







Preview text:
so sánh cương lĩnh chính trị T2/1930 với luận cương chính trị T10/1930
2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong
kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm
cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được".
Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm
khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng
kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc
với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ
là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế
lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực
và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt
Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và
ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể
loại cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai của
chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải
phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn
coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau,
cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì
vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
không có bức tường ngǎn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân
thứ hai để giải quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con
đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa
cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của
Đảng là cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông"
thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa
làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp
và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ"
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa.
Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản
phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp
cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ
thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng
phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ
trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù còn có
những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách
mạng thuộc địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với
từng thời kỳ cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn
điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân
nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa
chủ và phong kiến" Đối với chủ nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ
công nông binh". Còn đối với các tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập".
Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công
nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và
phân phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn.
Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch
rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp"
Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp
phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp"
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của
quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính
phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận
cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên
phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp"
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng
đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách
mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân
tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên tiến, mà
còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong
các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành
động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng
sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí,
chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".
Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp
tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự
lực tự cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những người cách mạng ở Lào và ở Campuchia
sáng lập ra đảng tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành
lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân
lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm
cộng sản ở Campuchia được thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng
sản đâu tiên ở Campuchia được thành lập ở trường trung học Xixôvát (Phnômpênh).
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ chiếm 1,2%
dân số, đã có Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng,
Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác - Llênin, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố
giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của
từng giai cấp cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã
nắm được quyền lãnh đạo cách mang.
Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác -
Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh
cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về
cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối đúng đắn trên đã được mọi người
nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã
phê phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và quyết định "thủ tiêu Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông qua Luận cương chính trị theo tinh
thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng cộng sản Đông Dương ".
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập Đảng
vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung ương Đảng tháng l0-
1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do
xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh giá đúng
hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng đắn,
sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh; (tức
đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha
của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng
to lớn chung quanh giai cấp mình.
Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền
lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tǎng cường".
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã hội Việt
Nam. Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở khắp các lục địa.
ở nước ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong trào
yêu nước đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đường lối cứu nước theo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và quốc gia cách mạng. Phong
trào giải phóng dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng, đường lối, phương pháp
cách mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng; đồng thời, với sự
thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của
hệ tư tưởng tư sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản trong cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai
cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong trào
yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển của xã hội Việt
Nam. Đây là thời đại nhân dân Việt Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình,
mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (10-1930) và Luận cương chính trị của Đảng
Ngày 20/10/2003. Cập nhật lúc 9h 39'
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (10-1930) và Luận cương chính trị của Đảng
Tháng 4-1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước,
bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương. Đồng chí được phân công cùng Ban Thường vụ Trung ương dự
thảo Luận cương chính trị của Đảng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp từ ngày 14
đến ngày 30-10-1930 tại Hương Cảng do đồng chí Trần Phú chủ trì đã thông qua Nghị quyết về tình hình
và nhiệm vụ cần kíp của Đảng. Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ
chức quần chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng
chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Luận cương chính trị năm 1930 nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ (lúc ấy gọi
là cách mạng tư sản dân quyền) ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh đạo. Luận cương phân tích:
tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, thực dân Pháp kết hợp hai lối bóc lột tư bản
chủ nghĩa và bóc lột phong kiến để thu được lợi nhuận lớn nhất.
Mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một
bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
Tính chất cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản
chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Là đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt
để và đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp. Hai mặt đó có quan hệ mật thiết, trong đó vấn đề ruộng đất là cái
cốt của cách mạng tư sản dân quyền.
Về sắp xếp lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản vừa là động lực chính vừa là giai cấp lãnh đạo dân cày
và quần chúng lao khổ. Dân cày là động lực mạnh. Tư bản thương mại đứng một phe với chủ nghĩa đế
quốc và địa chủ chống lại cách mạng. Tư bản công nghệ khi phong trào quần chúng nổi lên thì sẽ theo đế
quốc. Thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức tiểu tư sản, học sinh thời kỳ chống đế quốc hăng
hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu. Các phần tử lao khổ ở thành phố như người bán rao, thủ công nghiệp
nhỏ do đời sống cực khổ cho nên đều tham gia cách mạng.
Về phương pháp cách mạng: Lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu “phần ít” (tối thiểu)
để bênh vực quyền lợi cho quần chúng. Đến lúc sức lực cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã
rung động, giai cấp đứng giữa muốn ngả về phía cách mạng thì Đảng phải lãnh đạo quần chúng để giành chính quyền.
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp
vô sản Đông Dương phải có quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Về Đảng: Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng
sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng và trải qua tranh
đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng.
Qua nội dung cơ bản nêu trên, có thể thấy Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc
về chiến lược cách mạng mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu: Vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến
nhằm thực hiện độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân sau đó chuyển sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa; hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến quan hệ mật thiết với nhau; lực lượng chính của
cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo;
phương pháp cách mạng khi chưa có và khi có tình thế cách mạng; cách mạng Việt Nam liên hệ mật thiết
với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa.
Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản đó, giữa Luận cương chính trị với Chánh cương vắn tắt và Sách lược
vắn tắt có mặt khác nhau. Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; Luận cương
đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc, một
bộ phận địa chủ nhỏ.
Nguyên nhân của mặt khác nhau là ở chỗ: Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững đặc điểm của
xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam. Lại do hạn chế về nhận thức ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều, Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo,
độc lập tự chủ của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu trong Đường Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cao trào cách mạng 1930-1931 đã tạo lập được khối liên minh công
nông, lực lượng đông đảo nhất của dân tộc, đạo quân chủ lực quyết định thắng lợi của cách mạng sau này.
Cao trào cách mạng 1930-1931 khẳng định đường lối cách mạng do Đảng ta đề ra là đúng đắn. Do kinh
nghiệm bản thân, nhân dân thấy được con đường cứu nước và cứu nhà ở Việt Nam không thể có con
đường nào khác ngoài con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin do Đảng ta lãnh đạo.
Qua cao trào cách mạng 1930-1931, giai cấp công nhân đã thực hiện quyền lãnh đạo đối với cách mạng
dân tộc dân chủ thông qua Đảng tiền phong của mình.
Cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập thứ nhất của Đảng ta và quần chúng cách mạng về
khởi nghĩa giành chính quyền.
Đánh giá Xô viết Nghệ Tĩnh, sau này đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết: “Xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh
thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó
rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”.
Sau cao trào 1930-1931, Đảng ta được công nhận là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng sản.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viét Nghệ Tĩnh đã đem lại cho Đảng ta một số kinh nghiệm khi mới ra đời:
- Trong mỗi thời kỳ của cách mạng, phải biết căn cứ vào thực tế tình hình thế giới và trong nước, căn cứ
thực tế lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng mà xác định mục đích cụ thể, trước mắt
của phong trào cách mạng.
- Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, phải biết sử dụng những hình thức và phương pháp cách
mạng thích hợp để vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh, chứ không phải là lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
- Xây dựng đảng của giai cấp công nhân trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công
nhân chỉ chiếm một phần nhỏ trong dân số, bên cạnh việc coi trọng kết nạp vào Đảng những người công
nhân ưu tú, vấn đề quan trọng hàng đầu là coi trọng việc làm cho đảng viên thấm nhuần lập truờng, quan
điểm của giai cấp công nhân biểu hiện trong học thuyết Mác-Lênin, coi trọng nguyên tắc tổ chức và
phương thức làm việc của Đảng Mác-Lênin, coi trọng khắc phục những khuynh hướng “tả”, hữu, xa rời lập
trường, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và đường lối đúng đắn của Đảng.
Bảng so sánh Nội dung Cương lĩnh Luận cương
Hai giai đoạn của Cách mạng tư sản dân quyền và cách Cách mạng tư sản dân quyền
cách mạng Việt mạng xã hội chủ nghĩa.
và cách mạng xã hội chủ Nam nghĩa.
Nhiệm vụ cách Chống đế quốc, chống phong kiến
Đánh đổ phong kiến, đánh đổ mạng đế quốc.
Lực lượng cách Công – nông, liên lạc với trí thức, tiểu tư Công - nông mạng sản, trung nông.
Vai trò lãnh đạo Nhân tố quyết định mọi thắng lợi của Nhân tố quyết định mọi thắng của đảng. cách mạng Việt Nam.
lợi của cách mạng Việt Nam.
Vị trí cách mạng Là một bộ phận của cách mạng thế giới. Quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới. Phương thức
Tập hợp tổ chức quần chúng cách mạng đấu tranh.
Qua bảng so sánh chúng ta thấy, Luận cương chính trị tiếp thu những vấn đề cơ bản
của văn kiện thành lập Đảng và bổ sung thêm phương pháp cách mạng, song hai vấn đề
nhiệm vụ và lực lượng của cách mạng tư sản dân quyền còn hạn chế: đặt nhiệm vụ
chống phong kiến lên trên chống đế quốc và không thấy khả năng cách mạng của các
tầng lớp khác trong xẫ hội Việt Nam. Những hạn chế này phải trải qua một quá trình đấu
tranh trong thực tiễn mới khắc phục được. Ý kiến bạn đọc
ducsaker gửi lúc: 21:56:37 Ngày 03-07-2007
Ve phuong phap lanh cach mang va moi quan he giua cach mang viet nam va the gioi ca?
chinh cuong va luan cuong deu` giong nhau - Han che'lon nhat cua luan cuong:dat ko
dung vi tri dan toc trong moi quan he dan toc va giai cap,qua de` cao van de` giai cap va
dau trang giai cap chua xac dinh dc mau thuan dan toc hay mau thuan giai cap la chu
yeu,ke thu` nao` la chu yeu. -Su dung dan cua chinh cuong the hien su giai quyet dung
dan giua moi quan he^ giua dan toc va giai cap,xac dinh dung dan luc luong cach mang CHUC CAC' BAN HOC TOT :D
met_met_met gửi lúc: 12:22:11 Ngày 04-06-2007
cuong linh chinh tri dau tien cua dang do nguyen ai quoc soan thao da duoc thong qua tai
hoi nghi thanh lap dang(3/2/1930),luan cuong chinh tri thang 10/1930 do dong chi tran
phu soan thao da thong qua tai hoi ngi lan 1 cua dang. tai cuong linh chinh tri dau tien cua
dang xac dinh nhiem vu giai phongbdan toc lanhiemvu hang dau va buc thiet nhat con
luan cuong chinh tri nam 1930 thi qua de cao ve cai cach ruong dat ma koquan trong van
de dan toc. cuong linh chinh tri dau tien cua dang da chu y den vai tro cach mang cua gaii
cap nong dan,cong nhan.con dia chu phong kien ,tu san mai ban neu chua boc loc ro ban
chat phan cach mang thi cung loi dung hoac trung lap duoc ho.luan cuong chinh tri nam
1930 koxdcdtamquan trong cua giai cap nong dan va cong nhan,qua de cao cai cach ruong
dat.do do ko lien hiep duoc het thay cac gioi dong bao yeu nuoc cung dung len muu cuoc
dan toc giai phong va sinh ton.