Điều 5 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc đối
xử quốc gia trong thương mại quốc tế năm 2002)
Điều 17 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế
năm 2002 quy định về các ngoại lệ về đối xử quốc gia như sau:
Việc mua sắm của Chính phủ Việt Nam nhằm mục đích tiêu ng của Chính phủ;
Các khoản trợ cấp dành cho nhà sản xuất trong nước, các chương trình trợ cấp thực
hiện dưới hình thức Chính phủ Việt Nam mua lại hàng hóa sản xuất trong nước;
Các quy định hạn chế thời lượng phim ảnh trình chiếu;
Các khoản phí vận tải trong nước được tính trên sở các hoạt động mang tính kinh
tế của phương tiện vận tải.
*Trường hợp áp dụng Đối xử quốc gia
Điều 15 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc
tế năm 2002 quy định như sau
Nhà ớc Việt Nam áp dụng một phần hay toàn bộ Đối xử quốc gia trong các trường
hợp:
Pháp luật Việt Nam có quy định về áp dụng Đối xử quốc gia;
Điều ước quốc tế Việt Nam kết hoặc gia nhập có quy định áp dụng Đối xử quốc
gia;
Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thực tế đã áp dụng Đối xử quốc gia đối với Việt
Nam;
Các trường hợp khác do Chính phủ quyết định.
*Phạm vi áp dụng Đối xử quốc gia (Điều 16 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia trong thương mại quốc tế năm 2002 quy định về phạm vi áp dụng đối xử
quốc
gia)
Đối xử quốc gia được áp dụng đối với các đối tượng thuộc Điều 2 của Pháp lệnh này
theo nguyên tắc quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này trên cơ sở tuân thủ các quy định
của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế có liên quan đến Đối xquốc gia Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập.
lOMoARcPSD| 61429799
*Nội dung quản nhà nước Đối xử quốc gia (Điều 18 Pháp lệnh 2002 quy định về
Nội dung quản lý nhà nước về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia) Nội dung quản
lý nhà nước về Đối xử quốc gia bao gồm:
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về Đối xử quốc gia;
Quyết định việc áp dụng hoặc không áp Đối xử quốc gia;
Ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến Đối xử quốc gia;
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về Đối xử quốc gia;
Tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin liên quan đến Đối xử quốc gia;
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và chính sách liên quan đến Đối xử quốc gia;
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về Đối xử quốc gia;
Giải quyết khiếu nại xử các vi phạm pháp luật liên quan đến Đối xử quốc gia.
*Cơ quan quản lý nhà nước về Đối xử quốc gia (Điều 19 pháp lệnh quy định về Cơ
quan quản nhà nước về Đối xử tối huệ quốc Đối xử quốc gia)Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về Đối xử quốc gia.
Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản
nhà nước về Đối xử quốc gia.
Các bộ, quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình trách
nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại thực hiện việc quản lý nhà nước Đối xử quốc gia
trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc phối
hợp với Bộ Thương mại thực hiện quản lý nhà nước về Đối xử quốc gia.
2. Theo quy định của pháp luật quốc tế
- Theo khoản 1 Điều 3 (GATT 1994) đối tượng áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia
gồm có:
+ Thuế lệ phí trong nước: Các nước thành viên không được phép đánh thuế
các lệ phí đổi với sản phẩm nhập khẩu cao hơn so với sản phẩm nội địa cùng loại. Mặt
khác, các nước thành viên cũng không được phép áp dụng thuế lệ phí trong nước đối
với sản phẩm nhập khẩu hoặc sản phẩm nội địa theo phương pháp nào đó nhằm bảo hộ
cho sản xuất trong nước (khoản 2 Điều 5).
+ Quy chế mua bán: Pháp luật, quy định và các yêu cầu khác ảnh hưởng đến mua
bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nước không được phép đối xử với
sản phẩm nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với sản phẩm nội địa cùng loại. Trong đó “ảnh
lOMoARcPSD| 61429799
hưởng” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các điều kiện cạnh tranh giữa sản
phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa cùng loại (khoản 4 Điều 3).
+ Quy chế số lượng: Các nước thành viên không được phép đặt ra hoặc duy trì quy
chế trong ớc về slượng liên quan đến sự pha trộn, chế biến hoặc sử dụng các sản
phẩm theo một số lượng hoặc tỉ lệ nhất định, trong đó yêu cầu rằng số lượng hoặc tỉ lệ
pha trộn của sản phẩm là đối tượng của quy chế này phải được cung cấp từ nguồn trong
nước, hay áp dụng quy chế số lượng này theo cách thức nhằm bảo vsản xuất trong
nước (Khoản 8 Điều 3).
- Theo quy định trên thì các yêu cầu của chính phủ về chính sách nội địa hóa, trong
đó yêu cầu sản phẩm sản xuất ra phải sử dụng một tỷ lệ hoặc số lượng nhất định phụ
tùng trong nước sẽ là vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia.
--> Tóm lại, nguyên tắc NT đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu tự do
hóa thương mại của WTO bằng ch tạo ra một môi trường thương mại công bằng
bình đẳng.
4. Anh (chị) hãy phân tích các trường hợp pháp luật quốc gia được áp dụng để điều
chỉnh quan hệ thương mại quốc tế.
- Khái niệm pháp luật quốc gia:
+ Pháp luật ng cụ pháp bản chủ yếu để nhà nước thực hiện các chức
năng của mình. Cũng như mọi lĩnh vực khác, trong thương mại quốc tế, pháp luật
đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể. + Pháp
luật của mỗi quốc gia là tổng thể các quy tắc, các quy định điều chỉnh mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội của quốc gia đó. Các quy tắc và các quy phạm này, tùy theo hệ
thống pháp luật của mỗi nước, chúng ta thể được thể hiện dưới nh thức thành
văn bản hoặc không văn bản.
+ Luật quốc gia trong thương mại quốc tế tổng thể các quy định điều chỉnh các
hoạt động của các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế. Với cách
nguồn của luật TMQT, luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản
hoặc không được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nguồn luật này được thể hiện
dưới hình thức o thì hoàn toàn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật nhất
định.
Phân tích các trường hợp pháp luật quốc gia được áp dụng luật của mỗi quốc gia:
- Pháp luật của mỗi quốc gia được áp dụng trong TMQT trong 2 trường hợp, đó là:
lOMoARcPSD| 61429799
các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng và khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật
của quốc gia.
Thứ nhất, khi các bên chủ thể trong thương mại quốc tế thỏa thuận áp dụng luật quốc
gia. Bao gồm các trường hợp sau:
+ Các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng luật quốc gia của 1 trong các bên
+ Các bên lựa chọn pháp luật của một nước thứ 3, luật nơi ký kết hợp đồng, luật i
thực hiện hợp đồng, luật nơi có tài sản liên quan đến hợp đồng.
+ Pháp luật của 1 quốc gia được lựa chọn nhưng thể bịquan tài phán từ chối
áp dụng
+ Thỏa thuận chọn luật áp dụng trái pháp luật
+ Vì lý do bảo lưu trật tự công cộng
Ví dụ: Trong quá trình ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có quyền
thực hiện nguyên tắc thỏa thuận. Theo đó các bên có thể thỏa thuận mọi điều khoản liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của mình bao gồm cả việc tự do thỏa thuận chọn pháp luật
áp dụng. Các bên có thể chọn pháp luật trong nước của mỗi bên hoặc có thể chọn pháp
luật của nước thứ 3, với điều kiện việc chọn pháp luật áp dụng này ko trái với quy định
của pháp luật nơi ký kết hợp đồng.
Trong trường hợp các bên chủ thể ko thể thỏa thuận áp dụng pháp luật của 1 trong
các bên thì các bên thể thỏa thuận áp dụng pháp luật của nước thứ 3. Pháp luật của
nước thứ 3 đây được hiểu pháp luật của các nước liên quan đến giao dịch kinh
doanh quốc tế của các bên. Ví dụ: Luật nơi kết HĐ, luật nơi thực hiện HĐ. luật nơi
tài sản liên quan đến HĐ,...Trong trường hợp này, luật của ớc thứ 3 được coi
luật quốc gia do các bên lựa chọn để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế của mình.
Ví dụ: Hàng cấmVN và các nước trên thế giới ko giống nhau Sở hữu súng →
ko thể thỏa thuận áp dụng BLDS VN cho việc mua bán súng bởi vì đây là hàng cấm của
VN.
Thứ hai, Pháp luật quốc gia sẽ được áp dụng nếu có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Trong trường hợp, mặc các bên chủ thể không thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng
nhưng trong các nguồn luật liên quan quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống
pháp luật của quốc gia nào đó tpháp luật được dẫn chiếu sẽ được đem áp dụng để
điều chỉnh quan hệ TMQT.
lOMoARcPSD| 61429799
Ví dụ: Để xác định năng lực ký kết và thực hiện HĐ TMQT, tư pháp quốc tế của hầu
hết các nước đều quy định áp dụng luật quốc tịch của bên chủ thể
Do đặc thù của quan hệ pháp luật trong hoạt động TMQT các hệ thuộc luật thường
được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến:
+ Luật quốc tịch của các bên chủ thể
+ Luật nơi cư trú của các bên chủ thể
+ Luật nơi có vật
+ Luật nơi ký kết hợp đồng
+ Luật nơi thực hiện HĐ
Ví dụ:
+ Hoạt động nhượng quyền quy định: nếu như xung đột phát sinh giữa bên
nhượng quyền bên nhận quyền thì pháp luật được áp dụng là nơi có hành vi xung đột
diễn ra.
+ Nhãn hàng phê Trung Nguyên Hoạt động nhượng quyền diễn ra tại Hàn quốc,
vì hành vi nhượng quyền diễn ra tại đây nên nguồn luật được áp dụng là ở HQ.
5. Theo anh (chị) WTO nên tiếp tục quy định những ngoại lệ cho phép áp dụng
các biện pháp hạn chế số lượng trong nh vực thương mại hàng hóa hay không?
Hãy lập luận để chứng minh cho quan điểm của anh (chị).
thể đi trái lại với các nguyên tắc về tự do hoá thương mại của WTO, các
biện pháp hạn chế số lượng trong lĩnh vực thương mại hàng hóa nên được WTO duy trì
và tiếp tục áp dụng.
