Đề cương lý luận quan hệ - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Đề cương lý luận quan hệ - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

ĐỀ CƯƠNG LLQHQT
Câu 1: Vô chính phủ là gì? Nêu lập luận về vô chính phủ của chủ nghĩa hiện thực
Tình trạng vô chính phủ là một hệ thống niềm tin phản đối quyền lực của chính phủ, ủng
hộ sự tự quản hoặc cơ chế đồng thuận cộng đồng.
Thuật ngữ này đã trở thành từ đồng nghĩa với hỗn loạn và sự sụp đổ của trật tự dân sự.
Thuật ngữ này bắt nguồn từ một từ Hy Lạp có nghĩa là "không có người cai trị".
Hiểu rõ hơn về tình trạng vô chính phủ
Tình trạng vô chính phủ được chia thành hành hai trường phái tư tưởng riêng biệt.
Một trường phái bác bỏ tất cả các cơ quan chính phủ, ủng hộ niềm tin vào quyền tự do
của cá nhân và quyền tự quản.
Trường phái khác bác bỏ quyền lực của chính phủ, ủng hộ niềm tin vào chủ nghĩa tập thể,
hoặc tính ưu việt của nhóm so với cá nhân.
Các phê phán phổ biến về là nó dẫn đến tình trạng vô luật pháp vàtình trạng vô chính phủ
hỗn loạn. Dù vậy, các tín đồ của triết lí này cho rằng các xã hội vẫn có thể tồn tại nguyên
vẹn và thậm chí phát triển mạnh nếu không bị cai trị bởi các hệ thống phân cấp truyền
thống.
Tình trạng thiếu vắng một siêu chính phủ đứng trên các quốc gia trong quan hệ
quốc tế được gọi là tình trạng vô chính phủ.
VÔ CHÍNH PHỦ CỦA CNHT
-
-
-
-- CNHT cổ điển và CNHT cấu trúc/ tân hiện thực đều dự đoán rằng trong một hệ
thống quốc tế VCP có gây ra xung đột, nhưng vẫn có sự bất đồng về cách thức
VCP sẽ gây ra xung đột
-
-
-
-- Trong khi những người theo chủ nghĩa hiện thực cổ điển cho rằng tính không thể
tránh khỏi của chiến tranh trong 1 hệ thống VCP là do xu hướng phá hoại của bản
chất con người, thì những người theo chủ nghĩa hiện thực cấu trúc lại cho rằng
điều này chẳng liên quan gì đến lý do tại sao các quốc gia tham gia vào cuộc tranh
giành quyền lực. Thay vào đó, CNHT cấu trúc tập trung vào cấu trúc của xã hội
quốc tế để giải thích tại sao các quốc gia lại hành xử theo xu hướng xung đột đó
-
-
-
-- Trong khi CNHT cổ điển cho rằng chiến tranh là tất yếu, những người theo CNHT
cấu trúc cho rằng: mặc dù không có sự hài hòa tự động trong tình trạng VCP
nhưng có thể tạo ra cảm giác trật tự trong tình trạng VCP thông qua sự cân bằng
quyền lực
-
-
-
-- Đối với những người theo CNHT cấu trúc, không chỉ các quốc gia là tác nhân có
liên quan trong chính trị quốc tế mà còn là các quốc gia cường quốc có vai trò quan
trọng đối với sự cân bằng quyền lực trong hệ thống quốc tế. Có ý kiến cho rằng tỷ
lệ quyền lực giữa các cường quốc ảnh hường đến triển vọng hòa bình, chứng tỏ
rằng cấu trúc của hệ thống quốc tế về đơn cực, lưỡng cực hoặc đa cực và bất kì sự
thay đổi quyền lực nào dẫn đến có thể làm tăng hoặc giảm khả năng xảy ra xung
đột quốc tế. Trong trường hợp này, CNHT cấu trúc cho rằng VCP vẫn là nguyên
nhân dễ gây chiến tranh, tuy nhiên các yếu tố của VCP có thể được khắc phục bằng
cách cấu trúc cán cân quyền lực theo cách làm giảm nguy cơ xung đột.
Câu 2:Tại sao A.wendt lại cho rằng “VCP là những gì các quốc gia tạo nên?” .
Nhà kiến tạo Alexander Wendt tuyên bố rằng "Tình trạng hỗn loạn là những gì các quốc
gia tạo ra". Điều đó có nghĩa là nếu một quốc gia gọi hệ thống quốc tế là vô chính phủ thì
đó hoàn toàn là về định nghĩa của quốc gia đó về tình trạng vô chính phủ. Bất kỳ tổ chức
quốc tế nào (chẳng hạn như Liên Hợp Quốc, NATO, v.v.) đều không có ý nghĩa gì cho đến
khi và trừ khi nhà nước nhận thấy các tổ chức này có quyền lực. Cần lưu ý rằng các ý
tưởng và chuẩn mực cá nhân của các cá nhân thường thúc đẩy hệ thống quốc tế.
Trong bài viết của mình , Alexander Wendt đưa ra lời Anarchy Is What States Make of It
phê bình về bản thể luận cấu trúc của chủ nghĩa hiện thực mới (và chủ nghĩa tân tự do), lý
thuyết QHQT nổi bật nhất vào thời điểm đó (Wohlforth 1995). Wendt đề cập đến cuộc
tranh luận liên quan đến mức độ mà hành vi của nhà nước được quyết định bởi cấu trúc
(nghĩa là hệ thống quốc tế vô chính phủ và sự phân bổ quyền lực (vật chất) trong đó) hoặc
quy trình và thể chế. Chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng bản sắc và lợi ích của các quốc
gia là tĩnh và tư lợi, tập trung vào an ninh và sự tồn tại của chính họ trong một hệ thống
vô chính phủ . Do đó, lập luận của chủ nghĩa tân hiện thực cũng vậy, các quốc gia nhất
thiết phải dựa vào sự tự lực, vì “không có cả chính quyền trung ương và an ninh tập
thể”. Chủ nghĩa hiện thực mới không coi tự lực là một thể chế tồn tại thông qua hành vi
của nhà nước và do đó cũng có thể biến mất.
Wendt bác bỏ “tuyên bố của chủ nghĩa hiện thực mới rằng sự tự lực được đưa ra bởi cấu
trúc vô chính phủ một cách ngoại sinh để xử lý. Thay vào đó, nền chính trị quyền lực và
tự lực của các quốc gia nên được coi là nội sinh đối với quan hệ quốc tế; chúng là một
phần của quá trình và sự tương tác giữa các trạng thái. Do đó, chính trị tự lực và chính trị
cường quyền “không tuân theo logic hoặc theo quan hệ nhân quả từ tình trạng vô chính
phủ” chúng là (một trong nhiều khả năng) các thể chế là kết quả của, chứ không phải là
các yếu tố quyết định nguyên nhân của hành vi nhà nước. Do đó, tình trạng vô chính phủ
có thể “chứa đựng những động lực dẫn đến chính trị quyền lực cạnh tranh, nhưng chúng
cũng có thể không” Nó phụ thuộc vào việc các quốc gia tạo ra nó như thế nào, và như
vậy, chúng ta có thể nói về một “sự phụ thuộc bản thể học của cấu trúc” – tình trạng vô
chính phủ nhất định của hệ thống quốc tế
Wendt không tính đến tác động tiêu cực của sự không chắc chắn và sự không chắc chắn
trong hệ thống quốc tế thực sự được củng cố như thế nào bởi khả năng thay đổi nhanh
chóng của các quá trình hình thành lợi ích trong nước.
Lập luận của Wendt rằng tình trạng vô chính phủ không có logic nhân quả cụ thể bị phá
hoại bởi một “khía cạnh quan trọng của thế giới quan hiện thực chủ nghĩa”, mà ông không
đề cập đến: sự không chắc chắn. Ngay cả khi chúng ta chấp nhận rằng tình trạng vô chính
phủ của hệ thống quốc tế không tự động quyết định bản sắc, lợi ích và do đó hành vi của
các quốc gia, thì việc các quốc gia không chắc chắn về ý định (tương lai) của các đối tác
của họ “có thể đủ để dẫn dắt các quốc gia tìm kiếm an ninh để chiến đấu” . Sự nhấn mạnh
của thuyết kiến tạo về tính linh hoạt của các quá trình (trong nước) hình thành bản sắc và
lợi ích củng cố động lực này, vì ý định của các quốc gia có thể nhanh chóng “thay đổi do
các quá trình trong nước độc lập với tương tác quốc tế” .
Theo lý luận của Wendt, những người theo chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng tình trạng
vô chính phủ nhất thiết dẫn đến chính trị tự lực và quyền lực giả định trước “một lịch sử
tương tác trong đó các chủ thể có được bản sắc và lợi ích 'ích kỷ'”. Những đặc điểm như
ích kỷ chỉ có thể tồn tại “trong xã hội” và do đó phải được phát triển tương sau khi
tác .Do đó, vì các quốc gia không bắt đầu mối quan hệ của họ trong tình thế tiến thoái
lưỡng nan về an ninh, nên điểm tiếp xúc đầu tiên là rất quan trọng đối với (sự phát triển)
tương tác xa hơn giữa các quốc gia
Wendt đã tuyên bố, sự hình thành bản sắc trong một hệ thống vô chính phủ “liên quan
trước hết đến việc bảo tồn hoặc 'an ninh' của bản thân”
Wendt thảo luận về chủ quyền như một trong “ba chuyển đổi thể chế của bản sắc và lợi
ích an ninh mà thông qua đó các quốc gia có thể thoát khỏi thế giới Hobbes do chính họ
tạo ra”. Khi đó, việc không công nhận chủ quyền của người khác có thể dẫn đến bạo lực
và xung đột. Mặc dù Wendt đã đúng khi cho rằng “nhà nước có chủ quyền là một thành
tựu liên tục của thực tiễn” nhưng chúng ta không thể hiểu tại sao các quốc gia từ chối
công nhận chủ quyền của bên kia mà không xem xét sự hình thành lợi ích và bản sắc
(trong nước) thực sự.
Xét về cách giải thích mà cách tiếp cận của ông đưa ra, kết quả của những lựa chọn bản
thể học-nhận thức luận mà Wendt đưa ra là việc ông không sẵn lòng (và không có khả
năng) thực sự thách thức “mô tả của chủ nghĩa hiện thực mới về hệ thống nhà nước đương
đại như một thế giới cạnh tranh, tự lực”. Thuyết kiến tạo của Wendt giữ nguyên giả định
cơ bản của chủ nghĩa hiện thực mới – đáng chú ý là định nghĩa về quan hệ quốc tế “là
hành vi của các quốc gia trong tình trạng vô chính phủ”. Do đó, cuối cùng, trong lý thuyết
của Wendt, tình trạng vô chính phủ “không phải là một cấu trúc xã hội mà chỉ đơn giản là
điều kiện gần như tự nhiên mà theo đó các quốc gia nhất định về mặt bản thể học tiến
hành công việc của họ” . Bài phê bình của Wendt về chủ nghĩa tân hiện thực cấu trúc luận
có một “lớp bản thể học chủ quan mỏng manh” trong đó nói rằng, không có thuyết quyết
định cấu trúc, “có thể 'xây dựng' danh tính của họ trong các quá trình tương tác mang tính
biểu tượng” .0
Câu 3: Nêu đặc tính của chủ thể quốc gia theo thuyết hiện thực
Giả định đầu tiên của chủ nghĩa hiện thực là quốc gia-dân tộc (thường được viết tắt là 'nhà
nước') là chủ thể chính trong quan hệ quốc tế. Các cơ quan khác tồn tại, chẳng hạn như cá
nhân và tổ chức, nhưng quyền lực của họ bị hạn chế. Theo chủ nghĩa hiện thực, các quốc
gia tồn tại trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ, trong đó họ cuối cùng phụ thuộc vào
khả năng hoặc sức mạnh của chính mình để thúc đẩy lợi ích quốc gia của họ. Lợi ích quốc
gia quan trọng nhất là sự tồn vong của quốc gia, bao gồm cả người dân, hệ thống chính
trị và toàn vẹn lãnh thổ. Các lợi ích chính khác của những người theo chủ nghĩa hiện thực
bao gồm việc bảo tồn nền văn hóa và nền kinh tế của một quốc gia. Những người theo
chủ nghĩa hiện thực cho rằng, chừng nào thế giới còn bị chia cắt thành các quốc gia-dân
tộc trong một bối cảnh vô chính phủ, lợi ích quốc gia sẽ vẫn là bản chất của chính trị quốc
tế.
Waltz quan niệm : các quốc gia như những chủ thể hợp lý đơn nhất tồn tại trong một hệ
thống “tự lực” (nghĩa là một hệ thống mà mỗi quốc gia phải tự bảo vệ mình).
Câu 4: Nêu luận điểm của thuyết hiện thực tấn công về “bá quyền”
Khác với chủ nghĩa hiện thực cổ điển nhấn mạnh cấp độ phân tích cá nhân, chủ nghĩa tân
hiện thực nhấn mạnh cấp độ phân tích hệ thống quốc tế khi phân tích nguyên nhân các
quốc gia tìm cách theo đuổi quyền lực. Theo đó, các nhà tân hiện thực cho rằng trong một
hệ thống vô chính phủ, sự phân bổ quyền lực tương đối giữa các quốc gia trong hệ thống
chính là yếu tố then chốt đối với an ninh của mỗi quốc gia. Vì thế các quốc gia tìm cách
nâng cao quyền lực, vì càng có nhiều quyền lực thì vị trí của nước đó trong hệ thống thế
giới càng cao và an ninh của quốc gia đó càng được đảm bảo.
Trong chủ nghĩa tân hiện thực, câu hỏi về giới hạn mục tiêu theo đuổi quyền lực được trả
lời khác nhau.Trường phái “hiện thực tấn công” (offensive realism)cho rằng quyền lực
không có giới hạn và các quốc gia cần đạt được càng nhiều quyền lực càng tốt nhằm đảm
bảo an ninh và chiếm thế áp đảo so với các quốc gia khác trong hệ thống. John
Mearsheimer là đại diện nổi tiếng nhất của trường phái này. Theo Mearsheimer, quốc gia
chỉ có thể đảm bảo an ninh và lợi ích một cách hiệu quả nhất nếu trở thành nước mạnh
nhất trong hệ thống quốc tế hay khu vực. Ông sử dụng khái niệm “ khu vực” để bá quyền
diễn tả lập luận này. Theo cách nhìn trên, thì với sức mạnh đang lên, không một quốc gia
náo chấp nhận làm một cường quốc nguyên trạng (status quo power) mà sẽ cố gắng thay
đổi trật tự quốc tế hiện hữu để trở thành bá quyền trong khu vực. Quan điểm này khiến
Mearsheimer thành một lý thuyết gia đại diện cho trường phái bi quan về sự trỗi dậy của
các cường quốc, đặc biệt là với trường hợp sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Câu 5: Nêu lập luận của CNHT về cân bằng quyền lực. Hệ thống quốc tế hiện nay có tồn
tại cân bằng quyền lực không? Vì sao?
a. Lập luận
thuyết cân bằng quyền lực một nguyên cốt lõi của cả thuyết cổ điển và tân
hiện thực và tìm cách giải thích sự hình thành liên minh. Do ý tưởng của chủ nghĩa hiện
thực mới về chủ nghĩa vô chính phủ kết quả của hệ thống quốc tế, các quốc gia phải
đảm bảo sự tồn tại của mình thông qua việc duy trì hoặc gia tăng quyền lực của
mình trong một thế giới tự lực. Không có thẩm quyền nào ở trên quốc gia để giải cứu nó
trong trường hợp bị một bá chủ tấn công , các quốc gia cố gắng ngăn chặn một quyền
tiềm năng phát sinh bằng cách cân bằng chống lại nó. Theo Kenneth Waltz , người sáng
lập chủ nghĩa hiện thực mới, "chính trị cân bằng quyền lực chiếm ưu thế ở bất cứ nơi nào
hai, chỉ có hai yêu cầu được đáp ứng: đótrật tự chính phủ trật tự đó được
tạo ra bởi các đơn vị mong muốn tồn tại". Họ thể làm điều này thông qua "cân bằng
nội bộ" , khi một quốc gia sử dụng các nỗ lực bên trong như tăng cường năng lực kinh tế,
phát triển các chiến lược thông minh tăng cường sức mạnh quân sự, hoặc thông qua
"cân bằng bên ngoài", xảy ra khi các quốc gia thực hiện các biện pháp bên ngoài để tăng
cường an ninh của họ bằng cách . Các quốc gia hài lòng với vịthành lập các đồng minh
trí của họ trong hệ thống được gọi là các quốc gia "nguyên trạng", trong khi những quốc
gia tìm cách thay đổi cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho họ thường được gọi là "các
quốc gia theo chủ nghĩa xét lại" khao khát quyền bá chủ, do đó sửa chữa sự cân bằng.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực khẳng định rằng sự cân bằngkhi các quốc gia
liên minh chống lại mối đe dọa đang thịnh hành và dẫn đến một thế giới an toàn hơn trong
khi trong một thế giới đi theo nhóm, an ninh trở nên khan hiếm do các bá quyền đang trỗi
dậy không bị kiểm soát. Với hoạt động đoàn kết, quốc gia bị đe dọa từ bỏ hy vọng
[71]
ngăn chặn kẻ xâm lược giành lấy quyền lực bằng cái giá phải trả của mình và thay vào đó
gia nhập lực lượng với kẻ thù nguy hiểm của mình để giành được ít nhất một phần nhỏ
chiến lợi phẩm.
Chủ nghĩa hiện thực phòng thủ
Những người theo chủ nghĩa hiện thực phòng thủ nhấn mạnh rằng nếu bất kỳ quốc gia
nào trở nên quá hùng mạnh, thì sự cân bằng sẽ xảy ra khi các cường quốc khác xây dựng
lực lượng của họ và hình thành một liên minh cân bằng. Vì kết quả là tình thế tiến thoái
lưỡng nan về an ninh này sẽ khiến bá quyền tham vọng trở nên kém an toàn hơn, những
người theo chủ nghĩa hiện thực phòng thủ cho rằng lợi ích của một quốc gia là duy trì
hiện trạng hơn là tối đa hóa sức mạnh của mình.
Chủ nghĩa hiện thực tấn công
Những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công chấp nhận rằng các quốc gia bị đe dọa
thường cân bằng với những kẻ thù nguy hiểm, tuy nhiên, họ cho rằng sự cân bằng thường
không hiệu quả và sự kém hiệu quả này tạo cơ hội cho kẻ xâm lược thông minh lợi dụng
đối thủ của mình. Vượt qua Buck , thay vì tham gia một liên minh cân bằng, là một chiến
thuật tấn công khác mà các nhà hiện thực chỉ ra khi tranh luận về lý thuyết cân bằng
quyền lực.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công tin rằng các biện pháp cân bằng nội bộ
như tăng chi tiêu quốc phòng, thực hiện nghĩa vụ quân sự, chỉ có hiệu quả ở một mức độ
nhất định vì thường có những giới hạn đáng kể về số lượng nguồn lực bổ sung mà một
quốc gia bị đe dọa có thể tập hợp để chống lại kẻ xâm lược.Tuy nhiên, vì những người
theo chủ nghĩa hiện thực tấn công đưa ra giả thuyết rằng các quốc gia luôn tìm cách tối đa
hóa sức mạnh của mình, nên các quốc gia "luôn tham gia hiệu quả vào việc cân bằng nội
bộ".
b. Hệ thống quốc tế hiện nay có tồn tại cân bằng quyền lực không? Vì sao?
Trong hệ thống quốc tế hiện nay vẫn tồn tại cân bằng quyền lực. Vì (về mặt lý thuyết)
không quốc gia nào được phép trở nên quá hùng mạnh trong hệ thống quốc tế. Nếu một
quốc gia cố gắng vận may và phát triển quá mức, như Đức Quốc xã vào những năm 1930,
thì nó sẽ gây ra chiến tranh vì các quốc gia khác sẽ thành lập một liên minh để cố gắng
đánh bại nó – tức là khôi phục lại sự cân bằng. Hệ thống cân bằng quyền lực này là một
trong những lý do khiến quan hệ quốc tế trở nên vô chính phủ. Không một quốc gia đơn
lẻ nào có thể trở thành một cường quốc toàn cầu và thống nhất thế giới dưới sự cai trị trực
tiếp của nó. những người theo chủ nghĩa hiện thực mô tả sự cân bằng quyền lực là một
chiến lược thận trọng để quản lý một thế giới không an toàn, những người chỉ trích coi đó
là một cách hợp pháp hóa chiến tranh và xâm lược.
Câu 6: Nêu lập luận của CNTD về phụ thuộc lẫn nhau
Sự phụ thuộc lẫn nhau tình trạng của mối quan hệ giữa hai bên trong đó thiệt hại
của việc cắt đứt quan hệ hay giảm bớt các trao đổi là tương đương nhau đối với mỗi bên.
Còn theo Joseph Nye, sự phụ thuộc lẫn nhau đề cập đến tình trạng trong đó các tác
nhân hay sự kiện trong các bộ phận khác nhau của hệ thống ảnh hưởng đến nhau.
Khái niệm “phụ thuộc lẫn nhau” bắt đầu được nghiên cứu từ đầu những năm 1970 khi
xuất hiện ba thay đổi quan trọng trong quan hệ quốc tế. Thứ nhất, các quốc gia ngày càng
trở nên phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực vấn đề, từ thương mại tới an ninh.
Sự phụ thuộc lẫn nhau thường được phân tích trong mối quan hệ với toàn cầu hóa. Toàn
cầu hóa sự phụ thuộc kinh tế đã gia tăng nhanh chóng khi các quốc gia theo đuổi các
chính sách khá tự do về thương mại, đầu tư, di trong thế kỷ 19. Toàn cầu hóa đôi
khi được định nghĩa là sự phụ thuộc diễn ra ở cấp độ toàn cầu. Cuộc cách mạng thông tin
càng làm cho mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau của toàn cầu hóa giữa các quốc gia ngày càng
phức tạp thêm. Sự gia tăng gần đây trong cuộc phản kháng chống lại toàn cầu hóa, một
phần, là những phản ứng trước những thay đổi do sự phụ thuộc kinh tế mang tới.
Về tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau, những người theo chủ nghĩa tự do có những quan
điểm sau:
Những nhà tự do cho rằng sự phụ thuộc kinh tế sẽ dẫn đến hòa bình và thịnh vượng. Trao
đổi thương mại gia tăng sẽ mang lại nhiều lợi nhuận, khiến họ không muốn tiến hành
chiến tranh và xâm chiếm lẫn nhau. Hay nói cách khác, lợi ích của thương mại sẽ lớn hơn
lợi ích các quốc gia thu được qua chiến tranh và xâm chiến lãnh thổ. Chính vậy sự
phụ thuộc lẫn nhau sẽ nuôi dưỡng hòa bình.
Quan điểm thứ hai của những nhà tự do về sự phụ thuộc kinh tế sự phụ thuộc kinh tế
giúp gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau. Như Bruce Russet giải thích: “khi một người tham gia
vào thương mại quốc tế họ thể tiếp cận nhiều thông tin ý tưởng không thể
được từ các nguồn khác”. Do đó thương mại sự phụ thuộc lẫn nhau làm gia tăng hiểu
biết lẫn nhau, giảm các hiểu lầm – vốn là một trong những nguyên nhân của chiến tranh.
Quan điểm thứ ba của những nhà tự do gắn sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với hòa bình
thông qua cơ cấu trong nước. Lập luận này cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau làm thay đổi
những sắp xếp trong nước của một quốc gia, làm gia tăng ảnh hưởng của những nhóm có
lợi ích trong các mối quan hệ thương mại hòa bình. Cụ thể thương mại tự do chuyển
cán cân quyền lực từ giai cấp cầm quyền truyền thống được cho chú ý vào việc tìm
kiếm vinh quang những hành động hiếu chiến, sang giai cấp thương mại vốn quan
tâm đến việc tạo ra của cải hơn là tìm kiếm vinh quang quân sự. Quan điểm này có nguồn
gốc từ Jean Baptiste Say (1767-1832), một nhà kinh tế học người Pháp. Say cho rằng
thương mại sẽ dẫn đến ảnh hưởng ngày càng gia tăng của giai cấp trung lưu vốn hướng
đến việc tạo ra của cải hơn là tiến hành chiến tranh.
với sự gia tăng toàn cầu hóa cũng như sự vắng bóng các cuộc chiến tranh giữa các cường
quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, có thể thấy rằng dường như quan điểm của
chủ nghĩa tự do đang thắng thế. Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng sẽ tiếp tục
một đặc điểm quan trọng một xu thế định hình tương lai của nền chính trị quốc tế
đương đại.
Câu 7: Nêu nguyên nhân hình thành, tác dụng của tổ chức quốc tế trong QHQT theo
thuyết tự do
a. Nguyên nhân hình thành
Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh vai trò của các thể chế và thể chế quốc tế trong việc tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia.
b. Tác dụng
Lý do chính tại sao các tổ chức quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác là họ cung cấp
thông tin, giúp giảm các vấn đề hành động tập thể giữa các quốc gia trong việc cung cấp
hàng hóa công cộng và thực thi tuân thủ. Cuốn sách năm 1984 của Robert Keohane After
Hegemony đã sử dụng những hiểu biết sâu sắc từ kinh tế học thể chế mới để lập luận rằng
hệ thống quốc tế có thể duy trì ổn định trong trường hợp không có bá quyền, do đó bác bỏ
thuyết ổn định quyền. Keohane cho thấy rằng hợp tác quốc tế thể được duy trì
thông qua các tương tác lặp đi lặp lại, tính minh bạch và giám sát.
Câu 8: Tại sao Mearsheimer lại cho rằng các thể chế quốc tế chỉ là lời hứa hão? A/c
có đồng ý với quan điểm của Mearsheimer?
Tác giả bắt đầu điều tra tuyên bố rằng các thể chế, chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, đẩy các quốc gia ra khỏi xung đột và thúc đẩy
hòa bình (Mearsheimer, 1995). Để đạt được mục tiêu này, tác giả so sánh đối chiếu
cả , như sau:6trường phái tư tưởng hiện thực và trường phái thể chế
1. Những người theo chủ nghĩa hiện thực lập luận rằng các thể chế không thể ảnh hưởng
rõ rệt đến triển vọng hòa bình và ổn định quốc tế không chỉ vì chúng thiếu tác động
độc lập đối với hành vi của các quốc gia, mà về cơ bản chúng phản ánh sự phân bổ
quyền lực trên thế giới và dựa trên các mô hình tư lợi của các cường
quốc. (Mearsheimer, 1995).
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa Thể chế thừa nhận rằng các thể chế là những thực
thể độc lập có khả năng đưa các quốc gia thoát khỏi chiến tranh và xung đột không chỉ
bằng cách thay đổi khuynh hướng của họ và do đó thay đổi hành vi của nhà nước, mà còn
bằng cách ngăn cản các quốc gia mưu đồ hành vi tư lợi trên cơ sở mọi di chuyển ảnh
hưởng đến vị trí quyền lực tương đối của họ (Mearsheimer, 1995).
2. Tác giả tin rằng chủ nghĩa thể chế không có chỗ đứng trong bối cảnh chính trị hiện
đại, và trên thực tế nó đã được các quốc gia thống trị ở phương Tây sử dụng trong Kỷ
nguyên Chiến tranh Lạnh để đàn áp các quốc gia khác hoặc để đạt được lợi thế tương
đối.
3. Tác giả mua ý tưởng của những người theo chủ nghĩa hiện thực rằng các quốc gia có
rất ít lý do để tin tưởng lẫn nhau và cạnh tranh quốc tế đang ở trạng thái cạnh tranh
an ninh không ngừng (Mearsheimer, 1995). Do đó, các thể chế quốc tế không thể tuyên
bố có ảnh hưởng trong việc duy trì hòa bình và ổn định thế giới.
4. Để nhấn mạnh quan điểm của mình, tác giả lập luận rằng các quốc gia đương đại vận
hành theo cả mô hình định hướng tấn công và định hướng phòng thủ, phù hợp với
trường phái tư tưởng hiện thực.
5. Ông gợi ý rằng các quốc gia đương đại không chỉ lẫn tìm kiếm cơ hội để lợi dụng
nhau mà còn hoạt động để đảm bảo rằng các quốc gia , phù hợp khác không lợi dụng họ
với quan điểm hiện thực (Mearsheimer, 1995).
6. Để cung cấp bằng chứng, ông lập luận rằng các quốc gia đương thời được thúc đẩy chủ
yếu bởi mối quan tâm về lợi ích tương đối khi xem xét tham gia hợp tác với các quốc gia
khác (Mearsheimer, 1995).
Ngoài ra, tác giả gợi ý rằng các quốc gia hiện đại thường do dự trong việc theo đuổi các
thỏa thuận hợp tác với các quốc gia khác do lo sợ rằng các quốc gia khác sẽ gian lận trong
thỏa thuận hợp đồng nhằm tăng lợi thế cạnh tranh tương đối của họ (Mearsheimer, 1995).
Do đó, ông cho rằng các quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới xây dựng và thiết kế các
thể chế, không phải để duy trì hòa bình và ổn định thế giới mà để duy trì sự phân bổ
quyền lực thế giới của họ, hoặc thậm chí tăng cường nó (Mearsheimer, 1995). Theo tôi,
những khẳng định này bị ảnh hưởng bởi dòng tư tưởng hiện thực.
6. Tác giả chọc thủng khẳng định của những người theo chủ nghĩa thể chế tự do rằng các
thể chế là nguyên nhân quan trọng của hòa bình và ổn định bằng cách gợi ý rằng rất khó
để kết nối hợp tác và ổn định. Ông lập luận rằng khẳng định này không thể đúng vì những
người theo chủ nghĩa thể chế tự do từ chối thừa nhận thực tế rằng mối quan tâm về lợi ích
tương đối là trở ngại chính cho sự hợp tác giữa các quốc gia (Mearsheimer, 1995)
7. Để kết luận, tác giả lập luận rằng chủ nghĩa thể chế tự do không hề tạo ra nền tảng
vững chắc để hiểu các quan hệ quốc tế, chứ không đề cập đến việc các thể chế không thúc
đẩy sự ổn định và quyền lực thế giới như những người theo chủ nghĩa thể chế tự do đề
xuất (Mearsheimer, 1995).
8. Từ phân tích có phê phán của mình về quan điểm của những người theo chủ nghĩa hiện
thực và những người theo chủ nghĩa thể chế, tác giả nhận thấy rằng các thể chế có ảnh
hưởng không đáng kể đến hành vi của nhà nước, và do đó ít đảm bảo cho việc tăng cường
hòa bình và ổn định trong xã hội đương đại.
Câu 9: Phân tích các khái niệm quyền lực cứng, quyền lực mềm, sức mạnh thông
minh
1. Quyền lực cứng, quyền lực mềm
Các định nghĩa về quyền lực đều thống nhất rằng quyền lực hàm chứa năng lực của một
chủ thể nhằm thay đổi hành vi của các chủ thể khác trong quan hệ quyền lực. Trong quan
hệ quyền lực, ba cách bản để tác động tới hành vi của người khác để được kết
quả một chủ thể mong muốn: đó là ép buộc họ bằng sự đe dọa (bạo lực...), dụ dỗ họ bằng
lợi ích (vật chất, danh vọng,...), thu hút, hấp dẫn họ (bằng sức hấp dẫn, các giá trị,
tưởng,...). Hai cách trước thường được biết đến như dùng quyền lực cứng, cách thứ ba là
cách dùng quyền lực mềm.
Quyền lực cứng (hard power) là quyền lực được dựa trên sức mạnh quân sự và kinh
tế. Thomas Schelling đã chỉ ra hai nguồn chính của quyền lực cứng là sự đe dọa và dụ dỗ,
và hai nguồn này có liên hệ rất gần gũi với nhau.
Quyền lực mềm (soft power) quyền lực được thực hiện thông qua sự hấp
dẫn (attraction) thuyết phục (persuation). Những tưởng bản của "Quyền lực
mềm" - coi sự hấp dẫn một loại quyền lực -xuất hiện trong tưởng kinh tế - chính trị
phương Đông cổ đại. Nhưng quyền lực mềm chỉ thực sự phát triển thành một thuyết
hiện đại vào cuối thế kỷ XX với những nghiên cứu của Joseph Nye và Lukes. Khái niệm
này, sau đó, được Joseph Nye nghiên cứu và phát triển thành một học thuyết. Joseph Nye
cho rằng quyền lực mềm là khả năng đoạt lấy thứ mình muốn thông qua sự hấp dẫn thay
ép buộc. Về bản chất, quyền lực mềm khả năng tạo ra ảnh hưởng với người khác
bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác, làm thay đổi cách suy nghĩ của
người khác, và qua đó khiến người khác mong muốn chính điều mà mình mong muốn.
Quyền lực cứng quyền lực mềm có liên hệ với nhau. Chúnghai khía cạnh thể hiện
khả năng giành được mục tiêu của một người bằng việc tác động lên hành vi của những
người khác. Quyền lực cứng rất quan trọng nhưngkhông thể giải quyết được mọi vấn
đề. Quyền lực cứng sự tác động từ bên ngoài đến các đối tượng của quyền lực, vậy
chi phí để sử dụng duy trì quyền lực cứng thường cao tiềm ẩn nguy chống đối.
Quyền lực chỉ thực sự hiệu quả khi nó có được tính chính đáng. Quyền lực mềm nằm ở lẽ
phải và sự thuyết phục, nó tác động đến các đối tượng của quyền lực, làm cho sự thay đổi
nhận thức và hành vi diễn ra từ bên trong. Sự thuyết phục để tạo ra lòng tin, sự tin tưởng,
được coi tạo nên tính chính đáng. vậy, quyền lực cứng quyền lực mềm tác
động khả năng củng cố lẫn nhau. Quyền lực cứng “hậu phương”, một trong
những cơ sở để phát huy quyền lực mềm. Quyền lực mềm hấp dẫn khi chúng bắt nguồn từ
thành công về vật chất, những thứ do quyền lực cứng mang lại.
Quyền lực mềm sự bồi đắp cho những khiếm khuyết của quyền lực cứng chứ không
phải là sự phản chiếu hay mặt đối lập của quyền lực cứng. Trong nhiều trường hợp, chỉ sử
dụng quyền lực mềm không đủ cần phải sự kết hợp giữa quyền lực mềm
quyền lực cứng. Nói cách khác, quyền lực mềm khảng tự nâng cao tố chất để hấp
dẫn thuyết phục người khác, từ đó đạt được điều mình cần. Do đó, tính hiệu lực của
quyền lực mềm không thể được đo lường chính xác. Trong rất nhiều trường hợp, quyền
lực cứng không được trực tiếp sử dụng, nhưng nó là hậu phương để quyền lực mềm được
thực thi hoặc làm tăng sức thuyết phục và hiệu quả của quyền lực mềm. Các nhà lãnh đạo
hay thậm chí các cá nhân cũng đều sử dụng cả hai loại quyền lực này tuỳ theo thời điểm
và hoàn cảnh. Khả năng kết hợp giữa “quyền lực mềm” và “quyền lực cứng” được gọi là
“quyền lực thông minh” (smart power), một hình thức sử dụng quyền lực quan trọng ngày
càng có ý nghĩa và ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.
Mặc dù quyền lực mềm ban đầu được nói tới trong quan hệ giữa các quốc gia, nhưng chủ
thể của quyền lực mềm hiện nay không chỉ là các quốc gia là tất cả các chủ thể trong
quan hệ quốc tế, chẳng hạn như các NGO, các thể chế quốc tế, các chủ thể khác trong các
mối quan hệ quyền lực trong một quốc gia, trong các tổ chức và giữa các cá nhân. Quyền
lực mềm thể hiện trong các mối quan hệ giữa các nước, giữa người lãnh đạo và nhân viên,
giữa những người cầm quyền và nhân dân, giữa các thành viên của một tổ chức, giữa các
tổ chức với nhau... Quyền lực mềm được sử dụng rộng rãi cả trong quan hệ đối ngoại
đối nội, cho dù cách gọi tên có khác nhau.
Trong đối nội của các quốc gia, các nhà điều hành thông minh đều biết rằng việc lãnh đạo
không chỉra lệnh, màcòn liên quan đến việc lãnh đạo bằng cách làm gương và thu
hút những người khác làm những điều mình muốn. Việc điều hành một tổ chức hay các cá
nhân hiệu quả không phải lúc nào cũng bằng việc ra lệnh hoặc đe dọa. Quyền lực của một
nhà lãnh đạo sẽ lớn hơn nếu người đó thể làm cho những người khác chia sẻ đóng
góp vào hệ giá trị của mình. Điều này được thực hiện dần dần, kết hợp với những điều
không nhìn thấy được, chẳng hạn như tính cách, các giá trị, sự định hướng một tầm
nhìn được xem là hợp lý và có đạo đức.
Trong một nền dân chủ, sự cưỡng bức không bao giờ một lựa chọn ưu tiên.Với ưu thế
tạo ra sự đồng thuận, huy động được vốn xã hội với chi phí ít nhất và đặc biệt là huy động
được sự tham gia tự nguyện lớn nhất, các mục tiêu như thúc đẩy dân chủ trong một quốc
gia sẽ dễ đạt được hơn thông qua quyền lực mềm và trong đa số các trường hợp, hiệu quả
hơn khi sử dụng được quyền lực thông minh.
2. Quyền lực thông minh
Trước hết phải khẳng định rằng quyền lực thông minh không phải một loại quyền lực
thứ ba. Quyền lực thông minh sự kết hợp hay pha trộn giữa quyền lực mềm quyền
lực cứng. Đó khả năng xác định bối cảnh, lợi dụng các xu hướng sử dụng hợp
quyền lực cứng và quyền lực mềm để đạt được hiệu quả cao nhất. Nó được coi là phù hợp
hơn với các nền dân chủ, nơi mà sự tham gia có tính tự giác được đặt lên hàng đầu và mọi
sự cưỡng bức đều bị coi là phá vỡ các nguyên tắc dân chủ.
Sử dụng quyền lực thông minh một vấn đề rất khó, đòi hỏi cùng lúc phải một
quyền lực cứng đủ mạnh để cưỡng chế hoặc thể hiện năng lực cưỡng chế khi cần thiết
sự nhạy cảm chính trị, sự sáng tạo và linh hoạt của người cầm quyền.
Quyền lực thông minh phù hợp với nền dân chủ. Việc sử dụng quyền lực thông minh
đặc trưng của nền dân chủ. , nó thể hiện được sự tôn trọng các quyền con người,Thứ nhất
quyền cá nhân những yếu tố quan trọng nhất trong nền dân chủ,vậy, nó dễ được chấp,
nhận hơn và tạo được hiệu ứng tâm lý tích cực hơn. , nhà nước cũng phải thể hiệnThứ hai
có đủ năng lực và nguồn lực để phục vụ nền dân chủ và đồng thời có đủ nguồn lực để duy
trì các giá trị cơ bản, duy trì trật tự xã hội và mở ra một tầm nhìn cho sự phát triển chung.
Việc sử dụng quyền lực thông minh sẽ đem lại hiệu quả cao nhất, huy động được sự đồng
thuận và vốn xã hội.
Cơ chế phản hồi trong sử dụng quyền lực thông minh linh hoạt hơn. Cơ chế phản hồi này
giúp cho chính quyền củng cố được cả quyền lực cứng và quyền lực mềm của mình theo
hướng phù hợp hơn với yêu cầu thực tế và nguyện vọng của người dân. Việc xây dựng
củng cố quyền lực cứng quyền lực mềm của cả chính quyền người dân sẽ hoàn
thiện dần các kỹ năng dân chủ, từ đó giúp cho việc phân tích các tình huống chính trị
chính xác hơn và chất lượng của dân chủ được nâng cao hơn.
Với một chế phản hồi hiệu quả thiết thực, sử dụng quyền lực thông minh một
phương thức để cân bằng giữa tính hiệu quả trong hoạt động của nhà nước và sự tham gia
của người dân.
Một quốc gia muốn có được quyền lực thông minh trong nền dân chủ thì bên cạnh sự hấp
dẫn về chính sách và pháp luật, nền hành chính tinh gọn, hiệu quả và sự minh bạch trong
hoạt động của chính quyền, cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ, có trách nhiệm và
đạo đức, biết dám chịu trách nhiệm trước công dân. Việc sử dụng quyền lực thông
minh dựa rất nhiều vào năng lực và uy tín, sức hấp dẫn của cá nhân người lãnh đạo, và vì
sức hút của các nhân chỉ kéo dài chừng nàonhận được sự thừa nhận và thể làm
thoả mãn những người đi theo, nên đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo là cả một quá trình
liên tục. Bên cạnh đó, người lãnh đạo phải đánh giá được hoàn cảnh, biết được khi nào sử
dụng quyền lực cứng khi nào sử dụng quyền lực mềm để đạt được các mục tiêu một
cách hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất. Sự hiệu quả của các chính sách nền hành
chính trong thực tiễn, sự ổn định của xã hội là những yếu tố tạo nên uy tín và sức lôi cuốn
cho quyền lực lãnh đạo.
Trong sử dụng quyền lực thông minh, sự cưỡng chế cũng là một công cụ được tính đến để
tạo ra một hậu phương vững chắc cho việc thực thi quyền lực mềm. Mặc dù sự cưỡng chế
không phải là một ưu tiên trong nền dân chủ, nhưng nó là cần thiết để duy trì trật tự xã hội
và giữ ổn định các giá trị cơ bản, bao quát, được cả xã hội thừa nhận.
Quyền lực cứng, quyền lực mềm hay quyền lực thông minh là những điều được vận dụng
hàng ngày trong đời sống, dù có đặt tên cho nó hay không. Điều quan trọng nhận thức
được trong hoàn cảnh và thời điểm nào sử dụng quyền lực loại nào là hợp lý. Và còn quan
trọng hơn nữa nhận thức đúng ý nghĩa của từng loại quyền lực, quan tâm củng cố các
loại quyền lực một cách hợp lý, tạo ra được sức mạnh tối đa của một quốc gia. Các loại
quyền lực này đều tồn tại trong nền dân chủ, việc nhận thức kiểm soát được các
quyền lực này sẽ làm cho dân chủ đạt tới một chất lượng cao hơn.
| 1/13

Preview text:

ĐỀ CƯƠNG LLQHQT
Câu 1: Vô chính phủ là gì? Nêu lập luận về vô chính phủ của chủ nghĩa hiện thực
Tình trạng vô chính phủ là một hệ thống niềm tin phản đối quyền lực của chính phủ, ủng
hộ sự tự quản hoặc cơ chế đồng thuận cộng đồng.
