










Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442
18. Hình thức pháp luật: khái niệm, nguồn pháp luật, các
loại nguồn pháp luật, liên hệ.
• Hình thức pháp luật là những dạng tồn tại thực tế của pháp luật trong
các kiểu nhà nước. Hình thức pháp luật cũng là một phương thức
phản ánh ý chí của giai cấp cầm quyền ra bên ngoài thông qua việc
hợp pháp hoá trong các hoạt động làm luật và ban hành luật của các
nhà nước. Hình thức pháp luật là những cách thức mà giai cấp thống
trị đã sử dụng để thể hiện ý chí của giai cấp mình thành những thể chế bắt
buộc trong xã hội. Lợi dụng địa vị thống trị của mình, giai cấp thống trị đã
hợp pháp hoá ý chí của mình thành ý chí nhà nước thông qua các hoạt động lập pháp.
• Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tổ chứa đựng hoặc cung
cấp căn cứ pháp lý đế các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Nói
cách khác, nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng
hoặc cung cấp căn cứ pháp lý cho hoạt động của cơ quan nhà
nước, nhà chức trách có thấm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
• Các nguồn pháp luật: Tập quán pháp
Tập quán pháp là những tập quản của cộng đồng được nhà nước thừa nhận,
nâng lên thành pháp luật.
Tập quán pháp vừa là một loại nguồn, đồng thời cũng là một hình thức thể hiện,
một dạng tồn tại của pháp luật trên thực tế. Ở hình thức này, pháp luật tồn tại dưới
dạng thói quen ứng xử của cộng đồng. Nhà nước thừa nhận một tập quán thành
tập quán pháp không chỉ đơn giản là sự chấp nhận (không phản đối) của nhà nước
đối với một tập quán, khuyến khích xử sự theo tập quán đó mà quan trọng là đưa
quyền lực nhà nước vào trong tập quán đó. Chính vì vậy, khi một tập quán được
thừa nhận là tập quán pháp nó sẽ trở nên có ý nghĩa bắt buộc và mang tính
cưỡng chế. Việc nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp có ý
nghĩa đối với cả nhà nước và xã hội. Đối với nhà nước, tập quán pháp đóng vai trò
quan trọng tạo nên hệ thống pháp luật của một quốc gia. Thông thường, nhà
nước thừa nhận một tập quán nào đó, biến chúng thành tập quán pháp nhằm
đáp ứng nhu cầu quản lí của nhà nước, trong khi chưa có nhu cầu hoặc chưa
có điều kiện xây dựng pháp luật thành văn. Đối với xã hội, tập quán pháp thể hiện
sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen ứng xử của cộng đồng, đó chính là sự thống lOMoAR cPSD| 40551442
nhất giữa ý chí nhà nước với ý chí cộng đồng. Mặt khác, khi thừa nhận một tập
quán là tập quán pháp, nhà nước có các biện pháp kinh tế xã hội nhằm
khuyến khích xử sự theo tập quán đó, nhờ đó, tập quán được giữ gìn và phát huy.
Nhà nước thừa nhận tập quán thành tập quán pháp bằng nhiều cách thức
khác nhau, có thể liệt kê danh mục các tập quán được nhà nước thừa nhận, viện
dẫn các tập quán trong pháp luật thành văn, áp dụng tập quán để giải quyết vụ
việc phát sinh trong thực tiễn... Nói cách khác, tập quán pháp có thể được tạo ra từ
hoạt động của cơ quan lập pháp, cũng có thể được tạo ra từ hoạt động của các cơ
quan tư pháp khi áp dụng tập quán để giải quyết một vụ việc cụ thể. Tùy điều kiện,
hoàn cảnh của đất nước mà nhà nước thừa nhận một tập quán nào đó thành tập
quán pháp. Nhìn chung, nhà nước thường chỉ thừa nhận những tập quán không
trái với những giá trị đạo đức xã hội và trật tự công cộng.
Có thể nói, tập quán pháp là loại nguồn pháp luật được sử dụng sớm
nhất, tồn tại một cách khá phổ biến trong thời kì chưa có pháp luật thành văn.