Theo đó, hiệp định GATT điều XI đã quy định nguyên tắc chung các thành viên
WTO không được áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng dưới bất kỳ hình thức nào
nhằm hạn chế xuất khẩu, nhập hàng hóa. Như vậy, về nguyên tắc các biện pháp hạn chế
số ợng xuất khẩu - nhập khẩu bị cấm hoàn toàn trong WTO. Tuy nhiên, WTO cũng
thừa nhận một số ít c trường hợp ngoại lệ cho phép áp dụng biện pháp hạn chế số
lượng xuất khẩu - nhập khẩu nhưng phải với các điều kiện theo các thủ tục nhất
định.
Các ngoại lệ này bao gồm các ngoại chung có thể kể đến theo điều XX GATT như bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nhiên thiên quý
hiếm, bảo vệ những thực phẩm nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ quốc gia,...ngoài ra còn một
lOMoARcPSD| 61429799
số ngoại lệ riêng khác thể áp dụng biện pháp hạn chế số lượng như để triển khai
chính sách của chính phủ liên quan tới nông sản (Điều XI.2 GATT), hạn chế số lượng
để bảo vệ cán cân thanh toán (Điều XII GATT), hạn chế số ợng để bảo vệ sản xuất
trong nước - biện pháp tự vệ (điều XIX GATT, hiệp định về biện pháp tự vệ SG) Các
ngoại lệ này được WTO ban hành kiểm soát với điều kiện thủ tục nhất định vốn
không phải với mục tiêu tạo điều kiện, thiên vị cho một số thị trường trong thương mại
hàng hoá để bình ổn thương mại hàng hoá quốc tế giữa các quốc gia, ví dụ n
để các quốc gia thể chủ động trong ngăn chặn, hạn chế việc buôn bán, nhập khẩu
những mặt hàng nhạy cảm liên quan tới động vật quý hiếm, vũ khí, rác thải công nghiệp
từ các quốc gia khác...Trong một số trường hợp với các quốc gia có nền thương mại
quốc tế còn non trẻ, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp
ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ v trong một số trường hợp đặc biệt
khó khăn.
6. Anh (chị) hãy giải thích tại sao các thương nhân nên chọn phương thức trọng
tài để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế của mình.
Trọng tài thực chất phương thức giải quyết tranh chấp riêng tư, được các n
tranh chấp lựa chọn như là cách thức để chấm dứt xung đột giữa họ mà không cần đến
tòa án. Đây phương thức được nhiều thương nhân lựa chọn để giải quyết các tranh
chấp thương mại quốc tế vì các lý do sau:
1. Phương thức trọng tài đem đến nhiều sự công bằng hơn.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang lại cho các bên quyền tự
định đoạt kiểm soát đối với quá trình giải quyết tranh chấp. Các bên thể quyết
định trọng tài viên, luật áp dụng hay thậm chí cả địa điểm hay ngôn ngữ sử dụng trong
tố tụng trọng tài
Việc được quyền lựa chọn trọng tài viên giải quyết tranh chấp cho phép các n
lựa chọn được các chuyên gia chuyên môn kinh nghiệm thực tế về vấn đề tranh
chấp, uy tín trong từng chuyên ngành để trở thành trọng tài viên giải quyết tranh chấp
của các bên thay các thẩm phán - những người thường kiến thức hạn chế hơn về
luật thương mại quốc tế. Từ đó, góp phần đảm bảo chất lượng giải quyết tranh chấp
được nhanh chóng và chính xác trên nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận của các bên
tranh quan hệ tranh chấp thương mại quốc tế.
Việc có được quyền định đoạt và kiểm soát trong mọi tiến trình ý nghĩa rất quan
trọng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, bởi không bên tranh chấp nào
lOMoARcPSD| 61429799
mong muốn mình là đối tượng của quyền tài phán của tòa án nước bạn. Mỗi bên đều lo
ngại về nguy cơ thể xuất hiện sự thiên vị của tòa án dành cho công nhân hoặc pháp
nhân của nước ớc tòa án đó. Trong khi đó, trọng tài đem đến cho các bên tranh
chấp một quan tài phán trung lập hơn, nơi mỗi bên có thể tin tưởng rằng họ sẽ
được phán xử công bằng.
2. Trọng tài thương mại xét xử theo nguyên tắc không công khai
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tôn trọng tính bảo mật thông tin
cho toàn bộ quá trình giải quyết. Phiên họp trọng tài cũng được thực hiện không công
khai chỉ sự tham gia của các bên nhận được quyết định. Điều này khác với khi
giải quyết tranh chấp bằng tố tụng a án, mọi tranh chấp được giải quyết theo phương
thức xét xử công khai.
Thực tế, nguyên tắc này lại rất phù hợp trong giải quyết tranh chấp thương mại
khi mà phần lớn các doanh nghiệp không muốn các thông tin về doanh nghiệp và hoạt
động kinh doanh của mình bị rò rỉ. Học cũng không muốn công khai loại tranh chấp
học đang phải giải quyết hay một phán quyết bất lợi cho phía của họ
3. Quyết định của Trọng tài là phán quyết chung thẩm
Phán quyết của trọng tài đặc điểm khá với bản án, quyết định của tòa án đo
chính là mang tính chung thẩm và không thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp một hợp đồng thương mại quốc tế phát sinh, phán quyết của Tòa
án quốc gia thương khó đạt được sự công nhân quốc tế. Do bản chất của Tòa án thường
nằm trong phạm vi quy định của một quốc gia, nên thông thường phán quyết của Tòa
án được công nhận tại một nước khác phải được thông qua bởi hiệp định song phương
theo các quy tắc rất nghiêm ngặt. Ngược lại, quyết định của Trọng tài đạt được sự
công nhận quốc tế thông qua một loạt các công ước quốc tế đặc biệt Công ước
New York m 1958 vcông nhận cho thi hành quyết định của Trọng tài với 157
quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên Công ước (tính đến tháng 12/2017).
Theo Công ước New York, các tòa án có nghĩa vụ phải thi hành phán quyết trọng
tài, trừ khi những sai phạm nghiêm trọng về thủ tục giải quyết bằng phương thức
trọng tài, hoặc những vấn đề liên quan đến tính trung thực của quá trình giải quyết tranh
chấp bằng phương thức trọng tài. Công ước ủng hộ tối đa việc thi hành phán quyết trọng
tài. Do vậy mà hầu hết các tòa án sẽ rất hạn chế giải thích theo hướng phủ nhận việc thi
hành này, từ đó dẫn đến thực tế là hầu hết các phán quyết trọng tài đều được thi hành.
lOMoARcPSD| 61429799
7. Tại sao cần phải áp dụng kết hợp cả hai nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc”
(MFN) “đối xử quốc gia” (NT) để đảm bảo tốt hơn sự không phân biệt đối xử
trong thương mại quốc tế.
- Nguyên tắc MFN và NT là một trong hai nguyên tắc thương mại không phân biệt đối
xử là cốt lõi của luật WTO và đóng vai trò hết sức quan trọng trong quan hệ thương mại
quốc tế. Cả hai nguyên tắc này đều có chung bản chất là đối xử bình đẳng, tạo nên môi
trường thương mại quốc tế cạnh tranh lành mạnh.
+ Nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT): Theo nguyên tắc này, một nước sẽ dành cho
sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu
đãi nước đó đang sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình.
Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa sản phẩm, dịch
vụ, nhà cung cấp trong ớc với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước ngoài về thuế
và các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh tranh. (chủ = khách)
+ Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN): Theo nguyên tắc này, nếu một quốc gia đưa
ra một sự đối xử ưu đãi đối với một quốc gia thành viên nào đó, thì quốc gia đó cũng
phải áp dụng sự đối xưu đãi tương tự đối với tất cả các quốc gia thành viên khác.
Nguyên tắc MFN nhằm tạo ra một môi trường thương mại công bằng không phân
biệt đối xử, khuyến khích sự hợp tác và tăng cường quan hệ thương mại giữa các quốc
gia thành viên của WTO. (khách = khách)
Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan dựa trên nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên được đối xử bình đẳng
với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu như nước nhập khẩu tùy
tiện áp dụng thuế nội địa các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa hàng nhập
khẩu với sản phẩm trong ớc nhằm mục đích bảo hộ ngành sản xuất trong ớc thì
hiệu quả của việc tự do hóa thương mại sẽ không còn ý nghĩa.
→ Vì vậy, 2 nguyên tắc này được áp dụng kết hợp nhằm tạo nên một môi trường thương
mại quốc tế công bằng, không phân biệt đối xử và cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời cũng
bảo đảm điều kiện cạnh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm nhập khẩu từ các nước
thành viên giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Hai
nguyên tắc này được coi hòn đá tảng của WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân
biệt đối xử và tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên, giúp thúc đẩy sự phát triển
chung của các quốc gia trên toàn cầu.
lOMoARcPSD| 61429799
8. Anh (chị) hãy phân tích các phương thức cung ứng dịch vụ theo quy định của
GATS. Cho mỗi phương thức một ví dụ cụ thể và phân tích.
Căn cứ theo hiệp định chung về Thương mại dịch vụ GATS, Khoản 2 Điều 1, 4
phương thức phân loại dịch vụ như sau
Phương thức 1- Cung ứng dịch vụ qua biên giới: việc cung ứng dịch vụ từ lãnh
thổ của một thành viên đến lãnh thổ của của bất một thành viên nào khác, tức không
sự di chuyển chuyển của người cung cấp người tiêu thụ sang lãnh thổ của nhau,
dịch vụ được cung cấp và tiêu tiêu thụ qua “biên giới”.
dụ 1: Việc cung cấp dịch vụ giáo dục trực tuyến (e-learning) học viên thể
ngồi tại nhà để học, giáo viên nước ngoài cũng không cần di chuyển đến tận nơi người
học để giảng dạy, việc cung ứng dịch vụ được thông qua internet, điện thoại,.. Hoặc đối
với việc cung cấp dịch vụ pháp lý, luật sư có thể tư vấn cho khách ng nước ngoài của
mình qua điện thoại, email, .. mà không cần gặp trực tiếp.
Ví dụ 2: Việt Nam (A) sử dụng dịch vụ của ông giáo sư (B) ở Mỹ, A vẫn sử dụng
dịch vụ của B và có trả phí.
Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vnước ngoài: việc cung cấp dịch vụ trên
lãnh thổ của một thành viên, cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ thành viên nào
khác.
Ví dụ: Khách du lịch đến một quốc gia và sử dụng dịch vụ khách sạn, lữ hành,..
tại quốc gia đó / VN sang Thái Lan và sử dụng dịch vụ khách sạn ở Thái
Phương thức 3: Hiện diện thương mại: là phương thức cung ứng dịch vụ bởi một
nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh
thổ của một thành viên khác, theo đó nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập
các hình thức hiện diện như Công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi
nhánh,.. trên lãnh thổ của thành viên khác để cung cấp dịch vụ.
dụ: ANZ - một trong ba ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép
thành lập tại Việt Nam. Đây chính việc cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua hiện
diện thương mại.
Phương thức 4: Hiện diện thể nhân: phương thức cung ng dịch vụ, theo đó,
dịch vụ được cung ứng với nhà cung ứng của một thành viên, thông qua hiện diện của
lOMoARcPSD| 61429799
nhà cung ứng này lãnh thổ của một thành viên khác. Tuy nhiên, trong phương thức
này, nhà cung ứng dịch vụ chỉ là một thể nhân.
Ví dụ: Việc mời các giáo viên từ các trường đại học nước ngoài về Việt Nam dạy
học chính là sự cung ứng dịch vụ giáo dục qua phương thức hiện diện thể nhân.
II. Bán trắc nghiệm
1. Pháp luật của nước E không bao giờ hiệu lực điều chỉnh đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế được giữa công ty P (có trụ sở thương mại đặt tại
nước E) và công ty Q (có trụ sở thương mại đặt tại nước F).
- Nhận định sai.
Giải thích: Căn cứ o trường hợp thỏa thuận. Theo nguyên tắc, pháp luật quốc
gia được áp dụng để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế khi các bên thỏa thuận
áp dụng. Khi đó, các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng luật quốc gia của 1 trong các bên.
Do đó, nếu công ty P và công ty Q có thỏa thuận áp dụng pháp luật nước E đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế của 2 công ty thì pháp luật nước E hiệu lực điều
chỉnh đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký giữa công ty P và công ty Q.
2. Theo quy định của WTO, quan điều tra ngay lập tức phải ra quyết định
đình chỉ điều tra chống bán phá giá nếu lượng hàng nhập khẩu được xác định
không đáng kể.
- Nhận định sai
Giải thích: Căn cứ theo quy định tại điều 5.8 hiệp định ADA:
“ Các trường hợp điều tra cũng được đình chỉ ngay lập tức trong trường hợp cơ quan
có thẩm quyền xác định rằng biên độ bán phá giá không quá mức tối thiểu (de minimis)
hoặc trong trường hợp khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá hoặc tổn hại tiềm
ẩn hoặc tổn hại thực tế không đáng kể. Biên độ bán phá giá được coi là không quá mức
tối thiểu nếu biên độ đó thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Khối lượng hàng nhập khẩu
bán phá giá sẽ được coi không đáng kể nếu như khối lượng hàng nhập khẩu được
bán phá giá từ một nước cụ thể nào đó chiếm ít hơn 3% tổng nhập khẩu các sản phẩm
tương tự vào nước nhập khẩu, ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các sản
phẩm tương tự từ mỗi nước khối lượng nhập dưới 3%, nhưng tổng số các sản
lOMoARcPSD| 61429799
phẩm tương tự nhập khẩu từ những nước này chiếm trên 7% nhập khẩu sản phẩm
tương tự vào Thành viên nhập khẩu.”
Do đó, nếu như rơi vào trường hợp ngoại lệ là số lượng nhập khẩu của các sản phẩm
tương tự từ mỗi nước có khối lượng nhập dưới 3% nhưng tổng số các sản phẩm tương
tự nhập khẩu từ những nước này chiếm trên 7% nhập khẩu sản phẩm tương tự vào thành
viên nhập khẩu thì trong trường hợp này, quan điều tra không phải ngay lập tức ra
quyết định đình chỉ điều tra chống bán phá giá, dưới 3% thì cơ quan điều tra có thể đình
chỉ điều tra chống bán phá giá, nếu lớn hơn 7% thì không đình chỉ.
3. Nước V thành viên chính thức của WTO kể từ tháng 1/2007. Kể từ thời điểm
gia nhập, nước V được phép dành chế độ ưu đãi đặc biệt cho các nước đối tác chiến
lược mà không vi phạm nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” (MFN) của WTO.
- Nhận định sai. Chế độ này phải được ghi nhận ở phụ lục.
Đây là ngoại lệ của GATS
Tuy nhiên nó nằm ở phần phụ lục => Sai vì chế độ này là chế độ mang tính lịch
sử, chỉ được áp dụng trước GATS 1947 (từ 1947 trở về trước, hiện nay không
còn)
4. Nước A khởi kiện ớc B ra quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB).
Nước C tham gia quá trình giải quyết tranh chấp giữa nước A nước B với
cách là bên thứ ba. Theo quy định của WTO, sau khi Ban hội thẩm ban hành báo
cáo, nếu nước C không đồng ý thì nước C cũng quyền kháng cáo đối với Báo
cáo của Ban hội thẩm.
- Nhận định sai
Căn cứ theo Điều 17.4 DSU, quyền kháng cáo chỉ dành cho các bên chính thức
của vụ tranh chấp (nguyên đơn và bị đơn), không bao gồm bên thứ ba. Tuy nhiên
nước C (bên thứ ba), có quyền tham gia phiên họp của Ban Hội thẩm, trình bày
quan điểm của mình và nhận hoặc trình các tài liệu liên quan
5. Năm 2014, giữa nước X và nước Y phát sinh một tranh chấp thương mại quốc
tế. Do cả hai nước đều là thành viên của WTO nên tranh chấp này phải đưa ra giải
quyết tại Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB).
- Nhận định sai
Các bên có thể giải quyết thông qua trọng tài theo thỏa thuận
lOMoARcPSD| 61429799
Điều 25 DSU cho phép các bên tranh chấp thỏa thuận đồng ý sử dụng trọng tài
như một phương tiện thay thế cho việc giải quyết tranh chấp chính thức qua Ban
Hội thẩm quan phúc thẩm. Quyết định phải tuân thủ DSU phải thông
báo cho DSB
6. Người giao hàng chỉ thể hủy chấp nhận chào hàng nếu được người chào
hàng đồng ý theo quy định tại Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
- Nhận định sai, “chỉ có thể huỷ”. Theo Điều 22 Công ước Viên 1980 (CISG),
chấp nhận chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo về việc hủy chào hàng tới nơi
người chào hàng trước hoặc cùng một lúc khi chấp nhận có hiệu lực. Khi đó, quy
định hủy bỏ chấp nhận chào hàng này chỉ được áp dụng khi trước đó người
được chào hàng đã chấp nhận chào hàng và đưa một thông báo chính thức bằng
văn bản đối với người chào hàng nhưng ngay sau đó họ đã thay đổi quyết định
của mình không chấp nhận chào hàng gửi thông báo hủy cho người chào
hàng.
7. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa Công ty M và công ty N sẽ được điều
chỉnh bởi Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc (CISG) nếu các bên trong hợp
đồng có trụ sở thương mại ở các quốc gia là thành viên của CISG.
- Nhận định sai. Theo căn cứ tại điểm d Ðiều 2 Công ước viên 1980 (CISG)
Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán, vào
bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm kết hợp đồng, không biết
hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế. b. Bán đấu
giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.
f. Ðiện năng.
lOMoARcPSD| 61429799
→ Không liên quan phạm vi áp dụng căn cứ K2 CISG - ko áp dụng vào cổ phần
8. Việc quốc gia X, thành viên của WTO, có sự phân biệt đối xử về thuế tiêu thụ
đặc biệt giữa sản phẩm thuốc nhập khẩu từ c nước thành viên khác với sản
phẩm thuốc được sản xuất không vi phạm nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
(MFN) của WTO.
- Nhận định đúng.
Căn cứ: Nguyên tắc MFN (Điều I GATT 1994; Điều II GATS, Điều 4 TRIPs) Nguyên
tắc NT (điều III GATT 1994, điều XVII GATS và điều III TRIPs)
Giải thích: Quốc gia X nước chủ nhà nên hành vi phân biệt đối xvề thuế tiêu thụ
đặc biệt giữa sản phẩm thuốc nhập khẩu từ các nước thành viên khác với sản phẩm
thuốc lá được sản xuất (được hiểu là quốc gia X tự sản xuất) là hành vi phân biệt đối xử
giữa chủ nhà quốc gia khác. Do đó, đây không phải hành vi vi phạm nguyên tắc
MFN (khách = khách) mà là hành vi vi phạm nguyên tắc NT (chủ = khách)
III. Bài tập
1. X là doanh nghiệp của quốc gia A, chuyên sản xuất các loại rượu. Khi xuất khẩu
mặt hàng này sang quốc gia B, thuế tiêu thụ đặc biệt mà X phải chịu cao hơn thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm tương tự tại quốc gia B.
Hỏi:
- X cho rng mặt hàng của mình đã bị phân biệt đối xử, X khởi kiện lên WTO
có được không?
→ X có thể khởi kiện lên WTO thông qua Chính phủ đại diện khởi kiện (X không được
kiện trực tiếp doanh nghiệp, tuy nhiên thể khởi kiện thông qua Chính phủ)
Nguyên tắc NT trong WTO yêu cầu các thành viên không được phân biệt đối xử giữa
hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa. Điều III GATT cũng nêu rằng các thành viên
phải đối xử không kém thuận lợi hơn so với sản phẩm tương tự của mình. Cụ thể, Điều
III.2 quy định các thành viên không được áp đặt các loại thuế nội địa hoặc các loại phí
khác cao hơn đối với hàng hóa nhập khẩu so với hàng hóa nội địa
X thể nhờ Chính Phủ đại diện khởi kiện quốc gia B lên cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO (X không được khởi kiện trực tiếp)
lOMoARcPSD| 61429799
- Tranh chấp nêu trên thể sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp trong
trường hợp nào?