Thuật ngữ này đã trở thành từ đồng nghĩa với hỗn loạn và sự sụp đổ của trật tự dân sự.
Thuật ngữ này bắt nguồn từ một từ Hy Lạp có nghĩa là "không có người cai trị".
Hiểu rõ hơn về tình trạng vô chính phủ
Tình trạng vô chính phủ được chia thành hành hai trường phái tư tưởng riêng biệt.
Một trường phái bác bỏ tất cả các cơ quan chính phủ, ủng hộ niềm tin vào quyền tự do
của cá nhân và quyền tự quản.
Trường phái khác bác bỏ quyền lực của chính phủ, ủng hộ niềm tin vào chủ nghĩa tập thể,
hoặc tính ưu việt của nhóm so với cá nhân.
Các phê phán phổ biến về tình trạng vô chính phủ là nó dẫn đến tình trạng vô luật pháp và
hỗn loạn. Dù vậy, các tín đồ của triết lí này cho rằng các xã hội vẫn có thể tồn tại nguyên
vẹn và thậm chí phát triển mạnh nếu không bị cai trị bởi các hệ thống phân cấp truyền thống.
 Tình trạng thiếu vắng một siêu chính phủ đứng trên các quốc gia trong quan hệ
quốc tế được gọi là tình trạng vô chính phủ.
VÔ CHÍNH PHỦ CỦA CNHT -
CNHT cổ điển và CNHT cấu trúc/ tân hiện thực đều dự đoán rằng trong một hệ
thống quốc tế VCP có gây ra xung đột, nhưng vẫn có sự bất đồng về cách thức VCP sẽ gây ra xung đột -
Trong khi những người theo chủ nghĩa hiện thực cổ điển cho rằng tính không thể
tránh khỏi của chiến tranh trong 1 hệ thống VCP là do xu hướng phá hoại của bản
chất con người, thì những người theo chủ nghĩa hiện thực cấu trúc lại cho rằng
điều này chẳng liên quan gì đến lý do tại sao các quốc gia tham gia vào cuộc tranh
giành quyền lực. Thay vào đó, CNHT cấu trúc tập trung vào cấu trúc của xã hội
quốc tế để giải thích tại sao các quốc gia lại hành xử theo xu hướng xung đột đó -
Trong khi CNHT cổ điển cho rằng chiến tranh là tất yếu, những người theo CNHT
cấu trúc cho rằng: mặc dù không có sự hài hòa tự động trong tình trạng VCP
nhưng có thể tạo ra cảm giác trật tự trong tình trạng VCP thông qua sự cân bằng quyền lực -
Đối với những người theo CNHT cấu trúc, không chỉ các quốc gia là tác nhân có
liên quan trong chính trị quốc tế mà còn là các quốc gia cường quốc có vai trò quan
trọng đối với sự cân bằng quyền lực trong hệ thống quốc tế. Có ý kiến cho rằng tỷ
lệ quyền lực giữa các cường quốc ảnh hường đến triển vọng hòa bình, chứng tỏ
rằng cấu trúc của hệ thống quốc tế về đơn cực, lưỡng cực hoặc đa cực và bất kì sự
thay đổi quyền lực nào dẫn đến có thể làm tăng hoặc giảm khả năng xảy ra xung
đột quốc tế. Trong trường hợp này, CNHT cấu trúc cho rằng VCP vẫn là nguyên
nhân dễ gây chiến tranh, tuy nhiên các yếu tố của VCP có thể được khắc phục bằng
cách cấu trúc cán cân quyền lực theo cách làm giảm nguy cơ xung đột.
Câu 2:Tại sao A.wendt lại cho rằng “VCP là những gì các quốc gia tạo nên?” .
Nhà kiến tạo Alexander Wendt tuyên bố rằng "Tình trạng hỗn loạn là những gì các quốc
gia tạo ra". Điều đó có nghĩa là nếu một quốc gia gọi hệ thống quốc tế là vô chính phủ thì
đó hoàn toàn là về định nghĩa của quốc gia đó về tình trạng vô chính phủ. Bất kỳ tổ chức
quốc tế nào (chẳng hạn như Liên Hợp Quốc, NATO, v.v.) đều không có ý nghĩa gì cho đến
khi và trừ khi nhà nước nhận thấy các tổ chức này có quyền lực. Cần lưu ý rằng các ý
tưởng và chuẩn mực cá nhân của các cá nhân thường thúc đẩy hệ thống quốc tế.
Trong bài viết của mình Anarchy Is What States Make of It, Alexander Wendt đưa ra lời
phê bình về bản thể luận cấu trúc của chủ nghĩa hiện thực mới (và chủ nghĩa tân tự do), lý
thuyết QHQT nổi bật nhất vào thời điểm đó (Wohlforth 1995). Wendt đề cập đến cuộc
tranh luận liên quan đến mức độ mà hành vi của nhà nước được quyết định bởi cấu trúc
(nghĩa là hệ thống quốc tế vô chính phủ và sự phân bổ quyền lực (vật chất) trong đó) hoặc
quy trình và thể chế. Chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng bản sắc và lợi ích của các quốc
gia là tĩnh và tư lợi, tập trung vào an ninh và sự tồn tại của chính họ trong một hệ thống
vô chính phủ . Do đó, lập luận của chủ nghĩa tân hiện thực cũng vậy, các quốc gia nhất
thiết phải dựa vào sự tự lực, vì “không có cả chính quyền trung ương và an ninh tập
thể”. Chủ nghĩa hiện thực mới không coi tự lực là một thể chế tồn tại thông qua hành vi
của nhà nước và do đó cũng có thể biến mất.
Wendt bác bỏ “tuyên bố của chủ nghĩa hiện thực mới rằng sự tự lực được đưa ra bởi cấu
trúc vô chính phủ một cách ngoại sinh để xử lý. Thay vào đó, nền chính trị quyền lực và
tự lực của các quốc gia nên được coi là nội sinh đối với quan hệ quốc tế; chúng là một
phần của quá trình và sự tương tác giữa các trạng thái. Do đó, chính trị tự lực và chính trị
cường quyền “không tuân theo logic hoặc theo quan hệ nhân quả từ tình trạng vô chính
phủ” chúng là (một trong nhiều khả năng) các thể chế là kết quả của, chứ không phải là
các yếu tố quyết định nguyên nhân của hành vi nhà nước. Do đó, tình trạng vô chính phủ
có thể “chứa đựng những động lực dẫn đến chính trị quyền lực cạnh tranh, nhưng chúng
cũng có thể không” Nó phụ thuộc vào việc các quốc gia tạo ra nó như thế nào, và như
vậy, chúng ta có thể nói về một “sự phụ thuộc bản thể học của cấu trúc” – tình trạng vô
chính phủ nhất định của hệ thống quốc tế
Wendt không tính đến tác động tiêu cực của sự không chắc chắn và sự không chắc chắn
trong hệ thống quốc tế thực sự được củng cố như thế nào bởi khả năng thay đổi nhanh
chóng của các quá trình hình thành lợi ích trong nước.
Lập luận của Wendt rằng tình trạng vô chính phủ không có logic nhân quả cụ thể bị phá
hoại bởi một “khía cạnh quan trọng của thế giới quan hiện thực chủ nghĩa”, mà ông không
đề cập đến: sự không chắc chắn. Ngay cả khi chúng ta chấp nhận rằng tình trạng vô chính
phủ của hệ thống quốc tế không tự động quyết định bản sắc, lợi ích và do đó hành vi của
các quốc gia, thì việc các quốc gia không chắc chắn về ý định (tương lai) của các đối tác
của họ “có thể đủ để dẫn dắt các quốc gia tìm kiếm an ninh để chiến đấu” . Sự nhấn mạnh
của thuyết kiến tạo về tính linh hoạt của các quá trình (trong nước) hình thành bản sắc và
lợi ích củng cố động lực này, vì ý định của các quốc gia có thể nhanh chóng “thay đổi do
các quá trình trong nước độc lập với tương tác quốc tế” .
Theo lý luận của Wendt, những người theo chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng tình trạng
vô chính phủ nhất thiết dẫn đến chính trị tự lực và quyền lực giả định trước “một lịch sử
tương tác trong đó các chủ thể có được bản sắc và lợi ích 'ích kỷ'”. Những đặc điểm như
ích kỷ chỉ có thể tồn tại “trong xã hội” và do đó phải được phát triển sau khi tương
tác .Do đó, vì các quốc gia không bắt đầu mối quan hệ của họ trong tình thế tiến thoái
lưỡng nan về an ninh, nên điểm tiếp xúc đầu tiên là rất quan trọng đối với (sự phát triển)
tương tác xa hơn giữa các quốc gia
Wendt đã tuyên bố, sự hình thành bản sắc trong một hệ thống vô chính phủ “liên quan
trước hết đến việc bảo tồn hoặc 'an ninh' của bản thân”
Wendt thảo luận về chủ quyền như một trong “ba chuyển đổi thể chế của bản sắc và lợi
ích an ninh mà thông qua đó các quốc gia có thể thoát khỏi thế giới Hobbes do chính họ
tạo ra”. Khi đó, việc không công nhận chủ quyền của người khác có thể dẫn đến bạo lực
và xung đột. Mặc dù Wendt đã đúng khi cho rằng “nhà nước có chủ quyền là một thành
tựu liên tục của thực tiễn” nhưng chúng ta không thể hiểu tại sao các quốc gia từ chối
công nhận chủ quyền của bên kia mà không xem xét sự hình thành lợi ích và bản sắc (trong nước) thực sự.
Xét về cách giải thích mà cách tiếp cận của ông đưa ra, kết quả của những lựa chọn bản
thể học-nhận thức luận mà Wendt đưa ra là việc ông không sẵn lòng (và không có khả
năng) thực sự thách thức “mô tả của chủ nghĩa hiện thực mới về hệ thống nhà nước đương
đại như một thế giới cạnh tranh, tự lực”. Thuyết kiến tạo của Wendt giữ nguyên giả định
cơ bản của chủ nghĩa hiện thực mới – đáng chú ý là định nghĩa về quan hệ quốc tế “là
hành vi của các quốc gia trong tình trạng vô chính phủ”. Do đó, cuối cùng, trong lý thuyết
của Wendt, tình trạng vô chính phủ “không phải là một cấu trúc xã hội mà chỉ đơn giản là
điều kiện gần như tự nhiên mà theo đó các quốc gia nhất định về mặt bản thể học tiến
hành công việc của họ” . Bài phê bình của Wendt về chủ nghĩa tân hiện thực cấu trúc luận
có một “lớp bản thể học chủ quan mỏng manh” trong đó nói rằng, không có thuyết quyết
định cấu trúc, “có thể 'xây dựng' danh tính của họ trong các quá trình tương tác mang tính biểu tượng” .0
Câu 3: Nêu đặc tính của chủ thể quốc gia theo thuyết hiện thực
Giả định đầu tiên của chủ nghĩa hiện thực là quốc gia-dân tộc (thường được viết tắt là 'nhà
nước') là chủ thể chính trong quan hệ quốc tế. Các cơ quan khác tồn tại, chẳng hạn như cá
nhân và tổ chức, nhưng quyền lực của họ bị hạn chế. Theo chủ nghĩa hiện thực, các quốc
gia tồn tại trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ, trong đó họ cuối cùng phụ thuộc vào
khả năng hoặc sức mạnh của chính mình để thúc đẩy lợi ích quốc gia của họ. Lợi ích quốc
gia quan trọng nhất là sự tồn vong của quốc gia, bao gồm cả người dân, hệ thống chính
trị và toàn vẹn lãnh thổ. Các lợi ích chính khác của những người theo chủ nghĩa hiện thực
bao gồm việc bảo tồn nền văn hóa và nền kinh tế của một quốc gia. Những người theo
chủ nghĩa hiện thực cho rằng, chừng nào thế giới còn bị chia cắt thành các quốc gia-dân
tộc trong một bối cảnh vô chính phủ, lợi ích quốc gia sẽ vẫn là bản chất của chính trị quốc tế.
Waltz quan niệm : các quốc gia như những chủ thể hợp lý đơn nhất tồn tại trong một hệ
thống “tự lực” (nghĩa là một hệ thống mà mỗi quốc gia phải tự bảo vệ mình).
Câu 4: Nêu luận điểm của thuyết hiện thực tấn công về “bá quyền”
Khác với chủ nghĩa hiện thực cổ điển nhấn mạnh cấp độ phân tích cá nhân, chủ nghĩa tân
hiện thực nhấn mạnh cấp độ phân tích hệ thống quốc tế khi phân tích nguyên nhân các
quốc gia tìm cách theo đuổi quyền lực. Theo đó, các nhà tân hiện thực cho rằng trong một
hệ thống vô chính phủ, sự phân bổ quyền lực tương đối giữa các quốc gia trong hệ thống
chính là yếu tố then chốt đối với an ninh của mỗi quốc gia. Vì thế các quốc gia tìm cách
nâng cao quyền lực, vì càng có nhiều quyền lực thì vị trí của nước đó trong hệ thống thế
giới càng cao và an ninh của quốc gia đó càng được đảm bảo.
Trong chủ nghĩa tân hiện thực, câu hỏi về giới hạn mục tiêu theo đuổi quyền lực được trả
lời khác nhau.Trường phái “hiện thực tấn công” (offensive realism)cho rằng quyền lực
không có giới hạn và các quốc gia cần đạt được càng nhiều quyền lực càng tốt nhằm đảm
bảo an ninh và chiếm thế áp đảo so với các quốc gia khác trong hệ thống. John
Mearsheimer là đại diện nổi tiếng nhất của trường phái này. Theo Mearsheimer, quốc gia
chỉ có thể đảm bảo an ninh và lợi ích một cách hiệu quả nhất nếu trở thành nước mạnh
nhất trong hệ thống quốc tế hay khu vực. Ông sử dụng khái niệm “bá quyền khu vực” để
diễn tả lập luận này. Theo cách nhìn trên, thì với sức mạnh đang lên, không một quốc gia
náo chấp nhận làm một cường quốc nguyên trạng (status quo power) mà sẽ cố gắng thay
đổi trật tự quốc tế hiện hữu để trở thành bá quyền trong khu vực. Quan điểm này khiến
Mearsheimer thành một lý thuyết gia đại diện cho trường phái bi quan về sự trỗi dậy của
các cường quốc, đặc biệt là với trường hợp sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Câu 5: Nêu lập luận của CNHT về cân bằng quyền lực. Hệ thống quốc tế hiện nay có tồn
tại cân bằng quyền lực không? Vì sao? a. Lập luận
Lý thuyết cân bằng quyền lực là một nguyên lý cốt lõi của cả lý thuyết cổ điển và tân
hiện thực và tìm cách giải thích sự hình thành liên minh. Do ý tưởng của chủ nghĩa hiện
thực mới về chủ nghĩa vô chính phủ là kết quả của hệ thống quốc tế, các quốc gia phải
đảm bảo sự tồn tại của mình thông qua việc duy trì hoặc gia tăng quyền lực của

mình trong một thế giới tự lực. Không có thẩm quyền nào ở trên quốc gia để giải cứu nó
trong trường hợp bị một bá chủ tấn công , các quốc gia cố gắng ngăn chặn một bá quyền
tiềm năng phát sinh bằng cách cân bằng chống lại nó. Theo Kenneth Waltz , người sáng
lập chủ nghĩa hiện thực mới, "chính trị cân bằng quyền lực chiếm ưu thế ở bất cứ nơi nào
có hai, và chỉ có hai yêu cầu được đáp ứng: đó là trật tự vô chính phủ và trật tự đó được
tạo ra bởi các đơn vị mong muốn tồn tại". Họ có thể làm điều này thông qua "cân bằng
nội bộ"
, khi một quốc gia sử dụng các nỗ lực bên trong như tăng cường năng lực kinh tế,
phát triển các chiến lược thông minh và tăng cường sức mạnh quân sự, hoặc thông qua
"cân bằng bên ngoài", xảy ra khi các quốc gia thực hiện các biện pháp bên ngoài để tăng
cường an ninh của họ bằng cách thành lập các đồng minh. Các quốc gia hài lòng với vị
trí của họ trong hệ thống được gọi là các quốc gia "nguyên trạng", trong khi những quốc
gia tìm cách thay đổi cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho họ thường được gọi là "các
quốc gia theo chủ nghĩa xét lại" và khao khát quyền bá chủ, do đó sửa chữa sự cân bằng.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực khẳng định rằng sự cân bằng là khi các quốc gia
liên minh chống lại mối đe dọa đang thịnh hành và dẫn đến một thế giới an toàn hơn trong
khi trong một thế giới đi theo nhóm, an ninh trở nên khan hiếm do các bá quyền đang trỗi
dậy không bị kiểm soát. [71] Với hoạt động đoàn kết, quốc gia bị đe dọa từ bỏ hy vọng
ngăn chặn kẻ xâm lược giành lấy quyền lực bằng cái giá phải trả của mình và thay vào đó
gia nhập lực lượng với kẻ thù nguy hiểm của mình để giành được ít nhất một phần nhỏ chiến lợi phẩm.
Chủ nghĩa hiện thực phòng thủ
Những người theo chủ nghĩa hiện thực phòng thủ nhấn mạnh rằng nếu bất kỳ quốc gia
nào trở nên quá hùng mạnh, thì sự cân bằng sẽ xảy ra khi các cường quốc khác xây dựng
lực lượng của họ và hình thành một liên minh cân bằng. Vì kết quả là tình thế tiến thoái
lưỡng nan về an ninh này sẽ khiến bá quyền tham vọng trở nên kém an toàn hơn, những
người theo chủ nghĩa hiện thực phòng thủ cho rằng lợi ích của một quốc gia là duy trì
hiện trạng hơn là tối đa hóa sức mạnh của mình.
Chủ nghĩa hiện thực tấn công
Những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công chấp nhận rằng các quốc gia bị đe dọa
thường cân bằng với những kẻ thù nguy hiểm, tuy nhiên, họ cho rằng sự cân bằng thường
không hiệu quả và sự kém hiệu quả này tạo cơ hội cho kẻ xâm lược thông minh lợi dụng
đối thủ của mình. Vượt qua Buck , thay vì tham gia một liên minh cân bằng, là một chiến
thuật tấn công khác mà các nhà hiện thực chỉ ra khi tranh luận về lý thuyết cân bằng quyền lực.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công tin rằng các biện pháp cân bằng nội bộ
như tăng chi tiêu quốc phòng, thực hiện nghĩa vụ quân sự, chỉ có hiệu quả ở một mức độ
nhất định vì thường có những giới hạn đáng kể về số lượng nguồn lực bổ sung mà một
quốc gia bị đe dọa có thể tập hợp để chống lại kẻ xâm lược.Tuy nhiên, vì những người
theo chủ nghĩa hiện thực tấn công đưa ra giả thuyết rằng các quốc gia luôn tìm cách tối đa
hóa sức mạnh của mình, nên các quốc gia "luôn tham gia hiệu quả vào việc cân bằng nội bộ".
b. Hệ thống quốc tế hiện nay có tồn tại cân bằng quyền lực không? Vì sao?
Trong hệ thống quốc tế hiện nay vẫn tồn tại cân bằng quyền lực. Vì (về mặt lý thuyết)
không quốc gia nào được phép trở nên quá hùng mạnh trong hệ thống quốc tế. Nếu một
quốc gia cố gắng vận may và phát triển quá mức, như Đức Quốc xã vào những năm 1930,
thì nó sẽ gây ra chiến tranh vì các quốc gia khác sẽ thành lập một liên minh để cố gắng
đánh bại nó – tức là khôi phục lại sự cân bằng. Hệ thống cân bằng quyền lực này là một
trong những lý do khiến quan hệ quốc tế trở nên vô chính phủ. Không một quốc gia đơn
lẻ nào có thể trở thành một cường quốc toàn cầu và thống nhất thế giới dưới sự cai trị trực
tiếp của nó. những người theo chủ nghĩa hiện thực mô tả sự cân bằng quyền lực là một
chiến lược thận trọng để quản lý một thế giới không an toàn, những người chỉ trích coi đó
là một cách hợp pháp hóa chiến tranh và xâm lược.
Câu 6: Nêu lập luận của CNTD về phụ thuộc lẫn nhau
Sự phụ thuộc lẫn nhau là tình trạng của mối quan hệ giữa hai bên mà trong đó thiệt hại
của việc cắt đứt quan hệ hay giảm bớt các trao đổi là tương đương nhau đối với mỗi bên.
Còn theo Joseph Nye, sự phụ thuộc lẫn nhau đề cập đến tình trạng mà trong đó các tác
nhân hay sự kiện trong các bộ phận khác nhau của hệ thống ảnh hưởng đến nhau.
Khái niệm “phụ thuộc lẫn nhau” bắt đầu được nghiên cứu từ đầu những năm 1970 khi
xuất hiện ba thay đổi quan trọng trong quan hệ quốc tế. Thứ nhất, các quốc gia ngày càng
trở nên phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực vấn đề, từ thương mại tới an ninh.
Sự phụ thuộc lẫn nhau thường được phân tích trong mối quan hệ với toàn cầu hóa. Toàn
cầu hóa và sự phụ thuộc kinh tế đã gia tăng nhanh chóng khi các quốc gia theo đuổi các
chính sách khá tự do về thương mại, đầu tư, và di cư trong thế kỷ 19. Toàn cầu hóa đôi
khi được định nghĩa là sự phụ thuộc diễn ra ở cấp độ toàn cầu. Cuộc cách mạng thông tin
càng làm cho mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau của toàn cầu hóa giữa các quốc gia ngày càng
phức tạp thêm. Sự gia tăng gần đây trong cuộc phản kháng chống lại toàn cầu hóa, một
phần, là những phản ứng trước những thay đổi do sự phụ thuộc kinh tế mang tới.
Về tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau, những người theo chủ nghĩa tự do có những quan điểm sau:
Những nhà tự do cho rằng sự phụ thuộc kinh tế sẽ dẫn đến hòa bình và thịnh vượng. Trao
đổi thương mại gia tăng sẽ mang lại nhiều lợi nhuận, khiến họ không muốn tiến hành
chiến tranh và xâm chiếm lẫn nhau. Hay nói cách khác, lợi ích của thương mại sẽ lớn hơn
lợi ích mà các quốc gia thu được qua chiến tranh và xâm chiến lãnh thổ. Chính vì vậy sự
phụ thuộc lẫn nhau sẽ nuôi dưỡng hòa bình.
Quan điểm thứ hai của những nhà tự do về sự phụ thuộc kinh tế là sự phụ thuộc kinh tế
giúp gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau. Như Bruce Russet giải thích: “khi một người tham gia
vào thương mại quốc tế họ có thể tiếp cận nhiều thông tin và ý tưởng mà không thể có
được từ các nguồn khác”. Do đó thương mại và sự phụ thuộc lẫn nhau làm gia tăng hiểu
biết lẫn nhau, giảm các hiểu lầm – vốn là một trong những nguyên nhân của chiến tranh.
Quan điểm thứ ba của những nhà tự do gắn sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với hòa bình
thông qua cơ cấu trong nước. Lập luận này cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau làm thay đổi
những sắp xếp trong nước của một quốc gia, làm gia tăng ảnh hưởng của những nhóm có
lợi ích trong các mối quan hệ thương mại hòa bình. Cụ thể là thương mại tự do chuyển
cán cân quyền lực từ giai cấp cầm quyền truyền thống – được cho là chú ý vào việc tìm
kiếm vinh quang và những hành động hiếu chiến, sang giai cấp thương mại – vốn quan
tâm đến việc tạo ra của cải hơn là tìm kiếm vinh quang quân sự. Quan điểm này có nguồn
gốc từ Jean – Baptiste Say (1767-1832), một nhà kinh tế học người Pháp. Say cho rằng
thương mại sẽ dẫn đến ảnh hưởng ngày càng gia tăng của giai cấp trung lưu vốn hướng
đến việc tạo ra của cải hơn là tiến hành chiến tranh.
với sự gia tăng toàn cầu hóa cũng như sự vắng bóng các cuộc chiến tranh giữa các cường
quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, có thể thấy rằng dường như quan điểm của
chủ nghĩa tự do đang thắng thế. Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng sẽ tiếp tục là
một đặc điểm quan trọng và một xu thế định hình tương lai của nền chính trị quốc tế đương đại.
Câu 7: Nêu nguyên nhân hình thành, tác dụng của tổ chức quốc tế trong QHQT theo thuyết tự do
a. Nguyên nhân hình thành
Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh vai trò của các thể chế và thể chế quốc tế trong việc tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia. b. Tác dụng
Lý do chính tại sao các tổ chức quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác là họ cung cấp
thông tin, giúp giảm các vấn đề hành động tập thể giữa các quốc gia trong việc cung cấp
hàng hóa công cộng và thực thi tuân thủ. Cuốn sách năm 1984 của Robert Keohane After
Hegemony đã sử dụng những hiểu biết sâu sắc từ kinh tế học thể chế mới để lập luận rằng
hệ thống quốc tế có thể duy trì ổn định trong trường hợp không có bá quyền, do đó bác bỏ
lý thuyết ổn định bá quyền. Keohane cho thấy rằng hợp tác quốc tế có thể được duy trì
thông qua các tương tác lặp đi lặp lại, tính minh bạch và giám sát.
Câu 8: Tại sao Mearsheimer lại cho rằng các thể chế quốc tế chỉ là lời hứa hão? A/c
có đồng ý với quan điểm của Mearsheimer?
Tác giả bắt đầu điều tra tuyên bố rằng các thể chế, chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu và
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, đẩy các quốc gia ra khỏi xung đột và thúc đẩy
hòa bình (Mearsheimer, 1995
). Để đạt được mục tiêu này, tác giả so sánh và đối chiếu
cả trường phái tư tưởng hiện thực và trường phái thể chế, như sau:6
1. Những người theo chủ nghĩa hiện thực lập luận rằng các thể chế không thể ảnh hưởng
rõ rệt đến triển vọng hòa bình và ổn định quốc tế không chỉ vì chúng thiếu tác động
độc lập đối với hành vi của các quốc gia, mà về cơ bản chúng phản ánh sự phân bổ
quyền lực trên thế giới và dựa trên các mô hình tư lợi của các cường
quốc
. (Mearsheimer, 1995).
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa Thể chế thừa nhận rằng các thể chế là những thực
thể độc lập có khả năng đưa các quốc gia thoát khỏi chiến tranh và xung đột không chỉ
bằng cách thay đổi khuynh hướng của họ và do đó thay đổi hành vi của nhà nước, mà còn
bằng cách ngăn cản các quốc gia mưu đồ hành vi tư lợi trên cơ sở mọi di chuyển ảnh
hưởng đến vị trí quyền lực tương đối của họ (Mearsheimer, 1995).
2. Tác giả tin rằng chủ nghĩa thể chế không có chỗ đứng trong bối cảnh chính trị hiện
đại
, và trên thực tế nó đã được các quốc gia thống trị ở phương Tây sử dụng trong Kỷ
nguyên Chiến tranh Lạnh để đàn áp các quốc gia khác hoặc để đạt được lợi thế tương đối.
3. Tác giả mua ý tưởng của những người theo chủ nghĩa hiện thực rằng các quốc gia có
rất ít lý do để tin tưởng lẫn nhau và cạnh tranh quốc tế đang ở trạng thái cạnh tranh
an ninh không ngừng
(Mearsheimer, 1995). Do đó, các thể chế quốc tế không thể tuyên
bố có ảnh hưởng trong việc duy trì hòa bình và ổn định thế giới.
4. Để nhấn mạnh quan điểm của mình, tác giả lập luận rằng các quốc gia đương đại vận
hành theo cả mô hình định hướng tấn công và định hướng phòng thủ, phù hợp với
trường phái tư tưởng hiện thực.

5. Ông gợi ý rằng các quốc gia đương đại không chỉ tìm kiếm cơ hội để lợi dụng lẫn
nhau mà còn hoạt động để đảm bảo rằng các quốc gia khác không lợi dụng họ, phù hợp
với quan điểm hiện thực (Mearsheimer, 1995).
6. Để cung cấp bằng chứng, ông lập luận rằng các quốc gia đương thời được thúc đẩy chủ
yếu bởi mối quan tâm về lợi ích tương đối khi xem xét tham gia hợp tác với các quốc gia khác (Mearsheimer, 1995).
Ngoài ra, tác giả gợi ý rằng các quốc gia hiện đại thường do dự trong việc theo đuổi các
thỏa thuận hợp tác với các quốc gia khác do lo sợ rằng các quốc gia khác sẽ gian lận trong
thỏa thuận hợp đồng nhằm tăng lợi thế cạnh tranh tương đối của họ (Mearsheimer, 1995).
Do đó, ông cho rằng các quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới xây dựng và thiết kế các
thể chế, không phải để duy trì hòa bình và ổn định thế giới mà để duy trì sự phân bổ
quyền lực thế giới của họ, hoặc thậm chí tăng cường nó (Mearsheimer, 1995). Theo tôi,
những khẳng định này bị ảnh hưởng bởi dòng tư tưởng hiện thực.
6. Tác giả chọc thủng khẳng định của những người theo chủ nghĩa thể chế tự do rằng các
thể chế là nguyên nhân quan trọng của hòa bình và ổn định bằng cách gợi ý rằng rất khó
để kết nối hợp tác và ổn định. Ông lập luận rằng khẳng định này không thể đúng vì những
người theo chủ nghĩa thể chế tự do từ chối thừa nhận thực tế rằng mối quan tâm về lợi ích
tương đối là trở ngại chính cho sự hợp tác giữa các quốc gia (Mearsheimer, 1995)
7. Để kết luận, tác giả lập luận rằng chủ nghĩa thể chế tự do không hề tạo ra nền tảng
vững chắc để hiểu các quan hệ quốc tế, chứ không đề cập đến việc các thể chế không thúc
đẩy sự ổn định và quyền lực thế giới như những người theo chủ nghĩa thể chế tự do đề xuất (Mearsheimer, 1995).
8. Từ phân tích có phê phán của mình về quan điểm của những người theo chủ nghĩa hiện
thực và những người theo chủ nghĩa thể chế, tác giả nhận thấy rằng các thể chế có ảnh
hưởng không đáng kể đến hành vi của nhà nước, và do đó ít đảm bảo cho việc tăng cường
hòa bình và ổn định trong xã hội đương đại.
Câu 9: Phân tích các khái niệm quyền lực cứng, quyền lực mềm, sức mạnh thông minh
1. Quyền lực cứng, quyền lực mềm
Các định nghĩa về quyền lực đều thống nhất rằng quyền lực hàm chứa năng lực của một
chủ thể nhằm thay đổi hành vi của các chủ thể khác trong quan hệ quyền lực. Trong quan
hệ quyền lực, có ba cách cơ bản để tác động tới hành vi của người khác để có được kết
quả một chủ thể mong muốn: đó là ép buộc họ bằng sự đe dọa (bạo lực...), dụ dỗ họ bằng
lợi ích (vật chất, danh vọng,...), thu hút, hấp dẫn họ (bằng sức hấp dẫn, các giá trị, tư
tưởng,...). Hai cách trước thường được biết đến như dùng quyền lực cứng, cách thứ ba là
cách dùng quyền lực mềm.
Quyền lực cứng (hard power) là quyền lực có được dựa trên sức mạnh quân sự và kinh
tế. Thomas Schelling đã chỉ ra hai nguồn chính của quyền lực cứng là sự đe dọa và dụ dỗ,
và hai nguồn này có liên hệ rất gần gũi với nhau.