Tuy nhiên, tập quán pháp có hạn chế là không xác định, tản mạn, thiếu
thống nhất..., vì vậy, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, văn bản
quy phạm pháp luật ngày càng chiếm ưu thế thì tập quán pháp ngày càng bị thu
hẹp phạm vi sử dụng. Trong điều kiện hiện nay, tập quán pháp đóng vai trò là
nguồn bổ sung cho các văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, trong
hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, với những lí do chủ quan
và khách quan làm cho văn bản quy phạm pháp luật có thể có những hạn chế
nhất định. Trong điều kiện đó, tập quán của địa phương là nguồn bổ sung quan
trọng cho những khoảng trống trong các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật
của các quốc gia thường có các quy định cụ thể về thứ tự áp dụng đôi với tập quán pháp.
2.2 Tiền lệ pháp (án lệ)
Tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm
quyền khỉ giải quyết các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa
nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác tương tự.
Tiền lệ pháp cũng vừa là nguồn, vừa là hình thức của pháp luật. Đây là loại
nguồn pháp luật khá phức tạp, mặc dù tồn tại phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Với hình thức tiền lệ pháp, pháp luật tồn tại trong các bản án, quyết định hành
chính, tư pháp. Những bản án, quyết định này vốn lOMoAR cPSD| 40551442
được các chủ thể có thẩm quyền ban hành để giải quyết những vụ việc cụ thể, đối với
những cá nhân, tổ chức cá biệt, xác định danh tính. Tuy nhiên, những lập
luận, nhận định, phán quyết được chứa đựng trong những văn bản đó rất điển
hình, mẫu mực, giải quyết vụ việc một cách khách quan, công bằng, “thấu lí, đạt
tình”, chính vì vậy chúng được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận, phát triển
thành khuôn mẫu chung để giải quyết các vụ việc khác có tính chất tương tự.
Những lập luận, nhận định, phán quyết này có thể chưa phải là những quy tắc
hoàn hảo để nhà chức trách viện dẫn áp dụng một cách giản đơn mà có thể chỉ là cơ
sở để nhà chức trách bổ sung, phát triển theo những vụ việc cụ thể và xây dựng
thành quy tắc để áp dụng giải quyết vụ việc mới.
Ví dụ: Chẳng hạn, trong vụ án con ốc sên trong chai bia gừng vừa dân ở trên,
các thâm phán đã lập luận: “Một nhà sản xuất sản phẩm và bán chúng
dưới dạng thức cho thấy rằng nhà sản xuất dự kiến các sản phẩm
đến tay người tịêu dùng ở dạng thức mà người tiêu dùng không
thể có khả năng kiểm tra tương đôi lã, và với nhận thức rằng sự
thiểu cẩn trọng một cách hợp lí trong việc sản xuất, đóng gói sản
phẩm sẽ dẫn tới thiệt hại về sức khỏe, tài sản cho người tiêu dùng
thì phải chịu trách nhiệm cho sự thiếu cẩn trọng đó Từ lập luận này,
một nguyên tắc pháp lý đã được hình thành: nếu nhà sản xuất có lỗi bất cẩn gây
thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.
Trong xã hội hiện đại, nhìn chung các quốc gia trên thế giới thường chỉ thừa
nhận tiền lệ pháp do toà án tạo ra, vì vậy ngày nay tiền lệ pháp còn được gọi là
án lệ. Trên thực tế có hai loại án lệ, một là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật, nguyên
tắc pháp luật mới, đây là loại án lệ cơ bản, án lệ gắn với chức năng sáng tạo pháp
luật của toà án; hai là án lệ hình thành bởi quá trình toà án giải thích các
quy định trong pháp luật thành văn. Loại án lệ thứ hai là sản phẩm của quá
trình toà án áp dụng và giải thích những quy định do cơ quan lập pháp ban
hành. Đó là sự giải thích những quy định mang tính nguyên tắc chung,
quy định có tính nước đôi, hàm ý rộng, không rõ nghĩa, mập mờ hay có sự
xung đột với quy định khác.
