




Preview text:
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Họ và tên: Hoàng Trọng Đạt –12/07/1998
Mã sinh viên: 23B5018D0074
Lớp: K22 Bắc Giang
Dựa trên nội dung của Đại cương văn hóa Việt Nam, Anh/Chị
hãy cho biết các luận điểm sau đúng (hay sai). Giải thích tại sao?
Luận điểm 1 (2,5 điểm): Bản sắc văn hóa Việt Nam là các yếu tố cấu thành văn hóa Việt Nam.
Luận điểm 2 (2,5 điểm): Càng đi về phía Nam Việt Nam, tín ngưỡng
thờ Thành Hoàng càng suy giảm.
Luận điểm 3 (2,5 điểm): Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng
xã Việt Nam truyền thống là pháp luật.
Luận điểm 4 (2,5 điểm): Tính dung chấp trong văn hóa Việt Nam là
sự kết hợp một cách cơ học giữa yếu tố văn hóa ngoại sinh với văn hóa bản địa. BÀI LÀM
(1) Luận điểm "bản sắc văn hóa Việt Nam là các yếu tố cấu thành
văn hóa Việt Nam" là Sai. Vì:
Bản sắc văn hóa Việt Nam là sự đặc trưng, riêng biệt và khác biệt của
văn hóa Việt Nam so với các văn hóa khác, không phải là các yếu tố
cấu thành văn hóa Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, bao gồm: 1
1. Lịch sử: Văn hóa Việt Nam rất đậm chất lịch sử, được hình thành và
phát triển qua hàng ngàn năm. Lịch sử phản ánh những sự kiện, truyền
thống, và giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam.
2. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ tiếng Việt góp phần quan trọng trong việc
hình thành và duy trì văn hóa Việt Nam. Nó là phương tiện giao tiếp
và truyền đạt tri thức, thông tin, tư tưởng, và giá trị văn hóa của người Việt.
3. Truyền thống và tín ngưỡng: Văn hóa Việt Nam có nhiều truyền
thống và tín ngưỡng phong phú, như tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng
tâm linh, và các nghi lễ truyền thống như lễ hội, đám giỗ, đám cưới,
và các niên biểu truyền thống.
4. Nghệ thuật: Văn hóa Việt Nam có những hình thức nghệ thuật đa
dạng như âm nhạc, múa rối, kịch Nôm, điệu nhảy truyền thống, hội
họa, điêu khắc, và các bộ môn thể thao truyền thống.
5. Phong tục và tập quán: Văn hóa Việt Nam có nhiều phong tục và
tập quán đặc trưng như nghi lễ cúng gia tiên, thờ cúng tổ tiên, ăn
mừng ngày lễ truyền thống, và các phản ứng xã hội đặc biệt trong các
sự kiện quan trọng như đám tang và đám cưới.
6. Gia đình: Gia đình được coi là trung tâm của văn hóa Việt Nam, tổ
chức theo nguyên lý ông bà, cha mẹ, con cái. Gia đình có vai trò quan
trọng trong việc truyền đạt giá trị văn hóa, đạo đức, và truyền thống từ
thế hệ này sang thế hệ khác.
Những yếu tố này đóng góp vào việc hình thành và bảo tồn văn hóa
Việt Nam, tạo nên sự đặc trưng và mang lại sự đa dạng và phong cách
riêng biệt của nền văn hóa này.
(2) Luận điểm "Càng đi về phía Nam Việt Nam, tín ngưỡng thờ
Thành Hoàng càng suy giảm" là Đúng. Vì:
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng thực tế đã suy giảm theo thời gian khi
đi từ Bắc vào Nam Việt Nam. Có một số yếu tố văn hóa và tôn giáo có
thể ảnh hưởng đến sự suy giảm này. 2
Một trong những yếu tố là sự phổ biến của các tôn giáo khác nhau. Ở
miền Bắc, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, tôn giáo dân gian như thờ
Thành Hoàng có sự tồn tại mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi di chuyển về phía
Nam, đặc biệt là ở các thành phố lớn, sự truyền bá của các đạo tràng
tôn giáo khác như Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo và đạo Cao Đài đã
tăng lên. Điều này có thể khiến người dân có những sự lựa chọn tôn
giáo khác hơn và dẫn đến giảm sự quan tâm và thực hiện tín ngưỡng thờ Thành Hoàng.
Ngoài ra, sự thay đổi lối sống và giá trị văn hóa cũng có thể ảnh
hưởng đến sự suy giảm này. Khi các thành phố phát triển và tiến hóa,
người dân có thể chuyển đổi sang các hoạt động và niềm tin khác phù
hợp với cuộc sống hiện đại hơn. Các giá trị tôn giáo truyền thống có
thể không còn phù hợp với những thay đổi này và mất đi sự ưa thích
từ cộng đồng.Vì vậy, có các yếu tố văn hóa, tôn giáo và lối sống có thể
tác động đến sự suy giảm tín ngưỡng thờ Thành Hoàng khi di chuyển
từ Bắc vào Nam Việt Nam.
(3) Luận điểm "Công cụ điều chỉnh hành vi của cư dân làng xã
Việt Nam truyền thống là pháp luật" là Sai. Vì:
Công cụ quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính tự
quản tại các cộng đồng làng xã là hương ước
“Hương ước” là một thuật ngữ Hán Việt, trong đó “hương” là làng,
quê; “ước” là giao kèo, thỏa thuận, quy ước, “hương ước” là những
giao kèo, thỏa thuận, quy ước của cộng đồng thôn, làng, nói cách
khác, hương ước là tổng thể các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong phạm vi một thôn, làng. Hương ước có nguồn gốc từ
phong tục tập quán, được hình thành trên cơ sở phong tục tập quán
của mỗi làng, là hình thức thành văn của phong tục tập quán nhưng
không hoàn toàn đồng nhất với phong tục tập quán. Bên cạnh những
quy định được chép lại từ phong tục tập quán, trong bản hương ước
của mỗi làng còn có những quy định do dân làng đặt ra trên cơ sở điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của thôn, làng. Để nắm lấy các thôn, làng, can
thiệp vào công việc của thôn, làng, hạn chế vai trò tự quản, tự trị của 3
nó, nhà nước quy định thủ tục phê chuẩn hương ước và đưa vào đó
những quy định liên quan đến nhà nước. Khác với phong tục tập quán,
hương ước có quy định các biện pháp xử phạt người vi phạm, tuy
nhiên nhà nước chỉ cho phép thôn, làng xử phạt một số vi phạm nhỏ
thuộc nểp sống cộng đồng, vượt quá giới hạn đó, thôn, làng phải trình
quan trên để nhà nước giải quyết. Như vậy, có thể coi hương ước như
một bộ luật của thôn, làng, đồng thời cũng được xem như “cánh tay
nối dài” của pháp luật, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các
thôn, làng, nơi mà chính quyền trung ương chưa vươn tới được.
Hương ước như là một sự dung hoà giữa pháp luật của nhà nước với
phong tục tập quán của thôn, làng. Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên
cứu, hương ước xuất hiện muộn nhất vào cuối thế kỉ XV. Dưới chế độ
phong kiến, các bản hương ước đều quy định cách thức ứng xử trong
các mối quan hệ thân tộc, xóm giềng, tuổi tác, ngôi thứ, cách thức tiến
hành các nghi lễ tín ngưỡng, hiếu, hỉ, khao vọng, cách thức tổ chức
cũng như vai trò của các thiết chế phường, hội, giáp... như việc bầu cử
các chức dịch trong thôn, làng, việc thu thuế, bắt lính...
(4) Luận điểm "Tính dung chấp trong văn hóa Việt Nam là sự kết
hợp một cách cơ học giữa yếu tố văn hóa ngoại sinh với văn hóa
bản địa" là Sai. Vì:
Tính dung chấp trong văn hóa Việt Nam không phải là sự kết hợp cơ
học giữa yếu tố văn hóa ngoại sinh và văn hóa bản địa. Thay vào đó,
nó biểu thị sự thấu hiểu, chấp nhận sự khác biệt và sự đa dạng trong văn hóa.
Tính dung chấp trong văn hóa Việt Nam đề cập đến khả năng chấp
nhận, thích ứng và tương tác với các yếu tố văn hóa từ bên ngoài một
cách mở rộng. Điều này có thể bao gồm yếu tố văn hóa nhập khẩu,
như các xu hướng, phong cách, tư duy, hoặc văn hóa của các dân tộc hoặc quốc gia khác.
Tính dung chấp trong văn hóa Việt Nam không chỉ đơn thuần là việc
kết hợp các yếu tố văn hóa một cách cơ học. Nó còn đòi hỏi sự hiểu
biết, trân trọng và bảo tồn các giá trị cốt lõi của văn hóa bản địa trong 4
quá trình tương tác với các yếu tố văn hóa ngoại sinh. Điều này đảm
bảo rằng tính đặc trưng và sức sống của văn hóa Việt Nam được bảo
tồn và phát triển trong quá trình giao thoa văn hóa. 5