Quyền lực mềm (soft power) là quyền lực được thực hiện thông qua sự hấp
dẫn (attraction) và thuyết phục (persuation). Những tư tưởng cơ bản của "Quyền lực
mềm" - coi sự hấp dẫn là một loại quyền lực -xuất hiện trong tư tưởng kinh tế - chính trị
phương Đông cổ đại. Nhưng quyền lực mềm chỉ thực sự phát triển thành một lý thuyết
hiện đại vào cuối thế kỷ XX với những nghiên cứu của Joseph Nye và Lukes. Khái niệm
này, sau đó, được Joseph Nye nghiên cứu và phát triển thành một học thuyết. Joseph Nye
cho rằng quyền lực mềm là khả năng đoạt lấy thứ mình muốn thông qua sự hấp dẫn thay
vì ép buộc. Về bản chất, quyền lực mềm là khả năng tạo ra ảnh hưởng với người khác
bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác, làm thay đổi cách suy nghĩ của
người khác, và qua đó khiến người khác mong muốn chính điều mà mình mong muốn.
Quyền lực cứng và quyền lực mềm có liên hệ với nhau. Chúng là hai khía cạnh thể hiện
khả năng giành được mục tiêu của một người bằng việc tác động lên hành vi của những
người khác. Quyền lực cứng rất quan trọng nhưng nó không thể giải quyết được mọi vấn
đề. Quyền lực cứng là sự tác động từ bên ngoài đến các đối tượng của quyền lực, vì vậy
chi phí để sử dụng và duy trì quyền lực cứng thường cao và tiềm ẩn nguy cơ chống đối.
Quyền lực chỉ thực sự hiệu quả khi nó có được tính chính đáng. Quyền lực mềm nằm ở lẽ
phải và sự thuyết phục, nó tác động đến các đối tượng của quyền lực, làm cho sự thay đổi
nhận thức và hành vi diễn ra từ bên trong. Sự thuyết phục để tạo ra lòng tin, sự tin tưởng,
được coi là tạo nên tính chính đáng. Vì vậy, quyền lực cứng và quyền lực mềm có tác
động và có khả năng củng cố lẫn nhau. Quyền lực cứng là “hậu phương”, là một trong
những cơ sở để phát huy quyền lực mềm. Quyền lực mềm hấp dẫn khi chúng bắt nguồn từ
thành công về vật chất, những thứ do quyền lực cứng mang lại.
Quyền lực mềm là sự bồi đắp cho những khiếm khuyết của quyền lực cứng chứ không
phải là sự phản chiếu hay mặt đối lập của quyền lực cứng. Trong nhiều trường hợp, chỉ sử
dụng quyền lực mềm là không đủ mà cần phải có sự kết hợp giữa quyền lực mềm và
quyền lực cứng. Nói cách khác, quyền lực mềm là khả năng tự nâng cao tố chất để hấp
dẫn và thuyết phục người khác, từ đó đạt được điều mình cần. Do đó, tính hiệu lực của
quyền lực mềm không thể được đo lường chính xác. Trong rất nhiều trường hợp, quyền
lực cứng không được trực tiếp sử dụng, nhưng nó là hậu phương để quyền lực mềm được
thực thi hoặc làm tăng sức thuyết phục và hiệu quả của quyền lực mềm. Các nhà lãnh đạo
hay thậm chí các cá nhân cũng đều sử dụng cả hai loại quyền lực này tuỳ theo thời điểm
và hoàn cảnh. Khả năng kết hợp giữa “quyền lực mềm” và “quyền lực cứng” được gọi là
“quyền lực thông minh” (smart power), một hình thức sử dụng quyền lực quan trọng ngày
càng có ý nghĩa và ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.
Mặc dù quyền lực mềm ban đầu được nói tới trong quan hệ giữa các quốc gia, nhưng chủ
thể của quyền lực mềm hiện nay không chỉ là các quốc gia mà là tất cả các chủ thể trong
quan hệ quốc tế, chẳng hạn như các NGO, các thể chế quốc tế, các chủ thể khác trong các
mối quan hệ quyền lực trong một quốc gia, trong các tổ chức và giữa các cá nhân. Quyền
lực mềm thể hiện trong các mối quan hệ giữa các nước, giữa người lãnh đạo và nhân viên,
giữa những người cầm quyền và nhân dân, giữa các thành viên của một tổ chức, giữa các
tổ chức với nhau... Quyền lực mềm được sử dụng rộng rãi cả trong quan hệ đối ngoại và
đối nội, cho dù cách gọi tên có khác nhau.
Trong đối nội của các quốc gia, các nhà điều hành thông minh đều biết rằng việc lãnh đạo
không chỉ là ra lệnh, mà nó còn liên quan đến việc lãnh đạo bằng cách làm gương và thu
hút những người khác làm những điều mình muốn. Việc điều hành một tổ chức hay các cá
nhân hiệu quả không phải lúc nào cũng bằng việc ra lệnh hoặc đe dọa. Quyền lực của một
nhà lãnh đạo sẽ lớn hơn nếu người đó có thể làm cho những người khác chia sẻ và đóng
góp vào hệ giá trị của mình. Điều này được thực hiện dần dần, kết hợp với những điều
không nhìn thấy được, chẳng hạn như tính cách, các giá trị, sự định hướng và một tầm
nhìn được xem là hợp lý và có đạo đức.
Trong một nền dân chủ, sự cưỡng bức không bao giờ là một lựa chọn ưu tiên.Với ưu thế
tạo ra sự đồng thuận, huy động được vốn xã hội với chi phí ít nhất và đặc biệt là huy động
được sự tham gia tự nguyện lớn nhất, các mục tiêu như thúc đẩy dân chủ trong một quốc
gia sẽ dễ đạt được hơn thông qua quyền lực mềm và trong đa số các trường hợp, hiệu quả
hơn khi sử dụng được quyền lực thông minh.
2. Quyền lực thông minh
Trước hết phải khẳng định rằng quyền lực thông minh không phải là một loại quyền lực
thứ ba. Quyền lực thông minh là sự kết hợp hay pha trộn giữa quyền lực mềm và quyền
lực cứng. Đó là khả năng xác định bối cảnh, lợi dụng các xu hướng và sử dụng hợp lý
quyền lực cứng và quyền lực mềm để đạt được hiệu quả cao nhất. Nó được coi là phù hợp
hơn với các nền dân chủ, nơi mà sự tham gia có tính tự giác được đặt lên hàng đầu và mọi
sự cưỡng bức đều bị coi là phá vỡ các nguyên tắc dân chủ.
Sử dụng quyền lực thông minh là một vấn đề rất khó, nó đòi hỏi cùng lúc phải có một
quyền lực cứng đủ mạnh để cưỡng chế hoặc thể hiện năng lực cưỡng chế khi cần thiết và
sự nhạy cảm chính trị, sự sáng tạo và linh hoạt của người cầm quyền.
Quyền lực thông minh phù hợp với nền dân chủ. Việc sử dụng quyền lực thông minh là
đặc trưng của nền dân chủ. Thứ nhất, nó thể hiện được sự tôn trọng các quyền con người, quyền cá nhân những ,
yếu tố quan trọng nhất trong nền dân chủ, vì vậy, nó dễ được chấp
nhận hơn và tạo được hiệu ứng tâm lý tích cực hơn. Thứ hai, nhà nước cũng phải thể hiện
có đủ năng lực và nguồn lực để phục vụ nền dân chủ và đồng thời có đủ nguồn lực để duy
trì các giá trị cơ bản, duy trì trật tự xã hội và mở ra một tầm nhìn cho sự phát triển chung.
Việc sử dụng quyền lực thông minh sẽ đem lại hiệu quả cao nhất, huy động được sự đồng thuận và vốn xã hội.
Cơ chế phản hồi trong sử dụng quyền lực thông minh linh hoạt hơn. Cơ chế phản hồi này
giúp cho chính quyền củng cố được cả quyền lực cứng và quyền lực mềm của mình theo
hướng phù hợp hơn với yêu cầu thực tế và nguyện vọng của người dân. Việc xây dựng và
củng cố quyền lực cứng và quyền lực mềm của cả chính quyền và người dân sẽ hoàn
thiện dần các kỹ năng dân chủ, từ đó giúp cho việc phân tích các tình huống chính trị
chính xác hơn và chất lượng của dân chủ được nâng cao hơn.
Với một cơ chế phản hồi hiệu quả và thiết thực, sử dụng quyền lực thông minh là một
phương thức để cân bằng giữa tính hiệu quả trong hoạt động của nhà nước và sự tham gia của người dân.
Một quốc gia muốn có được quyền lực thông minh trong nền dân chủ thì bên cạnh sự hấp
dẫn về chính sách và pháp luật, nền hành chính tinh gọn, hiệu quả và sự minh bạch trong
hoạt động của chính quyền, cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ, có trách nhiệm và
đạo đức, biết và dám chịu trách nhiệm trước công dân. Việc sử dụng quyền lực thông
minh dựa rất nhiều vào năng lực và uy tín, sức hấp dẫn của cá nhân người lãnh đạo, và vì
sức hút của các cá nhân chỉ kéo dài chừng nào nó nhận được sự thừa nhận và có thể làm
thoả mãn những người đi theo, nên đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo là cả một quá trình
liên tục. Bên cạnh đó, người lãnh đạo phải đánh giá được hoàn cảnh, biết được khi nào sử
dụng quyền lực cứng và khi nào sử dụng quyền lực mềm để đạt được các mục tiêu một
cách hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất. Sự hiệu quả của các chính sách và nền hành
chính trong thực tiễn, sự ổn định của xã hội là những yếu tố tạo nên uy tín và sức lôi cuốn
cho quyền lực lãnh đạo.
Trong sử dụng quyền lực thông minh, sự cưỡng chế cũng là một công cụ được tính đến để
tạo ra một hậu phương vững chắc cho việc thực thi quyền lực mềm. Mặc dù sự cưỡng chế
không phải là một ưu tiên trong nền dân chủ, nhưng nó là cần thiết để duy trì trật tự xã hội
và giữ ổn định các giá trị cơ bản, bao quát, được cả xã hội thừa nhận.
Quyền lực cứng, quyền lực mềm hay quyền lực thông minh là những điều được vận dụng
hàng ngày trong đời sống, dù có đặt tên cho nó hay không. Điều quan trọng là nhận thức
được trong hoàn cảnh và thời điểm nào sử dụng quyền lực loại nào là hợp lý. Và còn quan
trọng hơn nữa là nhận thức đúng ý nghĩa của từng loại quyền lực, quan tâm củng cố các
loại quyền lực một cách hợp lý, tạo ra được sức mạnh tối đa của một quốc gia. Các loại
quyền lực này đều tồn tại trong nền dân chủ, và việc nhận thức và kiểm soát được các
quyền lực này sẽ làm cho dân chủ đạt tới một chất lượng cao hơn.