Pháp luật của mỗi quốc gia có các quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ
tục pháp lý để tạo ra án lệ. Các bản án, quyết định được thừa nhận là án lệ sẽ
được viện dẫn làm căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ việc có tính chất tương tự. lOMoAR cPSD| 40551442
Án lệ được hình thành từ hoạt động thực tiễn của các chủ thể có thẩm quyền khi giải
quyết các vụ việc cụ thể trên cơ sở khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải...
nên nó dễ dàng được xã hội chấp nhận. Với ưu điểm là linh hoạt, hợp lí, phù hợp
với thực tiễn cuộc song..., án lệ được coi là một loại nguồn pháp luật chủ yếu của
nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế là thủ tục áp dụng
phức tạp, đòi hỏi người áp dụng phải có hiểu biết pháp luật một cách thực sự sâu, rộng. •
19. Các nguyên tắc pháp luật Việt nam: khái niệm, nội
dung của các nguyên tắc pháp luật cơ bản.
• Nguyên tắc pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khát quát sự
vật khách quan liên quan tới quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình
xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình
này phải nghiêm chỉnh tuân theo.
• Nguyên tắc pháp luật được chia thành ba loại : các nguyên tắc
chung-nguyên tắc của toàn bộ hệ thống pháp luật; các nguyên tắc
ngành – nguyên tắc áp dụng cho một số ngành luật và các nguyên
tắc riêng- nguyên tắc đặc thù của từng ngành. Dưới đây, tác giả sẽ đi
sâu vào phân tích các nguyên tắc chung của pháp luật nước ta. • Các nguyên tắc:
Nguyên tắc tuân theo pháp luật và đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp:
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của
nhà nước, được ban hành với một thủ tục đặc biệt và có hiệu lực pháp lý cao nhất. Ở
Việt Nam, theo quy định tại Điều 119, Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013. Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.
Nguyên tắc tuân theo pháp luật và đảm bảo hiệu lực tối cao hiến pháp trong xây
dựng pháp luật được thể hiện ở việc:
– Sự tuân thủ đầy đủ của các tổ chức, cá nhân về thẩm quyền, hình thức, trình
tự, thủ tục trong xây dựng pháp luật. Để bảo đảm cho các quy định pháp luật được
xây dựng có giá trị thì chúng phải được xây dựng đúng thẩm quyền, đúng
trình tự, nội dụng cũng như hình thức. Điều này có nghĩa là các chủ thể chỉ được
tạo lập các nguồn pháp luật phù hợp lOMoAR cPSD| 40551442
với thẩm quyền của mình, theo các trình tự, thủ tục luật định với những hình
thức được quy định trong Hiến pháp và luật.
– Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các quy phạm pháp
luật trong hệ thống quy phạm pháp luật, đặc biệt là phải tôn trọng tính tối cao của
hiến pháp. Điều này đòi hỏi các quy định của cơ quan cấp dưới ban hành
không được trái với quy định của pháp luật cấp trên ban hành, các quy phạm
dưới luật không được trái với các quy định luật và tất cả mọi quy định pháp luật
không được trái với hiến pháp.
Đảm bảo nguyên tắc tuân theo pháp luật và đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp
(nguyên tắc pháp chế) sẽ tránh được tình trạng ban hành nguồn pháp luật
vượt quá thẩm quyền, tránh được tình trạng pháp luật từng địa phương, pháp
luật riêng từng ngành, tránh được sự chồng chéo, sai phạm ở nội dung và
hình thức các loại nguồn pháp luật.
Việt Nam chưa có thiết chế chuyên biệt thực hiện chức năng bảo hiến. Việc Quốc
hội vừa là cơ quan lập hiến vừa là cơ quan bảo hiến dẫn đến một tình trạng thực tế
là tự khi thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến nay chưa có
một luật nào bị bãi bỏ vì bị coi là vi hiến.
Nguyên tắc pháp luật phải thể hiện ý chí của các tầng lớp nhân dân lao động:
Đây là nguyên tắc hiến định của pháp luật trong nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để đảm bảo nguyên tắc này, việc xây
dựng hiến pháp, các bộ luật, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ
chức Chính phủ, Luật tổ chức quốc hội, Luật tổ chức tòa án nhân dân, Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức chính quyền địa phương và các
văn bản pháp luật quan trọng khác phải được nhân dân thảo luận, đống góp ý
kiến một cách rộng rãi.
Đặc biệt, đối với hiến pháp- đạo luật cơ bản của nhà nước, việc xây dựng hoặc sửa
đổi nó cần phải được tiến hành theo một thủ tục đặc biệt. Sau khi đã được nhân dân
thảo luận rộng rãi, phải được Quốc hội thông qua với ít nhát 2/3 số phiếu thuận.
Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật:
Ở Việt nam trong thời kỳ phong kiến và thuộc địa nửa phong kiến, tính chất
pháp luật đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị làm cho đa số dân cư trong xã
hội bất bình với pháp luật, chống đối hoặc khinh bỉ pháp luật. Nguyên tắc mọi công
dân bình đẳng trước pháp luật được thiết lập lOMoAR cPSD| 40551442
được thiết lập sau sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
Nguyên tắc này lần đầu tiên được khẳng định hiến pháp năm 1946, và lần lượt
qua các hiến pháp, cho đến hiến pháp 2013 được quy định cụ thể hơn.
Quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật còn được hiểu trên một bình
diện khác là sự bình đẳng của mọi công dân chịu trách nhiệm trước pháp luật, từ
công dân bình thường đến nguyên thủ quốc gia nếu vi phạm pháp luật đều phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi
bất kỳ cơ quan nhà nước hay nhà chức trách nào cũng đều phải ở trong sự kiểm
soát của pháp luật. Bất kì ai nếu vi phạm phạm pháp luật đều phải được xử lý
nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền công dân và quyền con người:
Pháp luật của Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn luôn tôn trọng và bảo vệ
các quyền công dân và quyền con người, tuy nhiên do quan niệm giản đơn về
quyền con người đã được thể hiện trong các quyền của công dân nên ở các hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980 quyền con người chưa được thể hiện thành một
điều khoản riêng. Cho đến hiến pháp 1992, 2013 thì quyền con người và quyền
công dân chính thức được công nhận. So với khái niệm quyền công dân và
quyền con người, hai khái niệm này là không đồng nhất. Bất kỳ công dân nào
cũng có quyền con người, tuy nhiên không phải bất kỳ người nào cũng được
hưởng quyền công dân. Vì vậy nếu trong hiến pháp không xác lập nghĩa vụ của
nhà nước bảo vệ các quyền con người thì một số chủ thể pháp luật sẽ không được
hiến pháp bảo vệ. Ở nước ta, trong các chủ thể pháp luật là cá nhân, chúng ta
thấy có công dân Việt nam, công dân nước ngoài và người không có quốc
tịch. Những người không quốc tịch có thể là người nước ngoài và người Việt Nam.
Quyền con người là các quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả thể
nhân, đó là các quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà
lập pháp không được xâm hại đến. Bên cạnh việc thể chế hóa trong Hiến pháp và
luật, các quyền công dân và quyền con người trong lĩnh vực chính trị và dân
sự; các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng được thể chế hóa và từng bức
hoàn thiện. Đó là các quyền học tập, lao động, nghiên cứu khoa học nghệ thuật,
quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,…
Thực hiện nguyên tắc bảo vệ quyền công dân và quyền con người, nhà nước
cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về các lOMoAR cPSD| 40551442
quyền cơ bản của công dân và con người trong hiến pháp cũng như việc cụ thể
các quyền đó nhằm tạo ra một cơ chế để đảm bảo thực hiện. Trước hết cần phải có
các quy định cụ thể về quyền tự do xuất bản của công dân Việt Nam để tạo cơ sở
cho việc phát triển và hoàn thiện quyền tự do ngôn luận. Đồng thời, gấp rút xây
dựng Luật trưng cầu ý dân để các vấn đề đặc biệt quan trong của đất nước nhân
dân dân trực tiếp quyết định.
Nguyên tắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản:
Đây là nguyên tắc đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay nhân dân đều trực tiếp bầu cử các đại biểu Quốc hội-
những người có thẩm quyền lập pháp. Quốc hội thay mặt nhân dân cả nước bầu ra
các chức vụ cao nhất trong bộ máy như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ,
Chủ tịch Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, điểm mà chúng ra cần quan tâm là bầu cử cơ quan
lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội đã được thể chế
hóa trong Hiến pháp. Vì vậy, cần quan niệm vấn đề bầu cử của cơ quan nói trên
không còn chỉ là công việc của Đảng mà phải là công việc của mọi công dân Việt
Nam. Thiết nghĩ rằng tiến đến một nền dân chủ thực sự thì mọi công dân Việt Nam
không phụ thuộc vào giai cấp, địa vị xã hội đều có quyền tham gia bầu cử lựa
chọn người lãnh đạo cao nhất của mình.
