













Preview text:
lOMoAR cPSD| 61197966
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN CNXHKH Phần câu hỏi trắc nghiệm có giải thích (2 câu mỗi câu 2 điểm)
Tập trung ôn thật kỹ những nội dung sau
- Khái niệm và đặc điểm giai cấp công nhân Khái
niệm giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình thành và phát triển cùng với quả trình phát
triển của nền công nghiệp hiện đại; Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện
đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán
sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối
lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ
nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Đặc điểm
của giai cấp công nhân nói chung:
+ Giai cấp công nhân lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ lao
động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
+ Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của qúa
trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhaanlaf đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, cho phương thức sản xuất tiên quyết, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại
+ Giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động
công nghiệp. Là giai cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
- Thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH
2.1 Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH
Một là, giữa chủ nghĩa tư bản (và các chế độ xã hội bóc lột khác…) và chủ nghĩa xã hội là hai kiểu
chế độ xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng và phát triển dựa trên chế
độ kinh tế lấy sở hữu tư nhân làm chủ yếu, trái lại chủ nghĩa xã hội là xã hội được xây dựng và
phát triển dựa trên chế độ kinh tế lấy sở hữu công cộng làm chủ yếu. Do đó, ngay sau khi giai cấp
công nhân giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị bóc lột cũ, cần thiết phải có một thời
gian nhất định để giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động từng bước xóa bỏ chế độ kinh tế
chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu tư nhân sang nền kinh tế mới chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu công
cộng về các tư liệu sản xuất. Đặc biệt, đối với các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ
một nước nông nghiệp lạc hậu thì thời gian quá độ cho phép chuyển đổi giữa các nền kinh tế có
thể diễn ra lâu hơn, thậm chí tính chất còn phức tạp hơn.
Hai là, theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì tiền đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội phải được
hình thành trên cơ sở của lực lượng sản xuất hiện đại, tính chất xã hội hóa cao hơn nhiều lần so lOMoAR cPSD| 61197966
với những lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của các nền kinh tế tư bản hiện tại giai cấp công nhân
và nhân dân lao động sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công ở giai đoạn một cần có một
thời gian nhất định để tổ chức sắp xếp lại hoạt động của nền sản xuất, từng bước đưa trình độ của
nền sản xuất mới lên cao. Đối với với các quốc gia chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa, chưa thực hiện
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ quá độ có thể kêo dài hơn với nhiệm vụ trọng tâm
chủ yếu là quá trình công nghiêp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ kinh tế, xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự nảy sinh một cách tự giác trong
lòng chủ nghĩa tư bản, chúng chỉ có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo một cách tự
phát kiên trì và lâu dài dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, tại một số quốc gia tư bản chủ
nghĩa tiên tiến hiện nay đã và đang xuất hiện một số quan hệ đủ điều kiện, tiền đề cho sự hình
thành các quan hệ kinh tế, xã hội xã hội chủ nghĩa, do đó muốn chuyển các mối quan hệ này thành
mối quan hệ tự giác, chủ động cũng cần có thời gian cải tạo và phát triển.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Với
tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể ngay lập
tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất định.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế- xã hội khác nhau
có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư
bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chĩ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là
những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường
kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
2.2 Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CHXN
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại đan xen,
thâm nhập lẫn nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Về kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong
một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền
kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Về chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường
bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư
sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng
lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Về tư tưởng - văn hoá: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng
và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản,
tâm lý tiểu nông, v.v.. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng lOMoAR cPSD| 61197966
thường xuyên đấu tranh với nhau. Đó là thời kỳ, xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của
tính tự phát tiểu tư sản, nhất là trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn
không thể dung hòa giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ
luật của các tầng lớp tiểu tư sản.
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ, quá trình phát triển của các nền dân chủ trong lịch sử.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, dân chủ có những nội dung sau:
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là
chủ nhân của đất nước.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình
thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là nguyên tắc – nguyên tắc
dân chủ, nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh, dân chủ được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là
phương tiện vươn tới tự do, giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Dân chủ với tư cách một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái
nhà nước là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong.
Dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội, nó là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát triển
cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người.
Democratos: Quyền lực thuộc về nhân dân
Cuối xã hội cộng sản nguyên thủy, sản xuất phát triển, dư thừa của cải, xuất hiện sự chiếm hữu.
Cộng đồng thị tộc tổ chức hội nghị nhân dân để bầu ra tộc trưởng và cũng có quyền trừng phạt
tộc trưởng nếu vi phạm nội quy của cộng đồng. Từ đó ta có thể thấy là quyền lực đã thuộc về nhân dân.
Như vậy cuối thời công xã nguyên thủy, xã hội cổ Hy Lạp đã xuất hiện hai phạm trù Demos: Dân
Quyền lực thuộc về nhân dân Karato: Quyền lực lOMoAR cPSD| 61197966
-Khi LLSX phát triển dẫn đến chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời, xã hội hình thành giai cấp
đã làm cho nền dân chủ nguyên thủy tan rã, nền dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được
tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham gia bầu ra nhà nước. Tuy nhiên “dân là ai” thì
theo quy định của giai cấp cầm quyền dân là tầng lớp quý tộc, chủ nô và phần nào thuộc về các
công dân tự do như thương nhân, và một số trí thức. Đa số còn lại không phải là dân mà là nô lệ.
-Cùng với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, lịch sử xã hội loài người bước vào thời kỳ đen tối
với ự thống trị của Nhà nước chuyên chế phong kiến, chế độ dân chủ chủ nô bị xóa bỏ và thay vào
đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến.
-Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do, công bằng
dân chủ đã mở đường cho nền dân chủ tư sản. Dân chủ tư sản ra đời là một bước tiến lớn của nhân
loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên nó vẫn được xây dựng
trên nền tảng của chế độ tư hữu về TLSX, cho nên trên thực tế vẫn là nền dân chủ của thiểu số
những người nắm giữ TLSX đối với đại đa số nhân dân lao động -
Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thắng lợi mới mở
ra –thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, nhân dân lao động ở nhiều quốc gia giành được quyền
làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập Nhà nước công –nông, thiết lập nền dân chủ XHCN
để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân.
Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch sử nhân loại,
cho đến nay có 3 nền dân chủ. Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ XHCN. Tuy nhiên muốn
biết một nhà nước dân chủ có thực sự dân chủ hay không thì phải xem nhà nước ấy ai là dân và
bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào. -
Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông
qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng
cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân,
trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo - Yếu tố quan
trọng để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, bới vì đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với ý nghĩa này, dân chủ XHCN mang
tính nhất nguyên về chính trị
Bản chất kinh tế,Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu của toàn xã hội,
đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của LLSX dựa trên cơ sở khoa học- công nghệ hiện đại nhằm
thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất Tư tưởng- văn hóa-xã hội; Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Leenin- hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xá hội khác
trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc;
tiếp thu những giá trị tư tưởng- văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân toại đã tạo ra ở tất cả lOMoAR cPSD| 61197966
các quốc gia,dân tộc. Trong nền văn hóa XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa
tinh thần, được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện phát triển cá nhân.
Với tất cả những đặc trưng đó, Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ
tư sản, là nền dân chủ mà ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và nhân dân làm chủ,
dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
- Cơ cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH Khái niệm
Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã hội do sự tác động
lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.
Cơ cấu xã hội có nhiều loại như; cơ cấu xã hội – đân cư, cơ cấu xã hội nghề nghiệp, cơ cấu xã hội
– giai cấp, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội tôn giáo..v..v..
Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn CNXH khoa học nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp vì đó là
một trong những cơ sở để nghiên cứu vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong chế độ xã hội nhất định.
Cơ cấu xã hôi – giai cấp là hệ thống các giai cấp, các tầng lớp xã hội tồn tại khách quan trong một
chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối liên hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, về địa vị chính
trị - xã hội… giữa các giai cấp, các tầng lớp.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, cơ cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp, các tầng lớp, các
nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bố chặt chẽ với nhau. Cùng chung sức cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới XHCN.
Vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí, vai trò xác định và giữa chúng co
mối liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Song vị trí và vai trò của cơ cấu xã hội – giai cấp có vị trí quan
trọng hang đấu, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác
Cơ cấu xã hội – giai cấp liên quan đến các Cơ cấu xã hội – giai cấp liên quan đến các đảng phái
chính trị và nhà nước; đến quyền sở hữu tư liệu sản xuất, quản lý, tổ chức lao động, phân phối thu
nhập… trong một hệ thống sản xuất nhất định. Các loại hình cơ cấu xã hội khác không có được
những mối quan hệ quan trọng và quyết định này.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các loại cơ cấu
xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội, cũng như tác động đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, cơ cấu xã hội – giai cấp là căn cứ cơ bản để từ đó xây
dựng chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể. Mặc dù cơ cấu xã hội – giai cấp giữ vị trí quan trọng song không được tuyệt đối hóa nó và
xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác. lOMoAR cPSD| 61197966
Phần câu hỏi tự luận (2 câu một câu 2 điểm và 1 câu 4 điểm)
- Cơ cấu xã hội giai cấp là gì? Trong thời kỳ quá độ lên CNXH gồm những giai cấp, tầng lớpnào? (trang 166,167)
- Dân chủ là gì? Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là một
phạm trù chính trị gắn với các hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm
trù lịch sử gắn với quá trình ra đời phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.
Có mấy nền dân chủ? Nền dân chủ nào là nền dân chủ thực sự (trang 132)
- Đặc điểm về văn hóa – tư tưởng của TKQĐ lên CNXH là gì? (trang 109)
- Lý luận của Chủ nghĩa Mác -Lênin về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH. Liên hệ vớithực tiễn của Việt Nam?
- Lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin về dân chủ XHCN? Liên hệ với trách nhiệm của bản thântrong
phát huy dân chủ XHCN ở nước ta
- Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? (tr 183,184,185)
Liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc góp phần củng cố khối liên minh giai cấp, tầng
lớp và khối đoàn kết toàn dân?
- Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam (tr 223,224)
và trách nhiệm của bản thân trước những vấn đề tôn giáo ở nước ta hiện nay
- Đặc điểm dân tộc ở Việt nam và trách nhiệm của bản thân đối với vấn đề đoàn kết dân tộc ở nước ta hiên nay?
- Dân chủ trong quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin là gì? Trong lịch sử có những nền dân
chủnào? Nền dân chủ nào mới là dân chủ thực sự? (trùng)
- Thế nào là Nhà nước xã hội chủ nghĩa? Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì?(trang143, trang 144)
- Vai trò của đội ngũ doanh nhân trong cơ cấu xã hội – giai cấp ở Việt nam hiện nay? lOMoAR cPSD| 61197966
Qua 37 năm đổi mới, đội ngũ doanh nhân VN không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng,
có nhiều đóng góp quan trọng vào việc thực hiện chiến lược phát triển KT-XH của đất nước. Đây
là tầng lớp xã hội đặc biệt được Đảng ta chủ trương xây dựng thành một đội ngũ vững mạnh. Trong
tầng lớp doanh nhân có các doanh nhân với tiềm lực kinh tế lớn, có những doanh nhân vừa và nhỏ
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đội ngũ này đang đóng góp tích cực vào việc thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và tham gia giải quyết
các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh,
có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Cụ thể: •
Đội ngũ doanh nhân được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhằm
thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong
phát triển KT-XH đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của nền KT VN trên trường
quốc tế. Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, cùng nhiều chính sách hỗ trợ,
tạo động lực đã được ban hành và thực thi, đến nay đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày
càng lớn mạnh, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trên nhiều phương diện. Tính đến nay, Việt Nam đang có khoảng gần 7 triệu doanh
nhân, 860 nghìn doanh nghiệp. Khu vực này cũng đóng góp hơn 60% GDP, 70% nguồn
thu ngân sách nhà nước, tạo ra việc làm cho 14,7 triệu lao động, chiếm gần 28% lực lượng
lao động của toàn xã hội. Đội ngũ doanh nhân còn tạo công ăn việc làm, cũng như an sinh
xã hội, phục vụ công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. •
Doanh nhân là lực lượng xã hội đóng vai trò quan trọng trong giải phóng lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ đổi mới, doanh nhân là lực
