Đề cương Lịch sử Đảng CSVN - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Đề cương Lịch sử Đảng CSVN - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Senvà thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học.

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSVN
Sự ra đời của Đảng bắt nguồn từ cuộc đấu tranh của nhân dân chống đế quốc, được
định hướng dẫn đường bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, đáp ứng những nhu cầu cấp
bách của dân tộc độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng một vai trò to lớn
cho sự thành lập của Đảng, nhờ đó, cách mạng Việt Nam một đảng cách
mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên lật đổ ách áp bức, bóc lột của
thực dân, phong kiến đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự ra đời của Đảng ta được thể hiện:
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, chủ quyền dân tộc bị thực
dân Pháp xâm lược biến thành thuộc địa. hội Việt Nam Từ đó đã biến đổi một
cách mạnh mẽ, hoàn toàn lệ thuộc vào thực dân Pháp, hội trở nên lạc hậu bần
cùng hóa do chế độ thực dân cai trị độc tài chuyên chế. Tuy nhiên, nhờ truyền
thống yêu nước tinh thần dân tộc, hàng loạt phong trào yêu nước đã diễn ra
nhằm mục tiêu giành lại độc lập thống nhất, VD: khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi
Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế…… Tuy
nhiên, các phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại thiếu lực lượng, tổ chức lãnh đạo, chưa
hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa luận đường lối cách mạng
đúng đắn. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc
của các cách thức, chiến thuật đấu tranh cứu nước truyền thống, lạc hậu, không bắt
kịp sự thay đổi của thời cuộc.Nhưng sự thất bại đó không hề ích, động lực
thôi thúc ý chí của con người Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải
một lực lượng, hệ tưởng mới dẫn đường.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh với lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tưởng tiến bộ của nhân loại về
“tự do, bình đẳng, bắc ái”, với tầm nhìn chiến lược phương pháp duy sáng tạo,
nhận thấy sự bế tắc của con đường cứu nước.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt động không
ngừng nhiều quốc gia, hầu khắp các châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức
sâu sắc mối quan hệ gắn mật thiết giữa giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp,
giải phóng hội giải phóng con người. Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính một động lực lớn của cách mạng
đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác Lênin. Người nhận thức, chỉ
kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu nước
mới thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính đảm bảo cho cách
mạng phát triển đúng hướng đi đến thắng lợi.
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào trong
nước bằng nhiều hình thức khác nhau. Người đã phác thảo những vấn đề bản về
đường lối cứu nước đúng đắn của dân tộc,thông qua các bài giảng của Người cho
những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc).
Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in thành sách
lấy tên Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt tác dụng lớn
không chỉ đối với Việt Nam, còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông dụ như:
- Cách mạng sự nghiệp của quần chúng, tầng lớp công nông, vậy phải tổ
chức lại quần chúng;
- Cách mạng muốn thành công phải một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải
đường lối phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc
phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng sản thế giới…
a. tưởng
Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa
khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa, sau đó sáng lập
tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).
Người viết nhiều bài trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng
sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa
nghiên cứu luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản
công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, NAQ tích cực tố cáo, lên án
bản chất áp bức, bóc lột, dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước
thuộc địa kêu gọi, thức tỉnh dân dân các nước bị áp bức đấu tranh giải phóng.
Người chỉ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân nhân dân lao động trên
toàn thế giới. Đồng thời, NAQ tiến hành tuyên truyền tưởng về con đường cách
mạng sản, con đường cách mạng theo luận Mac-Lenin, xây dựng mối quan hệ
gắn giữa những người cộng sản nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc
địa phụ thuộc.
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh ( 1927), NAQ khẳng định: “Đảng muốn vững thì
phải chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng không chủ nghĩa cũng như người không trí khôn, tàu không
bàn chỉ nam.” Phải truyền tưởng sản, luận Mac-Lenin vào phong trào
công nhân phong trào yêu nước Việt Nam.
b. Tổ chức
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng sản - cho dân tộc
Việt Nam, NAQ khẳng định phải “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập.” vậy, sau một thời
gian hoạt động Liên để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng sản, tháng
11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc), nơi đông người VN yêu nước
hoạt động để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản. Tháng
2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm
cộng sản đoàn.
Tháng 6/1925, NAQ thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của
Hội, mục đích: làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp giành độc lập cho xứ
sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc thực hiện chủ
nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ
hay thành bộ, huyện bộ chi bộ. Tổng bộ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ
đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do NAQ sáng lập trực tiếp chỉ đạo), tuyên
truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mac - Lenin phương
hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng
Việt ra hàng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21/6/1925 ra số đầu tiên, đến
tháng 4/192 7, báo ra được 88 số. Sau khi NAQ rời Quảng Châu (4/1927) đi Liên Xô,
những đồng chí khác trong tổng bộ vẫn tiếp tục xuất bản hoạt động cho đến tháng
2/1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải). Một số lượng
lớn báo Thanh niên được mật đưa về nước tới các trung tâm phong trào yêu
nước của người Việt Nam nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của
báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do NAQ trực tiếp phụ
trách, phái người về nước vận động, lựa chọn đưa một số thanh niên tích cực
sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến
tháng 4/1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13A 13B
đường Văn Minh, Quảng Châu. Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về
nước xây dựng phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng sản.
Trong số hội viên được đào tạo Quảng Châu, nhiều đồng chí được cử đi học tại
Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) trường Quân sự Hoàng Phố (Trung
Quốc). Sau sự biến chính trị Quảng Châu (4/1927), NAQ trở lại Moscow sau đó
được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, NAQ trở
về Châu Á hoạt động Xiêm (Thái Lan).
Các bài giảng của NAQ trong các lớp huấn luyện, bồi dưỡng cho những người VIệt
Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông
xuất bản cuốn Đường Kách Mệnh. Đây cuốn sách chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của luận cách mạng Việt Nam được đặt
lên vị trí quan trọng hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng đối với đảng cách
mạng tiên phong. Đường Kách Mệnh xác định con đường, mục tiêu, lực lượng
phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tưởng nổi bật của
NAQ dựa trên sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lenin vào đặc điểm của
Việt Nam. Những điều kiện về tưởng, luận chính trị tổ chức để thành lập
Đảng đã được thể hiện trong tác phẩm.
trong nước, từ đầu năm 1926, Hội VN Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát
triển sở, đến năm 1927, các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng
sở trong Việt kiều Xiêm. Hội VN Cách mạng Thanh niên chưa phải chính
đảng cộng sản, những chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường
của giai cấp công nhân, tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng
sản Việt Nam. Hội tổ chức trực tiếp truyền chủ nghĩa Mac - Lenin vào Việt
Nam cũng sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam. Những hoạt động của Hội ảnh hưởng thúc
đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt
Nam những năm 1928 - 1929 theo xu hướng cách mạng sản. Đó tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Note
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước
chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích
cực truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tưởng
tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
Về chính trị: Người tích cực truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước; phác
thảo những vấn đề bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Đầu năm
1927, tập Đề cương bài giảng do Nguyễn Ái Quốc biên soạn làm tài liệu huấn luyện
chính trị Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản thành sách với nhan
đề Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường Kách mệnh được mật đưa về trong
nước sớm trở thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính trị theo chủ
nghĩa Mác - Lênin hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực
tế, Đường Kách mệnh đã ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng
trong cả nước, đặc biệt tại Thành phố Sài Gòn Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân
tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng Cộng sản để gánh vác nhiệm vụ lịch sử
trọng đại lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt tác
dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông, đó là: cách mạng sự nghiệp
của quần chúng, chủ yếu công nông, vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách
mạng muốn thành công phải một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải đường lối
phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ
với cách mạng sản thế giới…
Về tưởng: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt giai cấp
công nhân, làm cho hệ tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống
hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của
giai cấp công nhân. Nội dung truyền những nguyên bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong hội.
Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng
được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội
ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt Nam. Trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng
“thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; “đày đọa”
phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân “độc ác như một bầy thú
dữ”... Tác phẩm đã “hướng các dân tộc bị áp bức” đi theo con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga, tiêu diệt “hai cái vòi của con đỉa đế quốc” - một “vòi” bám vào giai
cấp sản chính quốc, một “vòi” bám vào nhân dân thuộc địa đề ra cho Nhân
dân Việt Nam con đường cách mạng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về tổ chức: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra
đời của chính đảng sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành Quảng Châu (Trung Quốc)
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào
tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp
cho những người Việt Nam yêu nước dễ tiếp thu tưởng cách mạng của Người,
phản ánh duy sáng tạo thành công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức
cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta tiếp
tục phát triển mạnh về số lượng chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc những chiến tiên phong truyền về trong nước, cùng với
phong trào “vô sản hóa” làm chuyển biến phong trào công nhân, giác ngộ tổ chức
họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hóa”, lớp
lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp
công nhân sâu sắc, hiểu nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân nhân dân
lao động, thúc đẩy phong trào công nhân phong trào yêu nước phát triển mạnh
mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên Việt Nam, tạo điều kiện
chín muồi hợp quy luật cho sự ra đời của Đảng.