Đây là nguyên tắc bao hàm toàn bộ hệ thống
Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc:
pháp luật, bởi nó được coi là hòn đá tảng trong chính sách đối nội của nhà nước.
Nguyên tắc này được xây dựng trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc, một trong những
yếu tố cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ Hiến pháp năm 1946 trong
lời nói đầu đã xác định nguyên tắc thứ nhất trong ba nguyên tắc cơ bản của
Hiến pháp là đoàn kết toàn ân không phân biệt giống nòi, gái tai, giai cấp,
tôn giáo. Bản chất của chính sách đại đoàn kết dân tộc ở nước ta không những
là đảm bảo cho sự bình đẳng và thống nhất ý chí giữa các dân tộc mà còn là sự
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Pháp luật của nhà nước thể hiện
chính sách ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số để họ có điều kiện phát triển như
các dân tộc miền xuôi như các chính sách ưu tiên trong công tác đào tạo cán lOMoAR cPSD| 40551442
bội, chính sách miễn giảm thuế, chính sách đầu tư vốn xây dựng cơ sở hạn tầng,..
20. Vai trò của pháp luật VN đối với việc bảo vệ, bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng của con người trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế.
1. 21. Ý thức pháp luật: khái niệm, cơ cấu (các cấp độ) của ý thức
pháp luật, tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật, đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật.
• Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm, quan niệm, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp
luật và các hiện tượng pháp lí khác, thể hiện mối quan hệ giữa
con người đối với pháp luật (pháp luật đã qua, pháp luật hiện
hành và pháp luật cần phải có) và sự đánh giả về mức độ công
bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp... đổi với
các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lí và xã hội.
Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật, xét về cấu trúc, bao gồm hai bộ phận:
1) Tư tưởng pháp luật, đó là tổng thể những quan điểm, quan niệm, học thuyết, sự
hiểu biết về pháp luật;
2) Tâm lí pháp luật, đó là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật. Tình
cảm đó có thể là sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, sự tôn trọng pháp luật hoặc
là sự phản đối, sự thờ ơ, thiếu tôn trọng pháp luật. Ý thức pháp luật có thể hiểu
trên nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy có thể phân chia ý thức pháp luật thành
các loại: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật giai cấp, ý thức pháp luật
xã hội. Trong các nhà nước bóc lột, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị và
giai cấp bị thống trị hoàn toàn khác nhau. Do nhiều quy định của pháp luật
chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị mà không bảo vệ
quyền lợi của giai cấp bị thống trị nên một đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ
lại gặp phải sự phản đối quyết liệt từ phía giai cấp bị thống trị. Trong các nhà
nước dân chủ, tiến bộ khi pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân thì ý
thức pháp luật trong xã hội sẽ thống nhất, việc nâng cao ý thức pháp luật cho
các tầng lớp nhân dân sẽ thuận lợi hơn. Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức
xã hội, chịu sự chỉ phối của tổn tại xã hội. Vì vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật
cho nhân dân, trước hết phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, làm cho đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao. Xây dựng một
xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là tạo ra một nền tảng kinh lOMoAR cPSD| 40551442
tế-xã hội để xây dựng một xã hội có ý thức pháp luật và văn hoá pháp lí cao. Mặt
khác, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối, nó có thể đi trước làm tiền để
cho kinh tế-xã hội phát triển. Vì vậy, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho
các tầng lớp nhân dân trong xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
• Đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật:
Dưới góc độ tổng quan, việc nghiên cứu ý thức pháp luật có thể rút ra những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại
xã hội quy định. Mặc dù vậy, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối với tồn
tại xã hội. Nó phản ánh điều kiện tồn tại xã hội và là cơ sở nhận thức để cải tạo,
phục Vụ xã hội của con người. Gắn liền với sự vận động và phát triển của xã
hội, ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội theo những chiều hướng khác nhau.
• Thứ hai, ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Không có ý thức pháp luật
thuần túy, ngoài giai cấp, phi giai cấp. Suy cho cùng, ý thức pháp luật chính
là sản phẩm từng giai cấp trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Nó là tiền đề
để xây dựng các giá trị, chuẩn mực pháp lý của từng giai cấp đối với xã hội,
là cơ sở để hình thành thế giới quan pháp lý chính thống trong xã hội. Trong
xã hội có giai cấp, sự khác nhau về điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần của
mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội đã đem lại sự khác nhau nhất định về ý thức
pháp luật giữa các giai cấp và các lực lượng cầm quyền.
• Thứ ba, ý thức pháp luật được coi là tiền đề thiết yếu cho quá trình để tạo
lập hay làm ra pháp luật bằng những con đường, cách thức cụ thể khác nhau
thông qua nhà nước. Nhu cầu, khuynh hướng điều chỉnh và phương thức thể
hiện nhà nước bảo đảm cho quá trình pháp luật hóa quan hệ xã hội một cách
phù hợp, sát thực trên thực tế được thực hiện qua phạm trù ý thức pháp luật.
Trong quá trình vận động và phát triển, ý thức pháp luật có tính kế thừa trên
cơ sở chọn lọc đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật trước đó, chẳng
hạn như các nguyên lí, học thuyết của pháp luật hoặc các tư tưởng, giá trị
pháp lý ghi nhận về quyền con người… Trong ý thức pháp luật có bộ phận tư
tưởng khoa học về pháp luật có thể vượt lên trước tồn tại xã hội. Đối với hệ
tư tưởng pháp luật thì tri thức khoa học là yếu tố cơ bản bởi nó có thể đem lại
sự nhìn nhận khách quan đối với tồn tại xã hội. Trong những điều kiện nhất
định, tư tưởng khoa học có tính dẫn đường, đi trước đối với tồn tại xã hội.
Điều này không đơn thuần khẳng định sự độc lập tương đối của ý thức pháp
luật so với tồn tại xã hội mà nó là tiền đề tư tưởng - pháp lý trực tiếp góp
phần phục vụ cho quá trình điều chỉnh pháp luật và công cuộc cải tạo xã hội trên thực tế.
• Thứ tư, ý thức pháp luật có quan hệ và sự tác động qua lại với các hình thái
ý thức xã hội khác cũng như các hiện tượng khác của thượng tầng pháp lý. lOMoAR cPSD| 40551442
Nhìn chung, sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo
đức, ý thức tôn giáo... luôn thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong
quá trình tồn tại và vận động. Sẽ là sự tác động tích cực nếu có sự phù hợp
giữa ý thức pháp luật với các loại hình ý thức đó và ngược lại, đó sẽ là nhân
tố cản trở lẫn nhau nếu giữa các phạm trù ý thức đó thiếu đi sự tương đồng cần thiết. •
• Ý thức pháp luật có thể hiểu trên nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy có thể phân
chia ý thức pháp luật thành các loại: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp
luật giai cấp, ý thức pháp luật xã hội. Trong các nhà nước bóc lột, ý thức
pháp luật của giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị hoàn toàn khác nhau.
Do nhiều quy định của pháp luật chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị mà không bảo vệ quyền lợi của giai cấp bị thống trị nên
một đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ lại gặp phải sự phản đối quyết
liệt từ phía giai cấp bị thống trị. Trong các nhà nước dân chủ, tiến bộ khi
pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân thì ý thức pháp luật trong xã hội
sẽ thống nhất, việc nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân sẽ
thuận lợi hơn. Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chỉ
phối của tổn tại xã hội. Vì vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân, trước hết phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, làm cho đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao. Xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là tạo ra một nền tảng
kinh tế - xã hội để xây dựng một xã hội có ý thức pháp luật và văn hoá pháp
lý cao. Mặt khác, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối, nó có thể đi
trước làm tiền để cho kinh tế - xã hội phát triển. Vì vậy, việc tuyên truyền
giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội, nâng cao ý thức
pháp luật cho nhân dân có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. \ lOMoAR cPSD| 40551442