tưởng làng Việt Nam
Bài viết phân tích khái niệm tưởng làng xã, mối liên hệ giữa tưởng làng
với văn hóa làng xã, tưởng làng với ởng quan phương, tính chất nội
dung của tưởng làng . Theo tác giả, tưởng làng ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống của dân nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc Bộ, những đặc thù
riêng. tưởng làng đã đang tồn tại lâu dài trong dân nông nghiệp,
ảnh hưởng tích cực tiêu cực đối với sự phát triển của nông thôn Việt Nam.
1. Mở đầu
tưởng làng (hay tư duy làng xã) mt hin tượng tinh thn, mt kiểu tư duy,
mt nếp ng phổ biến của dân làng đã tồn tại chi phối đời sống nông thôn
Việt Nam tcả ngàn năm nay, nhưng gần đây mới được giới nghiên cứu chú ý, khi
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa được đẩy mạnh, phát trin nhanh chóng và vấp
phải nhiều vấn đề nảy sinh tli tư duy này. Nhiều hạn chế trong lối sống, văn hóa
giao tiếp, ứng xử, tác phong làm việc, cách thức quản lý, v.v. của con người Việt Nam
nguyên nhân những hạn chế trong tưởng làng xã. Nhưng tư tưởng làng là
gì? xuất hiện từ bao giờ? những đặc điểm nội dung thế nào? Những
vấn đề này chưa được ai giải tch rõ. Bài viết nhằm đưa ra mt quan niệm về tư
tưởng làng với những nội dung cụ th đặc trưng của loại hình tư tưởng này
trong đời sống tư tưởng của hi Việt Nam, t đó gợi ý cho việc nghiên cứu chuyên
sâu về tư tưởng làng nhằm nhận thức những khó khăn trên phương diện tư
tưởng, văn hóa mà quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đang phi đối diện hiện
nay.
2. Thuật ngữ ởng làng
Từ trước đến nay, chúng ta chưa có mt định nghĩa ràng, đầy đủ về tưởng làng
. Ngay việc xác định thuật ngữ tư tưởng làng xã” như một khái niệm học thuật
cũng chưa mấy người quan tâm. Trong nghiên cứu tư tưởng Việt Nam từ trước đến
nay, giới nghiên cứu chưa chú trọng tới mảng tưởng dân gian, tư tưởng không
chính thng mà chỉ quan tâm chủ yếu tới tư tưởng chính thống, mang tính ý thức hệ
của cả n tộc(1). Chúng ta thường nói tới tư tưởng n gian như một loại hình tư
tưởng ph biến của nhân dân, của tầng lớp bị trị, có tính đối lập với tư tưởng của giai
cấp thống trị không mang tính chính thống. Trong khi đó, trên thực tế, tư tưởng
phổ biến của đại chúng nhân dân chính mạch nguồn bản sắc tư tưởng, n hóa của
dân tộc, ảnh hưởng dài lâu bền vng trong nhân dân. Tuy nhiên, điều này chỉ
thực sự tr thành mi quan tâm của giới nghiên cứu nhng năm gần đây khi vấn đề
văn hóa và phát triển; vấn đề phát trin nguồn nhân lực được đặt ra với mt đất nước
nông nghiệp lạc hậu và nông dân chiếm gần 70% dân số
(2)
như Việt Nam.
đây, chúng tôi xem xét “tư tưởng làng xã” như mt khái niệm học thuật trong
nghiên cứu tư tưởng Việt Nam (trong đó chú ý đến phương din biểu hiện đặc thù của
nó, tính chất chính thống trong phạm vi hình thành, vn động ảnh hưởng xác đnh
của nó so với tư tưởng dân gian có tính phquát và không được coi là chính thống).
tưởng làng thuộc văn hóa làng xã. Văn hóa làng là mt tập hợp của những
đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức xúc cảm của mt cộng đng người n
sống trong mt không gian địa làng xác định, ổn đnh, làm nên mộthội chứa
đựng cả văn học, nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thng và đức tin. Từ đó, có thể hiểu tưởng làng là kết quả của li suy
nghĩ, li tư duy đặc trưng của cộng đồng dân sống trong khuôn khổ mt môi
trường văn hóa, xã hi và không gian đa làng xã cụ thể.
Xét trên phương diện phạm vi biểu hiện, tư tưởng làng xã là ý thức hội của một
cộng đng dân cùng chung sống chia sẻ nhng điều kiện sinh hoạt, phương thức
chung sống, phương thức sản xuất, niềm tin, hgiá trị, truyền thống trong mt môi
trường địa vực nhất định.(2)
Trong môi trường đa văn hóa đó, cng đồng dân làng gồm bốn nhóm
người (giai tầng) chủ yếu là sĩ, nông, công, thương. Bốn nhóm nời này lại được
phân chia theo địa vị ngôi thtrong thang bậc hội của làng xã, thứ bậc về huyết
thng và tui tác. Sự phân chia ngôi thứ, tầng lớp, vị t hi trong làng xã là một hệ
thng cùng phức tạp, tồn tại lâu đời trở thành mc đnh trong nếp nghĩ của dân
làng. vô s những quy định để duy t trật tự đẳng cấp này được hợp thức hóa
thành điều khoản trong hương ước ng không ít các quy đnh khác để người
dân thể thay đổi thân phn của mình trong trật tự làng xã, rằng rất khó đáp ứng
các quy định này. Như vậy, tư tưởng làng tổng hợp tư tưởng của các nhóm, các
đẳng cấp n cùng chung sống trong mt làng, . Sự tổng hợp này không phải
phép tính học tổng số tưởng của các nhóm dân cộng li, mà là sự tổng hòa, là
sự đồng thuận, nhng tư tưởng chung được chấp nhận phbiến của tt cả các
nhóm dân trong làng . Chính vậy, mặc phạm vi tưởng làng giới hạn
trong cộng đồng dân của mi làng, nhưng tư tưởng làng vẫn những nét
chung cho tt cả các làng xã. Đồng thi, khi tìm hiểu tư tưởng của mt đơn vị hành
chính làng nhất định, chúng ta vn thấy những nét riêng, đặc thù, được quy đnh do
tính đặc thù vmôi trường địa vực và văn hóa của mi làng xã.
3. tưởng làng với văn hóa làng
tưởng làng sự phản ánh trên phương din tưởng toàn bộ đời sống của cộng
đồng dân nông thôn cùng chung sống trong mt đơn vị hành chính làng nhất
định. Làng là một hình thức tổ chức xã hội phổ biến của nông dân Việt Nam. Làng
Việt Nam, đặc biệt làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, được coi sự phát triển kéo
dài của hình thức tổ chức xã hi công xã nông thôn, có tính đặc thù về mặt tổ chức
hội, văn hóa, có sức sống mãnh liệt và ảnh hưởng mạnh mẽ trong lịch sử và hiện tại.
Làng xã Việt Nam là khuôn khổ vật chất của văn hóa làng xã, được hình thành trất
u đời. Văn hóa làng làng về mặt địa giới hai phương din vật chất tinh
thần của mt thực thlàng. Mỗi làng quê Việt Nam đều định dạng vmặt vật th
như địa vực, c kết cấu tiêu biểu, dân cư, cách thức sinh sống tổ chức quản
làng... Trên sở những thiết chế vật chất làng bn như vậy, một khn kh văn
hóa làng được hình thành với những nét đặc trưng bản về mặt tôn giáo, tín
ngưỡng, về hệ giá trị, về li sống và phương thức sống chung, về sinh hoạt văn hóa,
nghệ thuật...
Trong lịch sử, văn hóa làng xã vai trò thanh lc những giá tr ngoại lai, bảo vệ, duy
t các giá trị thuần phong mỹ tục. Tính ổn đnh của khn kh văn hóa làng được
củng cố nhờ sự duy trì lâu i phương thức sản xuất tiểu nông, tiểu th công, nhờ sự
t nguyện tuân thủ các phép tắc, luật lriêng của từng làng được quy đnh trong
hương ước nhờ stồn tại, củng cố lâu dài cấu tổ chức quản lý ttrị làng xã.
Thừa nhận làng như những pháo đài kiên cố bảo vệ sự trường tồn của văn hóa làng
chống li tất cả những nỗ lực đồng hóa văn hóa của kẻ thng trị ngoại bang trong
lịch sử hàng ngn năm của dân tộc, các nhà nghiên cứu văn hóa đã xác quyết vai trò
hạt nhân của văn hóa làng làm nên bản sắc của văn hóa Việt Nam.
Văn hóa làng tổng thcác hoạt động vật chất tinh thần của cộng đồng người
dân cùng cư ttrong mt phạm vi địa giới, môi trường phân biệt với cộng đồng làng
khác. Trong phạm vi đó, người dân cùng chia sẻ những hoạt động vật chất tinh
thần chung (như lao đng sản xuất, xây dựng bảo vệ cuộc sống gia đình và cộng
đồng, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, văn nghệ, giải t...) theo những cách thức, luật
lệ nhất định.
Cùng với lịch sử hình thành và phát triển của mi làng xã, đời sống văn hóa, tinh thần
của làng đã được định nh theo mt khuôn khổ nhất định, trong đó, mi người dân
làng cùng chia sẻ sự cộng cảm về các giá trị chân, thin, mỹ đã được hình thành, được
thừa nhận và được tuân thủ theo thời gian.
Trong không gian văn hóa làng xã, mi nhân từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành
trở về với tổ tiên đều thm nhuần các chuẩn mực giá trị được quy định từ trước của
cộng đồng. Những chuẩn mực giá trị quy đnh hành vi, li sống đó của người dân
được hình thành, thừa nhận tuân thủ trong làng xã tđời này qua đời khác đã trở
thành khuôn kh cho li suy nghĩ, duy của dân làng. Tư tưởng làng là yếu tố hạt
nhân, n trong, xuyên suốt của đời sống văn hóa làng được nh thành trên nền
tảng của phương thức sinh sống của dân nông nghiệp t cấp ttúc, trong một
phạm vi tương đối khép kín của mi thực thể làng xã.
Khi con người sinh ra trưởng thành trong một môi trường làng khép kín với
những quy chuẩn về phong tục, tập quán đã được luật lhóa trong hương ước, khoán
lệ ràng buộc hành vi của dân làng, thì đời sống tưởng của hcũng khó thể vượt
qua được những khuôn mẫu sẵn có. từ đời này, sang đời khác, các giá trị văn hóa,
được lặp lại trong môi trường hầu như không biến đổi đã tr thành nguồn gen văn hóa
của làng xã, mà không phải ny mt ngày hai có thể thay đổi.
m lại: tưởng làng xã cốt lõi của văn hóa làng xã, là mt loại nh tưởng
phổ biến chi phối lâu dài đời sống tinh thần của nông dân ở nông thôn Việt Nam.
4. Quan hệ của tưởng làng ng quan phương
tưởng làng n được xác đnh thông qua sự đối chiếu, so sánh với tư tưởng
quan phương. Một cách khái quát, tư tưởng làng là hệ tư tưởng chính thống của
mt làng xã, phạm vi nh hưởng trong một làng nhất định, tính chất kinh
nghiệm chủ nghĩa nội dung phản ánh mọi hoạt động đời sống hội của mt
làng xã.
Với sự tồn tại của hthống làng Việt Nam, mà cụ thể và điển hình nhất là làng
đồng bằng Bắc Bộ bao gồm hàng ngàn đơn vị, t theo định nghĩa đã nêu về
nguyên tắc cũng sẽ tồn tại khoảng hàng ngàn hệ tư tưởng làng khác nhau. Tuy
nhiên, khảo cứu hơn 9000 bản hương ước n được lưu giữ trong thư vin của Viện
Thông tin Khoa học hội, chúng tôi thấy, bên cạnh mt số đặc điểm riêng về địa
vực, n cư, tôn giáo tín ngưỡng thì đời sống các làng xã đồng bằng Bắc Bộ đều
những đặc đim chung quan trọng, tính chất chi phi các đặc đim khác, đó là
cùng chung phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, cùng chung chế độ công
điền, cùng chung những điều kin thiên nhiên, môi trường, chế độ xã hi, v.v.. Do đó,
tư tưởng làng vẫn những nội dung, đặc điểm, tính chất phổ biến chung cho mi
làng xã đồng bng Bắc Bộ.
Mặc tính độc lập, tự trị tương đối nhưng làng vẫn là mt đơn vị trong hệ
thng hành chính nhà nước. Làng chịu sự chi phối chung của nhà nước trên mi
lĩnh vực, trong đó có nh vực văn hóa, tinh thn. Theo quy luật phát trin văn hóa
trong mt nền văn hóa dân tộc, luôn luôn tồn tại hai nền văn hóa, đó là văn hóa của
giai cấp thống tr (hay còn gọi văn hóa quan phương) và văn hóa của giai cấp bị trị
(hay n gọi là văn hóa dân gian, mà cụ thđây văn hóa làng xã). Tương tnhư
vậy, trong thực thể tinh thần của dân tộc tồn tại song hành h tư tưởng chính thống và
hệ tư tưởng dân gian, mà cụ thở đây là tư tưởng quan phương và tư tưởng làng xã.
Trên phương din mô, tổng thể đời sống tinh thần dân tộc chịu sự chi phi của hệ
tư tưởng chính thống là hệ tưởng được mt triều đại nào đó lấy làm sở luận
cho đường li trị nước, quản hội, xây dựng triều đại, phát triển văn hóa... Thời
- Trần, các vị vua đều n sùng Phật giáo, lấy triết học Phật giáo làm trụ cột y
dựng văn hóa Đại Việt, kết hợp với Nho giáo làm phương tiện tưởng chính trị để tr
nước. Đến thi Lê, Nho giáo được đưa lên đa vị thng trị, độc n về hệ tư tưởng.
Vua Thánh ng đã dùng uy lực cnh trị sự uyên thâm Nho giáo cố gắng xây
dựng nền chính trị theo mô hình Trung Hoa cải biến nn văn hóa Đại Việt theo
hướng lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng độc tôn.
Những nỗ lc của các triều đại trong việc truyn bá, áp đặt hệ tư tưởng chính thng
của triều đại nh vào đời sống xã hội của dân chúng đã tạo nên sự thay đổi trong đời
sống tư tưởng của dân chúng, tuỳ thuộc phương thức truyền bá của mi triều đại. Tuy
nhiên, phương diện vi mô, cấp độ đời sống tinh thần của quảng đại n chúng, tư
tưởng làng là nhân tố chủ đạo và có tính bảo thcao đ do đặc thù tồn tại của làng
Việt. Những n lực đưa các giá trị tư tưởng quan phương vào đời sống làng
thường phải trải qua mt thời gian dài với những hình thc đặc biệt mới tạo ra mt số
ảnh hưởng nào đó. dụ, tưởng Nho giáo mặc vào Việt Nam t trước Công
nguyên ảnh hưởng lớn trong tầng lớp thng trị nhưng phải đến thế kỷ XV mi
một số ảnh hưởng trong tư tưởng làng xã, đặc biệt là tưởng gia trưởng, trọng
danh, trọng hc.
Một điểm phân biệt bản giữa tư tưởng quan phương tư tưởng làng xã là tính
chất của mi loại hình tư tưởng. tưởng quan phương có tính luận, tính hệ thống
thuộc cấp độ duy tính. Trong khi đó, tưởng làng mang tính kinh nghiệm,
thiếu hệ thng và thuộc loại hình tư duy cảm tính, kinh nghiệm.
Trong những điều kin c đnh về thời gian, thchế, tính tương hợp văn hóa..., các
giá trị tư tưởng quan phương sau khi gia nhập hệ tư tưởng làng xã, trở thành mt
thành tố của tư tưởng làng chịu sự chi phối của tưởng làng hơn trở
thành yếu tố chi phi, quyết định trong tư tưởng làng xã. Sự giao thoa giữa tư tưởng
quan phương tưởng làng diễn ra liên tục thường xuyên trong lịch sử nhưng
luôn ln tồn tại ranh giới, khoảng cách gia hai hình thái tưởng này. Ranh giới đó
đậm hay nhạt, khoảng cách đó rộng hay hẹp hoàn toàn tùy thuộc sự tương thích của
tưởng quan phương với tư tưởng làng xã mà không phải là ngược lại.
Mặc dù vua Lê Thánh Tông đã nỗ lực đưa các giá trị tinh thần Nho giáo vào đời sống
dân chúng một cách cứng nhắc, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi nhà vua mất,
những thành tựu Nho giáo rực rỡ của giai đoạn này hầu như không vào được đời sống
văn hóa làng xã. “Ở Việt Nam văn hóa cung đình văn hóa làng cần được hiểu
theo nhng cách khác nhau. cung đình, điều ưu tiên thng nhất và tập quyền, là
khẳng định sự kiểm soát đối với làng xã. làng xã, điều ưu tiên ra sức bảo v
quyền ttrị địa phương chng lại sự can thiệp của chính quyền Trung ương”
(3)
. Do
mi quan hệ đặc thù gia tưởng làng xã tư tưởng quan phương, do tính bảo thủ
của tưởng làng n trong triển khai bất cứ một tư tưởng quan phương nào trong
đời sống dân cư làng xã đều phải tính đến nhân tố này.
5. Nội dung của tưởng làng
Nói tới tưởng làng ở góc độ triết học nói tới hình thức phn ánh cấp độ cao
nhất đời sống vật chất, của con người được hình thành trong phạm vi làng xã.
tưởng sản phẩm tinh thần của sự phản ánh thực tại, bị quy định bởi thực tại hi.
Cũng giống như những nh thức tư tưởng khác, tưởng làng chính sản phẩm
của sphản ánh trên phương diện tinh thần đời sống thực tại trong không gian hội
làng xã, vì vậy, nội dung của tưởng làng chính mi mặt đời sống của dân làng.
Với những tính quy đnh hết sức đặc thù trong quá trình nh thành, xây dựng, phát
triển, làng Việt Nam tồn tại như một hi Việt Nam thu nhỏ trong tính cố kết
cộng đồng bền vững, trong nh bảo thc hữu của quá trình tích hợp, bảo tồn văn
hóa, trong tính liên đới, ràng buộc chặt chẽ, chằng chịt của các quan hệ hội được
củng cố hợp thức bằng nhiều hình thức văn bản lluật bất thành văn, trong sự
tồn tại duy trì lâu dài phương thức sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún dựa
trên chế độ công điền trong bối cảnh liên tục phải chung sức, chung lòng khắc phục
thiên tai, đch họa và chống ngoại xâm.
Tất cả nhng tồn tại hi đặc thù đó đã làm n những làng Việt Nam đặc trưng
khác biệt với làng c n tộc khác trong lịch sử. Khi nghiên cứu vlàng
Việt Nam, các nhà Việt Nam học ngoại quốc cũng thừa nhận tính đặc sắc của văn hóa
làng Việt sức mnh đi tim ẩn của nó(4), được nhân dân khái quát bằng mt
câu thành ngữ tưởng chừng trong tương quan làng - nước nhưng thực sự đã phản
ánh nét căn bản khác biệt của làng với thực thquốc gia, dân tộc phép vua thua lệ
làng”.
thực th tinh thần ẩn chìm trong mi sinh hoạt làng cả trên phương diện phương
thức sống, văn hóa tôn giáo, tư tưởng làng gần như nh. Không ai thể chỉ
ra đích xác mt cách khái quát tư tưởng làng xã như thế nào, nhưng ai cũng th
khẳng định mt tưởng nào đó có thuộc tư tưởng làng hay không. dụ như, tục
lệ khao vọng sự hiện thực hóa tưởng trng danh vị phổ biến trong dân chúng
làng . Tư tưởng làng được biểu hiện thông qua các hình thc phi văn bản (như
phong tục, tập quán, văn nghệ n gian, văn học truyền ming, lhi, thực hành tôn
giáo, v.v.) qua hình thức văn bản (như hương ước, văn bia...). Chỉ tới khi hương
ước, khoán ước, khoán lệ, hương l
(5)
... ra đời, thì các tư tưởng làng xã căn bản nhất
mới được cố định o, th hiện tương đối nét bằng văn bản. Như một kết quả tất
yếu của quá trình phát trin văn hóa làng xã, hương ước là hình thức văn bản cnh
thng ghi lại tương đối đầy đủ những quy định về phương thức sống chung của n
làng. Qua đó, hương ước phản ánh những nội dung căn bản nhất của tưởng làng xã,
kết quả của quá trình tư duy của cộng đồng nhằm tạo lập mt công cụ tinh thần chính
thng trong điều hành, quản đời sng dân cư làng xã.
Tư tưởng làng xã là sự phản ánh đời sống sản xuất, sinh hoạt vật chất và tinh thần của
cộng đng dân cùng sinh sống trong một phạm vi hành chính làng xã, nên nội dung
phản ánh của tư tưởng làng chính các hoạt động vật chất tinh thn của làng
. Hay nói cách khác, ni dung tưởng làng bao gồm sự phản ánh mi mặt về li
sống, phương thức sống, tôn giáo tín ngưỡng, đời sống văn hóa, chính tr, xã hội, gia
đình... của cộng đồng dân trong mt làng nhất đnh. Những nội dung chyếu
của tư tưởng làng thhiện qua hương ước bao gồm: tưởng gia trưởng, tư tưởng
cố kết cng đồng, tư tưởng trọng tình, trọng đức, tư tưởng trng danh, trọng xỉ, tư
tưởng trọng kinh nghiệm, tư tưởng trọng tổ tiên, thần thánh và các thế lực vô nh,
siêu nhiên...(5)
tưởng gia trưởng đề cao tuyệt đi vai trò lãnh đạo của người nam trong gia đình
ngoài hi. Theo đó, người nam quyền quyết định tất cả mi việc đối nội, đối
ngoại, việc lớn hay việc nhỏ. Đồng thời, người nam ng là người phải chịu mi
trách nhim, nghĩa vụ đối với hội. tưởng gia trưởng nguồn gốc từ chế độ phụ
hệ được củng cố bằng hệ thng luận Nho giáo. Khi ảnh hưởng tới làng Việt,
tư tưởng gia trưởng trong làng chủ yếu nhấn mạnh ti vai tchgia đình, quyền
lực của người nam trong gia đình, nghĩa vụ dân của htrong làng nghĩa vụ
thần dân đối với triều đình.
tưởng ckết cộng đồng của người Việt được nh thành củng cố theo các liên
kết hi các quan hệ huyết thống. tưởng củng cố tính cộng đồng bằng quan hệ
họ tộc, bằng th chung một tổ, bằng niềm thào về một nguồn gc chung, mt truyền
thng chung, bằng hy vng sẽ bất ttrong truyn đời con cháu hay đi vào gia hệ tổ
tiên sau khi chết là một tư tưởng làng xã nổi bật của Việt Nam.
Tư tưởng yên phận, coi thường thương nghiệp, co nh sau lũy tre làng đã in sâu vào
nhận thức của người Việt khiến cho thcông thương nghiệp m phát triển. ng
nơi gắn bó con người Việt với cội nguồn. Với họ, được coi mt thành viên của
làng, được hưởng mt chút ruộng công, được là dân đinh, được vào phe o giáp,
được mt vị t nơi đình trung tham dự việc làng là điều quan trọng nhất, là l sống
của người n. tưởng yên phận ăn sâu o tâm thức dân làng Việt Nam
khiến làng Việt Nam khó chấp nhận những cái mới không khả năng tbiến
đổi trước sự biến đổi của hoàn cảnh xã hội.
tưởng đề cao kinh nghiệm của làng xã Việt Nam xuất phát tnền kinh tế nông
nghiệp nhỏ, lc hậu, dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy, người càng nhiều tuổi càng nhiều
kinh nghiệm càng được coi trng. tưởng trọng xỉ (tuổi tác), trng người g
mt tư tưởng ph biến trong tư tưởng làng xã.
tưởng cục bđịa phương cũng rất điển hình trong tư tưởng làng Việt Nam do
các làng duy trì chế độ t quản mang tính nh thức ng , do mối quan hệ gia
làng với chính quyền trung ương do mi quan hệ tương đối biệt lập giữa các
làng với nhau. tưởng cục bộ gắn liền với cấu làng nh biệt lập với các
đặc điểm về ng họ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, li sống thế gii tâm linh...
đã trở thành hạn chế tư tưởng lớn trong thi k giao lưu, hi nhập, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Trong các ni dung trên của tư tưởng làng , tư tưởng gia trưởng mt nội dung
phổ biến nhất, ảnh hưởng u i căn cốt nhất, mang tính chi phi tới nhiều nội
dung tư tưởng khác trong tư tưởng làng xã. Đây cũng là tư tưởng ảnh hưởng sâu
sắc, rộng ln và lâu dài nhất trong tư tưởng làng với cả những ưu điểm và hạn chế
về mặt xã hi, nhất là đối với quá trình phát triển hiện nay.
6. Kết luận
Sự ra đời của tư tưởng làng xã dựa trên shình thành phát triển làng Việt
Nam. Trong quá tnh xây dựng phát trin làng , tưởng làng như là yếu tố
căn bản, cốt lõi của đời sống văn hóa, tinh thần của dân nơi thôn làng và có vai trò
như hệ tư tưởng chính thống của làng xã. tưởng làng chính sự phn ánh mi
mặt đời sống làng với những cấp độ phản ánh t trực quan, cảm tính tới kinh
nghiệm. cấp độ trực quan, cảm tính, tư tưởng làng ẩn tàng trong phong tục, tập
quán, n nghệ dân gian, văn học truyn miệng, thực hành tôn giáo... cấp đ kinh
nghiệm, tư tưởng làng đã phát triển tiếp cận tới trình độ tự ý thức về sự cần thiết
phải thhiện các quan niệm, tư tưởng, giá trị, chuẩn mc... phổ biến trong đời sống
tinh thn làng thành văn bản đlấy đó làm n cứ nền tảng, thng nhất và lâu dài
cho việc xây dựng, quản , phát trin làng xã. Hình thức văn bản th hiện được
những ni dung quan trọng nhất, bao quát nhất, chính thng nhất của tư tưởng làng xã
hương ước. Như vậy, tư tưởng làng xã ra đời cùng với sự hình thành phát triển
làng
(6)
. Nhưng, tưởng làng như hệ tưởng chính thống của dân làng xã,
cơ sở nền tảng tinh thần cho quản lý, xây dựng, phát triển làng xã thì chỉ được nh
thành vào khoảng thế kỷ XV, khi tổ chức làng đã phát trin tới mức độ tương đối
hoàn chỉnh, cần sự thống nhất về mặt văn bản thể hin những nội dung, chuẩn mực
giá trị tư tưởng phổ biến trong làng xã.
Tư tưởng làng đã và đang tồn tại lâu dài trong cư dân nông nghiệp, ảnh hưởng tích
cực tiêu cực đối với sự phát trin của nông thôn. Không th phủ nhận các ảnh
hưởng tích cực tiêu cực của tư duy làng một cách đơn giản hay dễ ng trong
quá trình hoạch định những dự án phát trin bởi tính phức tạp, tính bảo thủ, tính liên
đới chng chéo của tư tưởng làng trong mi người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.
vậy, cần những dự án nghiên cứu chuyên sâu đa din đối vi loại nh tư tưởng
làng xã.
Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (1966), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận a, Thừa
Thiên Huế.
2. Ninh Viết Giao (2000), Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Văn Cảnh (1994), Lệ làng, phép nước - đặc trưng văn hóa Việt, Nxb Chính
trị quốc gia, Nội.
4. Nguyn Thị Hồng (2011), Vị thế văn hóa dòng họ trong cấu văn hóa Việt
Nam, Tạp chín hóa nghệ thuật, số tháng 10.
5. Nguyễn Thị Việt Hương (2010), Tư tưởng tộc quyền trong xã hi Việt Nam truyền
thng và những hly của nó, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số tháng 10.
6. Ngọc Knh (2001), Làng văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
7. Duy Mền, Hoàng Minh Li (2001), Hương ước làng Bắc bộ với luật làng
Kantô Nhật Bản (thế kỷ XVII - XIX), Viện Sử học.
8. Nguyễn Tá N (1993), Hương ước cổ Tây, Bảo tàng tổng hợp - Sở n hóa
Thông tin Thể thao Hà Tây.(6)
9. Trần Văn Phòng (2007), Ý thức cộng đồng Việt Nam, Tạp chí Triết học, Văn hóa
xã hội Việt Nam, số tháng 11.
10. Trần Ngọc Thêm (2008), Tính cộng đồng tính t trị: hai đặc trưng bản của
làng Việt Nam, trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh.
11. Trần Từ (1984), cấu tổ chức của làng Việt c truyn Bắc bộ, Nxb Khoa học
hi, Hà Nội.
12. Nguyn Thanh (2000), Hương ước Thái Bình, Nxb Văn hóa dân tộc, Nội.
13. Đinh Khắc Thuân (2006), Tục lệ cổ truyền làng Việt Nam, Nxb Khoa học
hội, Hà Nội.
(1) Việt Nam, mi nhà nghiên cứu Ngọc Khánh đề cập tới vấn đề nghiên cứu
tư tưởng dân gian trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
(2) Theo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (khóa V)
(tại Đại hội đại biểu toàn quốc ln thVI Hội Nông dân Việt Nam). Nội, ngày 01
đến 03 tháng 7 năm 2013.
(3) Tham khảo Keith Taylor, sđd.(4) Quan điểm của Alexandre Barton Woodside,
Giáo Việt Nam học người Mỹ vskhác biệt và thiếu hiệu quả trong nỗ lực áp đặt
tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam vào đời sống tư tưởng
các làng qua nghiên cứu chuyên khảo của nh như Việt Nam mô hình Trung
Hoa”, các bài nghiên cứu về văn hóa, lịch sử làng thi Thánh Tông... được
nhiều nhà nghiên cứu làng xã Việt Nam trong và ngoài nước ủng hộ.
(5) khoảng trên 50 cách gọi kc nhau của loại hình văn bản chính thức phổ biến
trong làng xã từ khoảng thế kỷ XV, trong đó ghi rõ các điều khoản quy định về chuẩn
mực, cách thức ứng xchung, phương thức chung sống của dân làng t nguyện, tuân
thnhằm đảm bảo sự tồn tại và củng cố làng xã một cách nền nếp, quy củ, trt tự; sau
đây gọi chung là hương ước. Tham khảo Vũ Duy Mền (2010), Hương ước cổ làng xã
đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Cnh trị quốc gia, Hà Nội, tr.29.
(6) Alexander Barton Wooside (1971), Vietnam and the Chinese model, “Xã
originated as recognized local units at least as early as the tenth century in Vietnam.
Although the history of their evolution is too complicated to be summarized here, one
of its watersheds was important, Harvard University Press Cambridge,
Massachusetts, page.154.
Tác giả: PGS.TS. Thị Lan
Nguồn:Tạp chí Khoa học hội Việt Nam (số 3 - 2015)

Preview text:

tưởng làng Việt Nam
Bài viết phân tích khái niệm tưởng làng xã, mối liên hệ giữa tưởng làng
với văn hóa làng xã, tưởng làng với tưởng quan phương, tính chất nội
dung của tưởng làng xã. Theo tác giả, tưởng làng ảnh hưởng sâu sắc
trong
đời sống của dân nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc Bộ, những đặc thù
riêng. tưởng làng đã đang tồn tại lâu dài trong dân nông nghiệp,
ảnh hưởng tích cực tiêu cực đối với sự phát triển của nông thôn Việt Nam. 1. Mở đầu
Tư tưởng làng xã (hay tư duy làng xã) là một hiện tượng tinh thần, một kiểu tư duy,
một nếp nghĩ phổ biến của cư dân làng xã đã tồn tại và chi phối đời sống nông thôn
Việt Nam từ cả ngàn năm nay, nhưng gần đây mới được giới nghiên cứu chú ý, khi
quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa được đẩy mạnh, phát triển nhanh chóng và vấp
phải nhiều vấn đề nảy sinh từ lối tư duy này. Nhiều hạn chế trong lối sống, văn hóa
giao tiếp, ứng xử, tác phong làm việc, cách thức quản lý, v.v. của con người Việt Nam
có nguyên nhân ở những hạn chế trong tư tưởng làng xã. Nhưng tư tưởng làng xã là
gì? Nó xuất hiện từ bao giờ? Nó có những đặc điểm và nội dung thế nào? Những
vấn đề này chưa được ai giải thích rõ. Bài viết nhằm đưa ra một quan niệm về tư
tưởng làng xã với những nội dung cụ thể và đặc trưng của loại hình tư tưởng này
trong đời sống tư tưởng của xã hội Việt Nam, từ đó gợi ý cho việc nghiên cứu chuyên
sâu về tư tưởng làng xã nhằm nhận thức rõ những khó khăn trên phương diện tư
tưởng, văn hóa mà quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đang phải đối diện hiện nay.
2. Thuật ngữ tưởng làng
Từ trước đến nay, chúng ta chưa có một định nghĩa rõ ràng, đầy đủ về tư tưởng làng
xã. Ngay việc xác định thuật ngữ “tư tưởng làng xã” như một khái niệm học thuật
cũng chưa có mấy người quan tâm. Trong nghiên cứu tư tưởng Việt Nam từ trước đến
nay, giới nghiên cứu chưa chú trọng tới mảng tư tưởng dân gian, tư tưởng không
chính thống mà chỉ quan tâm chủ yếu tới tư tưởng chính thống, mang tính ý thức hệ
của cả dân tộc(1). Chúng ta thường nói tới tư tưởng dân gian như là một loại hình tư
tưởng phổ biến của nhân dân, của tầng lớp bị trị, có tính đối lập với tư tưởng của giai
cấp thống trị và không mang tính chính thống. Trong khi đó, trên thực tế, tư tưởng
phổ biến của đại chúng nhân dân chính là mạch nguồn bản sắc tư tưởng, văn hóa của
dân tộc, có ảnh hưởng dài lâu và bền vững trong nhân dân. Tuy nhiên, điều này chỉ
thực sự trở thành mối quan tâm của giới nghiên cứu những năm gần đây khi vấn đề
văn hóa và phát triển; vấn đề phát triển nguồn nhân lực được đặt ra với một đất nước
nông nghiệp lạc hậu và nông dân chiếm gần 70% dân số(2) như Việt Nam.
Ở đây, chúng tôi xem xét “tư tưởng làng xã” như một khái niệm học thuật trong
nghiên cứu tư tưởng Việt Nam (trong đó chú ý đến phương diện biểu hiện đặc thù của
nó, tính chất chính thống trong phạm vi hình thành, vận động và ảnh hưởng xác định
của nó so với tư tưởng dân gian có tính phổ quát và không được coi là chính thống).
Tư tưởng làng xã thuộc văn hóa làng xã. Văn hóa làng xã là một tập hợp của những
đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một cộng đồng người dân
sống trong một không gian địa lý làng xã xác định, ổn định, làm nên một xã hội chứa
đựng cả văn học, nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thống và đức tin. Từ đó, có thể hiểu tư tưởng làng xã là kết quả của lối suy
nghĩ, lối tư duy đặc trưng của cộng đồng dân cư sống trong khuôn khổ một môi
trường văn hóa, xã hội và không gian địa lý làng xã cụ thể.
Xét trên phương diện phạm vi biểu hiện, tư tưởng làng xã là ý thức xã hội của một
cộng đồng dân cư cùng chung sống và chia sẻ những điều kiện sinh hoạt, phương thức
chung sống, phương thức sản xuất, niềm tin, hệ giá trị, truyền thống trong một môi
trường địa vực nhất định.(2)
Trong môi trường địa lý và văn hóa đó, cộng đồng dân cư làng xã gồm bốn nhóm
người (giai tầng) chủ yếu là sĩ, nông, công, thương. Bốn nhóm người này lại được
phân chia theo địa vị ngôi thứ trong thang bậc xã hội của làng xã, thứ bậc về huyết
thống và tuổi tác. Sự phân chia ngôi thứ, tầng lớp, vị trí xã hội trong làng xã là một hệ
thống vô cùng phức tạp, tồn tại lâu đời và trở thành mặc định trong nếp nghĩ của dân
làng. Có vô số những quy định để duy trì trật tự đẳng cấp này được hợp thức hóa
thành điều khoản trong hương ước và cũng có không ít các quy định khác để người
dân có thể thay đổi thân phận của mình trong trật tự làng xã, dù rằng rất khó đáp ứng
các quy định này. Như vậy, tư tưởng làng xã là tổng hợp tư tưởng của các nhóm, các
đẳng cấp dân cư cùng chung sống trong một làng, xã. Sự tổng hợp này không phải là
phép tính cơ học tổng số tư tưởng của các nhóm dân cư cộng lại, mà là sự tổng hòa, là
sự đồng thuận, là những tư tưởng chung được chấp nhận và phổ biến của tất cả các
nhóm cư dân trong làng xã. Chính vì vậy, mặc dù phạm vi tư tưởng làng xã giới hạn
trong cộng đồng cư dân của mỗi làng, nhưng tư tưởng làng xã vẫn có những nét
chung cho tất cả các làng xã. Đồng thời, khi tìm hiểu tư tưởng của một đơn vị hành
chính làng xã nhất định, chúng ta vẫn thấy những nét riêng, đặc thù, được quy định do
tính đặc thù về môi trường địa vực và văn hóa của mỗi làng xã.
3. Tư tưởng làng với văn hóa làng
Tư tưởng làng xã là sự phản ánh trên phương diện tư tưởng toàn bộ đời sống của cộng
đồng cư dân nông thôn cùng chung sống trong một đơn vị hành chính làng xã nhất
định. Làng xã là một hình thức tổ chức xã hội phổ biến của nông dân Việt Nam. Làng
xã Việt Nam, đặc biệt là làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, được coi là sự phát triển kéo
dài của hình thức tổ chức xã hội công xã nông thôn, có tính đặc thù về mặt tổ chức xã
hội, văn hóa, có sức sống mãnh liệt và ảnh hưởng mạnh mẽ trong lịch sử và hiện tại.
Làng xã Việt Nam là khuôn khổ vật chất của văn hóa làng xã, được hình thành từ rất
lâu đời. Văn hóa làng xã và làng xã về mặt địa giới là hai phương diện vật chất và tinh
thần của một thực thể làng. Mỗi làng quê Việt Nam đều có định dạng về mặt vật thể
như địa vực, các kết cấu tiêu biểu, dân cư, cách thức sinh sống và tổ chức quản lý
làng... Trên cơ sở những thiết chế vật chất làng xã cơ bản như vậy, một khuôn khổ văn
hóa làng xã được hình thành với những nét đặc trưng cơ bản về mặt tôn giáo, tín
ngưỡng, về hệ giá trị, về lối sống và phương thức sống chung, về sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật...
Trong lịch sử, văn hóa làng xã có vai trò thanh lọc những giá trị ngoại lai, bảo vệ, duy
trì các giá trị thuần phong mỹ tục. Tính ổn định của khuôn khổ văn hóa làng xã được
củng cố nhờ sự duy trì lâu dài phương thức sản xuất tiểu nông, tiểu thủ công, nhờ sự
tự nguyện tuân thủ các phép tắc, luật lệ riêng của từng làng xã được quy định trong
hương ước và nhờ sự tồn tại, củng cố lâu dài cơ cấu tổ chức quản lý tự trị làng xã.
Thừa nhận làng xã như những pháo đài kiên cố bảo vệ sự trường tồn của văn hóa làng
xã chống lại tất cả những nỗ lực đồng hóa văn hóa của kẻ thống trị ngoại bang trong
lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, các nhà nghiên cứu văn hóa đã xác quyết vai trò
hạt nhân của văn hóa làng làm nên bản sắc của văn hóa Việt Nam.
Văn hóa làng xã là tổng thể các hoạt động vật chất và tinh thần của cộng đồng người
dân cùng cư trú trong một phạm vi địa giới, môi trường phân biệt với cộng đồng làng
xã khác. Trong phạm vi đó, người dân cùng chia sẻ những hoạt động vật chất và tinh
thần chung (như lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ cuộc sống gia đình và cộng
đồng, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, văn nghệ, giải trí...) theo những cách thức, luật lệ nhất định.
Cùng với lịch sử hình thành và phát triển của mỗi làng xã, đời sống văn hóa, tinh thần
của làng xã đã được định hình theo một khuôn khổ nhất định, trong đó, mỗi người dân
làng cùng chia sẻ sự cộng cảm về các giá trị chân, thiện, mỹ đã được hình thành, được
thừa nhận và được tuân thủ theo thời gian.
Trong không gian văn hóa làng xã, mỗi cá nhân từ khi sinh ra, lớn lên, trưởng thành
và trở về với tổ tiên đều thấm nhuần các chuẩn mực giá trị được quy định từ trước của
cộng đồng. Những chuẩn mực giá trị quy định hành vi, lối sống đó của người dân
được hình thành, thừa nhận và tuân thủ trong làng xã từ đời này qua đời khác đã trở
thành khuôn khổ cho lối suy nghĩ, tư duy của dân làng. Tư tưởng làng xã là yếu tố hạt
nhân, bên trong, xuyên suốt của đời sống văn hóa làng xã được hình thành trên nền
tảng của phương thức sinh sống của cư dân nông nghiệp tự cấp tự túc, trong một
phạm vi tương đối khép kín của mỗi thực thể làng xã.
Khi con người sinh ra và trưởng thành trong một môi trường làng xã khép kín với
những quy chuẩn về phong tục, tập quán đã được luật lệ hóa trong hương ước, khoán
lệ ràng buộc hành vi của dân làng, thì đời sống tư tưởng của họ cũng khó có thể vượt
qua được những khuôn mẫu sẵn có. Và từ đời này, sang đời khác, các giá trị văn hóa,
được lặp lại trong môi trường hầu như không biến đổi đã trở thành nguồn gen văn hóa
của làng xã, mà không phải ngày một ngày hai có thể thay đổi.
Tóm lại: Tư tưởng làng xã là cốt lõi của văn hóa làng xã, là một loại hình tư tưởng
phổ biến chi phối lâu dài đời sống tinh thần của nông dân ở nông thôn Việt Nam.
4. Quan hệ của tưởng làng tưởng quan phương
Tư tưởng làng xã còn được xác định thông qua sự đối chiếu, so sánh với tư tưởng
quan phương. Một cách khái quát, tư tưởng làng xã là hệ tư tưởng chính thống của
một làng xã, có phạm vi ảnh hưởng trong một làng xã nhất định, có tính chất kinh
nghiệm chủ nghĩa và có nội dung phản ánh mọi hoạt động đời sống xã hội của một làng xã.
Với sự tồn tại của hệ thống làng xã Việt Nam, mà cụ thể và điển hình nhất là làng xã
đồng bằng Bắc Bộ bao gồm hàng ngàn đơn vị, thì theo định nghĩa đã nêu và về
nguyên tắc cũng sẽ tồn tại khoảng hàng ngàn hệ tư tưởng làng xã khác nhau. Tuy
nhiên, khảo cứu hơn 9000 bản hương ước còn được lưu giữ trong thư viện của Viện
Thông tin Khoa học xã hội, chúng tôi thấy, bên cạnh một số đặc điểm riêng về địa
vực, dân cư, tôn giáo tín ngưỡng thì đời sống các làng xã đồng bằng Bắc Bộ đều có
những đặc điểm chung quan trọng, có tính chất chi phối các đặc điểm khác, đó là
cùng chung phương thức sản xuất nông nghiệp lúa nước, cùng chung chế độ công
điền, cùng chung những điều kiện thiên nhiên, môi trường, chế độ xã hội, v.v.. Do đó,
tư tưởng làng xã vẫn có những nội dung, đặc điểm, tính chất phổ biến chung cho mọi
làng xã đồng bằng Bắc Bộ.
Mặc dù có tính độc lập, tự trị tương đối nhưng làng xã vẫn là một đơn vị trong hệ
thống hành chính nhà nước. Làng xã chịu sự chi phối chung của nhà nước trên mọi
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, tinh thần. Theo quy luật phát triển văn hóa
trong một nền văn hóa dân tộc, luôn luôn tồn tại hai nền văn hóa, đó là văn hóa của
giai cấp thống trị (hay còn gọi là văn hóa quan phương) và văn hóa của giai cấp bị trị
(hay còn gọi là văn hóa dân gian, mà cụ thể ở đây là văn hóa làng xã). Tương tự như
vậy, trong thực thể tinh thần của dân tộc tồn tại song hành hệ tư tưởng chính thống và
hệ tư tưởng dân gian, mà cụ thể ở đây là tư tưởng quan phương và tư tưởng làng xã.
Trên phương diện vĩ mô, tổng thể đời sống tinh thần dân tộc chịu sự chi phối của hệ
tư tưởng chính thống là hệ tư tưởng được một triều đại nào đó lấy làm cơ sở lý luận
cho đường lối trị nước, quản lý xã hội, xây dựng triều đại, phát triển văn hóa... Thời
Lý - Trần, các vị vua đều tôn sùng Phật giáo, lấy triết học Phật giáo làm trụ cột xây
dựng văn hóa Đại Việt, kết hợp với Nho giáo làm phương tiện tư tưởng chính trị để trị
nước. Đến thời Lê, Nho giáo được đưa lên địa vị thống trị, độc tôn về hệ tư tưởng.
Vua Lê Thánh Tông đã dùng uy lực chính trị và sự uyên thâm Nho giáo cố gắng xây
dựng nền chính trị theo mô hình Trung Hoa và cải biến nền văn hóa Đại Việt theo
hướng lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng độc tôn.
Những nỗ lực của các triều đại trong việc truyền bá, áp đặt hệ tư tưởng chính thống
của triều đại mình vào đời sống xã hội của dân chúng đã tạo nên sự thay đổi trong đời
sống tư tưởng của dân chúng, tuỳ thuộc phương thức truyền bá của mỗi triều đại. Tuy
nhiên, ở phương diện vi mô, ở cấp độ đời sống tinh thần của quảng đại dân chúng, tư
tưởng làng xã là nhân tố chủ đạo và có tính bảo thủ cao độ do đặc thù tồn tại của làng
xã Việt. Những nỗ lực đưa các giá trị tư tưởng quan phương vào đời sống làng xã
thường phải trải qua một thời gian dài với những hình thức đặc biệt mới tạo ra một số
ảnh hưởng nào đó. Ví dụ, tư tưởng Nho giáo mặc dù vào Việt Nam từ trước Công
nguyên và có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp thống trị nhưng phải đến thế kỷ XV mới
có một số ảnh hưởng trong tư tưởng làng xã, đặc biệt là tư tưởng gia trưởng, trọng danh, trọng học.
Một điểm phân biệt cơ bản giữa tư tưởng quan phương và tư tưởng làng xã là ở tính
chất của mỗi loại hình tư tưởng. Tư tưởng quan phương có tính lý luận, tính hệ thống
và thuộc cấp độ tư duy lý tính. Trong khi đó, tư tưởng làng xã mang tính kinh nghiệm,
thiếu hệ thống và thuộc loại hình tư duy cảm tính, kinh nghiệm.
Trong những điều kiện xác định về thời gian, thể chế, tính tương hợp văn hóa..., các
giá trị tư tưởng quan phương sau khi gia nhập hệ tư tưởng làng xã, trở thành một
thành tố của tư tưởng làng xã và chịu sự chi phối của tư tưởng làng xã hơn là trở
thành yếu tố chi phối, quyết định trong tư tưởng làng xã. Sự giao thoa giữa tư tưởng
quan phương và tư tưởng làng xã diễn ra liên tục và thường xuyên trong lịch sử nhưng
luôn luôn tồn tại ranh giới, khoảng cách giữa hai hình thái tư tưởng này. Ranh giới đó
đậm hay nhạt, khoảng cách đó rộng hay hẹp hoàn toàn tùy thuộc sự tương thích của tư
tưởng quan phương với tư tưởng làng xã mà không phải là ngược lại.
Mặc dù vua Lê Thánh Tông đã nỗ lực đưa các giá trị tinh thần Nho giáo vào đời sống
dân chúng một cách cứng nhắc, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi nhà vua mất,
những thành tựu Nho giáo rực rỡ của giai đoạn này hầu như không vào được đời sống
văn hóa làng xã. “Ở Việt Nam văn hóa cung đình và văn hóa làng xã cần được hiểu
theo những cách khác nhau. Ở cung đình, điều ưu tiên là thống nhất và tập quyền, là
khẳng định sự kiểm soát đối với làng xã. Ở làng xã, điều ưu tiên là ra sức bảo vệ
quyền tự trị địa phương chống lại sự can thiệp của chính quyền Trung ương”(3). Do
mối quan hệ đặc thù giữa tư tưởng làng xã và tư tưởng quan phương, do tính bảo thủ
của tư tưởng làng xã nên trong triển khai bất cứ một tư tưởng quan phương nào trong
đời sống dân cư làng xã đều phải tính đến nhân tố này.
5. Nội dung của tưởng làng
Nói tới tư tưởng làng xã ở góc độ triết học là nói tới hình thức phản ánh ở cấp độ cao
nhất đời sống vật chất, của con người được hình thành trong phạm vi làng xã. Tư
tưởng là sản phẩm tinh thần của sự phản ánh thực tại, bị quy định bởi thực tại xã hội.
Cũng giống như những hình thức tư tưởng khác, tư tưởng làng xã chính là sản phẩm
của sự phản ánh trên phương diện tinh thần đời sống thực tại trong không gian xã hội
làng xã, vì vậy, nội dung của tư tưởng làng xã chính là mọi mặt đời sống của dân làng.
Với những tính quy định hết sức đặc thù trong quá trình hình thành, xây dựng, phát
triển, làng xã Việt Nam tồn tại như một xã hội Việt Nam thu nhỏ trong tính cố kết
cộng đồng bền vững, trong tính bảo thủ cố hữu của quá trình tích hợp, bảo tồn văn
hóa, trong tính liên đới, ràng buộc chặt chẽ, chằng chịt của các quan hệ xã hội được
củng cố và hợp thức bằng nhiều hình thức văn bản và lề luật bất thành văn, trong sự
tồn tại và duy trì lâu dài phương thức sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún dựa
trên chế độ công điền trong bối cảnh liên tục phải chung sức, chung lòng khắc phục
thiên tai, địch họa và chống ngoại xâm.
Tất cả những tồn tại xã hội đặc thù đó đã làm nên những làng xã Việt Nam đặc trưng
và khác biệt với làng xã các dân tộc khác trong lịch sử. Khi nghiên cứu về làng xã
Việt Nam, các nhà Việt Nam học ngoại quốc cũng thừa nhận tính đặc sắc của văn hóa
làng xã Việt và sức mạnh vô đối tiềm ẩn của nó(4), được nhân dân khái quát bằng một
câu thành ngữ tưởng chừng vô lý trong tương quan làng - nước nhưng thực sự đã phản
ánh nét căn bản khác biệt của làng xã với thực thể quốc gia, dân tộc “phép vua thua lệ làng”.
Là thực thể tinh thần ẩn chìm trong mọi sinh hoạt làng xã cả trên phương diện phương
thức sống, văn hóa và tôn giáo, tư tưởng làng xã gần như vô hình. Không ai có thể chỉ
ra đích xác một cách khái quát tư tưởng làng xã như thế nào, nhưng ai cũng có thể
khẳng định một tư tưởng nào đó có thuộc tư tưởng làng xã hay không. Ví dụ như, tục
lệ khao vọng là sự hiện thực hóa tư tưởng trọng danh vị phổ biến trong dân chúng
làng xã. Tư tưởng làng xã được biểu hiện thông qua các hình thức phi văn bản (như
phong tục, tập quán, văn nghệ dân gian, văn học truyền miệng, lễ hội, thực hành tôn
giáo, v.v.) và qua hình thức văn bản (như hương ước, văn bia...). Chỉ tới khi hương
ước, khoán ước, khoán lệ, hương lệ(5)... ra đời, thì các tư tưởng làng xã căn bản nhất
mới được cố định vào, thể hiện tương đối rõ nét bằng văn bản. Như một kết quả tất
yếu của quá trình phát triển văn hóa làng xã, hương ước là hình thức văn bản chính
thống ghi lại tương đối đầy đủ những quy định về phương thức sống chung của dân
làng. Qua đó, hương ước phản ánh những nội dung căn bản nhất của tư tưởng làng xã,
kết quả của quá trình tư duy của cộng đồng nhằm tạo lập một công cụ tinh thần chính
thống trong điều hành, quản lý đời sống dân cư làng xã.
Tư tưởng làng xã là sự phản ánh đời sống sản xuất, sinh hoạt vật chất và tinh thần của
cộng đồng cư dân cùng sinh sống trong một phạm vi hành chính làng xã, nên nội dung
phản ánh của tư tưởng làng xã chính là các hoạt động vật chất và tinh thần của làng
xã. Hay nói cách khác, nội dung tư tưởng làng xã bao gồm sự phản ánh mọi mặt về lối
sống, phương thức sống, tôn giáo tín ngưỡng, đời sống văn hóa, chính trị, xã hội, gia
đình... của cộng đồng cư dân trong một làng xã nhất định. Những nội dung chủ yếu
của tư tưởng làng xã thể hiện qua hương ước bao gồm: tư tưởng gia trưởng, tư tưởng
cố kết cộng đồng, tư tưởng trọng tình, trọng đức, tư tưởng trọng danh, trọng xỉ, tư
tưởng trọng kinh nghiệm, tư tưởng trọng tổ tiên, thần thánh và các thế lực vô hình, siêu nhiên...(5)
Tư tưởng gia trưởng đề cao tuyệt đối vai trò lãnh đạo của người nam trong gia đình và
ngoài xã hội. Theo đó, người nam có quyền quyết định tất cả mọi việc đối nội, đối
ngoại, dù việc lớn hay việc nhỏ. Đồng thời, người nam cũng là người phải chịu mọi
trách nhiệm, nghĩa vụ đối với xã hội. Tư tưởng gia trưởng có nguồn gốc từ chế độ phụ
hệ và được củng cố bằng hệ thống lý luận Nho giáo. Khi ảnh hưởng tới làng xã Việt,
tư tưởng gia trưởng trong làng xã chủ yếu nhấn mạnh tới vai trò chủ gia đình, quyền
lực của người nam trong gia đình, nghĩa vụ xã dân của họ trong làng xã và nghĩa vụ
thần dân đối với triều đình.
Tư tưởng cố kết cộng đồng của người Việt được hình thành và củng cố theo các liên
kết xã hội và các quan hệ huyết thống. Tư tưởng củng cố tính cộng đồng bằng quan hệ
họ tộc, bằng thờ chung một tổ, bằng niềm tự hào về một nguồn gốc chung, một truyền
thống chung, bằng hy vọng sẽ bất tử trong truyền đời con cháu hay đi vào gia hệ tổ
tiên sau khi chết là một tư tưởng làng xã nổi bật của Việt Nam.
Tư tưởng yên phận, coi thường thương nghiệp, co mình sau lũy tre làng đã in sâu vào
nhận thức của người Việt khiến cho thủ công và thương nghiệp kém phát triển. Làng
là nơi gắn bó con người Việt với cội nguồn. Với họ, được coi là một thành viên của
làng, được hưởng một chút ruộng công, được là dân đinh, được vào phe vào giáp,
được có một vị trí nơi đình trung tham dự việc làng là điều quan trọng nhất, là lẽ sống
của người dân. Tư tưởng yên phận ăn sâu vào tâm thức cư dân làng xã Việt Nam
khiến làng xã Việt Nam khó chấp nhận những cái mới và không có khả năng tự biến
đổi trước sự biến đổi của hoàn cảnh xã hội.
Tư tưởng đề cao kinh nghiệm của làng xã Việt Nam xuất phát từ nền kinh tế nông
nghiệp nhỏ, lạc hậu, dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy, người càng nhiều tuổi càng nhiều
kinh nghiệm và càng được coi trọng. Tư tưởng trọng xỉ (tuổi tác), trọng người già là
một tư tưởng phổ biến trong tư tưởng làng xã.
Tư tưởng cục bộ địa phương cũng rất điển hình trong tư tưởng làng xã Việt Nam do
các làng xã duy trì chế độ tự quản mang tính hình thức công xã, do mối quan hệ giữa
làng xã với chính quyền trung ương và do mối quan hệ tương đối biệt lập giữa các
làng với nhau. Tư tưởng cục bộ gắn liền với cơ cấu làng xã có tính biệt lập với các
đặc điểm về dòng họ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống và thế giới tâm linh...
đã trở thành hạn chế tư tưởng lớn trong thời kỳ giao lưu, hội nhập, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong các nội dung trên của tư tưởng làng xã, tư tưởng gia trưởng là một nội dung
phổ biến nhất, có ảnh hưởng lâu dài và căn cốt nhất, mang tính chi phối tới nhiều nội
dung tư tưởng khác trong tư tưởng làng xã. Đây cũng là tư tưởng có ảnh hưởng sâu
sắc, rộng lớn và lâu dài nhất trong tư tưởng làng xã với cả những ưu điểm và hạn chế
về mặt xã hội, nhất là đối với quá trình phát triển hiện nay. 6. Kết luận
Sự ra đời của tư tưởng làng xã dựa trên cơ sở hình thành và phát triển làng xã Việt
Nam. Trong quá trình xây dựng và phát triển làng xã, tư tưởng làng xã như là yếu tố
căn bản, cốt lõi của đời sống văn hóa, tinh thần của cư dân nơi thôn làng và có vai trò
như hệ tư tưởng chính thống của làng xã. Tư tưởng làng xã chính là sự phản ánh mọi
mặt đời sống làng xã với những cấp độ phản ánh từ trực quan, cảm tính tới kinh
nghiệm. Ở cấp độ trực quan, cảm tính, tư tưởng làng xã ẩn tàng trong phong tục, tập
quán, văn nghệ dân gian, văn học truyền miệng, thực hành tôn giáo... Ở cấp độ kinh
nghiệm, tư tưởng làng xã đã phát triển tiếp cận tới trình độ tự ý thức về sự cần thiết
phải thể hiện các quan niệm, tư tưởng, giá trị, chuẩn mực... phổ biến trong đời sống
tinh thần làng xã thành văn bản để lấy đó làm căn cứ nền tảng, thống nhất và lâu dài
cho việc xây dựng, quản lý, phát triển làng xã. Hình thức văn bản thể hiện được
những nội dung quan trọng nhất, bao quát nhất, chính thống nhất của tư tưởng làng xã
là hương ước. Như vậy, tư tưởng làng xã ra đời cùng với sự hình thành và phát triển
làng xã(6). Nhưng, tư tưởng làng xã như là hệ tư tưởng chính thống của cư dân làng xã,
là cơ sở nền tảng tinh thần cho quản lý, xây dựng, phát triển làng xã thì chỉ được hình
thành vào khoảng thế kỷ XV, khi tổ chức làng xã đã phát triển tới mức độ tương đối
hoàn chỉnh, cần có sự thống nhất về mặt văn bản thể hiện những nội dung, chuẩn mực
và giá trị tư tưởng phổ biến trong làng xã.
Tư tưởng làng xã đã và đang tồn tại lâu dài trong cư dân nông nghiệp, ảnh hưởng tích
cực và tiêu cực đối với sự phát triển của nông thôn. Không thể phủ nhận các ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực của tư duy làng xã một cách đơn giản hay dễ dàng trong
quá trình hoạch định những dự án phát triển bởi tính phức tạp, tính bảo thủ, tính liên
đới chằng chéo của tư tưởng làng xã trong mỗi người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì
vậy, cần có những dự án nghiên cứu chuyên sâu và đa diện đối với loại hình tư tưởng làng xã.
Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (1966), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế.
2. Ninh Viết Giao (2000), Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Văn Cảnh (1994), Lệ làng, phép nước - đặc trưng văn hóa Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Hồng Hà (2011), Vị thế văn hóa dòng họ trong cơ cấu văn hóa Việt
Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số tháng 10.
5. Nguyễn Thị Việt Hương (2010), Tư tưởng tộc quyền trong xã hội Việt Nam truyền
thống và những hệ lụy của nó, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số tháng 10.
6. Vũ Ngọc Khánh (2001), Làng văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
7. Vũ Duy Mền, Hoàng Minh Lợi (2001), Hương ước làng xã Bắc bộ với luật làng
Kantô Nhật Bản (thế kỷ XVII - XIX), Viện Sử học.
8. Nguyễn Tá Nhí (1993), Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng hợp - Sở văn hóa
Thông tin Thể thao Hà Tây.(6)
9. Trần Văn Phòng (2007), Ý thức cộng đồng Việt Nam, Tạp chí Triết học, Văn hóa
và xã hội Việt Nam, số tháng 11.
10. Trần Ngọc Thêm (2008), Tính cộng đồng và tính tự trị: hai đặc trưng cơ bản của
làng xã Việt Nam, trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
11. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Thanh (2000), Hương ước Thái Bình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
13. Đinh Khắc Thuân (2006), Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
(1) Ở Việt Nam, mới có nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh đề cập tới vấn đề nghiên cứu
tư tưởng dân gian trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
(2) Theo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (khóa V)
(tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Nông dân Việt Nam). Hà Nội, ngày 01 đến 03 tháng 7 năm 2013.
(3) Tham khảo Keith Taylor, sđd.(4) Quan điểm của Alexandre Barton Woodside,
Giáo sư Việt Nam học người Mỹ về sự khác biệt và thiếu hiệu quả trong nỗ lực áp đặt
tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến Việt Nam vào đời sống tư tưởng
các làng xã qua nghiên cứu chuyên khảo của mình như “Việt Nam và mô hình Trung
Hoa”, các bài nghiên cứu về văn hóa, lịch sử làng xã thời Lê Thánh Tông... được
nhiều nhà nghiên cứu làng xã Việt Nam trong và ngoài nước ủng hộ.
(5) Có khoảng trên 50 cách gọi khác nhau của loại hình văn bản chính thức phổ biến
trong làng xã từ khoảng thế kỷ XV, trong đó ghi rõ các điều khoản quy định về chuẩn
mực, cách thức ứng xử chung, phương thức chung sống của dân làng tự nguyện, tuân
thủ nhằm đảm bảo sự tồn tại và củng cố làng xã một cách nền nếp, quy củ, trật tự; sau
đây gọi chung là hương ước. Tham khảo Vũ Duy Mền (2010), Hương ước cổ làng xã
đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.29.
(6) Alexander Barton Wooside (1971), Vietnam and the Chinese model, “Xã
originated as recognized local units at least as early as the tenth century in Vietnam.
Although the history of their evolution is too complicated to be summarized here, one
of its watersheds was important”, Harvard University Press Cambridge, Massachusetts, page.154.
Tác giả: PGS.TS. Thị Lan
Nguồn:Tạp chí Khoa học hội Việt Nam (số 3 - 2015)
Document Outline

  • 1. Mở đầu
  • 2. Thuật ngữ tư tưởng làng xã
  • 6. Kết luận
  • Tài liệu tham khảo