Nội dung sở của đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (trang 145)
- 3 văn kiện:
Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng
(12/12/1946).
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946).
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng thư Trường
Chinh (9/1947).
- Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.”
a. Tình hình chiến sự Việt Nam
Tháng 11 năm 1946 thì Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải
Phòng thị Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng gây nhiều cuộc khiêu khích
Nội
Ngày đó Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên hệ với Pháp để giải
quyết bằng viện pháp đàm phán thương lượng. Vào ngày 19/12/1946 thì Ban
thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng tại Vạn Phúc (Hà Đông)
dưới sự chủ trì của chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó.
Hội nghị đã cử phái viên đi gặp đàm phán với Pháp những không thành.
Sau đó nhận thấy không hòa hoãn với Pháp được nên Hội nghị đã hạ quyết
tâm đi đến phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước.
“ĐườnglốikhángchiếncủaĐảngđượcthểhiện tập trung các văn kiện như
Toàn dânkhángchiếncủaTrungươngĐảng12/12/1946,Lờikêugọitoàn
quốc kháng chiến của Hồ ChíMinh19/12/1946vàtácphẩmkhángchiếnnhất
địnhthắnglợicủaTrườngChinh9/1947.”
b. Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp năm 1946-1954
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành,
bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945
đến 1947.
Nội dung đường lối: Dựa trên sức mạnhtoàndân,toàndiện,lâudàidựa
vàosứcmìnhlàchính.
Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền
độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn, nền tự do dân chủ góp phần bảo
vệ hòa bình thế giới.
Kháng chiến toàn dân đem toàn bộ sức dân, tài dân. lực dân, động viên
toàn dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của
cả nước, đánh địch mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân một chiến sĩ, mỗi
làng một pháo đài, mỗi đường phố một mặt trận”. Trong đó quân đội
nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không
chỉ bằng quân sự cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tưởng, ngoại giao,
trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính
quyết định. Động viên phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của
dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng
chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ
kháng chiến một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch, vừa xây dựng,
phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên
chiến trường lợi cho ta, lấy thời gian lực lượng vật chất để chuyển hóa
yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không nghĩa kéo dài thời
hạn phải luôn tranh thủ, chớp thời thúc đẩy cuộc kháng chiến bước
nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình chính, sự kế thừa tưởng chiến lược
trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của
lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức
mạnh vật chất, tinh thần trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực
chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên sở đó, tìm kiếm, phát huy
cao độ hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần vật chất của quốc tế khi
điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối yếu tố quan trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh đường lối
kháng chiến của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn đường, động viên toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng
ứng trong suốt quá trình kháng chiến trở thành một nhân tố quan trọng
hàng đầu quyết định thắng lợi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Từ sở thực tiễn đấu tranh ngày càng phong phú của khởi nghĩa trang
chiến tranh cách mạng lâu dài, đường lối quân sự của Đảng ngày càng
thêm những sở khoa học vững chắc, tính chiến đấu cao nên ngày càng
hoàn chỉnh trở thành ngọn cờ trăm trận trăm thắng của lực lượng trang
cách mạng Việt Nam toàn dân tộc Việt Nam.
Đường lối quân sự của Đảng đường lối khởi nghĩa trang toàn dân;
Tính chất kháng chiến: trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
Mục đích kháng chiến: Kế tục phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất độc
lập”.
Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính một cuộc chiến tranh
cách mạng tính chất dân tộc độc lập dân chủ tự do…nhằm hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc phát triển dân chủ mới”.
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
chính.
- Kháng chiến toàn dân: “Bất đàn ông, đàn không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất người già, người trẻ. Hễ người Việt Nam
phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân một
chiến sĩ, mỗi làng xóm một pháo đài.
- Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào các dân tộc yêu
chuộng tự do, hòa bình.
Về quân sự: thực hiện trang toàn dân, xây dựng lực lượng trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân đất đai, thực hiện du kích chiến
tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, “triệt để dùng du kích, vận động
chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa trang thêm;
vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp công nghiệp quốc
phòng.
Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân
chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp
với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu
Pháp công nhận Việt Nam độc lập,…
- Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Để chống âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của Pháp, để thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa
lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn đích đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
- Dựa vào sức mình chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, ta bị
bao vây bốn phía. Khi nào điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước, song lúc đó cũng không được lại.
- Triển vọng kháng chiến: mặc lâu dài, gian khổ, khó khăn song
nhất định thắng lợi.
| 1/23

Preview text:

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CSVN
Sự ra đời của Đảng bắt nguồn từ cuộc đấu tranh của nhân dân chống đế quốc, được
định hướng và dẫn đường bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, đáp ứng những nhu cầu cấp
bách của dân tộc là độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng một vai trò to lớn
cho sự thành lập của Đảng, và nhờ đó, cách mạng Việt Nam có một đảng cách
mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên lật đổ ách áp bức, bóc lột của
thực dân, phong kiến đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự ra đời của Đảng ta được thể hiện:
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, Việt Nam từ một quốc gia độc lập, có chủ quyền dân tộc bị thực
dân Pháp xâm lược và biến thành thuộc địa. Xã hội Việt Nam Từ đó đã biến đổi một
cách mạnh mẽ, hoàn toàn lệ thuộc vào thực dân Pháp, xã hội trở nên lạc hậu và bần
cùng hóa do chế độ thực dân cai trị độc tài và chuyên chế. Tuy nhiên, nhờ truyền
thống yêu nước và tinh thần dân tộc, hàng loạt phong trào yêu nước đã diễn ra
nhằm mục tiêu giành lại độc lập thống nhất, VD: khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi
Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế…… Tuy
nhiên, các phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại là thiếu lực lượng, tổ chức lãnh đạo, chưa
có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng
đúng đắn. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc
của các cách thức, chiến thuật đấu tranh cứu nước truyền thống, lạc hậu, không bắt
kịp sự thay đổi của thời cuộc.Nhưng sự thất bại đó không hề vô ích, nó là động lực
thôi thúc ý chí của con người Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có
một lực lượng, hệ tư tưởng mới dẫn đường.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về
“tự do, bình đẳng, bắc ái”, với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo,
nhận thấy sự bế tắc của con đường cứu nước.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt động không
ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức
sâu sắc mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và giải phóng con người. Và Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn của cách mạng
và đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin. Người nhận thức, chỉ
có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính đảm bảo cho cách
mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước và
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.

Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
nước bằng nhiều hình thức khác nhau. Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản về
đường lối cứu nước đúng đắn của dân tộc,thông qua các bài giảng của Người cho
những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in thành sách
lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn
không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông ví dụ như: -
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, tầng lớp công nông, vì vậy phải tổ chức lại quần chúng; -
Cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có
đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc
phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới… a. Tư tưởng
Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa
khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa, sau đó sáng lập
tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).
Người viết nhiều bài trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng
sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa
nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, NAQ tích cực tố cáo, lên án
bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước
thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh dân dân các nước bị áp bức đấu tranh giải phóng.
Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
toàn thế giới. Đồng thời, NAQ tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách
mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mac-Lenin, xây dựng mối quan hệ
gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh ( 1927), NAQ khẳng định: “Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam.” Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mac-Lenin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. b. Tổ chức
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản - cho dân tộc
Việt Nam, NAQ khẳng định phải “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập.” Vì vậy, sau một thời
gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng
11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc), nơi có đông người VN yêu nước
hoạt động để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản. Tháng
2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm cộng sản đoàn.
Tháng 6/1925, NAQ thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của
Hội, mục đích: làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ
sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ
nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ
hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ
đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do NAQ sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên
truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mac - Lenin và phương
hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng
Việt và ra hàng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21/6/1925 ra số đầu tiên, đến
tháng 4/192 7, báo ra được 88 số. Sau khi NAQ rời Quảng Châu (4/1927) đi Liên Xô,
những đồng chí khác trong tổng bộ vẫn tiếp tục xuất bản và hoạt động cho đến tháng
2/1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng Hải). Một số lượng
lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các trung tâm phong trào yêu
nước của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của
báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do NAQ trực tiếp phụ
trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực
sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến
tháng 4/1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13A và 13B
đường Văn Minh, Quảng Châu. Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về
nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
Trong số hội viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học tại
Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân sự Hoàng Phố (Trung
Quốc). Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4/1927), NAQ trở lại Moscow và sau đó
được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, NAQ trở
về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (Thái Lan).
Các bài giảng của NAQ trong các lớp huấn luyện, bồi dưỡng cho những người VIệt
Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
xuất bản cuốn Đường Kách Mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách
mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng Việt Nam được đặt
lên vị trí quan trọng hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách
mạng tiên phong. Đường Kách Mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và
phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của
NAQ dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lenin vào đặc điểm của
Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức để thành lập
Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội VN Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát
triển cơ sở, đến năm 1927, các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng
cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm. Hội VN Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính
đảng cộng sản, những chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường
của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng
sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mac - Lenin vào Việt
Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng
của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc
đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt
Nam những năm 1928 - 1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Note
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và
chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921-1929, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước; phác
thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Đầu năm
1927, tập Đề cương bài giảng do Nguyễn Ái Quốc biên soạn làm tài liệu huấn luyện
chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản thành sách với nhan
đề Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường Kách mệnh được bí mật đưa về trong
nước và sớm trở thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính trị theo chủ
nghĩa Mác - Lênin và hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực
tế, Đường Kách mệnh đã có ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng
trong cả nước, đặc biệt tại Thành phố Sài Gòn và ở Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân
tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng Cộng sản để gánh vác nhiệm vụ lịch sử
trọng đại là lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác
dụng lớn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông, đó là: cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách
mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ
với cách mạng vô sản thế giới…
Về tư tưởng: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp
công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống
xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của
giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng
được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội
ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt Nam. Trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng
“thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; “đày đọa”
phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân “độc ác như một bầy thú
dữ”... Tác phẩm đã “hướng các dân tộc bị áp bức” đi theo con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga, tiêu diệt “hai cái vòi của con đỉa đế quốc” - một “vòi” bám vào giai
cấp vô sản ở chính quốc, một “vòi” bám vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho Nhân
dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về tổ chức: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra
đời của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào
tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc)
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào
tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp
cho những người Việt Nam yêu nước dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người,
phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta tiếp
tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với
phong trào “vô sản hóa” làm chuyển biến phong trào công nhân, giác ngộ và tổ chức
họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hóa”, lớp
lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp
công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh
mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện
chín muồi và hợp quy luật cho sự ra đời của Đảng.
Nội dung và cơ sở của đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (trang 145) - 3 văn kiện:
Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946).
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946).
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (9/1947). -
Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.”
a. Tình hình chiến sự Việt Nam
Tháng 11 năm 1946 thì Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải
Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích ở Hà Nội
Ngày đó Trung ương Đảng đã chỉ đạo và tìm cách liên hệ với Pháp để giải
quyết bằng viện pháp đàm phán thương lượng. Vào ngày 19/12/1946 thì Ban
thường vụ Trung ương Đảng họp và hội nghị mở rộng tại Vạn Phúc (Hà Đông)
dưới sự chủ trì của chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó.
Hội nghị đã cử phái viên đi gặp và đàm phán với Pháp những không thành.
Sau đó nhận thấy không hòa hoãn với Pháp được nên Hội nghị đã hạ quyết
tâm đi đến phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước.
“ĐườnglốikhángchiếncủaĐảngđượcthểhiện tập trung ở các văn kiện như
là Toàn dânkhángchiếncủaTrungươngĐảng12/12/1946,Lờikêugọitoàn
quốc kháng chiến của Hồ ChíMinh19/12/1946vàtácphẩmkhángchiếnnhất
địnhthắnglợicủaTrườngChinh9/1947.”
b. Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp năm 1946-1954
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành,
bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947.
Nội dung đường lối: Dựa trên sức mạnhtoàndân,toàndiện,lâudàivàdựa vàosứcmìnhlàchính.
Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền
độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn, vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân. lực dân, động viên
toàn dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của
cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi
làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó quân đội
nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không
chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao,
trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính
quyết định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của
dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ
kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch, vừa xây dựng,
phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên
chiến trường có lợi cho ta, lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa
yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời
hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước
nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược
trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của
lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức
mạnh vật chất, tinh thần trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực
chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, tìm kiếm, phát huy
cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi
có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối
kháng chiến của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn đường, động viên toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng
ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng
hàng đầu quyết định thắng lợi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ cơ sở thực tiễn đấu tranh ngày càng phong phú của khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh cách mạng lâu dài, đường lối quân sự của Đảng ngày càng có
thêm những cơ sở khoa học vững chắc, có tính chiến đấu cao nên ngày càng
hoàn chỉnh và trở thành ngọn cờ trăm trận trăm thắng của lực lượng vũ trang
cách mạng Việt Nam và toàn dân tộc Việt Nam.
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối khởi nghĩa vũ trang toàn dân;
Tính chất kháng chiến: trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc chiến tranh
cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…nhằm hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ mới”.
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. -
Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam
phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. -
Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến
tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động
chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa đánh vừa võ trang thêm;
vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung phát triển
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân
chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp
với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu
Pháp công nhận Việt Nam độc lập,… -
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Để chống âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa
lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn đích đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. -
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị
bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại. -
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.