lượng chủ yếu huy động các nguồn lực sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã
hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển KT-XH đất nước. Thông qua tổ chức và điều hành
sản xuất - kinh doanh, doanh nhân, doanh nghiệp góp phần thúc đẩy phân công lao động
xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. •
Trong thời kỳ đổi mới, doanh nhân Việt Nam đã góp phần quan trọng vào hình thành cơ
cấu xã hội và quan hệ xã hội mới, hệ giá trị và lối sống phù hợp với điều kiện CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế. Cơ cấu xã hội mới ở Việt Nam có thêm đội ngũ hàng triệu
doanh nhân với vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Họ là mắt xích không
thể thiếu trong các liên kết, hợp tác KT-XH, trong đó có liên kết “5 nhà” (Nhà nước, nhà
doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà băng và nhà nông). Đội ngũ doanh nhân góp phần hình
thành lối sống sáng tạo, tự lập, tự chủ, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn,
dám chấp nhận rủi ro, có chí làm giàu, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng
đồng xã hội; trở thành mục tiêu, khát vọng phấn đấu của nhiều người, nhất là giới trẻ. •
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đội ngũ doanh nhân đã góp phần quan trọng
trong tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội và bảo
đảm an sinh xã hội. Sự ra đời, phát triển của doanh nghiệp, doanh nhân đã mang lại việc
làm và sinh kế cho nhiều người lao động trên các vùng miền cả nước, đặc biệt là đội
ngũ công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số ở biên giới, miền núi, kể cả thương
binh, bệnh binh, người yếu thế, người khuyết tật. Doanh nhân cũng tích cực tham gia các
hoạt động xã hội như: đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, đóng góp các quỹ nhân đạo, lOMoAR cPSD| 61197966
từ thiện, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, xây dựng các công trình phúc lợi góp phần bảo
đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Trong tiến trình
đổi mới, doanh nhân Việt Nam đã góp phần xây dựng xã hội đoàn kết, đồng thuận, công
bằng, an sinh, văn minh theo định hướng XHCN. •
Doanh nhân tham gia vào các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, một
số trở thành đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đã góp phần quan trọng
trong góp ý, phản biện, xây dựng, thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia và các địa phương. Như vậy, trong tiến trình đổi mới, doanh nhân là một trong
những lực lượng cơ bản tham gia xây dựng, quyết định, phản biện, thực hiện chính sách
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Tuy nhiên, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW chỉ ra nhiều hạn chế của cộng
đồng doanh nhân cần sớm khắc phục như: theo năng lực cạnh tranh doanh nghiệp vẫn ở mức trung
bình so thế giới, chưa đạt mục tiêu lọt vào nhóm 3, nhóm 4 của ASEAN,... Việc khơi dậy, phát huy
đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam chưa được quan tâm tương xứng, chưa thật
sự trở thành nguồn lực phát triển bền vững cho đất nước.
- Khái niệm dân tộc theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin?(trang 196)
Sự khác biệt trong quan niệm về dân tộc trong hai khái niệm “dân tộc Việt Nam” và “dân tộc Kinh” là gì?
- Phân tích các nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc trong “Cương lĩnh dân tộc” của Lênin?
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin gồm các nội dung sau:
* Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, ở trình độ
phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật bảo vệ
và phải được thực hiện trên thực tế.
Để thực hiện được bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp,
trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn. lOMoAR cPSD| 61197966
* Các dân tộc có quyền tự quyết
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa
chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập,
đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Tuy nhiên, việc
thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, bảo đảm
sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân.
* Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Là tư tưởng, nội dung cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của Lênin. Tư tưởng này thể hiện
bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân
tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp.
Là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp
bức trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng
dân tộc, có vai trò quyết định đến việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết.
Như vậy, sự thăng trầm của lịch sử nhân loại đã không bác bỏ cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trái lại, hiện thực lịch sử đã cung cấp thêm các sự kiện để xác nhận sự đúng
đắn của cương lĩnh và đòi hỏi sự vận dụng cương lĩnh đó cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể
của từng dân tộc, từng quốc gia trong thời đại ngày nay.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản và Nhà
nước trong các quốc gia đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Phân tích đặc điểm của dân tộc Việt Nam?
Thứ nhất: Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người
Việt Nam là một quốc gia gồm 54 dân tộc thống nhất được phân bố rải rác trên lãnh thổ cả
nước. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh chiếm khoảng 86% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 14% lOMoAR cPSD| 61197966
dân số. 10 dân tộc có số dân dưới 1 triệu đến 100 ngàn là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông,
Dao, Gia rai, Bana, Ê đê; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10
ngàn đến 1000; 6 dân tộc có số dân dưới 1000 (Cống, Si la, Pu Péo, Rơ măm, Ơ Đu, Brau) Đồng
bào các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú trên địa bàn rộng lớn chiếm ¾ diện tích đất nước, chủ
yếu là miền núi, trên toàn tuyến biên giới, một số ở đồng bằng và hải đảo. Ở nhiều tỉnh như Cao
Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu,...
Thứ hai: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau
Việt Nam vốn là nơi chuyển cư của nhiều dân tộc khu vực Đông Nam á, Nên địa bản cư
trú của các dân tộc có sự phân tán, xen kẽ và các dân tộc ở VN không coslanhx thổ tộc người riêng.
Do đó, không có một dân tộc nào cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn
Đặc điểm này vừa tạo điều thuận lơi cho các dân tộc giao lưu, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau
tạo nên một nền văn hóa thống nhất trong tính đa dạng, vừa tạo ra khó khăn vì trong quá trình
cùng chung sống dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột, đễ bi lợi dụng để phá hoại an ninh chính tri và
sự thống nhât đất nước.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở VN phân bổ chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả nước nhưng cư
trú trên địa bàn rộng lớn chiếm ¾ diện tích đất nước, trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng
rừng núi cao, hải đảo,...
Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực., ví
như đồng bào dân tộc Khơme ở Tây Nam bộ có quan hệ với dân tộc Khơme ở Campuchia…
Xuất phát từ tình hình đặc trưng cơ bản trên của dân tộc Việt Nam, các thế lực lơi dụng để
chống phá cách mạng. ví dụ như một số vụ ở Tây Nguyên, Tây bắc..
Thứ tư: Các dân tộc ở VN có trình độ phát triển không đều
Trong cộng đồng các dân tộc còn có những nét khác biệt, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, văn hoá...giữa các dân tộc không đồng đều, còn chênh lệch nhau khá rõ rệt. lOMoAR cPSD| 61197966
Về phương diện kinh tế: các dân tộc thiểu số Việt Nam ở trình độ phát triển rất khác nhau,
nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở trình độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên.
Về phương diện xã hôi: trình độ tổ chức đời sống, quan hệ xã hội của các dân tộc thiểu số còn khác nhau.
Về văn hóa: trình độ dân trí, chuyên môn kỹ thuật nhiều dân tộc thiểu số còn thấp
Nhìn chung,đời sống vật chất của đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng
nghèo đói kéo dài, nạn mù chữ và tái mù chữ còn ở nhiều nơi.
Thứ năm: Các dân tộc VN có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân
tộc- Quốc gia thống nhất
Đặc trưng này được hình thành trong quá trình cải biến tự nhiên và nhu cầu hợp sức cùng
đấu tranh để chống lai ngoại xâm nên dân tộc Việt Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết
dính cao giữa các dân tộc
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, là một trong nhứng
nguyên nhân và động lực để dân tộc chiến thắng trong moi giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, cần phát huy truyền thống đoàn kết các dân tộc hơn nưa để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, kịp thời đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch muốn chông phá nước ta.
Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng
của nền văn hóa VN thống nhất.
Về văn hoá, nhiều dân tộc ở nước ta có di sản văn hoá với bản sắc riêng rất độc đáo. Đặc
trưng của sắc thái văn hoá dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn học, nghệ thuật, tình cảm dân
tộc, y phục, quan hệ gia đình,...
Sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc tạo nên một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong tính đa đạng
Xuất phát từ các đặc điểm trên, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính
sách dân tộc, xem xét nó như là vấn đề chính trị - xã hội rộng lớn và toàn diện gắn liền với các
mục tiêu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. lOMoAR cPSD| 61197966
- Nêu quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc? (trang 209,210,211) -
Phân tích hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc?
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản, V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc. *
Xu hướng thứ nhất: do sự thức tỉnh, sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về
quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này thể hiện rõ nét trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của các nước thực dân, đế quốc để
quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.
Ví dụ: cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của dân tộc Việt Nam nhằm thoát khỏi sự áp
bức, bóc lột của thực dân Pháp tháng 8/1945. *
Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá
trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ sự biệt lập, khép kín của dân tộc, thúc đẩy
các dân tộc xích lại gần nhau.
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng này phát huy tác động cùng chiều, bổ sung,
hỗ trợ nhau và diễn ra trong từng dân tộc và trong cả cộng đồng quốc gia. Sự xích lại gần nhau
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng sẽ tạo điều kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn
vinh; vừa bảo đảm tính cộng đồng, thống nhất, vừa đảm bảo tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc.
- Phân tích đặc trưng cơ bản của dân tộc – quốc gia theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin?
- Vì sao nói gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên?
Gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành và phát triển xã hội.
Nếu không có gia đình để sản xuất và nuôi dưỡng con người, thì xã hội sẽ không thể tồn tại và phát
triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình”. lOMoAR cPSD| 61197966
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân đều gắn bó chặt
chẽ với gia đình. Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng,
chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện
quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trờ thành công dân tốt cho
xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có
động lực để phấn đấu trở thành con người xã hội tốt.
→ Qua đó, có thể kết luận: Gia đình là tổ ấm, là nơi nuôi dưỡng, mang lại các gía trị hạnh phúc,
sự hài hòa trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên
Đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan
trọng. Đó chính là sứ mệnh và trách nhiệm mà xã hội và tự nhiên đã giao cho gia đình mà không
thiết chế xã hội đương thời nào có thể thay thế được. Việc thực hiện các chức năng cơ bản của gia
đình đã góp phần lớn trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội ngày nay.
Chức năng sinh đẻ (hay tái sinh sản và duy trì nòi giống)
Đây là chức năng đặc thù của gia đình mà không một cộng đồng nào có thể thay thế. Việc thực
hiện chức năng sinh đẻ không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng
nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy
trì sự trường tồn của xã hội. Chức năng sinh đẻ xuất hiện trong từng gia đình, nhưng không chỉ là
việc riêng của gia đình mà là vấn đề của cả xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ
đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội tuy nhiên ở mỗi quốc gia thì việc thực hiện chức
năng có sự khác biệt nhất định.
Chức năng giáo dục
Đây là chức năng vô cùng quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân cách và hành vi sau này
của mỗi cá nhân. Có thể nói, gia đình chính là trường học đầu tiên mà ở đó cha mẹ chính là những
người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người. Bên cạnh chức năng sinh đẻ, gia đình còn có
trách nhiệm thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp của con; tôn
trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí
tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Đó chính
là quyền và nghĩa vụ của người làm cha mẹ cha mẹ nói riêng và chức năng của gia đình nói chung. Chức năng kinh tế
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế
khác không có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động cho xã hội. Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra
của cải, vật chất, đảm bảo sự sống còn, ấm no của gia đình, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con
người, góp phần to lớn vào sự phát triển của xã hội, đất nước. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “dân có giàu thì nước mới mạnh”. lOMoAR cPSD| 61197966
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa,
tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm,
người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu
cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. → Có thể nói, gia đình vừa là
tổ ấm, vừa là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa vững chắc về mặt tinh thần. Với
việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội