ĐỀ CƯƠNG KTCT - 2023
Câu 1: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóatính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Ý
nghĩa lý luận và thực tiễn?
*Hàng hoá: sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người đi vào tiêu
dùng thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể(hữu hình) và ở dạng phi vật thể (dịch vụ vô hình).
Ví dụ: Quần áo, giày dép, mỹ phẩm, đồ gia dụng, đồ dùng học tập,…
*Hai thuộc tính của hàng hoá:
Trong mỗi hình thái kinh tế- hội khác nhau, sản xuất hàng hóa bản chất khác nhau, nhưng một vật
phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai thuộc tính cơ bảngiá trị sử dụng và giá
trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa nhằm thỏa mãn một nhu cầu nàoGiá trị sử dụng:
đó của con người. (Nhu cầu của con người gồm có nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho
cá nhân)
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu là để
sản xuất…
+ Công dụng, công hiệu, tính có lợi, tính có ích của hàng hoá
+ Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên quy định, không lệ thuộc vào chế độ hội. Khi xã hội càng
phát triển thì hội càng tìm ra càng nhiều giá trị sử dụng cho cùng một vật phẩm. ( than đá dùng đun nấu,
nhưng khi xã hội phát triển than đá còn dùng trong công nghiệp hoá chất)
+ Giá trị sử dụng được thể hiện thông qua tiêu dùng và là phạm trù có tính vĩnh viễn
+ Giá trị sử dụng được phát hiện dần, ngày càng phong phú do sự phát triển của khoa học, công nghệ.
+ Trong nền KT hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi
+ Đối với hàng hoá dịch vụ thì giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là không có hình thái vật thể quá trình sản
xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời do đó nó không tích luỹ hay dự trữ.
(Cơ sở xác định: thuộc tính tự nhiên của hàng hoá, tập tục và quy ước)
- Giá trị: Giá trị của hàng hóa: lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó.
dụ: giá trị của chai nước hao phí lao động hội của người sản xuất ra chai nước kết tinh trong chai
nước (2h sản xuất ra chai nước, thì 2h là giá trị của chai nước).
Muốn tìm hiểu phạm trù giá trị phải xuất phát từ phạm trù giá trị trao đổi vì giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện bên ngoài của giá trị; còn giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi một quan hệ về số lượng, tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với
những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc
Sở dĩ vải và thóc trao đổi được với nhau vì hai hàng hóa đó có cái chung là đều là sản phẩm của lao động,
đều có lao động kết tinh trong đó. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóasở chung của trao đổi
tạo thành giá trị của hàng hóa.
*Nhận xét:
+ Giá trị của hàng hóa là phạm trù lịch sử
+ Giá trị của hàng hóa phản ánh quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa, khi tiền tệ ra đời – giá trị biểu hiện ra
bằng tiền thì nó gọi là giá cả. Giá trị của hàng hóa là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
→ Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa phải có đủ hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính: thể hiện sự thống nhất và đối lập
- Thống nhất: đã là hàng hoá thì phải có đủ 2 thuộc tính trên.
- Đối lập: Mâu thuẫn được bộ lộ ra ngoài là giữa chất lượng và giá cả, giữa người mua và
người bán.
Giá trị Giá trị sử dụng
Mục đích của người sản xuất
Tạo ra trong quá trình sản xuất
Thực hiện trước
Mục đích của người tiêu dùng
Tạo ra trong quá trình tiêu dùng
Thực hiện sau
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Sở dĩ hàng hóa có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trịdo lao động của người sản xuất ra hàng hóa có
2 mặt. Chính tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa.
C. Mác người đầu tiên phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó lao động cụ
thể và lao động trừu tượng.
a. Lao động cụ thể.
lao động ích với hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ
thể có mục đích, đối tượng, công cụ, phương pháp và kết quả riêng.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, do đó lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng càng phong
phú.
– Lao động ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa.
Lao động cụ thể phạm trù vĩnh viễn, thể hiện tính chất nhân của sản xuất hàng hóa, tuy nhiên hình
thức của lao động cụ thể có thể thay đổi, phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao
động.
b. Lao động trừu tượng.
lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức biểu hiện cụ thể của để quy về cái
chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hoá.
– Lao động trừu tượng là lao động đồng chất của con người.
– Lao động trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá, cơ sở để so sánh các giá trị sử dụng khác nhau. Chất của
hàng hoá là lao động trừu tượng.
– Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hoá. Bởi chỉ trong sản xuất
hàng hoá mới đặt ra yêu cầu phải quy các lao động cụ thể vốn không so sánh được với nhau thành một thứ
lao động đồng nhất có thể so sánh với nhau.
Vậy: Xét lao động cụ thể xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu tượng
là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động
được kết tinh trong một hàng hoá chỉ lao động của người sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó
tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
=> Ý nghĩa: Việc phát hiện ra tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận;
nó đem đến cho thuyết lao động sản xuất mộtsở khoa học thực sự; giúp ta giải thích được hiện tượng
phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng
lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
Câu 2: Phân tích lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa.
Ý nghĩa thực tiễn?
*Khái niệm:
Hàng hóa sản phẩm của lao động, thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao
đổi, mua bán.
Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa đó.
giá trị của chai nướchao phí lao động hội của người sản xuất ra chai nước kết tinh trong chaiVí dụ:
nước (VD: 2h sản xuất ra chai nước, thì 2h là giá trị của chai nước).
Lượng giá trị của hàng hóa lượng thời gian hao phí lao động hội cần thiết để sản xuất ra đơn
vị hàng hóa đó.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là đơn vị đo lường lượng giá trị của hàng hóa.
Cần phân biệt thời gian lao động cá biệt với thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động cá biệt
thời gian hao phí của từng người sản xuất, từng chủ thể cá biệt.
dụ: 1 người công nhân mất 2 giờ để tạo ra sản phẩm thì lúc này 2 giờ đó thời gian hao phí lao động
cũng chính là giá trị của sản phẩm (sản phẩm cá biệt của người CÔNG NHÂN) chứ không phải giá trị của hh
SẢN PHẨM trong toàn xã hội.
ThHi gian lao động xI hội cJn thiết thời gian lao động cần đsản xuất ra một hàng hóa nào đó
trong những điều kiện sản xuất bình thường của hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một
trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Trên thực tế, để sản xuất ra 1 hàng hóa thường trùng hợp với mức hao phíthời gian lao động xã hội cần thiết
lao động cá biệt của những người sx và cung cấp đại bộ phận sản phẩm đó trên thị trường.
Ví dụ: Hiện nay, thị trường xe máy có nhiều cửa hàng .
* Nếu xã hội sản xuất 1 sản phẩm 2h (TG LĐXH cần thiết), mà bạn sản xuất mất 3h (TG LĐ cá biệt) vậy bạn
bán có hiệu quả bằng không?
Về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao hàm: hao phí lao động
quá khứ (chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) và hao phí
lao động mới kết tinh thêm.
*Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
+Thứ nhất, năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
1 người công nhân trong 8h sản xuất được 16 sản phẩm => NSLĐ của người công nhân là 2 sp/h hoặcVD:
0.5h/sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên nghĩa cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng
hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
Năng suất lao động có hai loại: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Năng suất lao
động hội ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị hội của hàng hóa. Năng suất lao động hội tỷ lệ
nghịch với lượng giá trị xã hội của một đơn vị hàng hóa.
: trình độ của người lao động; trình độ tiênCác nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm
tiến và mức độ trang bị kỹ thuật, khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất, trình độ quản lý; cường độ lao
động và yếu tố tự nhiên.
Tăng năng suất lao động khác với tăng cường độ lao động.
là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động trong sản xuất.CưHng độ lao động
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên sức
hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường
độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản
phẩm không đổi.
Tăng năng suất lao động tăng cường độ lao động giống nhau đều dẫn đến lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau tăng năng suất lao động làm cho
lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một
đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề thành
thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động.
+Thứ hai, tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo tính chất của
lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơnlao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ thống, chuyên sâu về
chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một quá trình đào tạo về kỹLao động phức tạp
năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động
phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức
tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những
hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường. Đây làsở lý luận
quan trọng để tính toán, xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá
trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
*Ý nghĩa thực tiễn
Trong hoạt động thực tiễn trên thị trường các chủ thể cạnh tranh rất gay gắt với nhau, lợi thế luôn
thuộc về người sản xuất năng suất lao động cao nhất tức chi phí sản xuất thấp nhất, ngược lại họ sẽ gặp
bất lợi và có nguy cơ phá sản. Vì thế cạnh tranh để tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động có ý nghĩa
sống còn của doanh nghiệp, do vậy các yếu tố tác động tới năng suất lao động được đặc biệt quan tâm ứng
dụng.
Câu 3: Phân tích nội dung, yêu cầu, tác động của quy luật giá trị trong sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu quy luật này.
Nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của SX HH vì ở đâu có SX và trao đổi HH ở đó sẽ có sự hoạt
động của quy luật này.
Nội dung của quy luật giá trị: SX và trao đổi HH phải dựa trên cơ sở hao phí LĐ XH cần thiết.
Quy luật giá trị yêu cầu:
Trong SX: Người sx muốn bán được HH trên thị trường, muốn được XH thừa nhận SP thì cần phải làm
sao cho hao phí LĐ cá biệt phải phù hợp (nhỏ hơn hoặc bằng) với hao phí LĐ XH cần thiết.
Trong trao đổi: phải dựa trên sở hao phí XH cần thiết, trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, lấy
giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt
Sự vận động của giá cả HH trên thị trường xoay quanh trục giá trị phương thức hoạt động của quy
luật giá trị: (Cung>cầu --> giá cả<giá trị ; cung =cầu --> giá cả = giá trị ; Cung<cầu -->giá cả >giá trị)
Tác động của quy luật giá trị trong nền SX HH:
Thứ nhất, Tự phát điều tiết việc SX và lưu thông HH.
- Đ Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường dưới tác động của quy luật cung -iều tiết việc SX:
cầu người SX sẽ điều hòa, phân bổ các yếu tố SX giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Cụ thể:
thông qua sự biến động của giá cả, người SX sẽ biết được tình hình cung cầu của hàng hóa đó và quyết định
phương án SX, nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, Sx cần mở rộng để cung ứng HH đó nhiều hơn
đang khan hiếm trên thị trường, theo đó, liệu Sx sứcsẽ được tự phát chuyển vào ngành này nhiều
hơn các ngành khác, Và ngược lại.
- Điều tiết lưu thông: Sự biến động của giá cả thị trường có tác động thu hút luồng HH từ nơi có giá cả
thấp đến nơi có giá cả cao hơn, nhờ đó làm lưu thông HH thông suốt.
Thứ hai, Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp hóa SX, tăng năng suất , thúc đẩy lực lượng SX phát
triển nhanh. Yêu cầu của quy luật đòi hỏi người SX muốn giành được lợi thế phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ
chức quản lý, tăng năng suất LĐ…hạ thấp hao phí LĐ cá biệt, từ đó, thúc đẩy lực lượng SX XH phát triển.
Thứ ba, Thực hiện slựa chọn tự nhiên phân hóa người SX HH thành kẻ giàu, người nghèo. Quá
trình cạnh tranh theo đuổi giá trị sẽ dẫn đến kết quả: những người có điều kiện SX thuận lợi, NSLĐ cao, hao
phí LĐ cá biệt thấp sẽ ngày càng trở nên giàu có. Ngược lại, những người có hao phí LĐ cá biệt cao hơn hao
phí XH cần thiết sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành những người nghèo. Trong nền kinh tế thị
trường thuần túy, chạy theo lợi ích nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế… là những yếu tố thể
làm tăng thêm tác động phân hóa SX cùng những tiêu cực về kinh tế xh khác. Tóm lại, QL giá trị vừa cả
những tác động tích cực lẫn tiêu cực.
Ý nghĩa luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa luận: hiểu được nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị giúp các chủ thể SX HH nhận thức
được đâu SX HH đó quy luật giá trị. Người SXHH muốn tồn tại phát triển phải tôn trọng
hành xử theo quy luật giá trị.
Ý nghĩa thực tiễn: quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh doanh phải nhạy bén với thị trường, phân bổ
các nguồn lực của XH hiệu quả,…nhờ đó thúc đẩy lực lượng SX phát triển, điều chỉnh cấu nền kinh tế
một cách linh hoạt, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của XH. Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng dẫn đến tình trạng khai
thác cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, HH kém chất lượng, gia tăng khoảng cách về thu nhập, phân
hóa XH,…Vì vậy, rất cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước để khắc phục những hạn chế này.
Câu 4: Phân tích mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Vì sao hàng hóa sức lao động là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn này?
1. Công thức chung của tư bản:
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T chỉ là phương tiện để đạt
tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu thông T-H-T’ thì T mới bản. Ở đây T vừa điểm khởi đầu vừa điểm kết thúc
của quá trình lưu thông, H chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây không chi ra dứt khoát mà chỉ ứng ra rồi thu về
nhiều hơn.
Mục đích của lưu thông bản T-H-T’ không phải giá trị sử dụng giá trị, hơn nữa giá trị
tăng thêm. Chínhthế công thức chung của tư bản T-H-T’, trong đó T’=T+∆T. ∆T số tiền trội hơn so
với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng dư). T-H-T’ đúng cho vận động của bản: Với bản công nghiệp
những giai đoạn T-H và H-T’, còn tư bản cho vay lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng trong CNTB, thể định nghĩa đầy đủ: “Tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra ∆T
* Trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-T nhưng tổng
giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử
dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhàbản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh ta lại là người
đi mua (vì không ai chỉ bán không mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng
hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại chút thặng
(∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếuhội một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn do chiếm đoạt
của người khác có. Cái hắn được cái người khác mất đi, nhưng trong toàn hội thì tổng giá trị của
hàng hóa là không thay đổi.
Như vậy, trong lưu thông trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng
dư cho các nhà tư bản.
+ Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không hề
tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính mình. Chẳng hạn
da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày dagiá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào
trong giày da. Còn giá trị của da thuộc vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông.
Nó phải xuất hiện trong lưu thông, đồng thời không phải trong lưu thông".
Đó chính mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn đó, C.Mác đã chỉ
rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở".
3. Hàng hoá sức lao động chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của
bản:
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: “Sức lao động, đó là toàn bộ thể
lực và trí lực tồn tại trong cơ thể một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.”
Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Ví dụ: Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của
nô lệ không phải là hàng hóabản thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức
lao động. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của
anh ta cũng không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải
bán sức lao động để kiếm sống (VD này có thể ghi hoặc không).
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau: Thứ nhất, Người lao
động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức sức lao động của
mình như một hàng hóa.; Thứ hai, Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt trở thành “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động biến thành hàng hóa điều kiện quyết định để tiền biến thành bản. Nhưng trước
CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và
trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian
XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức quyết định. Muốn SX và tái sản xuất ra sức lao động người
công nhân phải tiêu dùng một lượng liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn
phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái.
Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết
để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi: Giá trị những liệu sinh hoạt về vật chất
tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào
tạo người công nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công
nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động do sự tăng lên của nhu cầu trung bình củamột mặt tăng lên
xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề... do sự tăng năng suất lao động xãmặt khác lại bị giảm xuống
hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động.
Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một
giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Nhà bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó hàng hoá sức lao động,
giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệtnguồn gốc sinh ra giá trị, tức làcó thể tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính
này đã làm cho hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành bản. Do đó việc tìm ra
giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức
chung của bản. Nếu "T" của bản không dùng để bóc lột sức lao động của công nhân thì không thể
"T'=T+∆T”.
Câu 5: Phân tích quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Căn cứ và ý nghĩa phân chia tư bản
thành tư bản cố định và tư bản lưu động? (vẽ sơ đồ)
Tuần hoàn tư bản: là sự vận động liên tục của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn mang ba hình thái
(tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa), thực hiện ba chức năng khác nhau (chuẩn bị sản xuất giá trị
thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị thặng dư) rồi quay lại trở về hình thái ban đầu kèm
theo giá trị thặng dư.
Ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản:
Giai đoạn 1: giai đoạn lưu thông:
• Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao động,
chức năng của giai đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thànhbản
sản xuất.
Giai đoạn 2: giai đoạn sản xuất:
Trong giai đoạn này bản tồn tại dưới hình thái bản sản xuất, thực hiện kết hợp hai yếu tố
liệu sản xuất sức lao động đề sản xuất ra hàng hóa tạo ra giá trị thặng dư, giai đoạn này được xem
giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất TBCN. Kết thúc giai
đoạn này là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
Giai đoạn 3: Giai đoạn lưu thông:
- Trong giai đoạn này bản tồn tại dưới hình thái bản hàng hóa, chức năng thực hiện giá trị của
khối lượng hàng hóa đã sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường
với tư cách là người bán hàng, hàng hóa của nhàbản được chuyển hóa thành tiền. Kết thúc giai đoạn này,
bản hàng hóa chuyển thành bản tiền tệ. Như vậy, mục đích của nhà bản đã được thực hiện, bản
quay trở lại hình thái ban đầy trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.
=> Sự vận động của bản qua ba giai đoạn nói trên sự vận động tính tuần hoàn: bản ứng ra
dưới hình thái tiền tệ và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền tệ có kèm theo giá trị thặng dư. Q
trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
- Tuần hoàn của bản chỉ thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn khác nhau của
không ngừng được chuyển tiếp. Mặt khác, bản phải nằm lại mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời
gian nhất định. vậy, sự vận động tuần hoàn của bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời
sự vận động đứt quãng không ngừng.
*Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của bản ba hình thái của bản công nghiệp: bản
tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa:
- Đtái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì bản hội cũng như từng tư bản biệt đều tồn
tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái.
- Ba hình thái của bản không phải ba loại bản khác nhau, ba hình thái của một bản
công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Song cũng trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng
khả năng tách rời của ba hình thái tư bản.
- Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đã làm xuất hiện tư bản thương
nghiệp bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong giai cấp bản: chủ công nghiệp, nhà buôn,
chủ ngân hàng, v.v. chia nhau giá trị thặng dư.
Chu chuyển bản: tuần hoàn bản được xét quá trình định kì, thường xuyên lặp đi lặp lại
đổi mới theo thời gian. Chu chuyển tư bản được đo lường bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu chuyển
tư bản.
+ Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra dưới một hình
thái nhất định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển
bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
+Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay
trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn vị thời gian nhất định. Thông thường tốc
độ chu chuyển được tính bằng số vòng chu chuyển của tư bản trong một năm.
Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số lần chu chuyển trong một đơn
vị thời gian (một năm) không giống nhau, nói cách khác, tốc độ chu chuyển của chúng khác nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vòng) chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta có công
thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau:
n= CH/ch
Trong đó:
n: Số lần chu chuyển của tư bản trong 1 năm.
CH: Thời gian trong năm.
ch: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định
- Như vậy, tốc độ chu chuyển của bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của bản. Muốn tăng
tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.
- Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức sản xuất, việc áp dụng
những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất, phương tiện vận tải bưu điện phát triển, tổ
chức mậu dịch được cải tiến... cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của bản, do đó, tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản.
Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động:
bản sản xuất gồm nhiều bộ phận thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng
đến thời gian chu chuyển của toàn bộ bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu
chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận bản để phân chia bản sản xuất thành bản cố
định và tư bản lưu động.
* Tư bản cố định
Khái niệm: Một bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, … tham gia
toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần
từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.
Đặc điểm:
Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học thể nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá
trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ
hỏng và phải được thay thế.
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn
tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công
suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao
động, tăng ca kíp làm việc,
TB Cố Định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh luân chuyển dần dần từng phần vào trong giá trị sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi chu kỳ kinh doanh. Hay nói cách khác, cứ sau mỗi chu kỳ kinh doanh vốn
cố định được : một phần chuyển vào giá thành kinh doanh của chu kỳ kinh doanh này, vàtách thành 2 phJn
phần còn lại sẽ được cố định chờ để luân chuyển cho các chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Cứ như thế cho đến
khi nào bản cố định hết thời gian sử dụng thì vốn cố định mới chấm dứt một vòng tuần hoàn lưu chuyển
giá trị.
* Tư bản lưu động
Khái niệm: Một bộ phân bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao
động,… giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩmđược hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau
mỗi quá trình sản xuất.
Đặc điểm
bản lưu động về toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp để phục vụ cho quábiểu hiện bằng tiền
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham gia vào kinh doanh, tài sản lưu động luôn vận hành, thay thế
chuyển hóa lẫn nhau qua các công đoạn của quá trình kinh doanh.
Chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. Với đặc điểm này, dòi hỏi đoanh nghiệp luôn phải duy trì một
khối lượng vốn lưu động nhất định để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh
tiến hành liên tục.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động
có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu
động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển
của bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng khối lượng giá trị thặng hằng năm tăng
lên. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của bản lưu động sẽ góp phần tăng hiệu quả sử dụng của vốn
bản, tiết kiệm tư bản ứng trước, đồng thời tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
* Ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Việc phân chia bản cố định bản lưu động chỉ diễn ra đối với bản sản xuất, căn cứ vào tính chất
chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân chia tư bản cố định và tư bản lưu thông thật sự chưa làm
rõ bản chất bóc lột của tư bản nhưng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong việc bảo tồn
tái sản xuất bản cố định lưu động, xác định đúng những chi phí hình thành sản phẩm hàng hóa.
Trong quản kinh tế trong sản xuất, doanh nghiệp cần cách thức tác động phù hợp với tính chất vận
động của từng loại tư bản để nâng cao
Câu 6: phân tích bản chất, động cơ của tích lũy tư bản. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư
bản. Hệ quả của tích lũy tư bản.
Phân tích bản chất và động cơ của tích lũy tư bản
Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm, sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm được gọi . Do đó, tích lũy tư bản bản chất của
tích lũybản là sự chuyển hóa một bộ phận giá trị thặng dư thànhbản hay quá trình tư bản hóa giá
trị thặng dư.
Như vậy, tích lũy bản chính tái sản xuất ra bản với quy ngày càng mở rộng. Sở giá trị
thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư
bản mới.
Nguồn gốc của bản tích lũygiá trị thặng dư. Nhờ tích lũybản, quan hệ sản xuất bản chủ
nghĩa không ngừng mở rộng. Quá trình tích lũy bản đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.
Động cơ thúc đẩy tích lũy tái sản xuất mở rộngquy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩabản -
quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản
xuất, xem đó phương tiện căn bản để tăng cường chiếm đoạt giá trị thặng dư. Mặt khác, cạnh tranh buộc
các nhà tư bản không ngừng gia tăng tư bản cá biệt bằng cách đẩy nhanh tích lũy tư bản.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư
thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Với tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và
quỹ tiêu dùng nhất định, thì các nhân tố góp phần làm tăng quy mô tích lũy bao gồm:
- , nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy Thứ nhất
giá trị thặng dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích lũy.
- Thứ hai, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động tăng giúp thu được nhiều giá trị thặng dư
hơn, góp phần tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích lũy.
- , sử dụng hiệu quả máy móc. Các Mác gọi việc này chênh lệch giữa bản sử dụng Thứ ba
bản tiêu dùng. Theo Các Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song, giá trị chỉ được tính
dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn hoạt động toàn bộ những giá
trị của bản thân đã giảm dần do tính giá khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là, mặc giá
trị đã bị khấu hao, song, tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không
công trong sản xuất. Sự phục vụ không công được lao động sống nắm lấy làm cho chúng hoạt động.
Chúng được tích lũy lại cùng với tăng quy mô tích lũy tư bản.
- , đại lượng tự bản ứng trước. Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, bản ứngThứ
trước càng lớn sẽ là tiền đề cho tăng quy mô tích lũy.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về luận, nghiên cứu tích lũy bản giúp người học hiểu được làm tăng quy tích lũy bản.
Khẳng định muốn tái sản xuất mở rộng phải tích lũy tư bản, tích lũy vốn.
Về thực tiễn, muốn tăng quytích lũybản, vốn cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội,
tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
Hệ quả của tích lũy tư bản
Thứ nhất, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
- Tích tụ bản là sự tăng thêm quy của bản cá biệt bằng cách tự bản hóa giá trị thặng dư. Tích
tụ bản làm tăng quy bản biệt đồng thời làm tăng quy tư bảnhội do giá trị thặng được
biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô tư bản xã hội do
hợp nhất các bản biệt vào một chỉnh thể tạo thành một bản biệt lớn hơn. Tập trung bản thể
được thực hiện thông qua sáp nhập các tư bản cá biệt với nhau.
- Tích tụ tập trung bản điểm giống nhau chúng đều làm tăng quy của bản biệt.
Nhưng giữa chúng lại có những điểm khác nhau:
Một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó, tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản
biệt, đồng thời, làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có
sẵn trong xã hội, do đó, tập trungbản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt,không làm tăng quy
của tư bản xã hội.
Hai là, nguồn để tích tụ bản giá trị thặng dư, xét về mặt đó, phản ánh trực tiếp mối quan hệ
giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản.
Còn nguồn để tập trung bản là những bảnbiệt có sẵn trong hội do cạnh tranh dẫn đến sự liên
kết hay sáp nhập, xét về mặt đó, phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà
bản; đồng thời, nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
- Tích tụ tập trung bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ bản làm tăng thêm quy sức
mạnh của tư bản cá biệt, do đó, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung
bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ bản. Ảnh
hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng mạnh. Tích tụ và tập
trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa
sức lao động. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập
trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Như vậy, quá trình tích lũy bản gắn với quá trình tích tụ tập trung bản ngày càng tăng, do đó
nền sản xuất bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế bản
của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm.
Thứ hai , tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn không ngừng biến đổi
trong cấu tạo của nó.
- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi bản đều bao gồm liệu sản xuất sức lao động để vận dụng
những liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng liệu sản xuất số lượng sức lao động sử dụng những
liệu sản xuất trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của bản. Quan hệ này tính tất yếu về mặt
kỹ thuật, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định .
Cấu tạo kỹ thuật của bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ nghĩa bản. Điều đó
biểu thị ở số lượng tư liệu sản xuất mà một công nhân sử dụng ngày càng tăng lên.
- Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần : bản bất biến (c) bản khả biến (v). Tỷ lệ
giữa số lượng giá trị của bản bất biến số lượng giá trị của bản khả biến cần thiết để tiến hành sản
xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung , những sự thay đổi
trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi trong cấu tạo giá trị củabản. Để biểu hiện
mối quan hệ đó, Các Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi cấu tạo kỹ thuật và phản
ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa bản, cấu tạo kỹ thuật của bản ngày càng tăng, kéo theo
sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên
của cấu tạo hữu của bản biểu hiện chỗ tự bản bất biến tăng tuyệt đối tương đối, còn bản khả
biến có thể tăng tuyệt đối , nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.
Cấu tạo hữu của tư bản tăng lên trong quá trình tích lũy chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn
thất nghiệp trong chủ nghĩa bản. Còn nguyên nhân sâu xa của nạn thất nghiệp lại chính quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, quá trình tích lũy bản không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà bản với
thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế bản chủ nghĩa , thu nhập các nhà bản được,
lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiến công của người lao động làm thuê. C.Mác đã quan
sát thấy thực tế này và ông gọi đó là sự bần cùng hóa người lao động.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Hiểu quy luật chung, xu hướng vận động của tích lũy bản gắn liền với sự giaÝ nghĩa luận:
tăng của tích tụ, tập trung tư bản và cấu tạo hữu cơ.
- Ý nghĩa thực tiễn;
+ Tích tụtập trung bản, vốn: quan hệ với nhau tác động thúc đẩy nhau, làm tăng thu nhập
quốc dân và sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội trong quá trình sản xuất.
+ Quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa một mặt thúc đẩy CNTB phát triển mạnh mẽ, mặt khác nảy sinh
nhiều mâu thuẫn, hạn chế, dẫn đến phân hóa thu nhập ngày càng sâu sắc, bần cùng hóa giai cấp công nhân,
nhân dân lao động.
+ Quá trình tích lũy bản (vốn) làm cho cấu tạo hữu của bản (vốn) tăng lên xuất hiện thất
nghiệp là vấn đề có tính quy luật dưới sự tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ (đặc biệt trong điều kiện
CMCN 4.0), cần có những dự báo về xu hướng này để tổ chức, quản lý nguồn nhân lực hiệu quả. Để đáp ứng
sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, người lao động cần nâng cao tay nghề, chuyển đổi ngành nghề thích hợp.
Câu 7. Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trưHng định hướng xI hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Khái niệm kinh tế thị trưHng định hướng xI hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng
thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một hội đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phJn kinh tế :
Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế trong thời quá độ gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế nhân, kinh tế vốn đầu nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhân một động
lực quan trọng, cho phép huy động mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, kích thích cạnh tranh, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tại sao thành phJn kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Thứ nhất, đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc
biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình
thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình
thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện
các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực nhân còn nhỏ bé, chưa khả năng đầu lớn, khu
vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực
hiện vai trò này, không có nghĩasở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễnvai trò đầu
tàu, dẫn dắt thể hiện chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia khả năng tham gia hiệu
quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình trong việc
đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một
loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia đầu
phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút
hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh
tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo hai nội dung bản sau: 1- Nắm giữ
những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa khí,
trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). 2- Tham
gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng hội, làm đối trọng trong hội nhập
kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản
phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do
bản chất về mặt sở hữu mục đích hoạt động, KTNN vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng
hội. Vai trò này thể hiện chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành những địa bàn khó khăn ý nghĩa
chính trị - hội nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu phát triển theo
vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh
hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...
Câu 8: Phân tích tính tất yếu và những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
*Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc giaquá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh
tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế
chung.
*Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cJu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo
ra bởi mối liên kết trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các nhân góc độ văn
hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa,
hội… trong đó, toàn cầu hóa kinh tế xu thế nổi trội nhất, vừa trung tâm vừa sở cũng
động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực hóa kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa
nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị
trường chung… nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xóa bỏ những cản trở
trong việc di chuyển vốn, lực lượng lao động, hàng hóa dịch vụ…tiến tới tự do hóa hoàn toàn những di
chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh
tế quốc tế trở thành yếu tố khách quan: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân
công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền
kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn
cầu kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vị toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế
quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là các
nước đang kém phát triển trong điều kiện hiện nay
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng
được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển
của mình. Khi mà các nước tư bản giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn
lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ cso phát triển kinh tế mở và
hội nhập quốc tế, các nước đang kém phát triển mới thể tiếp cận được những năng lực này cho phát
triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế con đường thể giúp cho các nước đang kém phát triển thể tận
dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày
càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế mô. Việc mở cửa thị
trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóacòn tăng tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách,
tạo niềm tin cho các chương trình hỗ trợ quốc tế trong cải cách kinh tế và mở cửa.
*Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế
giới. Do đó, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực đồng thời đưa đến nhiều thách thức đối với
quá trình phát triển của Việt Nam.
Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều
kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục
vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững .
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện
đại hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực tiềm lực khoa học công nghệ
quốc gia; nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại tiếp thu công nghệ mới thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc
tế, nguồn tín dụng các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức
quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ hưởng các
sản phẩm hàng hóa. dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và
xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý.
Hội nhập kinh tế quốc tế tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị
tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu
thêm văn hóa dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ tới chính trị, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao
vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc
tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội.
Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệpngành kinh
tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế
- xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên
ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tế
thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước
các nhóm khác nhau trong hội, do vậy nguy làm tăng khoảng cách giàu nghèo bất bình
đẳng trong xã hội.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy
cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều
tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng giá trị gia tăng thấp. vị trí bất lợi thua thiệt trong
chuỗi giá trị toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc
gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Hội nhập thể làm gia tăng nguy bản sắc dân tộc văn hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn
trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Hội nhập thể làm tăng nguy gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên
quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp.
Tóm lại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa khả năng tạo ra những hội thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng rất khó lường.
Là sinh viên cần phải làm gì?: Cần phải chủ động thay đổi tư duy và thay đổi hành động: chủ động học ngoại
ngữ (thậm chí học nhiều ngoại ngữ), tham gia các hoạt động giao lưu văn hoá, tham gia các diễn đàn/hội
thảo cũng như chủ động theo dõi các tin tức, các vấn đề thời sự quốc tế hiện nay một cách chọn lộc. thay đổi
tư duy theo hướng mở, phản biện, hoà nhập chứ không hoà tan……. (Các bạn phân tích thêm nhé, chém gió
vào).
Câu 9: Cách mạng công nghiệp:
Khái niệm:
Cách mạng công nghiệp lần thứ (Cách mạng công nghiệp 4.0) sự kết hợp các công nghệ giúp
xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học.
Cuộc CMCN lần thứ 4 được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ
chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT)
và Internet của các dịch vụ (IoS).
Bản chất của CMCN lần thứ 4 dựa trên nền tảng công nghệ số tích hợp tất cả các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang sẽ tác
động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người
máy,…
Tóm lại, một cách hiểu đơn giản hơn: Công nghiệp 4.0 quá trình tích hợp tất cả các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức sản xuất, kinh doanh.
CMCN 4.0 có một số đặc trưng sau:
- Kết hợp giữa hệ thống ảo thực thể (Cyber-Physical Systems _ CPS): CMCN 4.0 đặc trưng bởi sự hợp
nhất, không ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số sinh học. Đây xu hướng kết
hợp giữa các hệ thống ảo thực thể, vạn vật kết nối Internet (IoT) các hệ thống kết nối Internet (IoS)
(Nguyễn Thắng và cộng sự, 2016).
- Quitốc độ phát triển lớn, chưa tiền lệ trong lịch sử: CMCN 4.0 diễn ra theo cấp số nhân. Những
đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực với tốc độ rất nhanh tương tác thúc đẩy nhau đang tạo ra
một thế giới được số hóa, tự động hóa và ngày càng trở nên hiệu quả và thông minh hơn.
- Tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới: Cuộc CMCN lần thứ tư những tác động to lớn về kinh tế,
xã hội và môi trường ở tất cả các cấp – toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia.
- Tạo ra những thay đổi to lớn trong các lĩnh vực sản xuất: Nếu như nguyên liệu chủ đạo trong sản xuất vật
chất ở các cuộc CMCN trước đây phần lớn là tài nguyên thiên nhiên hoặc nguồn gốc từ tự nhiên như đất
đai, khoáng sản, tài nguyên rừng biển… thì trong cuộc CMCN 4.0, “nguyên liệu” chủ yếu quan trọng
hàng đầu là chất xám.
- Mọi tồn tại trong cuộc sống thực đều một bản sao trong thế giới ảo: Những giao dịch trong thế giới ảo
được thực hiện bằng việc kết nối Internet. Sản xuất ảo, sản phẩm ảo, giao dịch ảo nhưng tác động mang
lại là thật. Tính chất kết nối không giới hạn của vạn vật từ thế giới ảo tiến tới xóa bỏ rào cản địa lý giữa các
quốc gia.
Vai trò của CMCN 4.0 đến phát triển kinh tế - xI hội Việt Nam:
Một là, nhờ ứng dụng hiện đại của công nghệ thông tin mang lại người dân có nhiềuhội tham gia vào
hoạt động quảnnhà nước, giám sát và phản biện đối với các quan công quyền, trong đó Chính phủ.
Người dân dễ dàng, thuận tiện tìm kiếm thông tin; mức độ tin cậy, độ phong phú của thông tin gia tăng; tiết
kiệm được thời gian công sức. Đồng thời, Chính phủ tiếp cận được những thông tin phản hồi từ phía
người dân, doanh nghiệp trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn, từ đó dự báo, chủ động điều chỉnh cho phù
hợp, kịp thời và nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp một cách tốt nhất.
Hai là, tạo ra cơ hội để nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước nói chung, Chính phủ nói riêng có điều kiện
giao lưu với thế giới thông qua việc trao đổi chuyên gia, hợp tác khoa học chuyển giao công nghệ. Đồng
thời, tạo động lực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ chuyên gia cán bộ, công chức, viên
chức.
Ba là, ứng dụng Big Data kết hợp với AI đã và đang mang lại nhiều lợi ích giúp Chính phủ dự đoán được
tỷ lệ thất nghiệp, xu hướng nghề nghiệp của tương lai để điều chỉnh phù hợp. Trong đó Chính phủ sẽ ưu
tiên tập trung đầu cho một số hạng mục triển vọng phát triển, cắt giảm chi tiêu, kích thích tăng trưởng
kinh tế, tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc, nâng cao chất lượng các dịch vụ công

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG KTCT - 2023
Câu 1: Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Ý
nghĩa lý luận và thực tiễn?
*Hàng hoá: là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu
dùng thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể(hữu hình) và ở dạng phi vật thể (dịch vụ vô hình).
Ví dụ: Quần áo, giày dép, mỹ phẩm, đồ gia dụng, đồ dùng học tập,…
*Hai thuộc tính của hàng hoá:
Trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa có bản chất khác nhau, nhưng một vật
phẩm sản xuất ra khi đã mang hình thái là hàng hóa thì đều có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào
đó của con người. (Nhu cầu của con người gồm có nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân)
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất…
+ Công dụng, công hiệu, tính có lợi, tính có ích của hàng hoá
+ Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên quy định, không lệ thuộc vào chế độ xã hội. Khi xã hội càng
phát triển thì xã hội càng tìm ra càng nhiều giá trị sử dụng cho cùng một vật phẩm. ( than đá dùng đun nấu,
nhưng khi xã hội phát triển than đá còn dùng trong công nghiệp hoá chất)
+ Giá trị sử dụng được thể hiện thông qua tiêu dùng và là phạm trù có tính vĩnh viễn
+ Giá trị sử dụng được phát hiện dần, ngày càng phong phú do sự phát triển của khoa học, công nghệ.
+ Trong nền KT hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi
+ Đối với hàng hoá dịch vụ thì giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là không có hình thái vật thể quá trình sản
xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời do đó nó không tích luỹ hay dự trữ.
(Cơ sở xác định: thuộc tính tự nhiên của hàng hoá, tập tục và quy ước)
- Giá trị: Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó.
Ví dụ: giá trị của chai nước là hao phí lao động xã hội của người sản xuất ra chai nước kết tinh trong chai
nước (2h sản xuất ra chai nước, thì 2h là giá trị của chai nước).
Muốn tìm hiểu phạm trù giá trị phải xuất phát từ phạm trù giá trị trao đổi vì giá trị trao đổi là hình thức biểu
hiện bên ngoài của giá trị; còn giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với
những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc
Sở dĩ vải và thóc trao đổi được với nhau vì hai hàng hóa đó có cái chung là đều là sản phẩm của lao động,
đều có lao động kết tinh trong đó. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi và
tạo thành giá trị của hàng hóa. *Nhận xét:
+ Giá trị của hàng hóa là phạm trù lịch sử
+ Giá trị của hàng hóa phản ánh quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa, khi tiền tệ ra đời – giá trị biểu hiện ra
bằng tiền thì nó gọi là giá cả. Giá trị của hàng hóa là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
→ Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa phải có đủ hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính: thể hiện sự thống nhất và đối lập
- Thống nhất: đã là hàng hoá thì phải có đủ 2 thuộc tính trên.
- Đối lập: Mâu thuẫn được bộ lộ ra ngoài là giữa chất lượng và giá cả, giữa người mua và người bán. Giá trị Giá trị sử dụng
Mục đích của người sản xuất
Mục đích của người tiêu dùng
Tạo ra trong quá trình sản xuất
Tạo ra trong quá trình tiêu dùng Thực hiện trước Thực hiện sau
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Sở dĩ hàng hóa có 2 thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của người sản xuất ra hàng hóa có
2 mặt. Chính tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa.
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ
thể và lao động trừu tượng. a. Lao động cụ thể.
Là lao động có ích với hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ
thể có mục đích, đối tượng, công cụ, phương pháp và kết quả riêng.
– Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, do đó lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng càng phong phú.
– Lao động ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa.
– Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, thể hiện tính chất tư nhân của sản xuất hàng hóa, tuy nhiên hình
thức của lao động cụ thể có thể thay đổi, phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động.
b. Lao động trừu tượng.
Là lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về cái
chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hoá.
– Lao động trừu tượng là lao động đồng chất của con người.
– Lao động trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá, là cơ sở để so sánh các giá trị sử dụng khác nhau. Chất của
hàng hoá là lao động trừu tượng.
– Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hoá. Bởi vì chỉ trong sản xuất
hàng hoá mới đặt ra yêu cầu phải quy các lao động cụ thể vốn không so sánh được với nhau thành một thứ
lao động đồng nhất có thể so sánh với nhau.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu tượng
là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động
được kết tinh trong một hàng hoá mà chỉ có lao động của người sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có
tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
=> Ý nghĩa: Việc phát hiện ra tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận;
nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự; giúp ta giải thích được hiện tượng
phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng
lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.
Câu 2: Phân tích lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Ý nghĩa thực tiễn? *Khái niệm:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa đó.
Ví dụ: giá trị của chai nước là hao phí lao động xã hội của người sản xuất ra chai nước kết tinh trong chai
nước (VD: 2h sản xuất ra chai nước, thì 2h là giá trị của chai nước).
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là đơn vị đo lường lượng giá trị của hàng hóa.
Cần phân biệt thời gian lao động cá biệt với thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động cá biệt là
thời gian hao phí của từng người sản xuất, từng chủ thể cá biệt.
Ví dụ: 1 người công nhân mất 2 giờ để tạo ra sản phẩm thì lúc này 2 giờ đó là thời gian hao phí lao động
cũng chính là giá trị của sản phẩm (sản phẩm cá biệt của người CÔNG NHÂN) chứ không phải giá trị của hh
SẢN PHẨM trong toàn xã hội.
ThHi gian lao động xI hội cJn thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hóa nào đó
trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một
trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Trên thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 1 hàng hóa thường trùng hợp với mức hao phí
lao động cá biệt của những người sx và cung cấp đại bộ phận sản phẩm đó trên thị trường.
Ví dụ: Hiện nay, thị trường xe máy có nhiều cửa hàng .
* Nếu xã hội sản xuất 1 sản phẩm 2h (TG LĐXH cần thiết), mà bạn sản xuất mất 3h (TG LĐ cá biệt) vậy bạn
bán có hiệu quả bằng không?
Về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao hàm: hao phí lao động
quá khứ (chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) và hao phí
lao động mới kết tinh thêm.
*Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
+Thứ nhất, năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
VD: 1 người công nhân trong 8h sản xuất được 16 sản phẩm => NSLĐ của người công nhân là 2 sp/h hoặc 0.5h/sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng
hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại.
Năng suất lao động có hai loại: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Năng suất lao
động xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị xã hội của hàng hóa. Năng suất lao động xã hội tỷ lệ
nghịch với lượng giá trị xã hội của một đơn vị hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm có: trình độ của người lao động; trình độ tiên
tiến và mức độ trang bị kỹ thuật, khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất, trình độ quản lý; cường độ lao
động và yếu tố tự nhiên.
Tăng năng suất lao động khác với tăng cường độ lao động.
CưHng độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động trong sản xuất.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức
hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường
độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau là tăng năng suất lao động làm cho
lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một
đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý, trình độ tay nghề thành
thạo của người lao động, công tác tổ chức, kỷ luật lao động.
+Thứ hai, tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo tính chất của
lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động không đòi hỏi có quá trình đào tạo một cách hệ thống, chuyên sâu về
chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động lao động yêu cầu phải trải qua một quá trình đào tạo về kỹ
năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao động
phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức
tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những
hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường. Đây là cơ sở lý luận
quan trọng để tính toán, xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá
trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội. *Ý nghĩa thực tiễn
Trong hoạt động thực tiễn trên thị trường các chủ thể cạnh tranh rất gay gắt với nhau, lợi thế luôn
thuộc về người sản xuất có năng suất lao động cao nhất tức chi phí sản xuất thấp nhất, ngược lại họ sẽ gặp
bất lợi và có nguy cơ phá sản. Vì thế cạnh tranh để tăng năng suất lao động, giảm chi phí lao động có ý nghĩa
sống còn của doanh nghiệp, do vậy các yếu tố tác động tới năng suất lao động được đặc biệt quan tâm ứng dụng.
Câu 3: Phân tích nội dung, yêu cầu, tác động của quy luật giá trị trong sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa thực
tiễn của việc nghiên cứu quy luật này.
Nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của SX HH vì ở đâu có SX và trao đổi HH ở đó sẽ có sự hoạt động của quy luật này.
Nội dung của quy luật giá trị: SX và trao đổi HH phải dựa trên cơ sở hao phí LĐ XH cần thiết.
Quy luật giá trị yêu cầu:
Trong SX: Người sx muốn bán được HH trên thị trường, muốn được XH thừa nhận SP thì cần phải làm
sao cho hao phí LĐ cá biệt phải phù hợp (nhỏ hơn hoặc bằng) với hao phí LĐ XH cần thiết.
Trong trao đổi: phải dựa trên cơ sở hao phí LĐ XH cần thiết, trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, lấy
giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt
Sự vận động của giá cả HH trên thị trường xoay quanh trục giá trị là phương thức hoạt động của quy
luật giá trị: (Cung>cầu --> giá cả giá cả = giá trị ; Cunggiá cả >giá trị)
Tác động của quy luật giá trị trong nền SX HH:
Thứ nhất, Tự phát điều tiết việc SX và lưu thông HH.
- Điều tiết việc SX: Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường dưới tác động của quy luật cung -
cầu mà người SX sẽ điều hòa, phân bổ các yếu tố SX giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Cụ thể:
thông qua sự biến động của giá cả, người SX sẽ biết được tình hình cung cầu của hàng hóa đó và quyết định
phương án SX, nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, Sx cần mở rộng để cung ứng HH đó nhiều hơn vì nó
đang khan hiếm trên thị trường, theo đó, tư liệu Sx và sức LĐ sẽ được tự phát chuyển vào ngành này nhiều
hơn các ngành khác, Và ngược lại.
- Điều tiết lưu thông: Sự biến động của giá cả thị trường có tác động thu hút luồng HH từ nơi có giá cả
thấp đến nơi có giá cả cao hơn, nhờ đó làm lưu thông HH thông suốt.
Thứ hai, Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa SX, tăng năng suất LĐ , thúc đẩy lực lượng SX phát
triển nhanh. Yêu cầu của quy luật đòi hỏi người SX muốn giành được lợi thế phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ
chức quản lý, tăng năng suất LĐ…hạ thấp hao phí LĐ cá biệt, từ đó, thúc đẩy lực lượng SX XH phát triển.
Thứ ba, Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người SX HH thành kẻ giàu, người nghèo. Quá
trình cạnh tranh theo đuổi giá trị sẽ dẫn đến kết quả: những người có điều kiện SX thuận lợi, NSLĐ cao, hao
phí LĐ cá biệt thấp sẽ ngày càng trở nên giàu có. Ngược lại, những người có hao phí LĐ cá biệt cao hơn hao
phí LĐ XH cần thiết sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành những người nghèo. Trong nền kinh tế thị
trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế… là những yếu tố có thể
làm tăng thêm tác động phân hóa SX cùng những tiêu cực về kinh tế xh khác. Tóm lại, QL giá trị vừa có cả
những tác động tích cực lẫn tiêu cực.
Ý nghĩa luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: hiểu được nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị giúp các chủ thể SX HH nhận thức
được ở đâu có SX HH ở đó có quy luật giá trị. Người SXHH muốn tồn tại và phát triển phải tôn trọng và
hành xử theo quy luật giá trị.
Ý nghĩa thực tiễn: quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh doanh phải nhạy bén với thị trường, phân bổ
các nguồn lực của XH hiệu quả,…nhờ đó thúc đẩy lực lượng SX phát triển, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế
một cách linh hoạt, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của XH. Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng dẫn đến tình trạng khai
thác cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, HH kém chất lượng, gia tăng khoảng cách về thu nhập, phân
hóa XH,…Vì vậy, rất cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước để khắc phục những hạn chế này.
Câu 4: Phân tích mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Vì sao hàng hóa sức lao động là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn này?
1. Công thức chung của tư bản:
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T chỉ là phương tiện để đạt
tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu thông T-H-T’ thì T mới là tư bản. Ở đây T vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc
của quá trình lưu thông, H chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây không chi ra dứt khoát mà chỉ ứng ra rồi thu về nhiều hơn.
Mục đích của lưu thông tư bản T-H-T’ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị
tăng thêm. Chính vì thế công thức chung của tư bản là T-H-T’, trong đó T’=T+∆T. ∆T là số tiền trội hơn so
với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng dư). T-H-T’ đúng cho vận động của tư bản: Với tư bản công nghiệp là
những giai đoạn T-H và H-T’, còn tư bản cho vay lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định nghĩa đầy đủ: “Tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu? + Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra ∆T
* Trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-T nhưng tổng
giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử
dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh ta lại là người
đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng
hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại chút thặng dư
(∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn có là do chiếm đoạt
của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của
hàng hóa là không thay đổi.
Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. + Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính mình. Chẳng hạn
da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào
trong giày da. Còn giá trị của da thuộc vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông.
Nó phải xuất hiện trong lưu thông, đồng thời không phải trong lưu thông".
Đó chính là mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn đó, C.Mác đã chỉ
rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở".
3. Hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản:
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: “Sức lao động, đó là toàn bộ thể
lực và trí lực tồn tại trong cơ thể một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.”
Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Ví dụ: Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của
nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức
lao động. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của
anh ta cũng không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải
bán sức lao động để kiếm sống (VD này có thể ghi hoặc không).
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau: Thứ nhất, Người lao
động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức sức lao động của
mình như một hàng hóa.; Thứ hai, Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt trở thành “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng trước
CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian LĐ
XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức LĐ quyết định. Muốn SX và tái sản xuất ra sức lao động người
công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn
phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái.
Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết
để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi: Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và
tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào
tạo người công nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công
nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt tăng lên do sự tăng lên của nhu cầu trung bình của
xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề... mặt khác lại bị giảm xuống do sự tăng năng suất lao động xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động.
Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một
giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động, mà
giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính
này đã làm cho hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc tìm ra
và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức
chung của tư bản. Nếu "T" của tư bản không dùng để bóc lột sức lao động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”.
Câu 5: Phân tích quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Căn cứ và ý nghĩa phân chia tư bản
thành tư bản cố định và tư bản lưu động? (vẽ sơ đồ)
Tuần hoàn tư bản: là sự vận động liên tục của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn mang ba hình thái
(tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa), thực hiện ba chức năng khác nhau (chuẩn bị sản xuất giá trị
thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị thặng dư) rồi quay lại trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
Ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản:
✓ Giai đoạn 1: giai đoạn lưu thông:
• Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao động,
chức năng của giai đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
✓ Giai đoạn 2: giai đoạn sản xuất:
• Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, thực hiện kết hợp hai yếu tố là tư
liệu sản xuất và sức lao động đề sản xuất ra hàng hóa và tạo ra giá trị thặng dư, giai đoạn này được xem là
giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất TBCN. Kết thúc giai
đoạn này là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
✓ Giai đoạn 3: Giai đoạn lưu thông:
- Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là thực hiện giá trị của
khối lượng hàng hóa đã sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường
với tư cách là người bán hàng, hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền. Kết thúc giai đoạn này,
tư bản hàng hóa chuyển thành tư bản tiền tệ. Như vậy, mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản
quay trở lại hình thái ban đầy trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.
=> Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần hoàn: tư bản ứng ra
dưới hình thái tiền tệ và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền tệ có kèm theo giá trị thặng dư. Quá
trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
- Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn khác nhau của
nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặt khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời
gian nhất định. Vì vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời là
sự vận động đứt quãng không ngừng.
*Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công nghiệp: tư bản
tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa:
- Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản cá biệt đều tồn
tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái.
- Ba hình thái của tư bản không phải là ba loại tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản
công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Song cũng trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng
khả năng tách rời của ba hình thái tư bản.
- Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đã làm xuất hiện tư bản thương
nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn,
chủ ngân hàng, v.v. chia nhau giá trị thặng dư.
Chu chuyển tư bản: là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kì, thường xuyên lặp đi lặp lại và
đổi mới theo thời gian. Chu chuyển tư bản được đo lường bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu chuyển tư bản.
+ Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra dưới một hình
thái nhất định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư
bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
+Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay
trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn vị thời gian nhất định. Thông thường tốc
độ chu chuyển được tính bằng số vòng chu chuyển của tư bản trong một năm.
Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số lần chu chuyển trong một đơn
vị thời gian (một năm) không giống nhau, nói cách khác, tốc độ chu chuyển của chúng khác nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vòng) chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta có công
thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau: n= CH/ch Trong đó:
n: Số lần chu chuyển của tư bản trong 1 năm. CH: Thời gian trong năm.
ch: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định
- Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn tăng
tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.
- Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức sản xuất, việc áp dụng
những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất, phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ
chức mậu dịch được cải tiến... cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, do đó, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.
Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động:
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng
đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu
chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố
định và tư bản lưu động. * Tư bản cố định
Khái niệm: Một bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, … tham gia
toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần
từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất. Đặc điểm:
Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá
trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ
hỏng và phải được thay thế.
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn
tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công
suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao
động, tăng ca kíp làm việc,
TB Cố Định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và luân chuyển dần dần từng phần vào trong giá trị sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi chu kỳ kinh doanh. Hay nói cách khác, cứ sau mỗi chu kỳ kinh doanh vốn
cố định được tách thành 2 phJn: một phần chuyển vào giá thành kinh doanh của chu kỳ kinh doanh này, và
phần còn lại sẽ được cố định chờ để luân chuyển cho các chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Cứ như thế cho đến
khi nào tư bản cố định hết thời gian sử dụng thì vốn cố định mới chấm dứt một vòng tuần hoàn lưu chuyển giá trị. * Tư bản lưu động
Khái niệm: Một bộ phân tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao
động,… giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau
mỗi quá trình sản xuất. Đặc điểm
Tư bản lưu động là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp để phục vụ cho quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham gia vào kinh doanh, tài sản lưu động luôn vận hành, thay thế và
chuyển hóa lẫn nhau qua các công đoạn của quá trình kinh doanh.
Chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. Với đặc điểm này, dòi hỏi đoanh nghiệp luôn phải duy trì một
khối lượng vốn lưu động nhất định để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tiến hành liên tục.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động
có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu
động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển
của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm tăng
lên. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ góp phần tăng hiệu quả sử dụng của vốn tư
bản, tiết kiệm tư bản ứng trước, đồng thời tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
* Ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất, căn cứ vào tính chất
chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân chia tư bản cố định và tư bản lưu thông thật sự chưa làm
rõ bản chất bóc lột của tư bản nhưng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong việc bảo tồn
và tái sản xuất tư bản cố định và lưu động, xác định đúng những chi phí hình thành sản phẩm hàng hóa.
Trong quản lý kinh tế và trong sản xuất, doanh nghiệp cần có cách thức tác động phù hợp với tính chất vận
động của từng loại tư bản để nâng cao
Câu 6: phân tích bản chất, động cơ của tích lũy tư bản. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư
bản. Hệ quả của tích lũy tư bản.
Phân tích bản chất và động cơ của tích lũy tư bản
Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm, sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm được gọi là tích lũy tư bản. Do đó, bản chất của
tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Như vậy, tích lũy tư bản chính là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị
thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.
Nguồn gốc của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa không ngừng mở rộng. Quá trình tích lũy tư bản đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản -
quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản
xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường chiếm đoạt giá trị thặng dư. Mặt khác, cạnh tranh buộc
các nhà tư bản không ngừng gia tăng tư bản cá biệt bằng cách đẩy nhanh tích lũy tư bản.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư
thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Với tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích lũy và
quỹ tiêu dùng nhất định, thì các nhân tố góp phần làm tăng quy mô tích lũy bao gồm:
- Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô
giá trị thặng dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích lũy.
- Thứ hai, nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động tăng giúp thu được nhiều giá trị thặng dư
hơn, góp phần tạo điều kiện cho phép tăng quy mô tích lũy.
- Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc. Các Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư
bản tiêu dùng. Theo Các Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song, giá trị chỉ được tính
dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy móc vẫn hoạt động toàn bộ những giá
trị của bản thân nó đã giảm dần do tính giá khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là, mặc dù giá
trị đã bị khấu hao, song, tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không
công trong sản xuất. Sự phục vụ không công được lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động.
Chúng được tích lũy lại cùng với tăng quy mô tích lũy tư bản.
- Thứ tư, đại lượng tự bản ứng trước. Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được, tư bản ứng
trước càng lớn sẽ là tiền đề cho tăng quy mô tích lũy.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, nghiên cứu tích lũy tư bản giúp người học hiểu được làm tăng quy mô tích lũy tư bản.
Khẳng định muốn tái sản xuất mở rộng phải tích lũy tư bản, tích lũy vốn.
Về thực tiễn, muốn tăng quy mô tích lũy tư bản, vốn cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội,
tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.
Hệ quả của tích lũy tư bản
Thứ nhất, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tự bản hóa giá trị thặng dư. Tích
tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng quy mô tư bản xã hội do giá trị thặng dư được
biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô tư bản xã hội do
hợp nhất các tư bản cá biệt vào một chỉnh thể tạo thành một tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản có thể
được thực hiện thông qua sáp nhập các tư bản cá biệt với nhau.
- Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt.
Nhưng giữa chúng lại có những điểm khác nhau:
Một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó, tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá
biệt, đồng thời, làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có
sẵn trong xã hội, do đó, tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.
Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp mối quan hệ
giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản.
Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên
kết hay sáp nhập, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư
bản; đồng thời, nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.
- Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức
mạnh của tư bản cá biệt, do đó, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung
tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. Ảnh
hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng mạnh. Tích tụ và tập
trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa
sức lao động. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập
trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Như vậy, quá trình tích lũy tư bản gắn với quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm.
Thứ hai , tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó.
- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động để vận dụng
những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư
liệu sản xuất trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Quan hệ này có tính tất yếu về mặt
kỹ thuật, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định .
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Điều đó
biểu thị ở số lượng tư liệu sản xuất mà một công nhân sử dụng ngày càng tăng lên.
- Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần : tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến (v). Tỷ lệ
giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản
xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung , những sự thay đổi
trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện
mối quan hệ đó, Các Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi cấu tạo kỹ thuật và phản
ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng, kéo theo
sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên
của cấu tạo hữu cơ của tư bản biểu hiện ở chỗ tự bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả
biến có thể tăng tuyệt đối , nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích lũy chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn
thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản. Còn nguyên nhân sâu xa của nạn thất nghiệp lại chính là ở quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà tư bản với
thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa , thu nhập mà các nhà tư bản có được,
lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng tiến công của người lao động làm thuê. C.Mác đã quan
sát thấy thực tế này và ông gọi đó là sự bần cùng hóa người lao động.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Hiểu rõ quy luật chung, xu hướng vận động của tích lũy tư bản gắn liền với sự gia
tăng của tích tụ, tập trung tư bản và cấu tạo hữu cơ. - Ý nghĩa thực tiễn;
+ Tích tụ và tập trung tư bản, vốn: có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau, làm tăng thu nhập
quốc dân và sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội trong quá trình sản xuất.
+ Quá trình tích lũy tư bản chủ nghĩa một mặt thúc đẩy CNTB phát triển mạnh mẽ, mặt khác nảy sinh
nhiều mâu thuẫn, hạn chế, dẫn đến phân hóa thu nhập ngày càng sâu sắc, bần cùng hóa giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
+ Quá trình tích lũy tư bản (vốn) làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản (vốn) tăng lên xuất hiện thất
nghiệp là vấn đề có tính quy luật dưới sự tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ (đặc biệt trong điều kiện
CMCN 4.0), cần có những dự báo về xu hướng này để tổ chức, quản lý nguồn nhân lực hiệu quả. Để đáp ứng
sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, người lao động cần nâng cao tay nghề, chuyển đổi ngành nghề thích hợp.
Câu 7. Phân tích những đặc trưng của kinh tế thị trưHng định hướng xI hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Khái niệm kinh tế thị trưHng định hướng xI hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng
thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phJn kinh tế :
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể là nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng, cho phép huy động mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, kích thích cạnh tranh, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Tại sao thành phJn kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Thứ nhất, là đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc
biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình
thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình
thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện
các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu
vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực
hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu
tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu
quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình trong việc
đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.
Thứ hai, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một
loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư
phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút
hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau: 1- Nắm giữ
những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí,
trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). 2- Tham
gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập
kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản
phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do
bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng xã
hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa
chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo
vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã
hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...
Câu 8: Phân tích tính tất yếu và những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
*Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh
tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
*Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cJu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo
ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn
hóa, kinh tế… trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội… trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là
động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Toàn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực hóa kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý
nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị
trường chung… nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xóa bỏ những cản trở
trong việc di chuyển vốn, lực lượng lao động, hàng hóa dịch vụ…tiến tới tự do hóa hoàn toàn những di
chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh
tế quốc tế trở thành yếu tố khách quan: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân
công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền
kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn cầu. Trong toàn
cầu kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vị toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế
quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là các
nước đang kém phát triển trong điều kiện hiện nay
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng
được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển
của mình. Khi mà các nước tư bản giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn
lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới thì chỉ cso phát triển kinh tế mở và
hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể tiếp cận được những năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển có thể tận
dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô. Việc mở cửa thị
trường, thu hút vốn không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóa mà còn tăng tích lũy, cải thiện thâm hụt ngân sách,
tạo niềm tin cho các chương trình hỗ trợ quốc tế trong cải cách kinh tế và mở cửa.
*Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế
giới. Do đó, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực đồng thời đưa đến nhiều thách thức đối với
quá trình phát triển của Việt Nam.
Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều
kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục
vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững .
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện
đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ
quốc gia; nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc
tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức
quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ hưởng các
sản phẩm hàng hóa. dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và
xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý.
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị
tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ tới chính trị, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao
vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc
tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội.
Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh
tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên
ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và
các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy
cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều
tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong
chuỗi giá trị toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc
gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn
trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên
quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp.
Tóm lại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng rất khó lường.
Là sinh viên cần phải làm gì?: Cần phải chủ động thay đổi tư duy và thay đổi hành động: chủ động học ngoại
ngữ (thậm chí là học nhiều ngoại ngữ), tham gia các hoạt động giao lưu văn hoá, tham gia các diễn đàn/hội
thảo cũng như chủ động theo dõi các tin tức, các vấn đề thời sự quốc tế hiện nay một cách chọn lộc. thay đổi
tư duy theo hướng mở, phản biện, hoà nhập chứ không hoà tan……. (Các bạn phân tích thêm nhé, chém gió vào).
Câu 9: Cách mạng công nghiệp: Khái niệm:
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp các công nghệ giúp
xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học.
Cuộc CMCN lần thứ 4 được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ
chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT)
và Internet của các dịch vụ (IoS).
Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác
động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,…
Tóm lại, một cách hiểu đơn giản hơn: Công nghiệp 4.0 là quá trình tích hợp tất cả các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức sản xuất, kinh doanh.
CMCN 4.0 có một số đặc trưng sau:
- Kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể (Cyber-Physical Systems _ CPS): CMCN 4.0 đặc trưng bởi sự hợp
nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết
hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối Internet (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS)
(Nguyễn Thắng và cộng sự, 2016).
- Qui mô và tốc độ phát triển lớn, chưa có tiền lệ trong lịch sử: CMCN 4.0 diễn ra theo cấp số nhân. Những
đột phá công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực với tốc độ rất nhanh và tương tác thúc đẩy nhau đang tạo ra
một thế giới được số hóa, tự động hóa và ngày càng trở nên hiệu quả và thông minh hơn.
- Tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới: Cuộc CMCN lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế,
xã hội và môi trường ở tất cả các cấp – toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia.
- Tạo ra những thay đổi to lớn trong các lĩnh vực sản xuất: Nếu như nguyên liệu chủ đạo trong sản xuất vật
chất ở các cuộc CMCN trước đây phần lớn là tài nguyên thiên nhiên hoặc có nguồn gốc từ tự nhiên như đất
đai, khoáng sản, tài nguyên rừng biển… thì trong cuộc CMCN 4.0, “nguyên liệu” chủ yếu và quan trọng hàng đầu là chất xám.
- Mọi tồn tại trong cuộc sống thực đều có một bản sao trong thế giới ảo: Những giao dịch trong thế giới ảo
được thực hiện bằng việc kết nối Internet. Sản xuất ảo, sản phẩm ảo, giao dịch ảo nhưng tác động nó mang
lại là thật. Tính chất kết nối không giới hạn của vạn vật từ thế giới ảo tiến tới xóa bỏ rào cản địa lý giữa các quốc gia.
Vai trò của CMCN 4.0 đến phát triển kinh tế - xI hội Việt Nam:
Một là, nhờ ứng dụng hiện đại của công nghệ thông tin mang lại người dân có nhiều cơ hội tham gia vào
hoạt động quản lý nhà nước, giám sát và phản biện đối với các cơ quan công quyền, trong đó có Chính phủ.
Người dân dễ dàng, thuận tiện tìm kiếm thông tin; mức độ tin cậy, độ phong phú của thông tin gia tăng; tiết
kiệm được thời gian và công sức. Đồng thời, Chính phủ tiếp cận được những thông tin phản hồi từ phía
người dân, doanh nghiệp trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn, từ đó có dự báo, chủ động điều chỉnh cho phù
hợp, kịp thời và nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp một cách tốt nhất.
Hai là, tạo ra cơ hội để nguồn nhân lực của bộ máy nhà nước nói chung, Chính phủ nói riêng có điều kiện
giao lưu với thế giới thông qua việc trao đổi chuyên gia, hợp tác khoa học và chuyển giao công nghệ. Đồng
thời, tạo động lực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ chuyên gia và cán bộ, công chức, viên chức.
Ba là, ứng dụng Big Data kết hợp với AI đã và đang mang lại nhiều lợi ích giúp Chính phủ dự đoán được
tỷ lệ thất nghiệp, xu hướng nghề nghiệp của tương lai để có điều chỉnh phù hợp. Trong đó Chính phủ sẽ ưu
tiên tập trung đầu tư cho một số hạng mục có triển vọng phát triển, cắt giảm chi tiêu, kích thích tăng trưởng
kinh tế, tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc, nâng cao chất lượng các dịch vụ công