→ Trọng tài có thể được sử dụng khi
- Các bên đồng ý sử dụng trọng tài: Điều 25 DSU cho phép các bên tranh chấp thỏa
thuận đồng ý sử dụng trọng tài như một phương tiện thay thế cho việc giải quyết
tranh chấp chính thức qua Ban Hội thẩm cơ quan phúc thẩm. Quyết định phải
tuân thủ DSU và phải thông báo cho DSB
- Thủ tục bắt buộc theo Điều 22 DSU: Khi nước thua kiện không đồng ý về mức độ
trả đũa hoặc 2 bên không thống nhất được “thời gian hợp lý” cho việc thi hành
phán quyết của DSB thì các bên có thể yêu cầu Trọng tài xem xét.
2. Công ty TNHH Hải Minh (“Bên mua”), trụ sở thương mại đặt tại Việt Nam, ký
hợp đồng mua cần cẩu với công ty chuyên sản xuất thiết bị nâng hạ TRANSUP có
trụ sở thương mại đặt tại Hàn Quốc (“Bên bán”). Hợp đồng số PO520/2015/HĐ
ngày 02/04/2015 về việc “Mua một cẩu chân đế 30 tấn phục vụ thi công dự án X”
trong đó các mô tả chi tiết về mặt k thuật và quy cách sản phẩm đã được các bên
thống nhất tại Phụ lục 1 của hợp đồng (“Hợp đồng PO520”); và
Đối với Hợp đồng PO520, ng ty Hải Minh đã thanh toán cho n bán 80%
giá trị hợp đồng. Ngày 10/06/2015, TRANSUP hoàn thành việc vận chuyển đến
công trường. Trong quá trình lắp đặt và sử dụng, Bên mua đã phát hiện hàng hóa
đã giao không đúng chất lượng hợp đồng. Cụ thể, do một số khớp nối không được
thiết kế đúng với chất lượng nên sau khi sử dụng một thời gian, chiếc cẩu chân đế
đã ngã sập, gây thiệt hại về tài sản cho một hộ dân gần công trình xây dựng. Do
đó, Bên mua thông báo trả lại hàng cho Bên Bán và hủy hợp đồng P0520.
Câu hỏi:
1. Hợp đồng trên có thể áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp không?
Để xác định liệu Hợp đồng PO520 thể áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) để giải quyết tranh chấp hay không, cần xem
xét các điều kiện áp dụng của CISG:

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61429799 KIỂM TRA GIỮA KÌ I. Tự luận
1. Anh (chị) hãy phân tích các quy định của DSU để làm sáng tỏ nhận định sau
đây: “Tham vấn vừa là một phương thức giải quyết tranh chấp vừa là một giai đoạn
bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO”.

Tham vấn là một phương thức giải quyết tranh chấp:
- Điều 4.2 DSU quy định “Mỗi Thành viên cam kết dành những cân nhắc thiện chí
và tạo cơ hội thỏa đáng cho việc tham vấn về bất kỳ ý kiến nào do một Thành
viên khác đưa ra có liên quan đến những biện pháp ảnh hưởng tới sự vận hành
của bất cứ hiệp định có liên quan nào được thực hiện trên lãnh thổ của Thành
viên này”. Theo quy định trên, tham vấn là một phương thức giải quyết tranh
chấp trực tiếp và chủ yếu được khuyến khích trong DSU. Các bên được khuyến
khích giải quyết tranh chấp thông qua tham vấn. Đây cũng chính là cách giải
quyết các bất đồng một cách thân thiện và nhanh chóng.
- Điều 4.5 cũng quy định các bên trong tranh chấp phải cố gắng giải quyết tranh
chấp bằng tham vấn trước khi chuyển sang các giai đoạn tiếp theo trong quy trình
giải quyết tranh chấp. Tham vấn giúp các bên có cơ hội trao đổi thông tin, hiểu
rõ hơn về quan điểm của nhau, và tìm kiếm giải pháp thỏa đáng mà không cần
phải đi đến giai đoạn tranh tụng chính thức.
Tham vấn không chỉ là một phương thức mà còn là một giai đoạn bắt buộc trong
quy trình giải quyết tranh chấp của WTO.
- Điều 4.3 quy định rằng trừ khi có thỏa thuận khác, các bên phải trả lời yêu cầu
này trong vòng 10 ngày sau ngày nhận được yêu cầu và phải tham gia vào tham
vấn một cách thiện chí trong thời hạn không quá 30 ngày sau ngày nhận được
yêu cầu để cố gắng đạt được giải pháp thỏa đáng cho các bên.
- Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày kể từ ngày
nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn có thể yêu cầu lập ban hội thẩm
theo quy định tại điều 4.7. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm
trong thời hạn 60 ngày nói trên nếu các bên tham vấn cùng cho rằng việc tham
vấn đã không giải quyết được tranh chấp.
- Ngoài ra, trong trường hợp khẩn cấp, kể cả những trường hợp có liên quan đến
hàng dễ hỏng, các Thành viên phải tiến hành tham vấn trong khoảng thời gian lOMoAR cPSD| 61429799
không quá 10 ngày sau khi nhận được yêu cầu theo quy định tại điều 4.8. Nếu
việc tham vấn đã không giải quyết được tranh chấp trong thời hạn 20 ngày sau
ngày nhận được yêu cầu, bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm.
=> Như vậy, tham vấn là một giai đoạn bắt buộc và cũng là một phương thức
giải quyết tranh chấp trong WTO. Điều này giúp đảm bảo rằng các bên có cơ hội
giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và thân thiện trước khi chuyển sang các
giai đoạn tranh tụng chính thức, đồng thời tuân thủ quy trình giải quyết tranh
chấp của WTO một cách có hệ thống và hiệu quả.
2. Anh (chị) hãy bình luận về phạm vi áp dụng của Công ước Viên năm 1980 của
Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Phạm vi áp dụng: Điều 1.1
Công ước Viên 1980 đã quy định rất cụ thể phạm vi áp dụng cho các HĐMBHHQT giữa
các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau. Được quy định rất rõ tại Khoản
1 điều 1
Công ước này:
“1. Công ước này áp dụng cho các HĐMBHH giữa các bên có trụ sở thương
mại tại các quốc gia khác nhau:
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của công ước
b. Khi theo các quy tắc quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công ước này.”
Qua quy định trên ta có thể thấy CISG được áp dụng trong hai trường hợp:
Thứ nhất căn cứ vào dấu hiệu trụ sở thương mại của chủ thể có quan hệ với nước
là thanh viên Công ước Viên 1980.
Đây là trường hợp áp dụng trực tiếp, thường được áp dụng phổ biến nhất trong
CISG, đây là trường hợp khi các quốc gia phê chuẩn hoặc tham gia Công ước thì Công
ước trở thành một phần nội luật của quốc gia đó và sẽ đương nhiên được áp dụng đối
với các giao dịch giữa các công dân của quốc gia thành viên đó.
Ví dụ: Trong trường hợp Doanh nghiệp VN có trụ sở thương mại tại VN ký kết
HĐMBHH với một doanh nghiệp có trụ sở thương mại tại Úc; VN và Úc đều là thành
viên của Công ước Viên. Như vậy, trong trường hợp này các doanh nghiệp đều dễ dàng
thấy được Công ước Viên sẽ được áp dụng. Thực tiễn áp dụng cho thấy, khi ký kết hợp lOMoAR cPSD| 61429799
đồng, các bên thường chủ yếu quan tâm về các điều khoản số lượng, chất lượng, thanh
toán,.. nhưng khi có tranh chấp xảy ra các bên lúng túng chưa biết có luật nào áp dụng
để xử lý thì CISG hỗ trợ cho các bên trong công đoạn này. Ví dụ: Cứ đối tác nào của
VN là thành viên của Công ước Viên 1980 rồi thì khi ta ký kết hợp đồng xuất khẩu,
nhập khẩu với họ thì đương nhiên, công ước Viên sẽ tự động điều chỉnh một cách trực tiếp.
Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế
có nhiều trụ sở kinh doanh đặt ở nhiều quốc gia khác nhau thì Công ước Viên 1980 sẽ
áp dụng nếu trụ sở kinh doanh đó có quan hệ gần gũi nhất với hợp đồng được đặt tại
quốc gia thành viên của Công ước (Điều 10), hoặc đối với những bên không có trụ sở
kinh doanh thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên của họ làm cơ sở xác định (nơi cư trú
thường xuyên của các chủ thể nằm trên lãnh thổ của nước là thành viên của Công ước này).
Trường hợp thứ hai, khi theo các quy tắc của quốc tế thì luật áp dụng là luật của
quốc gia thành viên CISG.
Nếu trường hợp thứ nhất được coi là trường hợp áp dụng "trực tiếp", thì đây là
trường hợp áp dụng "gián tiếp" Công ước đã mở rộng đáng kể phạm vi áp dụng cho các
hợp đồng giữa một bên có địa điểm kinh doanh tại Quốc gia thành viên và bên kia tại
một quốc gia chưa phải là thành viên của Công ước. Về nguyên tắc nếu cả hai quốc gia
đều là thành viên của Công ước này rồi thì sẽ không đề cập tới vấn đề. Vì nếu cả hai
quốc gia đều là thành viên thì đương nhiên CISG sẽ được áp dụng.
Ví dụ: Người bán (Việt Nam) bán một lô cà phê cho người mua (Indonesia).
Tranh chấp phát sinh và người mua kiện người bán ra Tòa án thành phố Hồ Chí Minh.
Theo đó, Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết tranh chấp sẽ sử dụng Tư pháp
quốc tế Việt Nam. Quy phạm xung đột cho hợp đồng hiện hành là Điều 683 Bộ luật Dân
sự 2015. Theo Điều 683.2.a, nếu các bên không thỏa thuận luật áp dụng thì luật của
nước có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng là luật của nước nơi người bán cư trú
nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân (đối với hợp đồng mua bán hàng
hóa). Nơi này chính là Việt Nam. Như vậy, quy tắc xung đột hợp đồng của Tư pháp quốc
tế Việt Nam dẫn chiếu đến luật Việt Nam, mà Việt Nam là một quốc gia thành viên công
ước CISG nên CISG được áp dụng thay cho luật quốc gia Việt Nam (kết quả áp dụng Điều 1.1.b) lOMoAR cPSD| 61429799
Tuy nhiên, sẽ có trường hợp các bên trong hợp đồng mua bán có thỏa thuận chọn
luật của một nước thành viên Công ước nhưng quốc gia này bảo lưu Điều 1.1.b theo
quy định tại Điều 95 Công ước. Khi đó luật quốc gia này sẽ áp dụng hay CISG. Thực tế
có một số quốc gia có bảo lưu như vậy vì họ không muốn CISG thay thế luật nội địa
của họ trong những hợp đồng có một bên có trụ sở ở quốc gia không phải là thành viên
Công ước. Trong trường hợp các bên chọn luật các nước này thì CISG sẽ không áp dụng
ưu tiên so với luật quốc gia, tiêu biểu Singapore: 1 quốc gia đã lựa chọn bảo lưu điều 1.1.b
Phạm vi không áp dụng: Điều 2,3,5
CISG sẽ không được áp dụng trong một số hợp đồng mua bán đặc biệt được quy định
trong điều 2, điều 3, điều 5 Công ước Viên 1980 (chắc dừng đoạn này được rồi, đoạn
dưới là phân tích từng điều luật)
- Theo quy định tại Điều 2 CISG, những hợp đồng CISG không áp dụng được
phân thành 3 nhóm chính dựa theo mục đích mà hàng hóa được mua bán, loại
giao dịch giữa các bên và loại hàng hóa được bán. Dựa vào mục đích của việc
mua hàng, theo Điều 2.a, CISG không áp dụng nếu hàng được mua để phục vụ
mục đích cá nhân hoặc gia đình. Một hợp đồng tiêu dùng thuộc trường hợp loại
trừ áp dụng CISG khi ý định dùng cho cá nhân hoặc gia đình được bên bán biết
được trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ chứng minh rằng
bên bán không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết ý định tiêu dùng của người
mua thuộc về bên đòi sự áp dụng của CISG. Dựa vào loại giao dịch, theo Điều
2.b CISG không áp dụng cho các giao dịch bán đấu giá, bởi vì giao dịch bán đấu
giá có các quy định đặc thù trong pháp luật của các quốc gia nên nên để những
giao dịch này tiếp tục được điều chỉnh bởi những quy định đó mặc dù người đấu
giá thành công có thể đến từ một quốc gia khác. Điều 2.c loại trừ việc áp dụng
CISG cho những giao dịch mua bán hàng hóa để thi hành luật hoặc các quyết
định tư pháp, bởi vì các giao dịch này thường chịu sự điều chỉnh của các quy
định đặc thù theo pháp luật quốc gia nơi giao dịch được thực hiện. Điều 2.d loại
trừ các giao dịch mua bán chứng khoán, bởi vì những giao dịch này liên quan
đến những vấn đề khác với thương mại hàng hóa thông thường, và một số hệ
thống pháp luật không xem chứng khoán là một loại hàng hóa. Dựa vào loại
hàng hóa
, Điều 2.e loại trừ áp dụng CISG cho những giao dịch mua bán tàu thủy,
máy bay, thủy phi cơ. Điều 2.f loại trừ áp dụng Công ước cho giao dịch mua bán lOMoAR cPSD| 61429799
điện năng trên cơ sở rằng trong một số hệ thống pháp luật, điện năng không được
xem hàng hóa và mua bán quốc tế điện năng liên quan đến những vấn đề đặc thù
so với những vấn đề thông thường của mua bán hàng hóa quốc tế.
- Một trường hợp khác mà CISG không áp dụng được quy định trong Điều 3 và
liên quan đến các hợp đồng cung ứng dịch vụ. Điều 3.1 quy định rằng CISG vẫn
áp dụng cho hợp đồng cung ứng hàng hóa được chế tạo hoặc sản xuất theo yêu
cầu của người mua. Tuy nhiên, nếu bên mua cung cấp phần lớn nguyên liệu cần
thiết cho việc chế tạo hoặc sản xuất hàng hóa, hợp đồng sẽ gần hơn với hợp đồng
cung ứng dịch vụ hoặc lao động hơn là mua bán hàng hóa thông thường. Điều
3.2 nhấn mạnh rằng Công ước sẽ không áp dụng đối với các hợp đồng mà trong
đó, nghĩa vụ chủ yếu của bên giao hàng là cung ứng lao động hoặc các dịch vụ
khác. Đây là trường hợp những hợp đồng không chỉ có nghĩa vụ giao hàng mà
còn có những nghĩa vụ liên quan như thực hiện một công việc hay cung cấp một
dịch vụ. Khi đó, muốn CISG áp dụng, nghĩa vụ giao hàng phải là chủ yếu. Để
xác định được rằng nghĩa vụ giao hàng là chủ yếu so với các nghĩa vụ cung cấp
dịch vụ đi kèm, giá trị kinh tế của hai nghĩa vụ phải được so sánh. Nếu nghĩa vụ
cung cấp lao động hoặc dịch vụ lớn hơn 50% nghĩa vụ của người bán, Công ước
sẽ không được áp dụng và ngược lại.
- Trường hợp CISG bị loại trừ áp dụng nữa theo Điều 5 là đối với trách nhiệm của
bên bán trong trường hợp hàng hóa gây thiệt hại đến tính mạng hoặc sức khỏe
của một người nào đó. Lý do là CISG không cạnh tranh với luật quốc gia về trách nhiệm sản phẩm
3. Anh (chị) hãy giải thích tại sao nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) luôn là một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất để đảm bảo mục tiêu tự do hóa thương mại của WTO.
- Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) là một trong những nguyên tắc cốt lõi của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại
+ Cơ sở pháp lý: Nguyên tắc NT được thể hiện trong tất cả ba hiệp định chính của WTO
(GATT, GATS và TRIPS). Nó được xây dựng tại Điều III của GATT năm 1947, Điều
17 (XVII) của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và tại Điều III của Hiệp
định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). + Nội dung nguyên tắc: lOMoAR cPSD| 61429799
+) Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành
cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém
hơn so với ưu đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình.
+) Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa sản
phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp
nước ngoài về thuế và các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh tranh.
+) Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan, và dựa trên nguyên
tắc đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên được đối xử
bình đẳng với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu như nước
nhập khẩu tùy tiện áp dụng thuế nội địa và các quy định mang tính phân biệt đối
xử giữa hàng nhập khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục đích bảo hộ ngành
sản xuất trong nước thì hiệu quả của việc tự do hóa thương mại kể trên sẽ không
còn ý nghĩa. Chính vì thế hai nguyên tắc này được áp dụng kết hợp nhằm bảo
đảm điều kiện cạnh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm nhập khẩu từ các
nước thành viên mà còn giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa của nước
nhập khẩu. Cùng với lý do đó mà hai nguyên tắc này được coi là hòn đá tảng của
GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân biệt đối xử và tự do hóa
thương mại giữa các nước thành viên.
+ Ngoại lệ chung và riêng: 1.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam
*Nguyên tắc áp dụng ( Điều 4 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong
thương mại quốc tế năm 2002)
Nhà nước Việt Nam áp dụng Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế trên cơ sở các
nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi.
*Ngoại lệ áp dụng
Điều 5 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế
năm 2002 quy định về các ngoại lệ chung như sau:
– Không áp Đối xử quốc gia trong trường hợp cần thiết để bảo đảm lợi ích quốc phòng,
an ninh quốc gia, bảo vệ các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc, bảo vệ sức khỏe
con người, bảo vệ động vật, thực vật và môi trường, ngăn chặn các hành vi gian lận
thương mại. ( Điều 5 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương
mại quốc tế năm 2002)
lOMoAR cPSD| 61429799
– Không áp dụng Đối xử quốc gia đối với những nước tiến hành hoặc tham gia tiến hành
các hoạt động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ( Điều 5 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối
xử quốc gia trong thương mại quốc tế năm 2002)

Điều 17 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế
năm 2002 quy định về các ngoại lệ về đối xử quốc gia như sau:
– Việc mua sắm của Chính phủ Việt Nam nhằm mục đích tiêu dùng của Chính phủ; –
Các khoản trợ cấp dành cho nhà sản xuất trong nước, các chương trình trợ cấp thực
hiện dưới hình thức Chính phủ Việt Nam mua lại hàng hóa sản xuất trong nước;
– Các quy định hạn chế thời lượng phim ảnh trình chiếu;
– Các khoản phí vận tải trong nước được tính trên cơ sở các hoạt động mang tính kinh
tế của phương tiện vận tải.
*Trường hợp áp dụng Đối xử quốc gia
Điều 15 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc
tế năm 2002 quy định như sau
Nhà nước Việt Nam áp dụng một phần hay toàn bộ Đối xử quốc gia trong các trường hợp:
– Pháp luật Việt Nam có quy định về áp dụng Đối xử quốc gia;
– Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định áp dụng Đối xử quốc gia;
– Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thực tế đã áp dụng Đối xử quốc gia đối với Việt Nam;
– Các trường hợp khác do Chính phủ quyết định.
*Phạm vi áp dụng Đối xử quốc gia (Điều 16 Pháp lệnh đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia trong thương mại quốc tế năm 2002 quy định về phạm vi áp dụng đối xử quốc gia)
Đối xử quốc gia được áp dụng đối với các đối tượng thuộc Điều 2 của Pháp lệnh này
theo nguyên tắc quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này trên cơ sở tuân thủ các quy định
của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế có liên quan đến Đối xử quốc gia mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập. lOMoAR cPSD| 61429799
*Nội dung quản lý nhà nước Đối xử quốc gia (Điều 18 Pháp lệnh 2002 quy định về
Nội dung quản lý nhà nước về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia) Nội dung quản
lý nhà nước về Đối xử quốc gia bao gồm:
– Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về Đối xử quốc gia;
– Quyết định việc áp dụng hoặc không áp Đối xử quốc gia;
– Ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến Đối xử quốc gia;
– Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về Đối xử quốc gia;
– Tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin liên quan đến Đối xử quốc gia;
– Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và chính sách liên quan đến Đối xử quốc gia;
– Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về Đối xử quốc gia;
– Giải quyết khiếu nại và xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến Đối xử quốc gia.
*Cơ quan quản lý nhà nước về Đối xử quốc gia (Điều 19 pháp lệnh quy định về Cơ
quan quản lý nhà nước về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia)
– Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về Đối xử quốc gia.
– Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý
nhà nước về Đối xử quốc gia.
– Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại thực hiện việc quản lý nhà nước Đối xử quốc gia
trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
– Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc phối
hợp với Bộ Thương mại thực hiện quản lý nhà nước về Đối xử quốc gia. 2.
Theo quy định của pháp luật quốc tế
- Theo khoản 1 Điều 3 (GATT 1994) đối tượng áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia gồm có:
+ Thuế và lệ phí trong nước: Các nước thành viên không được phép đánh thuế và
các lệ phí đổi với sản phẩm nhập khẩu cao hơn so với sản phẩm nội địa cùng loại. Mặt
khác, các nước thành viên cũng không được phép áp dụng thuế và lệ phí trong nước đối
với sản phẩm nhập khẩu hoặc sản phẩm nội địa theo phương pháp nào đó nhằm bảo hộ
cho sản xuất trong nước (khoản 2 Điều 5).
+ Quy chế mua bán: Pháp luật, quy định và các yêu cầu khác ảnh hưởng đến mua
bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nước không được phép đối xử với
sản phẩm nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với sản phẩm nội địa cùng loại. Trong đó “ảnh lOMoAR cPSD| 61429799
hưởng” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các điều kiện cạnh tranh giữa sản
phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa cùng loại (khoản 4 Điều 3).
+ Quy chế số lượng: Các nước thành viên không được phép đặt ra hoặc duy trì quy
chế trong nước về số lượng liên quan đến sự pha trộn, chế biến hoặc sử dụng các sản
phẩm theo một số lượng hoặc tỉ lệ nhất định, trong đó yêu cầu rằng số lượng hoặc tỉ lệ
pha trộn của sản phẩm là đối tượng của quy chế này phải được cung cấp từ nguồn trong
nước, hay áp dụng quy chế số lượng này theo cách thức nhằm bảo vệ sản xuất trong
nước (Khoản 8 Điều 3).
- Theo quy định trên thì các yêu cầu của chính phủ về chính sách nội địa hóa, trong
đó yêu cầu sản phẩm sản xuất ra phải sử dụng một tỷ lệ hoặc số lượng nhất định phụ
tùng trong nước sẽ là vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia.
--> Tóm lại, nguyên tắc NT đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu tự do
hóa thương mại của WTO bằng cách tạo ra một môi trường thương mại công bằng và bình đẳng.
4. Anh (chị) hãy phân tích các trường hợp pháp luật quốc gia được áp dụng để điều
chỉnh quan hệ thương mại quốc tế.
- Khái niệm pháp luật quốc gia:
+ Pháp luật là công cụ pháp lý cơ bản và chủ yếu để nhà nước thực hiện các chức
năng của mình. Cũng như mọi lĩnh vực khác, trong thương mại quốc tế, pháp luật
đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể. + Pháp
luật của mỗi quốc gia là tổng thể các quy tắc, các quy định điều chỉnh mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội của quốc gia đó. Các quy tắc và các quy phạm này, tùy theo hệ
thống pháp luật của mỗi nước, chúng ta có thể được thể hiện dưới hình thức thành
văn bản hoặc không văn bản.
+ Luật quốc gia trong thương mại quốc tế là tổng thể các quy định điều chỉnh các
hoạt động của các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế. Với tư cách là
nguồn của luật TMQT, luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản
hoặc không được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nguồn luật này được thể hiện
dưới hình thức nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật nhất định.
● Phân tích các trường hợp pháp luật quốc gia được áp dụng luật của mỗi quốc gia:
- Pháp luật của mỗi quốc gia được áp dụng trong TMQT trong 2 trường hợp, đó là: lOMoAR cPSD| 61429799
các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng và khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật của quốc gia.
Thứ nhất, khi các bên chủ thể trong thương mại quốc tế thỏa thuận áp dụng luật quốc
gia. Bao gồm các trường hợp sau:
+ Các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng luật quốc gia của 1 trong các bên
+ Các bên lựa chọn pháp luật của một nước thứ 3, luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi
thực hiện hợp đồng, luật nơi có tài sản liên quan đến hợp đồng.
+ Pháp luật của 1 quốc gia được lựa chọn nhưng có thể bị cơ quan tài phán từ chối áp dụng
+ Thỏa thuận chọn luật áp dụng trái pháp luật
+ Vì lý do bảo lưu trật tự công cộng
Ví dụ: Trong quá trình ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có quyền
thực hiện nguyên tắc thỏa thuận. Theo đó các bên có thể thỏa thuận mọi điều khoản liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của mình bao gồm cả việc tự do thỏa thuận chọn pháp luật
áp dụng. Các bên có thể chọn pháp luật trong nước của mỗi bên hoặc có thể chọn pháp
luật của nước thứ 3, với điều kiện việc chọn pháp luật áp dụng này ko trái với quy định
của pháp luật nơi ký kết hợp đồng.
Trong trường hợp các bên chủ thể ko thể thỏa thuận áp dụng pháp luật của 1 trong
các bên thì các bên có thể thỏa thuận áp dụng pháp luật của nước thứ 3. Pháp luật của
nước thứ 3 ở đây được hiểu là pháp luật của các nước có liên quan đến giao dịch kinh
doanh quốc tế của các bên. Ví dụ: Luật nơi ký kết HĐ, luật nơi thực hiện HĐ. luật nơi
có tài sản liên quan đến HĐ,...Trong trường hợp này, luật của nước thứ 3 được coi là
luật quốc gia do các bên lựa chọn để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế của mình.
Ví dụ: Hàng cấm ở VN và các nước trên thế giới ko giống nhau → Sở hữu súng →
ko thể thỏa thuận áp dụng BLDS VN cho việc mua bán súng bởi vì đây là hàng cấm của VN.
Thứ hai, Pháp luật quốc gia sẽ được áp dụng nếu có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Trong trường hợp, mặc dù các bên chủ thể không thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng
nhưng trong các nguồn luật liên quan có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống
pháp luật của quốc gia nào đó thì pháp luật được dẫn chiếu sẽ được đem áp dụng để
điều chỉnh quan hệ TMQT. lOMoAR cPSD| 61429799
Ví dụ: Để xác định năng lực ký kết và thực hiện HĐ TMQT, tư pháp quốc tế của hầu
hết các nước đều quy định áp dụng luật quốc tịch của bên chủ thể
Do đặc thù của quan hệ pháp luật trong hoạt động TMQT mà các hệ thuộc luật thường
được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến:
+ Luật quốc tịch của các bên chủ thể
+ Luật nơi cư trú của các bên chủ thể + Luật nơi có vật
+ Luật nơi ký kết hợp đồng
+ Luật nơi thực hiện HĐ Ví dụ:
+ Hoạt động nhượng quyền → quy định: nếu như có xung đột phát sinh giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền thì pháp luật được áp dụng là nơi có hành vi xung đột diễn ra.
+ Nhãn hàng cà phê Trung Nguyên → Hoạt động nhượng quyền diễn ra tại Hàn quốc,
vì hành vi nhượng quyền diễn ra tại đây nên nguồn luật được áp dụng là ở HQ.
5. Theo anh (chị) WTO có nên tiếp tục quy định những ngoại lệ cho phép áp dụng
các biện pháp hạn chế số lượng trong lĩnh vực thương mại hàng hóa hay không?
Hãy lập luận để chứng minh cho quan điểm của anh (chị).

Dù có thể đi trái lại với các nguyên tắc về tự do hoá thương mại của WTO, các
biện pháp hạn chế số lượng trong lĩnh vực thương mại hàng hóa nên được WTO duy trì và tiếp tục áp dụng.
Theo đó, hiệp định GATT ở điều XI đã quy định nguyên tắc chung là các thành viên
WTO không được áp dụng các biện pháp hạn chế số lượng dưới bất kỳ hình thức nào
nhằm hạn chế xuất khẩu, nhập hàng hóa. Như vậy, về nguyên tắc các biện pháp hạn chế
số lượng xuất khẩu - nhập khẩu bị cấm hoàn toàn trong WTO. Tuy nhiên, WTO cũng
thừa nhận một số ít các trường hợp ngoại lệ cho phép áp dụng biện pháp hạn chế số
lượng xuất khẩu - nhập khẩu nhưng phải là với các điều kiện và theo các thủ tục nhất định.
Các ngoại lệ này bao gồm các ngoại chung có thể kể đến theo điều XX GATT như bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nhiên thiên quý
hiếm, bảo vệ những thực phẩm nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ quốc gia,...ngoài ra còn một lOMoAR cPSD| 61429799
số ngoại lệ riêng khác có thể áp dụng biện pháp hạn chế số lượng như để triển khai
chính sách của chính phủ liên quan tới nông sản (Điều XI.2 GATT), hạn chế số lượng
để bảo vệ cán cân thanh toán (Điều XII GATT), hạn chế số lượng để bảo vệ sản xuất
trong nước - biện pháp tự vệ (điều XIX GATT, hiệp định về biện pháp tự vệ SG) Các
ngoại lệ này được WTO ban hành và kiểm soát với điều kiện và thủ tục nhất định vốn
không phải với mục tiêu tạo điều kiện, thiên vị cho một số thị trường trong thương mại
hàng hoá mà là để bình ổn thương mại hàng hoá quốc tế giữa các quốc gia, ví dụ như
để các quốc gia có thể chủ động trong ngăn chặn, hạn chế việc buôn bán, nhập khẩu
những mặt hàng nhạy cảm liên quan tới động vật quý hiếm, vũ khí, rác thải công nghiệp
từ các quốc gia khác...Trong một số trường hợp với các quốc gia có nền thương mại
quốc tế còn non trẻ, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp
ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.
6. Anh (chị) hãy giải thích tại sao các thương nhân nên chọn phương thức trọng
tài để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế của mình.
Trọng tài thực chất là phương thức giải quyết tranh chấp riêng tư, được các bên
tranh chấp lựa chọn như là cách thức để chấm dứt xung đột giữa họ mà không cần đến
tòa án. Đây là phương thức được nhiều thương nhân lựa chọn để giải quyết các tranh
chấp thương mại quốc tế vì các lý do sau:
1. Phương thức trọng tài đem đến nhiều sự công bằng hơn.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang lại cho các bên quyền tự
định đoạt và kiểm soát đối với quá trình giải quyết tranh chấp. Các bên có thể quyết
định trọng tài viên, luật áp dụng hay thậm chí cả địa điểm hay ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài
Việc được quyền lựa chọn trọng tài viên giải quyết tranh chấp cho phép các bên
lựa chọn được các chuyên gia có chuyên môn và kinh nghiệm thực tế về vấn đề tranh
chấp, có uy tín trong từng chuyên ngành để trở thành trọng tài viên giải quyết tranh chấp
của các bên thay vì các thẩm phán - những người thường có kiến thức hạn chế hơn về
luật thương mại quốc tế. Từ đó, góp phần đảm bảo chất lượng giải quyết tranh chấp
được nhanh chóng và chính xác trên nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận của các bên
tranh quan hệ tranh chấp thương mại quốc tế.
Việc có được quyền định đoạt và kiểm soát trong mọi tiến trình có ý nghĩa rất quan
trọng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, bởi không bên tranh chấp nào lOMoAR cPSD| 61429799
mong muốn mình là đối tượng của quyền tài phán của tòa án nước bạn. Mỗi bên đều lo
ngại về nguy cơ có thể xuất hiện sự thiên vị của tòa án dành cho công nhân hoặc pháp
nhân của nước nước có tòa án đó. Trong khi đó, trọng tài đem đến cho các bên tranh
chấp một cơ quan tài phán trung lập hơn, nơi mà mỗi bên có thể tin tưởng rằng họ sẽ
được phán xử công bằng.
2. Trọng tài thương mại xét xử theo nguyên tắc không công khai
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tôn trọng tính bảo mật thông tin
cho toàn bộ quá trình giải quyết. Phiên họp trọng tài cũng được thực hiện không công
khai và chỉ có sự tham gia của các bên nhận được quyết định. Điều này khác với khi
giải quyết tranh chấp bằng tố tụng Tòa án, mọi tranh chấp được giải quyết theo phương thức xét xử công khai.
Thực tế, nguyên tắc này lại rất phù hợp trong giải quyết tranh chấp thương mại
khi mà phần lớn các doanh nghiệp không muốn các thông tin về doanh nghiệp và hoạt
động kinh doanh của mình bị rò rỉ. Học cũng không muốn công khai loại tranh chấp
học đang phải giải quyết hay một phán quyết bất lợi cho phía của họ
3. Quyết định của Trọng tài là phán quyết chung thẩm
Phán quyết của trọng tài có đặc điểm khá với bản án, quyết định của tòa án đo
chính là mang tính chung thẩm và không thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp một hợp đồng thương mại quốc tế phát sinh, phán quyết của Tòa
án quốc gia thương khó đạt được sự công nhân quốc tế. Do bản chất của Tòa án thường
nằm trong phạm vi quy định của một quốc gia, nên thông thường phán quyết của Tòa
án được công nhận tại một nước khác phải được thông qua bởi hiệp định song phương
và theo các quy tắc rất nghiêm ngặt. Ngược lại, quyết định của Trọng tài đạt được sự
công nhận quốc tế thông qua một loạt các công ước quốc tế và đặc biệt là Công ước
New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài với 157
quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên Công ước (tính đến tháng 12/2017).
Theo Công ước New York, các tòa án có nghĩa vụ phải thi hành phán quyết trọng
tài, trừ khi có những sai phạm nghiêm trọng về thủ tục giải quyết bằng phương thức
trọng tài, hoặc những vấn đề liên quan đến tính trung thực của quá trình giải quyết tranh
chấp bằng phương thức trọng tài. Công ước ủng hộ tối đa việc thi hành phán quyết trọng
tài. Do vậy mà hầu hết các tòa án sẽ rất hạn chế giải thích theo hướng phủ nhận việc thi
hành này, từ đó dẫn đến thực tế là hầu hết các phán quyết trọng tài đều được thi hành. lOMoAR cPSD| 61429799
7. Tại sao cần phải áp dụng kết hợp cả hai nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc”
(MFN) và “đối xử quốc gia” (NT) để đảm bảo tốt hơn sự không phân biệt đối xử
trong thương mại quốc tế.

- Nguyên tắc MFN và NT là một trong hai nguyên tắc thương mại không phân biệt đối
xử là cốt lõi của luật WTO và đóng vai trò hết sức quan trọng trong quan hệ thương mại
quốc tế. Cả hai nguyên tắc này đều có chung bản chất là đối xử bình đẳng, tạo nên môi
trường thương mại quốc tế cạnh tranh lành mạnh.
+ Nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT): Theo nguyên tắc này, một nước sẽ dành cho
sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu
đãi mà nước đó đang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình.
Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa sản phẩm, dịch
vụ, nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước ngoài về thuế
và các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh tranh. (chủ = khách)
+ Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN): Theo nguyên tắc này, nếu một quốc gia đưa
ra một sự đối xử ưu đãi đối với một quốc gia thành viên nào đó, thì quốc gia đó cũng
phải áp dụng sự đối xử ưu đãi tương tự đối với tất cả các quốc gia thành viên khác.
Nguyên tắc MFN nhằm tạo ra một môi trường thương mại công bằng và không phân
biệt đối xử, khuyến khích sự hợp tác và tăng cường quan hệ thương mại giữa các quốc
gia thành viên của WTO. (khách = khách)
Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan và dựa trên nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên được đối xử bình đẳng
với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu như nước nhập khẩu tùy
tiện áp dụng thuế nội địa và các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa hàng nhập
khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục đích bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì
hiệu quả của việc tự do hóa thương mại sẽ không còn ý nghĩa.
→ Vì vậy, 2 nguyên tắc này được áp dụng kết hợp nhằm tạo nên một môi trường thương
mại quốc tế công bằng, không phân biệt đối xử và cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời cũng
bảo đảm điều kiện cạnh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm nhập khẩu từ các nước
thành viên mà giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Hai
nguyên tắc này được coi là hòn đá tảng của WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân
biệt đối xử và tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên, giúp thúc đẩy sự phát triển
chung của các quốc gia trên toàn cầu. lOMoAR cPSD| 61429799
8. Anh (chị) hãy phân tích các phương thức cung ứng dịch vụ theo quy định của
GATS. Cho mỗi phương thức một ví dụ cụ thể và phân tích.
Căn cứ theo hiệp định chung về Thương mại dịch vụ GATS, Khoản 2 Điều 1, có 4
phương thức phân loại dịch vụ như sau
Phương thức 1- Cung ứng dịch vụ qua biên giới: Là việc cung ứng dịch vụ từ lãnh
thổ của một thành viên đến lãnh thổ của của bất kì một thành viên nào khác, tức là không
có sự di chuyển chuyển của người cung cấp và người tiêu thụ sang lãnh thổ của nhau,
dịch vụ được cung cấp và tiêu tiêu thụ qua “biên giới”.
Ví dụ 1: Việc cung cấp dịch vụ giáo dục trực tuyến (e-learning) học viên có thể
ngồi tại nhà để học, giáo viên nước ngoài cũng không cần di chuyển đến tận nơi người
học để giảng dạy, việc cung ứng dịch vụ được thông qua internet, điện thoại,.. Hoặc đối
với việc cung cấp dịch vụ pháp lý, luật sư có thể tư vấn cho khách hàng nước ngoài của
mình qua điện thoại, email, .. mà không cần gặp trực tiếp.
Ví dụ 2: Việt Nam (A) sử dụng dịch vụ của ông giáo sư (B) ở Mỹ, A vẫn sử dụng
dịch vụ của B và có trả phí.
Phương thức 2: Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài: Là việc cung cấp dịch vụ trên
lãnh thổ của một thành viên, cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác.
Ví dụ: Khách du lịch đến một quốc gia và sử dụng dịch vụ khách sạn, lữ hành,..
tại quốc gia đó / VN sang Thái Lan và sử dụng dịch vụ khách sạn ở Thái
Phương thức 3: Hiện diện thương mại: là phương thức cung ứng dịch vụ bởi một
nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh
thổ của một thành viên khác, theo đó nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập
các hình thức hiện diện như Công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi
nhánh,.. trên lãnh thổ của thành viên khác để cung cấp dịch vụ.
Ví dụ: ANZ - một trong ba ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép
thành lập tại Việt Nam. Đây chính là việc cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua hiện diện thương mại.
Phương thức 4: Hiện diện thể nhân: Là phương thức cung ứng dịch vụ, theo đó,
dịch vụ được cung ứng với nhà cung ứng của một thành viên, thông qua hiện diện của lOMoAR cPSD| 61429799
nhà cung ứng này ở lãnh thổ của một thành viên khác. Tuy nhiên, trong phương thức
này, nhà cung ứng dịch vụ chỉ là một thể nhân.
Ví dụ: Việc mời các giáo viên từ các trường đại học nước ngoài về Việt Nam dạy
học chính là sự cung ứng dịch vụ giáo dục qua phương thức hiện diện thể nhân.
II. Bán trắc nghiệm
1. Pháp luật của nước E không bao giờ có hiệu lực điều chỉnh đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế được ký giữa công ty P (có trụ sở thương mại đặt tại
nước E) và công ty Q (có trụ sở thương mại đặt tại nước F).
- Nhận định sai.
Giải thích: Căn cứ vào trường hợp có thỏa thuận. Theo nguyên tắc, pháp luật quốc
gia được áp dụng để điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế khi các bên có thỏa thuận
áp dụng. Khi đó, các bên chủ thể thỏa thuận áp dụng luật quốc gia của 1 trong các bên.
Do đó, nếu công ty P và công ty Q có thỏa thuận áp dụng pháp luật nước E đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế của 2 công ty thì pháp luật nước E có hiệu lực điều
chỉnh đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký giữa công ty P và công ty Q.
2. Theo quy định của WTO, cơ quan điều tra ngay lập tức phải ra quyết định
đình chỉ điều tra chống bán phá giá nếu lượng hàng nhập khẩu được xác định là không đáng kể. - Nhận định sai
Giải thích: Căn cứ theo quy định tại điều 5.8 hiệp định ADA:
“ Các trường hợp điều tra cũng được đình chỉ ngay lập tức trong trường hợp cơ quan
có thẩm quyền xác định rằng biên độ bán phá giá không quá mức tối thiểu (de minimis)
hoặc trong trường hợp khối lượng hàng nhập khẩu được bán phá giá hoặc tổn hại tiềm
ẩn hoặc tổn hại thực tế không đáng kể. Biên độ bán phá giá được coi là không quá mức
tối thiểu nếu biên độ đó thấp hơn 2% của giá xuất khẩu. Khối lượng hàng nhập khẩu
bán phá giá sẽ được coi là không đáng kể nếu như khối lượng hàng nhập khẩu được
bán phá giá từ một nước cụ thể nào đó chiếm ít hơn 3% tổng nhập khẩu các sản phẩm
tương tự vào nước nhập khẩu, ngoại trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các sản
phẩm tương tự từ mỗi nước có khối lượng nhập dưới 3%, nhưng tổng số các sản lOMoAR cPSD| 61429799
phẩm tương tự nhập khẩu từ những nước này chiếm trên 7% nhập khẩu sản phẩm
tương tự vào Thành viên nhập khẩu.”
Do đó, nếu như rơi vào trường hợp ngoại lệ là số lượng nhập khẩu của các sản phẩm
tương tự từ mỗi nước có khối lượng nhập dưới 3% nhưng tổng số các sản phẩm tương
tự nhập khẩu từ những nước này chiếm trên 7% nhập khẩu sản phẩm tương tự vào thành
viên nhập khẩu thì trong trường hợp này, cơ quan điều tra không phải ngay lập tức ra
quyết định đình chỉ điều tra chống bán phá giá, dưới 3% thì cơ quan điều tra có thể đình
chỉ điều tra chống bán phá giá, nếu lớn hơn 7% thì không đình chỉ.
3. Nước V là thành viên chính thức của WTO kể từ tháng 1/2007. Kể từ thời điểm
gia nhập, nước V được phép dành chế độ ưu đãi đặc biệt cho các nước đối tác chiến
lược mà không vi phạm nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” (MFN) của WTO.

- Nhận định sai. Chế độ này phải được ghi nhận ở phụ lục.
● Đây là ngoại lệ của GATS
● Tuy nhiên nó nằm ở phần phụ lục => Sai vì chế độ này là chế độ mang tính lịch
sử, chỉ được áp dụng trước GATS 1947 (từ 1947 trở về trước, hiện nay không còn)
4. Nước A khởi kiện nước B ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB).
Nước C tham gia quá trình giải quyết tranh chấp giữa nước A và nước B với tư
cách là bên thứ ba. Theo quy định của WTO, sau khi Ban hội thẩm ban hành báo
cáo, nếu nước C không đồng ý thì nước C cũng có quyền kháng cáo đối với Báo
cáo của Ban hội thẩm.
- Nhận định sai
● Căn cứ theo Điều 17.4 DSU, quyền kháng cáo chỉ dành cho các bên chính thức
của vụ tranh chấp (nguyên đơn và bị đơn), không bao gồm bên thứ ba. Tuy nhiên
nước C (bên thứ ba), có quyền tham gia phiên họp của Ban Hội thẩm, trình bày
quan điểm của mình và nhận hoặc trình các tài liệu liên quan
5. Năm 2014, giữa nước X và nước Y phát sinh một tranh chấp thương mại quốc
tế. Do cả hai nước đều là thành viên của WTO nên tranh chấp này phải đưa ra giải
quyết tại Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB).
- Nhận định sai
● Các bên có thể giải quyết thông qua trọng tài theo thỏa thuận lOMoAR cPSD| 61429799
● Điều 25 DSU cho phép các bên tranh chấp thỏa thuận đồng ý sử dụng trọng tài
như một phương tiện thay thế cho việc giải quyết tranh chấp chính thức qua Ban
Hội thẩm và cơ quan phúc thẩm. Quyết định phải tuân thủ DSU và phải thông báo cho DSB
6. Người giao hàng chỉ có thể hủy chấp nhận chào hàng nếu được người chào
hàng đồng ý theo quy định tại Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.

- Nhận định sai, “chỉ có thể huỷ”. Theo Điều 22 Công ước Viên 1980 (CISG),
chấp nhận chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo về việc hủy chào hàng tới nơi
người chào hàng trước hoặc cùng một lúc khi chấp nhận có hiệu lực. Khi đó, quy
định hủy bỏ chấp nhận chào hàng này chỉ được áp dụng khi mà trước đó người
được chào hàng đã chấp nhận chào hàng và đưa một thông báo chính thức bằng
văn bản đối với người chào hàng nhưng ngay sau đó họ đã thay đổi quyết định
của mình là không chấp nhận chào hàng và gửi thông báo hủy cho người chào hàng.
7. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa Công ty M và công ty N sẽ được điều
chỉnh bởi Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc (CISG) nếu các bên trong hợp
đồng có trụ sở thương mại ở các quốc gia là thành viên của CISG.

- Nhận định sai. Theo căn cứ tại điểm d Ðiều 2 Công ước viên 1980 (CISG)
Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán, vào
bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng, không biết
hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế. b. Bán đấu giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí. f. Ðiện năng. lOMoAR cPSD| 61429799
→ Không liên quan phạm vi áp dụng căn cứ K2 CISG - ko áp dụng vào cổ phần
8. Việc quốc gia X, thành viên của WTO, có sự phân biệt đối xử về thuế tiêu thụ
đặc biệt giữa sản phẩm thuốc lá nhập khẩu từ các nước thành viên khác với sản
phẩm thuốc lá được sản xuất là không vi phạm nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) của WTO.

- Nhận định đúng.
Căn cứ: Nguyên tắc MFN (Điều I GATT 1994; Điều II GATS, Điều 4 TRIPs) và Nguyên
tắc NT (điều III GATT 1994, điều XVII GATS và điều III TRIPs)
Giải thích: Quốc gia X là nước chủ nhà nên hành vi phân biệt đối xử về thuế tiêu thụ
đặc biệt giữa sản phẩm thuốc lá nhập khẩu từ các nước thành viên khác với sản phẩm
thuốc lá được sản xuất (được hiểu là quốc gia X tự sản xuất) là hành vi phân biệt đối xử
giữa chủ nhà và quốc gia khác. Do đó, đây không phải là hành vi vi phạm nguyên tắc
MFN (khách = khách) mà là hành vi vi phạm nguyên tắc NT (chủ = khách) III. Bài tập
1. X là doanh nghiệp của quốc gia A, chuyên sản xuất các loại rượu. Khi xuất khẩu
mặt hàng này sang quốc gia B, thuế tiêu thụ đặc biệt mà X phải chịu cao hơn thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm tương tự tại quốc gia B.
Hỏi:
- X cho rằng mặt hàng của mình đã bị phân biệt đối xử, X khởi kiện lên WTO có được không?
→ X có thể khởi kiện lên WTO thông qua Chính phủ đại diện khởi kiện (X không được
kiện trực tiếp vì là doanh nghiệp, tuy nhiên có thể khởi kiện thông qua Chính phủ)
Nguyên tắc NT trong WTO yêu cầu các thành viên không được phân biệt đối xử giữa
hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa. Điều III GATT cũng nêu rằng các thành viên
phải đối xử không kém thuận lợi hơn so với sản phẩm tương tự của mình. Cụ thể, Điều
III.2 quy định các thành viên không được áp đặt các loại thuế nội địa hoặc các loại phí
khác cao hơn đối với hàng hóa nhập khẩu so với hàng hóa nội địa
⇒ X có thể nhờ Chính Phủ đại diện khởi kiện quốc gia B lên cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO (X không được khởi kiện trực tiếp) lOMoAR cPSD| 61429799
- Tranh chấp nêu trên có thể sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp trong trường hợp nào?
→ Trọng tài có thể được sử dụng khi
- Các bên đồng ý sử dụng trọng tài: Điều 25 DSU cho phép các bên tranh chấp thỏa
thuận đồng ý sử dụng trọng tài như một phương tiện thay thế cho việc giải quyết
tranh chấp chính thức qua Ban Hội thẩm và cơ quan phúc thẩm. Quyết định phải
tuân thủ DSU và phải thông báo cho DSB
- Thủ tục bắt buộc theo Điều 22 DSU: Khi nước thua kiện không đồng ý về mức độ
trả đũa hoặc 2 bên không thống nhất được “thời gian hợp lý” cho việc thi hành
phán quyết của DSB thì các bên có thể yêu cầu Trọng tài xem xét.
2. Công ty TNHH Hải Minh (“Bên mua”), trụ sở thương mại đặt tại Việt Nam, ký
hợp đồng mua cần cẩu với công ty chuyên sản xuất thiết bị nâng hạ TRANSUP có
trụ sở thương mại đặt tại Hàn Quốc (“Bên bán”). Hợp đồng số PO520/2015/HĐ
ngày 02/04/2015 về việc “Mua một cẩu chân đế 30 tấn phục vụ thi công dự án X”
trong đó các mô tả chi tiết về mặt kỹ thuật và quy cách sản phẩm đã được các bên
thống nhất tại Phụ lục 1 của hợp đồng (“Hợp đồng PO520”); và

Đối với Hợp đồng PO520, công ty Hải Minh đã thanh toán cho Bên bán 80%
giá trị hợp đồng. Ngày 10/06/2015, TRANSUP hoàn thành việc vận chuyển đến
công trường. Trong quá trình lắp đặt và sử dụng, Bên mua đã phát hiện hàng hóa
đã giao không đúng chất lượng hợp đồng. Cụ thể, do một số khớp nối không được
thiết kế đúng với chất lượng nên sau khi sử dụng một thời gian, chiếc cẩu chân đế
đã ngã sập, gây thiệt hại về tài sản cho một hộ dân gần công trình xây dựng. Do
đó, Bên mua thông báo trả lại hàng cho Bên Bán và hủy hợp đồng P0520.
Câu hỏi:
1. Hợp đồng trên có thể áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp không?
Để xác định liệu Hợp đồng PO520 có thể áp dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) để giải quyết tranh chấp hay không, cần xem
xét các điều kiện áp dụng của CISG: