I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM RA ĐỜI:
l- Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa:
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước giữ ớc. Với truyền
thống đoàn kết bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đâu thế kỷ XIX, chnghĩa bản phương y, trong đó đế quốc Pháp, đã nhòm
ngó, xâm ợc nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán truyền giáo. Nǎm
1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệp ước
Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa
của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp tay sai của chúng, hội
Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi
quyền hành đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò
nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo
Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam,
Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị"
của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng
máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng
nói, đã bị chia m sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng
làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những
mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta
lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi Liên bang
Đông Dương"... Về kinh tế bản Pháp không phát triển công nghiệp nước ta, chỉ
mở mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để
cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền kinh tế
Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột
nhân công rẻ mạt. Bên cạnh sự bóc lột nhân công cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn
thực dân Pháp còn duy trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức các
hình thức thuế khoá rất nặng nề. Các mâu thuẫn hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu
thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được
giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị phong kiến
tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân n ta.
Đánh giá vhiện tượng hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của
chủ nghĩa bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa hội chỉ còn phải làm cái việc gieo
hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi" Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của
bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai
cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời:
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế k trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất
định trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai
cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì
quyền lợi của bản thân, một bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng
lãnh đạo c phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp m lược, khôi phục
triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh tcủa phong trào quần chúng nông
dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán ớc. Một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối bản chủ nghĩa. Giai cấp sản Việt Nam xuất
hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị
sự chèn ép của bản Pháp phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc,
tham gia vào các quan chính trị kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp sản
mại bản. Một bộ phận khác tuy u thuẫn nhất định với bản Pháp triều đình
phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị
cải lương. Do vậy, giai cấp sản dân tộc Việt Nam tuy tinh thần yêu nước, chống
phong kiến đế quốc, nhưng họ không khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ thể
tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định. Tầng lớp trí thức tiểu sản
những người vốn được chế độ phong kiến thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống
yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít
cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí tiết hoàn cảnh nào ng không
nguôi lòng cứu nước. Khi điều kiện, những trí thức yêu nước thường đóng vai trò
truyền những tưởng mới ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân,
phong kiến. Giai cấp nông dân khao khát độc lập ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc
phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất sau thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân một lực lượng đông
đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng
không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam sản phẩm
trực tiếp của chính ch khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên
xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số sở công nghiệp,
đôn trại thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược binh định ớc ta. Trước Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người
trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng
công nhân chuyên nghiệp đã 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người
làm thuê trong các hãng kinh doanh nhân vừa, nhỏ số người sản, nửa sản
sống thành thị nông thôn, thì đội quân sản Việt Nam trước nǎm 1930 đến
hàng triệu người. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông
dân các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc
lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách
quan thuận lợi cho hai giai cấp bản y có sự liên minh tự nhiên tkhi ra đời phát
triển trong quá trình đấu tranh cách mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không
sở hội cho chủ nghĩa công đoàn chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ
bên trong, do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam) tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn
hoá, kthuật còn thấp, nhưng nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất
tiến bộ nhất, sống tập trung, ý thức kỷ luật, nǎng lực cách mạng triệt để tinh
thần quốc tế sản. con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi
giai cấp công nhân Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành
được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác
ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh
chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng 11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ChLớn
(Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920 đến nǎm 1925, đến 25 cuộc bãi công trong cả
nước. Nổi bật nhất cuộc bãi công của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến
ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị
đưa quân sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo
biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những m 1928-1929, khi Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vô sản hoá" mới tạo điều kiện cho
phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự giác.
3- Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện:
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ y
đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc
Pháp m lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi không một
đường lối cứu nước đúng đắn. Trước kia, chế độ phong kiến khi đang giai đoạn hưng
thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương
bắc lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn phải đối phó với
một kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất
lực trở thành phản động. Thất bại của phong trào Cần vương do thiếu đường lối
đúng, thiếu một tổ chức cách mạng khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại
của phong trào y đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong
khuôn khổ hệ tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh
đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu ớc nước ta
bộc lộ sâu sắc. Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tưởng
phong kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con
đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản
(1860), con đường Cách mạng sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của
Trung Quốc (1911)... Vào đâu thế kỷ y, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã
trở thành nước đế quốc chủ nghĩa, đã đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga -
Nhật (1905). Cách mạng 1905 Nga nổ ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi
Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân
quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam. ý thức
hệ sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu
tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường bản chủ nghĩa. Họ
muốn noi theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu
cho khuynh hướng này hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ
động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn
hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn
Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước,
bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu phong
kiến, cường hào v.v.. một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan
Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng
cải cách dân chủ sản (1789), phản đối việc trang bạo động chống Pháp. Cụ nói:
"Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố
của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi
vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại
thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc n được trực tiếp với
chính phủ Pháp làm việc đặng mưu lợi ích sau y". Phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế Trung K kết quả của khuynh hướng
tưởng sản. Tính chất phong trào dân tộc thời k này chuyển biến khác trước Một
số tổ chức yêu nước ra đời như hội Duy n (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907), hội Đông á đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song,
đường lối chính trị của các tổ chức này không ràng, nhất không dựa vào quần
chúng lao động, dựa vào uy tín nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất trong
những người đề xướng phong trào. vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt
thì phong trào cũng tan rã theo. Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu
bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp
sản các dân tộc bị áp bức toàn thế giới được thành lập. Trung Quốc, sau phong
trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). Pháp, Đảng cộng sản Pháp
được thành lập (1920), sự kiện lịch sử y không chỉ thắng lợi của giai cấp công nhân
nhân dân lao động Pháp, còn thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp. Đồng
thời, với những chuyển biến trên thế giới, ch mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đâu
những chuyển biến mới. Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt
Nam yêu ớc Pháp đưa bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị c nước đế quốc thắng
trận thành phố Vécxây (6-1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng hội Pháp thành Tua tham gia
thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920). Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ
tịch Hội ng dân Quốc tế (l0-1923), dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924).
Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) Quảng Châu
(Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về chất của phong trào
cách mạng Việt Nam. Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản
Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Người Đông Dương giấu một cái đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Đúng như nhận xét của
đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam
những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng tưởng
sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt
chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tưởng của giai cấp công nhân ngày càng tác động mạnh
mẽ vào phong trào yêu nước phong trào công nhân. Việt Nam, giai cấp sản dân
tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi Quang
Chiêu (1919) về cǎn bản một tập đoàn địa chủ "tư sản hoá". Nǎm 1926, họ đưa ra
thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị"
của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập hiến" của Phạm Qunh đã bộc lộ chân
tướng ôm chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của nhóm Hunh Thúc
Kháng cũng ít tiếng vang. Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do,
dân chủ theo kiểu cách mạng sản, nhưng động lực của những người tiểu sản
chứ không phải do đảng của giai cấp sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong trào y
nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt thanh niên
đoàn - tức m tâm (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của Trần
Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt
cách mạng đảng (1926-1930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1925-
1929), Việt Nam quốc dân đảng (1925-1930) v.v... Những tổ chức yêu nước cách mạng
nói trên đã tác dụng nhất định trong việc truyền tưởng mới, giáo dục lòng yêu
nước tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu sản. Nhưng, họ chưa vạch ra
được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm nêu cao
quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến
chính thể". Tân Việt cách mạng đang nhận mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa
thấy vị trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương chống đế
quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật
Tiên (Trung Quốc). Nhìn chung, các hộiđảng yêu nướci trên tinh thần chống đế
quốc, nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách
mạng tháng Mười Nga, nên không thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng nhân dân lao động, giải phóng hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn
liền với ch nghĩa quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền với chế độ mới
để đi đến xoá bỏ mọi sự bất công áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức y
cũng không thấy hết bản chất của chủ nghĩa bản, chủ nghĩa đế quốc, không nhận thức
được vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò của quần chúng nhân dân, trước hết
là nông dân trong cách mạng. Bởi những hạn chế đó, những người yêu nước trong các tổ
chức y chưa thể xác định được một đường lối cách mạng đúng đắn. Riêng Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập, một tổ chức
cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lênin, sớm khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những nǎm 1926-
1927 đã chịu ảnh hưởng về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ về đường lối cứu ớc giữa Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội các tổ chức yêu nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng
chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tưởng tổ chức cho việc thành
lập đảngsản kiểu mới Việt Nam, từng ớc khắc phục sự khủng hoảng về đường lối
cứu nước.
II- ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐẢNG:
l- Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền chủ nghĩa Mác Lênin:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc
đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Gần mười nǎm bôn ba khắp các
châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa những nước đế quốc như
Anh, M, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa
bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân
với nhân dân lao đồng chính quốc cũng như các nước thuộc địa... Dưới ánh ng
Cách mạng tháng ời, Đề cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin nh
hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công sản Pháp..., ch nghĩa Mác - Lênin,
chân cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tưởng của
Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng hội Pháp họp
Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sảnchủ
trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí
Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự
do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa.
vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đây tất cả những điều tôi muốn." Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tưởng lập trường chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Từ đó
Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai
cấp vô sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ thể là
sự nghiệp cua chủ nghĩa cộng sản của cách mạng thế giới . Từ khi trở thành người
cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc phong trào sản các ớc thuộc địa,
trong đó Việt Nam. Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp,
đồng chí Nguyễn ái Quốc đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản
thuộc địa", kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922,
Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp được thành lập Đồng chí Nguyễn ái
Quốc được cử m trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Với cương vị này, đồng
chí đã tích cực tuyên truyền, giáo dục và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến
cách mạng của các nước thuộc địa châu á châu Phi... Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp
đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng với một số chiến cách mạng các nước
Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi, Marốc, Đahômây v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp
thuộc địa. Pari, trong đó Hội người Việt Nam yêu nước Pháp làm nòng cốt. Thông
qua tổ chức này báo Người cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời tình nh các nước thuộc địa đã
đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Người cùng khổ mà đồng chí Nguyễn ái Quốc làm
chủ nhiệm, kiêm chủ bút quản lý, Người còn viết nhiều bài đǎng trên các báo Nhân
đạo (L'humanité), quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống thợ thuyền
(La Vie Ouvrière), tiếng nói của giai cấp công nhân, Tạp c Cộng sản (La Revue
communiste), quan luận của Đảng cộng sản Pháp v.v.. Hầu hết bài viết của Người
đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân. Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người
cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết
bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên Pari. tưởng, quan điểm bản của
Người về chiến ợc và sách ợc cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác
phẩm. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp thế giới những tội
ác của bọn thực dân không chỉ Việt Nam, Angiêri khắp các thuộc địa. Bằng biểu
tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa
bản, chủ nghĩa thực dân kẻ thù chung của giai cấp sản nhân dân lao động bị áp
bức, bị bóc lột các nước chính quốc các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân
Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng sản chính quốc
với cách mạng giải phóng dân tộc các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chẽ
với nhau để chống kẻ thù chung, "chỉ sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp
công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". Nhân dân các dân tộc thuộc địa
khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn đoàn kết lại để đặt sở cho một Liên minh phương
Đông tương lai, khối liên minh y sẽ một trong những cái cánh của cách mạng
sản". Bản án chế đô thực dân. Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc
tịch" của một số người mang tưởng cải lương sản, đồng thời đề cao tinh thần tự
lực, tự cường, tự mình giải phóng cho mình: "công cuộc giải phóng anh em chỉ thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em" hướng cách mạng thuộc địa
phát triển theo con đường cách mạng của Quốc tế cộng sản. Bản án chế độ thực dân
Pháp tác phẩm luận đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó các bài viết của đồng chí Nguyễn ái
Quốc, nhân dân ta, trước hết những người trí thức tiểu sản yêu nước, tiến bộ đã
hướng về tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái
Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva để tham dự Hội nghị nông dân quốc tế tân thứ nhất
(10-1923); đồng thời trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười
Nga chủ nghĩa nin. Ngày 17-6-1924, đồng chí được Trung ương Đảng cộng sản
Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng chí còn tham
gia các đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế
đỏ Tại các Đại hội quốc tế nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm những quan
điểm của mình về vai trò lịch sử của giai cấp sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa
phong trào cách mạng thuộc địa với cách mạng sản chính quốc nêu sự cần
thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chnghĩa đế quốc trước khi xoá bỏ chế độ thối
nát này trên toàn thế giới.
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng:
Giữa tháng 12 nǎm 1924, với cách u viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng sản,
trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên đến
Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào đào tạo cán bộ cách
mạng cho một số nước Đông Nam á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo
cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập
ra Hôi liên hiệp các dân tộc bị áp bức á - Đông. Tháng m 1925, đồng chí Nguyễn ái
Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội, trong đó tổ chức trung
kiên cộng sản đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam, chuẩn bi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp sản Việt
Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách
mạng. Trong số y, nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đông Liên
(Trần Phú, ng Phong, Huy Tập, v.v..), một số được cử Vào học quân sự
trường Hoàng Ph(Trung Quốc) như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Còn phần lớn
đưa về nước hoạt động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm quan tuyên truyền của
Hội. Đầu nǎm 1927, cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của Người trong các
lớp đào tạo cán bộ Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị
áp bức á - Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng y, đồng chí Nguyễn ái Quốc
nêu ra những tưởng bản về chiến lược sách ợc của ch mang Việt Nam.
Đường cách mệnh đề cập đầu tiên đến vấn đề cách người cách mang, nhắc nhở cán bộ
phải vị công vong tu, nói thì phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lòng tham muốn về
vật chất,... hy sinh,... giữ mật,... phục tùng đoàn thể v.v.. Tác phẩm u ra ba loai
tưởng về cách mạng và chia ra hai thứ cách mạng "dân tộc cách mạng" "thế giới
cách mạng", rồi khẳng định tuy có khác nhau "nhưng 2 thứ cách mệnh ấy vẫn có quan hệ
với nhau". "Tất cả dân y, người thợ trong thế giới bất k nước nào, nòi nào đều liên
hợp nhau lại như anh em một nhà, để đạp đổ tất cả bản trong thế giới, làm cho nước
nào, dân nào cũng được hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy thế giới cách
mệnh". Tác phẩm phân tích những hạn chế của cách mạng sản Mỹ (1776), Pháp
(1789) khẳng định chỉ Cách mạng tháng ời Nga cuộc cách mạng triệt để.
Đường cách mệnh chỉ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam bản đế
quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ động lực lực lượng cách mạng:
"công nông gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ bầu bạn
cách mệnh của công nông". Trong khi kêu gọi sự đồng tâm, nhất trí làm cách mạng, giải
phóng dân tộc, tác phẩm đã phê phán hành động ám sát nhân những khuynh
hướng hội chủ nghĩa khác chỉ xúi dân bạo động không bày cách tổ chức; hoặc
làm cho dân quen tính lại quên tính tự cường. Quần chúng một khi đã được giác
ngộ, tổ chức lãnh đạo sẽ lực lượng cách mạng địch: "dân khí mạnh thì quân
lính nào súng ống nào cũng không chống lại". Đường cách mệnh chỉ cách mạng Việt
Nam một bộ phận của cách mạng thế giới. Tác phẩm còn nhấn mạnh ý thức tự lực tự
cường, muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp mình trước. Đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã thấy khả nǎng cách mạng thuộc địa thể giành thắng lợi trước, không thụ động
chờ đợi cách mạng sản chính quốc thắng lợi để được giải phóng. Người viết: "An
Nam dân tộc cách mệnh thành công thì bản Pháp yếu, bản Pháp yếu thì công nông
Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ" . Tác phẩm khẳng định: muốn đưa cách mạng đến
thắng lợi, trước hết phải đảng cách mạng. Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm kim chỉ nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất chủ nghĩa Lênin" c phẩm đã giới thiệu
các tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ǎn hợp tác hướng nhân dân ta tham
gia các tổ chức đó. Đường cách mệnh chỉ rõ: "Ai làm cách mệnh trong thế giới đều
đồng chí của dân An Nam". Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội tác phẩm
Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trịtổ chức cho việc
thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội:
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời
sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Công
nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí Phan Chu Trinh,
hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ
chủ yếu yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" tphong trào công
nhân đã những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính
vẫn nhằm vào bọn bản thực dân tay sai của chúng, nhưng đã tổ chức, k luật
hơn. Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến cách mạng
sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng
tháng Mười Nga, đã viết: Từ ch phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế
độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, bước đâu lan rộng,
bước đâu tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng. Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp
công nhân đã tự tổ chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời c
công hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi mǎng Hải
Phòng, công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v..
Ngày 28 tháng 4 m 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10
nǎm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
Hội cũng hoạt động phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nông dân
vai trò quyết định trong việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong
trào công nhân. Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành
quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định
giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội đã đề ra: "Tịch kýđem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung
quý tộc, vua chúa. Tịch đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu.
Đất ruộng tịch về phân phối cho dân cày y cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của
Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa"
"Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4
lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp
dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu" Trái lại, tất c
các đảng tổ chức yêu nước khác, kể cả Việt Nam quốc n Đảng, ngoài chủ trương
giải phóng dân tộc đều không chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân
nông dân. Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông trong những nǎm 1928-
1929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông
Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày càng thêm, nhứt thợ đồn
điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy
chống đế quốc địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929,
những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền dân y trong nǎm nay (1930) đã
chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc
biệt quan trọng nhất trong phong trào cách mạng Đông ơng sự đấu tranh của
quần chúng công nông tính chất độc lập rệt, chớ không phải chịu ảnh hưởng
quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội tổ
chức đại diện cho giai cấp sản lúc bấy giờ đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu
sản Việt Nam. Vào cuối m 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một
đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
4. Ba tổ chức cộng sản Việt Nam:
Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng
cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải
thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó một yêu cầu khách quan
đã những tiền đề nhất định. Tháng 3 m 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ
Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kgồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh
Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn
Vần Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Nội, quyết định thành
lập chi bộ cộng sản chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội đlãnh đạo cách mạng. Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929,
tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến
nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản
không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc k rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân n ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng
sản. Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ Hàm Long đã họp tại
số nhà 316 phố Khâm Thiên, Nội, tuyên bố thành lập Đông ơng cộng sản Đảng,
cử ra Ban chấp hành trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn
Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Chính, Nguyên
Vǎn Tuân; thông qua Tuyên ngôn quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc
xây dựng tổ chức đảng các đoàn thể quần chúng. Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt
Nam thanh niên cách mạng đông chí hội bế mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ
Hồ Tùng Mậu, Nguyn Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sách, Hồng Sơn, Phạm
Vǎn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí
lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đoàn còn lại trong
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng cHội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài
hai chi bộ cộng sản Trung KNam Kcòn chi bộ cộng sản người Việt Nam
Thái Lan và một chi bộ Hồng Kông (Trung Quốc). Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An
Nam cộng sản đảng được thành lập tại cǎn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu",
đường Bônác Philippin Sài Gòn (nay góc đường Lợi - Nguyễn Trung Trực thành
phố Hồ Chí Minh). Hội nghịy đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng
chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyên Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Hồng Sơn,
Nguyễn ch do đồng chí Châu Vần Liêm làm thư. Sau Đông Dương cộng sản
Đảng An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh
hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập
Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần
Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả,
Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã
bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời nhưng chưa
Ban chấp hành trung ương. Đông Dương cộng sản Đảng An Nam cộng sản Đảng sau
khi ra đời đã sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng ng kích lẫn
nhau. Đây những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản
Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ khuynh hướng biệt phái, tiểu sản trong
phong trào công nhân phong trào yêu nước. Hai đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để
giải quyết những bất đồng nhưng vẫn không thống nhất được. Những người cộng sản
những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần phải sớm khắc phục hiện tượng
trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên.
III - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - CƯƠNG LĨNH
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG:
1- Thống nhất các tổ chức cộng sản:
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi
thư cho những người cộng sản Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết
tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương sớm lập một đảng
cách mạng của giai cấp sản, nghĩa một đảng cộng sản quần chúng. Đảng y phải
một đảng duy nhất Đông Dương chỉ đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Quốc
tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần
tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị y, mùa thu
nǎm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại ơng Cảng chuẩn bị kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên. Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội
nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một công nhân xóm thợ đường Cửu Long gần
Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị các đồng chí Trịnh Đình Cửu và
Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; Nguyên Thiệu Châu
Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản. Sau 5 ngày làm việc khẩn
trương, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc
thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng
cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng y đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự
thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế
cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và
đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất
tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội,
Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc
thống nhất chống đế quốc)v.v.. Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các s
Đảng trong cả nước, thể thức cử Ban chấp hành trung ương m thời bàn việc liên hệ
để thu nạp Đông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các
đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc)
mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất. Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản
trước sự kiện lịch sửy, về sau đồng chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản
đảng dự Hội nghị hợp nhất đã viết: "Tôi cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí
Nguyễn ái Quốc) đã làm cho tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống
nhất theo tinh thần mới. thể nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng
chí Vương đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp my lần những điều mà chúng
tôi mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được quá vui mừng Nhsự hoạt
động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc, chỉ trong
một thời gian ngắn, các đảng bộcơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng
thống nhất theo điều lệ mới. m thời chấp uỷ của Đảng các xứ được chỉ định Ban
chấp hành trung ương lâm thời được thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn
Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được
các đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng cTrịnh Đình Cửu
đứng đầu. Đảng bộ Hoa kiều Chợ Lớn cũng cử đồng chí u Lập Đạo tham gia Ban
chấp hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 m
1930, hai đồng chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng
chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng
với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thưm thời chấp u của Đảng bộ Nam K đã họp và quyết
định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như
vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng sản
Đông ơng đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt
Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam tháng 2 m 1930 ý nghĩa
như Đại hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng đường lối
xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa
phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản
nhanh chóng thống nhất ý chí hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối
chiến lược đúng đắnsự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát
triển sôi sục. Đường lối của Đảng được công bố trthành tiếng kèn tập hợp lực ợng
quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính cương lĩnh vắn tắt,
Sách lược vắn tắt Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất thông qua Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng...
2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng:
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản,
làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được". Kinh tế nông nghiệp
chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân
thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên
dân tộc ta trong đó công nhân, nông dân toàn thể dân tộc với một bên đế quốc
Pháp tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp sản địa chủ những đối tượng
cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên
nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới thế lực đứng hẳn về
phe đế quốc chủ nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phảim "tư
sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản". Đây một
thể loại cách mạng sản các nước thuộc địa sinh thời Mác, Lênin ngay cả
Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại
cách mạngy, được gọi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
hội. Mục tiêu chyếu lúc này đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược tay sai
của chúng, giành độc lập dân tộc dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng y
dựng thành công chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản Việt Nam. Theo tưởng của
đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền thổ địa cách mạng để
đi tớihội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc
cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách
mạng là giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp, giải phóng hội. Hai cuộc vận động
này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước
thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, vậy, giữa hai giai
đoạn cách mạng y: giải phóng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội không bức
tường ngǎn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải
quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Ngacách mạng Trung Quốc. Điều đó chứng
tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát
triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng
dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng cương
lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. Nhiệm vụ cách mạng
Cương lĩnh vạch ra "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến, m cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông" thâu hết sản nghiệp
lớn... của bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa m của công chia
cho dân y nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi
hành luật ngày làm 8 giờ" Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ nội
dung hội chủ nghĩa. Song, nổi bật nhiệm vụ chống đế quốc tay sai của chúng
(đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do,
dân chủ cho toàn n tộc. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương
đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ nhân yêu nước, tập
trung lực lượng đánh đ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai,
mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Để bảo đảm vai trò lãnh
đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ trương giải quyết hài hoà
từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng còn những mâu thuẫn nhất định
về quyền lợi. vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ
trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng.
giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc
địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ phong kiến" Đối với chủ
nghĩa bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các
tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ bản An Nam chưa mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng
dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến
hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công phân phối lợi nhuận giữa những
nhà sản những người sản một cách công bằng hơn. Trong khi khẳng định "công
nông gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với
tiểu sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe sản
giai cấp" Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các
giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi íchcủa công nông đi
vào đường thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng
bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong
kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạngsản thế giới, đứng trong mặt trận
cách mạng của các dân tộc bị áp bức giai cấp công nhân thế giới đội quân tiên
phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền thực nh liên lạc với bị áp
bức dân tộc sản giai cấp thế giới, nhất sản giai cấp Pháp" Cương lĩnh đầu
tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ
phận dân cày phải dựa vào hạng n cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn
đại địa chủ phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng tầng
lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc để đi tới
chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không
những trong công nhân tiên tiến, còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân
lao động, trí thức cách mạng trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam đội
tiên phong của giai cấp sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin m nền tảng ởng. Đảng
một khối thống nhất ý chí hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản,
chương trình Đảng Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu m hy sinh, phục tùng
mệnh lệnh Đảng đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". Trong tôn
chỉ của mình, Đảng chỉ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để
tiêu trừ bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện hội cộng sản". Do sớm nhận thức
được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng hội
trong cách mạng sản nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của
từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng
thời kế hoạch giúp những người cách mạng Lào Campuchia sáng lập ra đảng
tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 m
1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấpsản và nhân dân lao động Lào đã ra
đời Viên Chǎn, Thà Khẹt, Neng. Đầu m 1930, một số nhóm cộng sản
Campuchia được thành lập ở Phnômpênh Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên
Campuchia được thành lập trường trung học Xixôvát (Phnômpênh). Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có
Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm
vững bản chất khoa học cách mang của ch nghĩa Mác - Llênin, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp
cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó Đảng đã nắm được quyền
lãnh đạo cách mang. Cương lĩnh đâu tiên kết quả của sự vận dụng phát triển sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản kinh nghiệm cách mạng
thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, sự thể hiện tập trung tưởng bản của đồng
chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ cách mạng hội chnghĩa
nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhưng không phải những giá trị tưởng, đường lối
đúng đắn trên đã được mọi người nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất
quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt, ch lược vắn tắt Điều lệ" của Đảng, thông
qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng
"Đảng cộng sản Đông ơng ". Sở vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu
tiên do Hội nghị thành lập Đảng vạch ra với Luận cương chính trị các vǎn kiện của
Hội nghị trung ương Đảng tháng l0-1930 không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố
giai cấp với yếu tố dân tộc,còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố
đó trong điều kiện cụ thể của ớc ta. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh giá đúng hơn đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng
Việt Nam. Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự
đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên. Sau 30 nǎm đấu tranh thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh; (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương
lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta
đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các
đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị lập. Do đó, quyền lãnh
đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố tǎng ờng".
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan củahội Việt
Nam. Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản nhiều đảng cộng sản khắp các lục địa. nước
ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong trào u nước
đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩac - Lênin. Đường lối cứu nước theo chủ nghĩa Mác -
Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và quốc gia cách mạng. Phong trào giải phóng
dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tưởng, đường lối, phương pháp cách mạng của
đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời xác lập vai trò lãnh đạo
cách mạng; đồng thời, với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930), đánh dấu
sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tưởng sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tưởngsản
trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong
lịch sử ớc ta, thời đại giai cấp công nhân đảng tiên phong của đứng vị trí trung
tâm, kết hợp mọi phong trào yêu nước cách mạng, quyết định nội dung, phương
hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây thời đại nhân dân Việt Nam không chỉ làm
nên lịch sử vẻ vang của mình, còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị
áp bức xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hoà
bình tiến bộ hội. Nắm vững chnghĩa Mác - Lênin, tưởng Nguyễn ái Quốc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào
cách mạng các nước, kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế,
dân tộc với thời đại, độc lập dân tộc với chủ nghĩa hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp
để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm lược y dựng đất nước giàu mạnh. Quá trình
chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản cho ta những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam. Học
thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn
ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số
lượng, nhưng ngườisản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nông phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, ởng tổ chức, phải coi
trọng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời kết quả của sự phát triền cao thống
nhất của phong trào công nhân phong trào yêu nước. Đảng ta con đẻ của phong
trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động trưởng thành thông
qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố phát triển Đảng, đòi
hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên
hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn
phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời kết quả thống nhất của phong trào cách
mạng trong cả nước, sự đồng m nhất trí của những chiến tiên phong. Những
người cộng sản Việt Nam trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản
đảng hay Đông ơng cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy những vấn đề bất đồng,
nhưng đã biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp
lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng
toàn dân. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh
đạo phong trào cách mạng tkhi Đảng được thành lập. Thực tiễn cách mạng ớc ta
ngày càng khẳng định sự đúng đắn sáng tạo của những tưởng chiến lược sách
lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ VII của
Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tưởng kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong
giai đoạn hiện nay.

Preview text:

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM RA ĐỜI:
l-
Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa:
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền
thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã nhòm
ngó, xâm lược nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo. Nǎm
1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệp ước
Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa
của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội
Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi
quyền hành đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù
nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo
Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam,
Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị"
của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng
máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng
nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng
làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những
mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta
lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một "Liên bang" gọi là Liên bang
Đông Dương"... Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ
mở mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để
cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền kinh tế
Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột
nhân công rẻ mạt. Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn
thực dân Pháp còn duy trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các
hình thức thuế khoá rất nặng nề. Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu
thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được
giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến
tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân dân ta.
Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của
chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo
hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi" Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của
tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai
cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời:
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất
định trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai
cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì
quyền lợi của bản thân, một bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và
lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi phục
triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nông
dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước. Một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Giai cấp sản Việt Nam xuất
hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị
sự chèn ép của bản Pháp phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc,
tham gia vào các quan chính trị kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp sản
mại bản. Một bộ phận khác tuy mâu thuẫn nhất định với bản Pháp triều đình
phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị
cải lương. Do vậy, giai cấp sản dân tộc Việt Nam tuy tinh thần yêu nước, chống
phong kiến đế quốc, nhưng họ không khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ thể
tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định. Tầng lớp trí thức tiểu sản
những người vốn được chế độ phong kiến thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống
yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít
cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí tiết hoàn cảnh nào cũng không
nguôi lòng cứu nước. Khi điều kiện, những trí thức yêu nước thường đóng vai trò
truyền những tưởng mới ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân,
phong kiến. Giai cấp nông dân khao khát độc lập ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc
phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất sau thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân một lực lượng đông
đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng
không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam sản phẩm
trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên
xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số sở công nghiệp,
đôn trại thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược binh định nước ta. Trước Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người
trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng
công nhân chuyên nghiệp đã 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người
làm thuê trong các hãng kinh doanh nhân vừa, nhỏ số người sản, nửa sản
sống thành thị nông thôn, thì đội quân sản Việt Nam trước nǎm 1930 đến
hàng triệu người. Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông
dân và các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc
lột của đế quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách
quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát
triển trong quá trình đấu tranh cách mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có
cơ sở xã hội cho chủ nghĩa công đoàn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ
bên trong, do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam) tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn
hoá, kỹ thuật còn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất
tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh
thần quốc tế vô sản. Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi
mà giai cấp công nhân Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành
được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác
ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh
chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng 11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn
(Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920 đến nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả
nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi công của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến
ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm chân" chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị
đưa quân sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và
biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vô sản hoá" mới tạo điều kiện cho
phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự giác.
3- Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện:
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ này
đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc
Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi không một
đường lối cứu nước đúng đắn. Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng
thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương
bắc lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với
một kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất
lực và trở thành phản động. Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối
đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại
của phong trào này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong
khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh
đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta
bộc lộ sâu sắc. Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng
phong kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con
đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản
(1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của
Trung Quốc (1911)... Vào đâu thế kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã
trở thành nước đế quốc chủ nghĩa, đã đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga -
Nhật (1905). Cách mạng 1905 ở Nga nổ ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở
Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân
quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam. ý thức
hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu
tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ
muốn noi theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu
cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ
động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn
hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn
Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước,
bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong
kiến, cường hào v.v.. Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan
Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng
cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói:
"Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố
của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi
vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại
mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực tiếp với
chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau này". Phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của khuynh hướng tư
tưởng tư sản. Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một
số tổ chức yêu nước ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907), hội Đông á đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song,
vì đường lối chính trị của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là không dựa vào quần
chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất trong
những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt
thì phong trào cũng tan rã theo. Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu
bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong
trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp
được thành lập (1920), sự kiện lịch sử này không chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Pháp, mà còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp. Đồng
thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đâu có
những chuyển biến mới. Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt
Nam yêu nước ở Pháp đưa bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc thắng
trận ở thành phố Vécxây (6-1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở thành Tua và tham gia
thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920). Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ
tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-1923), và dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924).
Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng Châu
(Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về chất của phong trào
cách mạng Việt Nam. Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản
Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Đúng như nhận xét của
đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam có
những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng
tư sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là
chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng có tác động mạnh
mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân. ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân
tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi Quang
Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập đoàn địa chủ "tư sản hoá". Nǎm 1926, họ đưa ra
thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị"
của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập hiến" của Phạm Quỳnh đã bộc lộ chân
tướng ôm chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của nhóm Huỳnh Thúc
Kháng cũng ít tiếng vang. Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do,
dân chủ theo kiểu cách mạng tư sản, nhưng động lực của nó là những người tiểu tư sản
chứ không phải do đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong trào này là
nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt thanh niên
đoàn - tức Tâm tâm xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của Trần
Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt
cách mạng đảng (1926-1930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1925-
1929), Việt Nam quốc dân đảng (1925-1930) v.v... Những tổ chức yêu nước cách mạng
nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá tư tưởng mới, giáo dục lòng yêu
nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư sản. Nhưng, họ chưa vạch ra
được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu cao
quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến
chính thể". Tân Việt cách mạng đang nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa
thấy vị trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương chống đế
quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật
Tiên (Trung Quốc). Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế
quốc, nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách
mạng tháng Mười Nga, nên không thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền với chế độ mới
để đi đến xoá bỏ mọi sự bất công và áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức này
cũng không thấy hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, không nhận thức
được vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò của quần chúng nhân dân, trước hết
là nông dân trong cách mạng. Bởi những hạn chế đó, những người yêu nước trong các tổ
chức này chưa thể xác định được một đường lối cách mạng đúng đắn. Riêng Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập, là một tổ chức
cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lênin, sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những nǎm 1926-
1927 đã chịu ảnh hưởng về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ và về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội và các tổ chức yêu nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng
chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.
II- ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐẢNG:
l-
Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền chủ nghĩa Mác Lênin:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc
đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Gần mười nǎm bôn ba khắp các
châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như
Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân
với nhân dân lao đồng chính quốc cũng như các nước thuộc địa... Dưới ánh sáng
Cách mạng tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin ảnh
hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công sản Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin,
chân lý cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp
ở Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ
trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí
Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự
do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì
vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn." Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Từ đó
Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng giai
cấp vô sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp cua chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới . Từ khi trở thành người
cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa,
trong đó có Việt Nam. Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp,
đồng chí Nguyễn ái Quốc đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản
và thuộc địa", và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922,
Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp được thành lập Đồng chí Nguyễn ái
Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Với cương vị này, đồng
chí đã tích cực tuyên truyền, giáo dục và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến
sĩ cách mạng của các nước thuộc địa ở châu á châu Phi... Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp
đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng với một số chiến sĩ cách mạng ở các nước
Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan, Tuynidi, Marốc, Đahômây v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp
thuộc địa. ở Pari, trong đó Hội người Việt Nam yêu nước ở Pháp làm nòng cốt. Thông
qua tổ chức này và báo Người cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời tình hình các nước thuộc địa đã
đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Người cùng khổ mà đồng chí Nguyễn ái Quốc làm
chủ nhiệm, kiêm chủ bút và quản lý, Người còn viết nhiều bài đǎng trên các báo Nhân
đạo (L'humanité), cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống thợ thuyền
(La Vie Ouvrière), tiếng nói của giai cấp công nhân, Tạp chí Cộng sản (La Revue
communiste), cơ quan lý luận của Đảng cộng sản Pháp v.v.. Hầu hết bài viết của Người
đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân. Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người
cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết
bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của
Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác
phẩm. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp thế giới những tội
ác của bọn thực dân không chỉ Việt Nam, Angiêri khắp các thuộc địa. Bằng biểu
tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa
bản, chủ nghĩa thực dân kẻ thù chung của giai cấp sản nhân dân lao động bị áp
bức, bị bóc lột các nước chính quốc các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân
Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng sản chính quốc
với cách mạng giải phóng dân tộc các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chẽ
với nhau để chống kẻ thù chung, "chỉ sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp
công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". Nhân dân các dân tộc thuộc địa có
khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương
Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô
sản". Bản án chế đô thực dân. Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay đổi quốc
tịch" của một số người mang tưởng cải lương sản, đồng thời đề cao tinh thần tự
lực, tự cường, tự mình giải phóng cho mình: "công cuộc giải phóng anh em chỉ thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em" hướng ch mạng thuộc địa
phát triển theo con đường cách mạng của Quốc tế cộng sản. Bản án chế độ thực dân
Pháp tác phẩm luận đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó các bài viết của đồng chí Nguyễn ái
Quốc, nhân dân ta, trước hết những người trí thức tiểu sản yêu nước, tiến bộ đã
hướng về tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái
Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva để tham dự Hội nghị nông dân quốc tế tân thứ nhất
(10-1923); đồng thời trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười
Nga và chủ nghĩa Lênin. Ngày 17-6-1924, đồng chí được Trung ương Đảng cộng sản
Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng chí còn tham
gia các đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế
đỏ Tại các Đại hội quốc tế nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan
điểm của mình về vai trò lịch sử của giai cấp vô sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa
phong trào cách mạng ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và nêu rõ sự cần
thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trước khi xoá bỏ chế độ thối
nát này trên toàn thế giới.
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng:
Giữa tháng 12 nǎm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng sản,
trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến
Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách
mạng cho một số nước ở Đông Nam á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo
cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập
ra Hôi liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đông. Tháng nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái
Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội, trong đó có tổ chức trung
kiên là cộng sản đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam, chuẩn bi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt
Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách
mạng. Trong số này, nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đông ở Liên
Xô (Trần Phú, Lê Hông Phong, Hà Huy Tập, v.v..), một số được cử Vào học quân sự ở
trường Hoàng Phố (Trung Quốc) như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Còn phần lớn
đưa về nước hoạt động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của
Hội. Đầu nǎm 1927, cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của Người trong các
lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị
áp bức ở á - Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn ái Quốc
nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mang Việt Nam.
Đường cách mệnh đề cập đầu tiên đến vấn đề tư cách người cách mang, nhắc nhở cán bộ
phải vị công vong tu, nói thì phải làm,... giữ chủ nghĩa cho vững,... ít lòng tham muốn về
vật chất,... hy sinh,... giữ bí mật,... phục tùng đoàn thể v.v.. Tác phẩm nêu ra ba loai tư
tưởng về cách mạng và chia ra hai thứ cách mạng là "dân tộc cách mạng" và "thế giới
cách mạng", rồi khẳng định tuy có khác nhau "nhưng 2 thứ cách mệnh ấy vẫn có quan hệ
với nhau". "Tất cả dân cày, người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều liên
hợp nhau lại như anh em một nhà, để đạp đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước
nào, dân nào cũng được hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách
mệnh". Tác phẩm phân tích những hạn chế của cách mạng tư sản ở Mỹ (1776), ở Pháp
(1789) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Đường cách mệnh chỉ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam bản đế
quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ động lực lực lượng cách mạng:
"công nông gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... chỉ bầu bạn
cách mệnh của công nông". Trong khi kêu gọi sự đồng tâm, nhất trí làm cách mạng, giải
phóng dân tộc, tác phẩm đã phê phán hành động ám sát nhân những khuynh
hướng hội chủ nghĩa khác chỉ xúi dân bạo động không bày cách tổ chức; hoặc
làm cho dân quen tính lại quên tính tự cường. Quần chúng một khi đã được giác
ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch: "dân khí mạnh thì quân
lính nào súng ống nào cũng không chống lại". Đường cách mệnh chỉ cách mạng Việt
Nam một bộ phận của cách mạng thế giới. Tác phẩm còn nhấn mạnh ý thức tự lực tự
cường, muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp mình trước. Đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã thấy khả nǎng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không thụ động
chờ đợi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi để được giải phóng. Người viết: "An
Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông
Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ" . Tác phẩm khẳng định: muốn đưa cách mạng đến
thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng. Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm kim chỉ nam: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" Tác phẩm đã giới thiệu
các tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ǎn hợp tác và hướng nhân dân ta tham
gia các tổ chức đó. Đường cách mệnh chỉ rõ: "Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là
đồng chí của dân An Nam". Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm
Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc
thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội:
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời
sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Công
nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh,
hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ
chủ yếu là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" thì phong trào công
nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính
vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật
hơn. Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô
sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng
tháng Mười Nga, đã viết: Từ chỗ phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế
độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng,
bước đâu có tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng. Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp
công nhân đã tự tổ chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các
công hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi mǎng Hải
Phòng, công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v..
Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10
nǎm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nông dân và có
vai trò quyết định trong việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong
trào công nhân. Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành
quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là
giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và
quý tộc, vua chúa. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu.
Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của
Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa"
"Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4
lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp
dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu" Trái lại, tất cả
các đảng và tổ chức yêu nước khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngoài chủ trương
giải phóng dân tộc đều không có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và
nông dân. Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông trong những nǎm 1928-
1929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông
Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn
điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy
chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929,
những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong nǎm nay (1930) đã
chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc
biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của
quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng
quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ
chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu tư
sản Việt Nam. Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một
đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
4. Ba tổ chức cộng sản Việt Nam:
Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng
cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải
thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách quan và
đã có những tiền đề nhất định. Tháng 3 nǎm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ
Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh
Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn
Vần Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Hà Nội, quyết định thành
lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh đạo cách mạng. Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929,
tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến
nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản
không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng
sản. Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại
số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản Đảng,
cử ra Ban chấp hành trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn
Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyên
Vǎn Tuân; thông qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc
xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng. Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt
Nam thanh niên cách mạng đông chí hội bế mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là
Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm
Vǎn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí
lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đoàn còn lại trong
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài
hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở
Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc). Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An
Nam cộng sản đảng được thành lập tại cǎn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu", ở
đường Bônác Philippin Sài Gòn (nay là góc đường Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực thành
phố Hồ Chí Minh). Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng
chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyên Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn,
Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Vần Liêm làm bí thư. Sau Đông Dương cộng sản
Đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh
hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập
Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần
Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả,
Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã
bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời nhưng chưa có
Ban chấp hành trung ương. Đông Dương cộng sản Đảng An Nam cộng sản Đảng sau
khi ra đời đã sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng công kích lẫn
nhau. Đây những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản
Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt phái, tiểu tư sản trong
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hai đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để
giải quyết những bất đồng nhưng vẫn không thống nhất được. Những người cộng sản và
những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần phải sớm khắc phục hiện tượng
trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên.
III - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - CƯƠNG LĨNH
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG:
1- Thống
nhất các tổ chức cộng sản:
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi
thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và
tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một đảng
cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là
một đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Quốc
tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần
tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị này, mùa thu
nǎm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch
thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên. Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội
nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần
Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và
Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; Nguyên Thiệu và Châu
Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản. Sau 5 ngày làm việc khẩn
trương, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc
và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng
cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự
thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế
cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và
đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và
tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội,
Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc
thống nhất chống đế quốc)v.v.. Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở
Đảng trong cả nước, thể thức cử Ban chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ
để thu nạp Đông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các
đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc)
mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất. Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản
trước sự kiện lịch sử này, về sau đồng chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản
đảng dự Hội nghị hợp nhất đã viết: "Tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí
Nguyễn ái Quốc) đã làm cho tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống
nhất theo tinh thần mới. Có thể nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng
chí Vương đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần những điều mà chúng
tôi mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui mừng Nhờ sự hoạt
động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc, chỉ trong
một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng
thống nhất theo điều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng ở các xứ được chỉ định và Ban
chấp hành trung ương lâm thời được thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn
Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được
các đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu
đứng đầu. Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban
chấp hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm
1930, hai đồng chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng
chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng
với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết
định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như
vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng sản ở
Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt
Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa
như Đại hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và đường lối
xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa
phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản
nhanh chóng thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối
chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát
triển sôi sục. Đường lối của Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng
quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính cương lĩnh vắn tắt,
Sách lược vắn tắt Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất thông qua Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng...
2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng:
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản,
làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được". Kinh tế nông nghiệp
chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân
thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là
dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc
Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng
cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên
nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về
phe đế quốc chủ nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đây là một
thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả
Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại
cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai
của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Theo tư tưởng của
đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và
cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách
mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động
này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước
thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai
đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức
tường ngǎn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải
quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Điều đó chứng
tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát
triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng
dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương
lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ cách mạng mà
Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông" thâu hết sản nghiệp
lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia
cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi
hành luật ngày làm 8 giờ" Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội
dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng
(đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do,
dân chủ cho toàn dân tộc. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương
đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập
trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai,
mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Để bảo đảm vai trò lãnh
đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ trương giải quyết hài hoà
từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù còn có những mâu thuẫn nhất định
về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ
trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở
giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và
địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với chủ
nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các
tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng
dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến
hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những
nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn. Trong khi khẳng định "công
nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp" Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các
giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi
vào đường thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng
bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong
kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận
cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên
phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" Cương lĩnh đầu
tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ
phận dân cày phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn
đại địa chủ phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng tầng
lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc để đi tới
chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không
những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân
lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng
là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản,
chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng
mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". Trong tôn
chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để
tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản". Do sớm nhận thức
được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội
trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của
từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng
thời có kế hoạch giúp những người cách mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng
tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm
1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra
đời ở Viên Chǎn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm cộng sản ở
Campuchia được thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên
ở Campuchia được thành lập ở trường trung học Xixôvát (Phnômpênh). Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có
Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm
vững bản chất khoa học cách mang của chủ nghĩa Mác - Llênin, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp
cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó Đảng đã nắm được quyền
lãnh đạo cách mang. Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng
thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng
chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhưng không phải những giá trị tư tưởng, đường lối
đúng đắn trên đã được mọi người nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và
quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông
qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là
"Đảng cộng sản Đông Dương ". Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu
tiên do Hội nghị thành lập Đảng vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của
Hội nghị trung ương Đảng tháng l0-1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố
giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố
đó trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng
Việt Nam. Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự
đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên. Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh; (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương
lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta
đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các
đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh
đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tǎng cường".
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã hội Việt
Nam. Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng là thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở khắp các lục địa. ở nước
ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong trào yêu nước
đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đường lối cứu nước theo chủ nghĩa Mác -
Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và quốc gia cách mạng. Phong trào giải phóng
dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng, đường lối, phương pháp cách mạng của
đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo
cách mạng; đồng thời, với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930), đánh dấu
sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô sản
trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong
lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung
tâm, kết hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương
hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân Việt Nam không chỉ làm
nên lịch sử vẻ vang của mình, mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị
áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hoà
bình và tiến bộ xã hội. Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn ái Quốc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào
cách mạng các nước, kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế,
dân tộc với thời đại, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp
để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc xâm lược và xây dựng đất nước giàu mạnh. Quá trình
chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản cho ta những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam. Học
thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn
ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số
lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi
trọng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời kết quả của sự phát triền cao thống
nhất của phong trào công nhân phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong
trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông
qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi
hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên
hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn
phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời kết quả thống nhất của phong trào cách
mạng trong cả nước, sự đồng tâm nhất trí của những chiến tiên phong. Những
người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản
đảng hay Đông Dương cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng,
nhưng đã biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp
lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng
toàn dân. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh
đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập. Thực tiễn cách mạng nước ta
ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư tưởng chiến lược và sách
lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ VII của
Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.