


















Preview text:
Câu 1: Đại hội đảng VI xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm củasự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước ?
Đại hội VI đã nêu một số quan điểm về xác lập cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới:
- Thứ nhất, phải nhận thức đầy đủ, toàn diện vềchặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên CNXH, “thời kỳ
quá độ ở nước ta,do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triểnTBCN, đương
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn... độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội...”.
Đối với nước ta, nhiệm vụ xây dựngnhững tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cho thời kỳ quá độ đòi hỏi phải có
thời gian dài hơn, vì xuất phát điểm kinh tế - xã hội của nước ta rất thấp, lại bị tổn thất nặng nề sau mấy chục
năm chiến tranh và vẫn tiếp tục phải đối phó với nhữngâm mưu xâm lược, phá hoại của kẻ thù. Việc khẳng định
thời kỳ quá độ ở nước talà lâu dài và rất khó khăn giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn trong xác định bố trí cơ
cấu kinh tế của chặng đường đầu tiên trong thời kỳ quá độ.
Thứ hai, phải bố trí lại cơ cấu kinh tế, trước hếtlà cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp
với đặc thù tựnhiên, kinh tế - xã hội của Việt Nam trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quáđộ: phải phát
triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệpnhẹ tới một mức nhất định mới có đủ điều
kiện phát triển công nghiệp nặng. Mứcnhất định ở đây là giải quyết về cơ bản các nhu cầu của đời sống xã hội
và tạora được nguồn tích lũy cần thiết để xây dựng công nghiệp nặng.
- Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầubình thường của nhân dân thành thị và nông thôn về những
sản phẩm công nghiệpthiết yếu;
- Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuấtkhẩu chủ lực, đạt kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần
lớn nhu cầu nhập khẩu vậttư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết”.
- Đối với công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp,Đại hội cũng chỉ rõ: “đáp ứng cho được nhu cầu của nhân
dân về những loại hànghóa thông thường, bảo đảm yêu cầu chế biến nông, lâm, thủy sản, tăng nhanh việclàm
hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác, đồng thời mở rộng mặthàng đáp ứng nhu cầu đa dạng
của người tiêu dùng”.
- Với công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng,quan điểm của Đại hội VI rất rõ ràng: “phải nhằm phục vụ
các mục tiêu kinh tế,quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và theo khả năng thực tế... sản phẩm nàomà công
nghiệp nặng nhất thiết phải tạo ra trong nước để phát triển nông nghiệpvà công nghiệp nhẹ thì cố gắng làm với
quy mô và kỹ thuật thích hợp... không bốtrí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế,
ngay cả đểphục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”8.
- Về cơ cấu đầu tư, Đại hội chỉ rõ phướng đầu tưcho những năm tới tập trung chủ yếu cho nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, còncông nghiệp nặng chỉ đầu tư cho những công trình nhanh chóng mang lại hiệu quả.
Thứ ba, Đại hội VI xác định, hiện nay nước tacòn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế XHCN gồm quốc
doanh và tập thể;kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, người buôn bánvà kinh doanh
dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước;kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ
phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Như vậy, trong đường lối đổi mới kinh tế được Đảngđề xướng tại Đại hội VI, vấn đề đổi mới bố trí cơ cấu kinh
tế (cơ cấu ngànhkinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế) được đặt trong tổng thể đường lối đổi mới toàn diện và đồng
bộ về kinh tế - xã hội, với những hình thức, biện pháp, bướcđi tuần tự phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội đất
nước trong chặng đường đầuthời kỳ quá độ. Đây là cơ sở thực tiễn, lý luận quan trọng cho Đại hội VII đề ra chủ 1
trương hoàn thiện cơ cấu kinh tế và Đại hội VIII, IX đề ra chủ trương đẩymạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Đến nay, chúng ta đã có cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý và đang chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, với sự
tham gia của mọi thành phầnkinh tế trong xã hội; giá trị sản xuất của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
vàthương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP; công nghiệp đã tăngtừ 21,6% (1988) lên 41%
(2005); dịch vụ từ 33,1% lên 38,5%; nông nghiệp đã giảmtừ 46,3% xuống còn 20,5%; các vùng kinh tế và vùng
kinh tế trọng điểm đã hìnhthành, phát triển trên cả nước. Những thành tựu mà đất nước đạt được trong
nhữngnăm đầu và cả chặng đường gần 20 năm đổi mới, phát triển có nguyên nhân của sựtìm tòi, xác lập một cơ
cấu kinh tế phù hợp, trong đó Đại hội VI đóng vai trò mở đầu, đột phá.
Câu 2: Thực tiễn quá trình đổi mới thể chế kinh tế
Để thực hiện và phát triển có hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt
hơn 20 năm qua, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế
kinh tế nhằm thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và tạo điều kiện, môi
trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế này cùng phát triển. Quá trình xây dựng hệ thống thể chế đó có thể
khái quát ở những nội dung cơ bản sau đây:
Về tiến trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế
Có thể khái quát tiến trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế qua các giai đoạn chính như sau:
- Giai đoạn 1979 – 1981: Năm 1979, Nghị quyết về lưu thông phân phối của Hội nghị Trung ương 6
khóa IV đã mở đường cho việc áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần”, cho phép doanh nghiệp nhà nước bán sản
phẩm vượt kế hoạch pháp lệnh ra thị trường tự do. Năm 1981, chính sách khoán 100 trong nông nghiệp với nội
dung khoán sản phẩm theo công việc và được bán sản phẩm vượt khoán trên thị trường tự do đã được ban hành và thực hiện.
Đây là hai điểm đột phá thị trường đầu tiên ở hai lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo động lực phát triển
cho doanh nghiệp, tập thể và người lao động.
- Giai đoạn 1985 – 1987: Trong giai đoạn này, chúng ta đã thay đổi nguyên tắc hoạt động của các
chủ thể hoạt động trong hai lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế là công nghiệp và nông nghiệp; đồng thời xây
dựng cơ chế hoạt động để thực hiện nguyên tắc hoạt động mới giữa các chủ thể kinh tế thông qua thị trường nhờ
áp dụng chính sách mới về giá, lương, tiền.
Có thể nói, hai thay đổi này đã “cởi trói” cho các cá nhân và tập thể, song đó mới chỉ là thay đổi ở
cấp vĩ mô. Đại hội VI (12 – 1986) đã công bố chủ trương thực hiện đổi mới toàn diện về kinh tế – xã hội với nội
dung kinh tế cốt lõi là thay đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp bằng cơ chế thị trường và
trong khuôn khổ mở cửa với nền kinh tế thế giới, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Song, trong các năm 1986 – 1987, do chủ trương đổi mới chưa được cụ thể hóa, nên đường
lối đổi mới chưa chuyển thành quá trình đổi mới trên thực tiễn.
- Giai đoạn 1988 – 1996: Từ 1988 – 1989 là giai đoạn đột phá thị trường mạnh, toàn diện và căn bản
ở khâu trung tâm của hệ thống (giá cả). Hệ thống giá cả chuyển sang vận động theo nguyên tắc thị trường một
cách thống nhất, đồng bộ. Đây cũng chính là quá trình đổi mới trên thực tiễn với nội dung kinh tế là chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường – mở cửa.
Từ 1990 – 1996 là giai đoạn chuyển mạnh nền kinh tế sang cơ chế thị trường – mở cửa. Điểm đột
phá trong giai đoạn này là khẳng định chủ trương và thực hiện “phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa…, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”(16).
- Giai đoạn 1997 – 2001: Đây là giai đoạn mà do chịu nhiều tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng
tài chính – tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị suy giảm kéo dài. Các yếu tố của cơ chế cũ, như 2
bao cấp, độc quyền, xin – cho và bảo hộ trỗi dậy, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và việc cải thiện
môi trường kinh doanh theo hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế diễn ra một cách chậm chạp.
Năm 2000, với việc áp dụng luật doanh nghiệp, chúng ta đã tạo ra động lực phát triển mạnh của khu
vực kinh tế tư nhân. Năm 2001, chúng ta ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; đồng thời xác định
vai trò động lực của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội IX đã khẳng định đường lối phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Giai đoạn 2002 – đến nay: Đây là giai đoạn chúng ta tiếp tục khẳng định mô hình kinh tế tổng quát
và xác định nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Thực tiễn quá trình đổi mới hình thức thể chế pháp lý
Xây dựng đồng bộ các thể chế, môi trường pháp lý đảm bảo chuyển đổi hiệu quả nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 1992, sau đó tiếp tục có những sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với xu thế của quá trình đổi mới, như Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001
của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992; Nghị quyết số 287/2002/NQ –
UBTVQH10 ngày 29/01/2002 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc thi hành một số điều của Nghị
quyết về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 và các cơ quan nhà nước đã ban hành hàng
nghìn văn bản, pháp luật.
Trong giai đoạn này, về cơ bản, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp luật mới
trên mọi lĩnh vực và là cơ sở pháp lý cho sự ra đời và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhìn chung, khung pháp luật Việt Nam đã bao trùm hầu hết các yếu tố cơ bản cho việc hình thành cơ
chế kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Quyền sở hữu, đặc biệt là sở hữu tư nhân, cũng như địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, doanh nhân
ngày càng được khẳng định rõ trong các văn bản pháp luật, như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (đến nay
đã được thay thế bằng Luật đầu tư); Luật công ty (đến nay đã được thay thế bằng Luật doanh nghiệp); Luật
doanh nghiệp nhà nước; Luật dân sự; Luật đất đai; Pháp luật Hợp đồng kinh tế; Luật đấu thầu… Để tạo điều
kiện cho nền kinh tế thị trường vận hành, khung pháp luật đã được cải cách chủ yếu hướng tới xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không chỉ thế, khung pháp luật này còn hướng tới việc tạo lập một sân chơi bình đẳng hơn cho mọi
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Chính tại sân chơi bình đẳng này, sân chơi được thực hiện
thông qua các quy chế, luật, các pháp lệnh, nghị định về cho vay vốn, cấp và cho thuê mặt bằng sản xuất, thuế,
ưu tiên xuất nhập khẩu, bảo lãnh, thuê mướn lao động, luật bảo hiểm xã hội, chế độ đấu thầu…, rào cản kinh
doanh, đặc biệt là ở lĩnh vực xuất nhập khẩu đã được giảm thiểu, khả năng tiếp cận tới các nguồn lực của những
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được gia tăng.
Câu 3: Nhà nước pháp quyền 185/ giáo trình
Câu 4: So sánh CLT2 – LCT10 Giống nhau:
Cương lĩnh tháng 2 là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, là
sự hợp thành của các văn kiện đã được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam như: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng. Luận cương tháng 10 được thảo luận trong Hội nghị
Ban chấp hành TƯ họp lần thứ nhất tại Hương Cảng Trung Quốc do đồng chí Trần
Phú chủ trì. Cả 2 là những văn kiện chính trị quan trọng của Đảng và đều xác định
các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. 3
Xác định tính chất của cách mạng vn là CMTS dân quyền và CMXHCN. Đây là 2 nhiệm vụ CM
nối tiếp nhau ko có bức tường ngăn cách
Mục tiêu của CMVN là độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày
Khẳng định lực lượng lãnh đạo CMVN là ĐCS. Lấy CN mac-lê làm nền tảngo Khẳng định
CMVN là 1 bộ phận khắng khít của CMTG, giai cấp VS VN phải đoàn kết với VSTG nhất là VS
phápXác hịnh vai trò và sưc mạnh giai cấp công nhân Khác nhau: Cương lĩnh tháng 2
Luận cương tháng 10 Trang 39/ giáo trình Trang 44/ giáo trình
Kẻ thù: đánh đổ ĐQ và bọn PKTS, tay sai phản CM
Kẻ thù: Đánh đổ PK ĐQ
Nhiệm vụ: nv độc lập là nv hàng đầu
Nhiệm vụ: Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ được tiến
Mục tiêu: làm cho VN hoàn toàn độc lập nhân dân tự do hành 1 lúc
dân chủ bình đẵng, tịch thu ruộng đất của ĐQ chia cho
Mục tiêu: Làm cho đông dương hoàn toàn độc lập, dân cày nghèo
giải quyết 2 muân thuẫn cơ bản là mâu thuẩn dân
tộc và mâu thuẩn giai cấp ngày càng sâu sắc
Lực lượng CM: là gc công nhân và nông dân, bên cạnh đó
Lực lượng CM: Là công nhân và nông dân, chưa
phải lien minh đoàn kết với tiểu tư sản lợi dung hoặc trung
phát huy được sức mạnh của khố đại đoàn kết
lập phú nông trung tiểu địa chủ. dân tộc,của TTS,TS
Lãnh đạo: Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
Lãnh đạo: Giai cấp vô sản với đội tiên phong là giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản.
Quan hệ với cách mạng Thế giới: Cách mạng Việt Nam phải
Quan hệ với cách mạng Thế giới: Mối quan hệ
liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.
cách mạng Đông Dương với cách mạng thế giới. xét Nhận xét
• Nguyên dân khác nhau chủ yếu:
Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng
mà chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt đã nêu ra. Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản
giữa Luận cương chính trị và Cương lĩnh tháng 2 có mặt khác nhau. Luận cương chính trị
không nêu được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc
Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; đánh giá không đúng vai
trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản; phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa
thấy được khả năng phân hóa, lôi kéo của bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng
giải phóng dân tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân
tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Bên
cạnh đó Luận cương tháng 10 có những ưu điểm: Luận cương tháng 10 đã chỉ rõ phương
pháp cách mạng là phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “ võ trang bạo
động”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, phải tuân theo “khuôn phép nhà binh”.
Nguyên nhân chủ yếu của những mặt khác nhau. Thứ nhất, Luận cương chính trị chưa 4
tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam. Thứ
2, do nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng ở
thuộc địa, và phải chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả” của Quốc tế Cộng sản và
một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó. Chính vì vậy, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương tháng 10 – 1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự
chủ của Nguyễn Ái Quốc được nêu trong Đường Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và
Sách lược vắn tắt. Thứ 3:
- Nguồn gốc xuất thân: Trần Phú sinh trưởng trong 1 gia đình nông dân có tinh thần cách
mạng, tuy nhiên lại bị bọn địa chủ áp bức nặng nề. chính vì thế làm nảy sinh tâm lí giai
cấp. Trần Phú coi nặng vấn đề giai cấp và đặt nó lên vị trí trước vấn đề dân tộc.
- sau khi từ bỏ Tân Việt CM đảng, Trần Phú gia nhập Hội VN CM Thanh niên do
Nguyễn Ái Quốc sáng lập. không lâu sau, ông cùng một số thanh niên khác được cử đi
học ở Liên Xô tại Đại học Phương Đông dưới thời Stalin. Stalin vốn là 1 con người sùng
bái cá nhân. Thêm nữa, trong tổ chức của Quốc tế cộng sản lúc đó, có 1 bộ phận mang
khuynh hướng tả khuynh, giáo điều. chính điều này đã ảnh hưởng đến những suy nghĩ và
nhận thức của Trần Phú sau này.
- Nguyễn Ái quốc đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ nghĩa Mác Lê – nin vào hoàn cảnh
cụ thể của VN lúc này nên Người nhận rõ mâu thuẫn quan trọng, chủ yếu của VN lúc này
là mâu thuẫn dân tộc, do đó phải đề cao nhiệm vụ dân tộc, chống đế quốc. Trần Phú thì
vận dụng 1 cách máy móc, dập khuôn chủ nghĩa Mac Lê- nin lại thiếu sự trải nghiệm,
nhìn nhận thực tế nên chưa thấy được mâu thuẫn cơ bản của VN lúc đó.
Chính những điều này làm nên hạn chế trong Luận cương của Trần Phú. Những sai lầm,
thiếu sót này đã được thực tiễn cách mạng chứng minh. Trải qua 80 năm đấu tranh giành
độc lập dân tộc, những tư tưởng trong cương lĩnh của Nguyễn Ái Quốc vẫn luôn mang
tính đúng đắn, sáng tạo và tiến bộ.
Câu 5: Vai trò của sinh viên trong thời kỳ CNH - HĐH
Thế hệ thanh niên ngày nay được sống, lao động, học tập trong môi trường hòa bình; được thừa
hưởng những thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công cuộc đổi mới đất nước; được cống
hiến và trưởng thành trong sự ổn định về chính trị, sự phát triển vững chắc của kinh tế - xã hội và đời sống vật
chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện; được gia đình và xã hội dành cho nhiều cơ hội học
tập để có trình độ học vấn, chuyên môn cao hơn các lớp thanh niên đi trước. Những lợi thế đó là hành trang
giúp thanh niên vững bước tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thanh niên đã và đang cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu cho lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thanh niên Việt Nam
ngày nay mang trên vai trọng trách lịch sử, đó là phải trở thành lực lượng lao động có trí tuệ và có tay nghề cao,
có đạo đức và lối sống trong sáng, có sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng để đưa Việt Nam
“sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Thanh niên đang tự khẳng
định mình là thế hệ vượt lên hơn so với các thế hệ thanh niên đi trước và đang dần xóa bỏ ranh giới tụt hậu để
sánh vai ngang bằng với thanh niên các nước trên thế giới.
Thanh niên Việt Nam cần có 3 nhóm phẩm chất là: Trình độ chuyên môn và tay nghề cao, đạo đức
và lối sống trong sáng, sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng mới đáp ứng được yêu cầu cảu thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kỳ kinh tế tri thức, thời kỳ hội nhập quốc tế. Để đạt được những tiêu chí
và các phẩm chất trên đòi hỏi bản thân thanh niên tự học, tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tụ tin, tự chịu trách nhiệm 5
để trở thành nguồn lao động chất lượng cao, trở thành người thừa kế trung thành sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý
tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh cách mạng trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối tượng
thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của từng thanh niên. Do đó,
thanh niên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham
gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ
nạn xã hội, tham nhũng…
Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn,
khoa học, kỹ thuật, tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế, thanh
niên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị
trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng xã hội
học tập với phương châm: người thanh niên nào cũng phải học, ở đâu, làm gì, thời gian nào cũng phải học;
người thanh niên nào cũng phải xác định tham gia học tập thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Thứ ba, thanh niên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân. Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Các
đối tượng thanh niên tự nguyện, tụ giác tham gia vào các Hội của thanh niên, phấn đấu trở thành Đoàn viên,
đảng viên của Đảng và hội viên của các tổ chức quần chúng nhân dân.
Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và môi trường
sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và ứng
phó biến đổi khí hậu toàn cầu.
Thứ năm, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia
các thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải quyết các
vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường
quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự
bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo..
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu đó đã đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối
với thế hệ trẻ hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, mỗi thanh
niên Việt Nam hãy ra sức học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động
và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến, xứng tầm đòi hỏi của đất nước và thời đại. 6
Câu 6: Các mốc thời gian của Đại Hội 1. Đại Hội I:
Diễn ra từ ngày 27-31/3/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc) do đồng chí Hà Huy Tập chủ trì. Đại hội có
13 đại biểu đại diện cho các tổ chức cơ sở Đảng trong nước và ngoài nước. ĐH bầu đồng chí Lê Hồng Phong
làm Tổng Bí thư. (Đến tháng 10/1936 TƯ Đảng được tổ chức lại, đồng chí Hà Huy Tập làm TBT; tháng 3/1938
BCH TƯ Đảng họp Hội nghị toàn thể, bầu Nguyễn Văn Cừ làm TBT; tháng 11/1940, Hội Nghị TƯ 7, Trường
Chinh được phân công làm quyền TBT; tại Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), đồng chí Trường Chinh được bầu làm TBT). 2. Đại Hội II
Diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Dự Đại hội có 158 đại
biểu chính thức, thay mặt cho hơn 73 vạn đảng viên. Đồng chí Tôn Đức Thắng đọc diễn văn khai mạc ĐH. ĐH
thông qua báo cáo chính trị của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH” của đồng chí Trường Chinh. ĐH còn thông qua Chính cương của Đảng
Lao Động Việt Nam (Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên này). Chính cương xác định mâu thuẫn chủ yếu
lúc bấy giờ là tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa, xác định đối tượng chính của CM VN là
CNĐQ xâm lược Pháp và can thiệp Mĩ, ngoài ra còn có bọn phong kiến phản CM. Chính cương nêu ra nhiệm
vụ của CMVN là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất, xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế dộ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH; chính
cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng.
Đh bầu ra BCH TƯ gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. BCHTƯ đã bầu Bộ chính trị có 7 ủy
viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Đh bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng, bầu đc Trường Chinh làm TBT. 3. Đại Hội III
Diễn ra từ ngày 5-10/9/1960 tại Hà Nội. Có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay
mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước.
Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “ĐH lần này là ĐH xây dựng CNXh ở
miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”
ĐH thông qua Nghị quyết về “Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới” đó là đẩy
mạnh CM XHCN ở miền Bắc và tiến hành CM Dân tộc dân chủ nhân dân (DTDCND) ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
ĐH xác định vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược CM ở mỗi miền: CMXHCN ở MB
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng VN và đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà. CMDTDCND ở MN giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND trong cả nước.
ĐH đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở miền Bắc nước ta là : “Đoàn kết toàn dân, phát
huy truyền thống của nhân dân ta và đoàn kết với các nước XHCN đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố MB trở thành cơ
sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”
ĐH bầu ra BCHTƯ gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. BCHTU đã bầu ra Bộ chính
trị gồm 11 ủy viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đc Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng. 7 4. Đại Hội IV
Diễn ra từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội. Dự Đh có 1008 đại biểu thay mặt cho hơn 1.5 triệu đảng
viên trong cả nước. ĐH thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch 5 năm 1976-1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
ĐH quyết định đổi tên Đảng Lao Động VN thành Đảng CSVN.
ĐH xác định đường lối chung của CMMN trong thời gian tới: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành dồng thời 3 cuộc CM: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học – kỹ thuật là
then chốt; đẩy mạnh CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ; xây dựng chế độ làm chủ tập
thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới XHCN; xóa
bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng
cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc VN hòa bình, độc lập,
thống nhất và CNXH; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
ĐH xác định đường lối xây dựng kinh tế là đẩy mạnh CNH, ưu tiên phát triển Công nghiệp nặng một cách hợp
lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đưa VN trở thành một nước công – nông nghiệp hiện
đại, văn hoá và Khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
ĐH còn bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng là TBT
ĐH bầu BCH TƯ gồm 101 ủy viên chính thức, BCT gồm 14 ủy viên.
Đc Lê Duẩn được bầu làm TBT.
Đây là ĐH toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định
đường lối đưa cả nước tiến lên CNXH. 5. Đại Hội V
Diễn ra từ ngày 27-31/3/1982 tại Hà Nội. Dự Đh có 1033 đại biểu thay mặt cho hơn 1.7 triệu đảng
viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
ĐH thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về
kinh tế xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80, Báo cáo về xây dựng Đảng.
ĐH xác định nhiệm vụ của Đảng là xây dựng thành công CNXH, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN.
ĐH xác định nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng lúc này là tiếp tục nâng cao tính giai
cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho
Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một Đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn
bó chặt chẽ với quần chúng.
ĐH bầu BCH TƯ gồm 116 ủy viên chính thức, 36 ủy viên dự khuyết. Bộ chính trị gồm 13 ủy viên
chính thức, 2 ủy viên dự khuyết, Ban bí thư gồm 10 đc, đc Lê Duẩn được bầu lại giữ chức vụ TBT.
ĐH V đã có những bước tìm tòi bước đi trên con đường quá độ lên CNXH, trước hết là về mặt kinh tế. 6. Đại Hội VI
Diễn ra từ ngày 15-18/12/1986 tại Hà Nội. Có 1129 đc tham dự, thay mặt cho gần 1.9 triệu Đảng viên cả nước.
Tinh thần của ĐH là “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. 8
ĐH khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh
giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành ĐH.
Báo cáo chính trị của ĐH rút ra 4 bài học kinh nghiệm của thời kỳ trước: Một là, trong toàn bộ hoạt động của
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; Hai là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế , tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan; Ba là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới;
Bốn là chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc CMXHCN.
ĐH xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH
XHCN trong chặng đường tiếp theo.
ĐH xác định mục tiêu cụ thể về KTXH cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là sản xuất
đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế trong đó đặc biệt chú trọng 3 chương trình kinh
tế lớn là: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng và hoàn thiện một bước QHSX
mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội, việc làm,
chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương phép nước; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng - an ninh.
ĐH nêu ra 5 phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế xã hội và đề ra hệ thống giải pháp để thực
hiện mục tiêu như: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
XHCN; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế (coi kinh tế có nhiều thành phần là đặc trưng của
thời kỳ quá độ); đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xóa bỏ cơchế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp,
chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương hướng hạch toán kinh doanh XHCN; phát huy động lực của khoa
học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.
ĐH đưa ra thực hiện khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
BCH TƯ được bầu mới gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. BCH TƯ bầu Bộ
chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 1 dự khuyết. Ban bí thư gồm 13 đc, đc Nguyễn Văn Linh được bầu làm TBT.
ĐH VI là ĐH kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên. ĐH có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên CNXH và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cuộc CMVN. 7. Đại Hội VII
Diễn ra từ ngày 24-27/6/1991 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1176 đại biểu thay mặt cho trên 2 triệu đảng viên trong cả nước.
Nhiệm vụ của ĐH là phải định hướng đúng đắn, vạch ra đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây
dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
ĐH thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xây dựng Đảng là sửa đổi Điều Lệ Đảng,
kiểm điểm sự lãnh đạo của BCH TƯ VI.
Cương lĩnh chỉ ra 6 đặc trưng của CNXH: một là XH XHCN là XH do nhân dân lao động làm chủ;
hai là có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu; ba là có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bốn là con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân; năm là các dân tộc trong nước cùng bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ; sáu là có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh vạch ra 7 phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: một là
xây dựng NN XHCN, NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hai là phát triển lực lượng sản xuất, công
nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, phát triển một nền nông nghiệp toàn diện; ba là thiết lập quan hệ sản 9
xuất từ thấp đến cao, đa dạng về hình thức sở hữu và phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất; bốn là
tiến hành CM XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; năm là thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc; sáu
là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của CMVN; bảy là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
ĐH xác định quá độ là một quá trình lầu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là
thông qua đổi mới toàn diện, XH đạt trạng thái ổn định, vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
ĐH xác định ĐCSVN là đội tiên phong của GCCN VN, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao
động và cả dân tộc. Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tu tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương
lĩnh, chiến lược các định hướng về chính sách và chủ trương công tác...Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
ĐH bầu ra BCH TƯ gồm 146 ủy viên, Bộ chính trị gồm 13 đc, Ban bí thư gồm 9 đc. Đc Đỗ Mười
được bầu làm TBT. Các đc Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách làm cố vấn BCH TƯ.
ĐH VII là “ĐH của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. 8. Đại Hội VIII
Diễn ra từ ngày 28/6-1/7/1996 tại Hà Nội. Dự Đh có 1198 đại biểu thay mặt cho 2.130.000 đảng viên trong cả nước.
ĐH thông qua Báo cáo chính trị, Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1996-
2000), Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung).
ĐH phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
ĐH chủ trương xây dựng nền kinh tế mở; lấy việc phát huy con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững.
ĐH xác định khoa học - công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
ĐH bầu BCHTƯ gồm 170 ủy viên. Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đc Đỗ Mười tiếp tục được bầu làm
TBT. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công tiếp tục làm BCV TƯ.
ĐH đánh dấu bước ngoặt chuyển đát nước ta sang thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, xây
dựng nước VN độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN, vì hạnh phúc
của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. ĐH có ý nghĩa quyết định đối
với vận mệnh dân tộc và tương lai đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI. 9. Đại Hội IX:
Diễn ra từ ngày19-22/4/2001 tại Hà Nội. Dự ĐH có 1168 đại biểu thay mặt cho 2.479.719 đảng viên trong cả nước.
Chủ đề của ĐH là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc VN XHCN”.
ĐH thông qua Báo cáo chính trị, chiến lược phát triển kinh tế XH 2001-2010, Phương hướng, nhiệm
vụ, kế hoạch phát triển KTXH 2001-2005, Báo cáo về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; báo cáo kiểm điểm của
BCH TƯ khóa VIII, Báo cáo tình hình Nghị quyết TƯ 6 (lần 2).
ĐH rút ra 4 bài học kinh nghiệm từ ĐH VI-VIII: một là trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; hai là đổi mới
phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn sáng tạo; ba là đổi mới phải kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; bốn là đường lối đổi mới của Đảng là nhân tố quyết đinh thành
công của sự nghiệp đổi mới.
ĐH đưa ra định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh : “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và 10
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc...”
ĐH xác định mục tiêu chung của CMVN là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
ĐH xác định nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong bối cảnh mới hiện nay là thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nghèo, kém phát triển, thực hiện công
bằng XH, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai
trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xâ dựng, bảo vệ Tổ quốc.
ĐH xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cở sở liên minh
giữ công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
ĐH xác định đường lối kinh tế là đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN.
ĐH xác định kinh tế nhiều thành phần ở nước ta gồm (6 thành phần): kinh tế NN, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể-
tiểu chủ, kinh tế Tư bản tư nhân, kinh tế Tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (mới bổ sung tại ĐH này).
ĐH bầu BCH TƯ gồm 150 ủy viên, Bộ chính trị 15 đc. Đc Nông Đức Mạnh được bầu làm TBT.
ĐH IX là ĐH của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả
dân tộc trong thời điểm lịch sử trọng đại bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới. 10. Đại Hội X:
Diễn ra từ ngày 18-25/4/2006 tại Hà Nội. Dự ĐH có 1176 đại biểu thay mặt cho 3.1 triệu đảng viên trong cả nước.
Chủ đề của ĐH: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
ĐH xác định: “XH XHCN mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
ĐH xác định mục tiêu: đến năm 2010 GDP tăng gấp 2.1 lần so với năm 2000; trong 5 năm
2006-2010: mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7.5-8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu
ngành trong GDP: nông nghiệp: 15-16%, công nghiệp và xây dựng: 43-44%, dịch vụ: 40-41%; tạo việc làm cho
trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5% vào 2010 và tỷ lệ hộ nghèo giảm 10-11% năm 2010.
ĐH xác định nhiệm vụ và giải pháp thực hiện để đạt được mục tiêu trên: Tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với nền kinh tế tri thức; giải quyết các vấn đề XH, văn hóa, giáo
dục, khoa học công nghệ; tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền 11
XHCN; đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Câu 7: Phân tích tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối KCCM của Đảng
1. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ củaĐảng giai đoạn 1954.
1.1 Hoàn cảnh lịch sử.
Tình hình nước ngoài, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi vàchâu Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ
thêm vào đó phong trào hòa bình, dân chủ đang lên cao ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đây là một điều kiện thuận
lợi để cổ vũ tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn này cũng có những
khó khăn: thế giới đang bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xă hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa, sự xuất hiện những mẫu thuẫn, bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.
Về tình hình trong nước, đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ là đất nước tạm
thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị- xã hội khác nhau: miền Bắc hoàn toàn độc lập, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa vững chắc cho cả nước tuy nhiên do mới được giải phóng nên kinh tế miền Bắc
còn nghèo nàn lạc hậu và xét về tiềm lực quân sự thì nước ta còn yếu hơn Mỹ rất nhiều. Miền Nam trở thành
thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn này, có một số những thuận lợi cho cách mạng nước ta đó
là: thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến, toàn thể dân tộc Việt Nam một lòng,
quyết tâm thống nhất đất nước.
1.2 Tính đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định chính sách kháng chiến chống Mỹ của Đảng ta.
1.2.1 Đảng đã sớm nhận rõ và đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, đường lối phù hợp.
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên ngay trước ngày ký Hiệp
định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-
1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù
chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ"
Tại hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp
định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm.Trên cơ sở phân tích tình
hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam; Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần
chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình
Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)có ý nghĩa lịch sử to lớn,
chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể
hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
1.2.2 Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
Tại hội nghị lần thứ bảy và lần thứ tám tháng (1955) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã chỉ ra
rằng: “Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòabình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân
chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.”
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta nhận định: Trong thời 12
đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp
công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự
bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xãhội, sự bắt đầu
của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Từ đó, Đảng ta đề ra và giải quyết vị trí, vai
trò nhiệm vụ của cách mạng từng miềncũng như mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Để
củng cố miềnBắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần hoàn thành cải cáchruộng đất, chia
ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giaicấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng
bước lên chủ nghĩa xã hội; kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất. Nhiệm vụ của
Đảng ở miền Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình
chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc
lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dânđấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta,
bắt bớ cánbộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, ngụy,giữ lấy quyền
lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ởnhững vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ
của ta Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cáchmạng ở hai miền cũng là quá trình Đảng ta cụ thể hoá đường lối Đại hội III củaĐảng.
Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,Đảng không chỉ căn cứ vào tình
hình miền Bắc, mà còn căn cứ vào tình hình miềnNam, đề ra những chủ trương không chỉ đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân miềnBắc, nhân dân miền Nam, mà còn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của tầng
lớptrên ở miền Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước, mở rộng mặt trận dân tộc giảiphóng và tinh thần quốc
tế.Bằng công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội ở miền Bắctrên đà “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên
CNXH, vừa bảo đảm đời sốngcho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn và chi viện
chocách mạng miền Nam. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng XHXN ở miền Bắc vàcách mạng giải phóng
dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực của cách mạng cả nước cũng như của miền Nam không ngừng tăng
lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch, đánh
bạimọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.
Đây là sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệgiữa hoà bình và cách
mạng khi đã trở thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi.Đường lối trên thể hiện tinh thần độc lập tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta. Lý luận đóđã được thực tiễn chứng minh, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược
cáchmạng khác nhau ở hai miền là đúng đắn, sáng tạo. Hai chiến lược cách mạng chẳngnhững không mâu
thuẫn mà còn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển, đồng thờigóp phần làm phong phú lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin về đường lối tiến hành đồngthời hai chiến lược cách mạng trên phạm vi một nước bị chia cắt và
đường lốinày chưa có tiền lệ trong lịch sử, chỉ duy nhất được thực hiện ở Việt Nam dưới sựãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.3 Đảng ta luôn giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, thực hiệnđường lối đối ngoại mềm dẻo, tranh thủ sự
đồng tình ủng hộcủa các nước trên thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sứcmạnh thời đại.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnhquốc tế phức tạp, với cả thuận
lợi và không ít khó khăn. Kẻ thù của ta lại là một đếquốc có sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự hàng đầu thế
giới, âm mưu của chúnglà chiếm miền Nam, tiến tới xâm chiếm cả nước ta; thực hiện chia rẽ Bắc - Nam
vàchia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường côngtác Mặt trận để mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộmiền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức để đủ sức lãnh đạo trựctiếp cách mạng miền Nam.Đường lối này đã phản ánh đúng nguyện vọng và ý
chí quyết tâm của nhân dân ta,dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và
xuthế tiến bộ của nhân loại, tạo sự đoàn kết nhất trí, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,đồng thời tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và sự ủng hộcủa nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới,
tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹvà thắng Mỹ. Để thực hiện đường lối này, một mặt, chúng ta tập trung 13
phát triểntiềm lực của mình; mặt khác,thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, mềm dẻo,tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự đồng tìnhủng hộ và đoàn kết hiệp đồng chiến đấu của
hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự giúp đỡquý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc,
Cu-ba Vềvấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sắcsảo, sáng tạo lớn.
Từ năm 1956, Người đã viết trên báo Sự thật của Liên Xô: "Trongtình hình quốc tế hiện nay, những đặc
điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ởtừng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc
vạch ra chính sách củamỗi Đảng cộng sản và những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng kháctuyệt
nhiên không phải là việc riêng của mỗi đảng mà có quan hệ thiết thân đến toànbộ giai cấp vô sản quốc tế".
Với tầm nhìn chiến lược ấy, Người giải thích với bạn bèquốc tế rằng: "Việc dân tộc Việt Nam phải vạch ra
những phương pháp và biệnpháp riêng của mình để chống âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai
hòngvĩnh viễn chia cắt đất nước cũng như để quá độ dần dần lên CNXH là điều thật rõràng, nhưng lúc này
thì sự đoàn kết thực sự của phe XHCN và của các dân tộc yêuchuộng hòa bình trên thế giới đối với chúng tôi
cũng cần thiết không kém gì hồikháng chiến chống Pháp
2. Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ củaĐảng giai đoạn 1965- 1975.
2.1 Hoàn cảnh lịch sử
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phásản của chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹvà quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến
tranh cụcbộ” với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hànhcuộc chiến tranh phá
hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đãquyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước trên phạm vi toàn quốc. Thuận lợi
- Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng thế giớiđang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượtcác mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền
Bắccho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
- Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-9162, từnăm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân
tađã có bước phát triển mới. “Chiếntranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bịphá sản. Khó khăn
- Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không cólợi cho cách mạng Việt Nam.
- Tương quan lực lượng giữa ta và địch bất lợi cho ta
2.2 Tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng giai đoạn 1965-1975.
2.2.1 Tranh thủ thời cơ từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn là chủ trương chiếnlược đúng đắn, sáng tạo, thể
hiện bản lĩnh, tầm nhìn và nghệ thuật chỉ đạo chiếnlược, điều hành chiến tranh sắc sảo của bộ não cách mạng
Việt Nam. Chủ trươngchiến lược đó được thể hiện trong đường lối chính trị và quân sự; được thực hiệnbằng
những biện pháp hiệu quả, thích hợp trong từng giai đoạn kháng chiến. Đảngta dự kiến, trên bước đường đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,cần thực hiện những bước đi phù hợp với điều kiện thực lực
của cách mạng ViệtNam lúc đó. Lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam hầu hết đã tập kết ra miền Bắc,Đảng
đã chỉ đạo phát huy thế mạnh về chính trị của ta, dựa vào sức mạnh to lớn làlực lượng chính trị của quần
chúng. Và thực tế lịch sử chứng tỏ đó là một chủtrương đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đồng khởi năm
1960 của quân và dân ta ởmiền Nam đã làm thất bại một hình thức thống trị điển hình bằng chủ nghĩa
thựcdân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lựclượng chuyển sang thế
tiến công. Trên đà thắng lợi, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dântộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ta
đề ra mục tiêu phấn đấu trước mắt làtập trung đánh đổ chính quyền Sài Gòn, thành lập ở miền Nam một
chính quyền độclập và trung lập. Mục tiêu đó có sức tập hợp rộng rãi và ngày càng mạnh mẽ mọilực lượng 14
yêu nước ở miền Nam, làm phân hóa nội bộ kẻ thù, góp phần tạo ra vànhân lên sức mạnh tổng hợp của cuộc
kháng chiến. Đến năm 1968, trên cơ sở thắnglợi của Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta
đã chủ động mở rộngmặt trận đấu tranh ngoại giao, buộc phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ngồi vàobàn
đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm". Nhằm thựchiện phương hướng chiến lược
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "Đánh cho Mỹcút, đánh cho ngụy nhào" và để biến phương hướng chiến
lược đó thành hiện thực,đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự, trong quá trình đàm
phánchúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam một chính quyền liên hiệp ba thànhphần, xem đó là một bộ
phận trong giải pháp cả gói buộc phía Mỹ phải chấp nhậnrút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính
líu quân sự của Mỹ ở Việt Nam.
2.2.2 Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự.
Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự,chúng ta đã triển khai và phát
triển thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiếnlược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, thực
hành chiến lược tiến côngđịch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh địch bằng phương thức kết
hợpgiữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân dân địa phươngvới chiến tranh bằng
các binh đoàn chủ lực hợp thành. Quy mô, nhịp độ của đòntiến công quân sự cũng như thời cơ và chọn
hướng tiến công là những nội dungquan trọng trong nghệ thuật đánh thắng địch về quân sự. Trong giai đoạn
địch thựchiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", về quân sự, ta đề ra phương châm đấu tranh"hai chân" "ba
mũi" "ba vùng", nỗ lực đánh bại các thủ đoạn "thiết xa vận", "trựcthăng vận", "phượng hoàng vồ mồi", "trên
đe dưới búa" của địch; tổ chức nhiều trậnđánh và tiến đến là một số chiến dịch tiêu diệt từng chiến đoàn quân
đội Sài Gòn,phá vỡ từng khu vực phòng thủ của chúng, góp phần đánh thắng chiến lược "chiếntranh đặc biệt".
Khi địch buộc phải thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" (1965-1968), Đảng tađã phân tích rất kỹ những
điểm mạnh, yếu của cả ta và địch, chỉ đạo tìm cách đánhMỹ, trên cơ sở đó, quyết tâm ghìm chặt Mỹ và lãnh
đạo toàn quân, toàn dân pháthuy sức mạnh tổng hợp đánh bại từng cố gắng chiến lược của đế quốc Mỹ, đánh
bạichúng trên chiến trường chính miền Nam. Sau thắng lợi đánh bại cuộc phản côngchiến lược lần thứ nhất
của quân Mỹ (mùa khô 1965-1966), Quân ủy Trung ươngquyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị,
tạo hướng tiến công chiến lượcmới vào nơi yếu của địch trên chiến trường, buộc địch phải tiếp tục phân tán
binhlực lên vùng rừng núi, là nơi ta có điều kiện thực hiện tiêu diệt và ghìm chân một bộphận quan trọng lực
lượng cơ động chiến lược của địch, làm đảo lộn thế bố trí chiếnlược của chúng trên toàn bộ chiến trường
miền Nam, ngăn chặn không để địch mởcuộc tiến công trên bộ ra khu vực nam Quân khu 4. Đầu năm 1968,
bằng cuộc tiếncông Tết Mậu Thân, ta đã giáng cho địch một đòn chí mạng, buộc giới lãnh đạo Mỹphải đơn
phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bànđàm phán, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm".
Chiến lược "chiến tranh cục bộ" bị thất bại, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược"Việt Nam hóa chiến tranh", tìm
cách rút bớt một bộ phận quan trọng quân Mỹnhưng vẫn duy trì chế độ thực dân mới của chúng ở miền Nam;
tiến hành ngoại giaoxảo quyệt nhằm cô lập cách mạng Việt Nam và Đông Dương; mở rộng chiến tranhđặc
biệt ở Lào và xâm lược Cam-pu-chia, đồng thời đẩy mạnh đánh phá bằng khôngquân ra miền Bắc. Đảng ta
đã chỉ đạo nhanh chóng khôi phục thế trận ở miền Nam,phối hợp chiến trường ba nước Đông Dương, mở các
chiến dịch phản công đánh bạiâm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải
lui vềphòng ngự chiến lược. Nhằm làm chuyển biến căn bản cục diện chiến trường, mở rakhả năng giành
thắng lợi quyết định, Đảng ta chỉ đạo mở cuộc tiến công chiến lượctrên toàn chiến trường miền Nam; đánh
trả thắng lợi các cuộc đánh phá của khôngquân Mỹ ra miền Bắc, mà đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích
đường không chiếnlược bằng máy bay B52 của chúng vào tháng 12-1972. Thắng lợi của ta đã buộc Mỹphải
ký kết Hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân về nước.10
Phần 2: Bài học kinh nghiệm cho ngày nay. 15
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã để lại cho đảng ta nhiều bàihọc kinh nghiệm có giá trị thựctế sâu sắc cho ngày nay. 2.1 Kinh tế
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xâydựng và hoàn thiện; chủ trương,
đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chếhoá thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ
hơn; môi trườngđầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếptục hình thành,
phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành
lậpcác tập đoàn kinh tế nhà nướcđạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3
lầnvề số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phầntrở thành hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh phổ biến.
2.2 Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường.
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninhchính trị, trật tự, an toàn
xã hộiđược giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thếtrận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực
quốc phòng, an ninh được tăngcường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công tác giáo
dục,bồi dưỡng kiếnthức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Sự phối hợpquốc phòng, an ninh, đối
ngoại được chú trọng hơn.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theohướng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượngtin cậy của Đảng, nhà nước và nhân dân, làm tốt vai trò
tham mưu, góp phần chủđộng phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động gây rối,
bạoloạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả cáchoạt động cơ hội chính
trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm,có tổ chức, tội phạm ma tuý, tội phạm có yếu tố
nước ngoài, tội phạm lợi dụng côngnghệ cao, sử dụng vũ khí nóng, chống người thi hành công vụ, tham gia
tích cực, cóhiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứunạn, phòng,
chống và khắc phục thiên tai.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thếvà lực mới của đất nước.
Phát triển quan hệ với các nước láng giềng, thiết lập vànâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn
thành phân giới cắm mốc trênđất liền với Trung Quốc, tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào, hoàn thành
mộtbước phân giới cắm mốc trên đất liền với Campuchia, bước đầu đàm phán phânđịnh vùng biển ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biểnphía Tây Nam với các nước liên quan. Quan hệ với
các đảng cộng sản và côngnhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại
nhândân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quảtích cực. Thực hiện
đầy đủ các cam kết quốc tế, đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tựdo, dân chủ, nhân quyền.Nước ta đã gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thươngmại tự do song phương và đa phương với một
số đối tác quan trọng mở rộng vàtăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác, góp phần quan trọng vào việc
tạo dựngvà mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tưtrực tiếp nước
ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồntài trợ quốc tế khác.
2.3 Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàndân tộc được củng cố.
Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơnnữa quyền làm chủ, bảo
đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đốivới hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà
nước, cán bộ, đảng viên, côngchức, viên chức. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả
về nộidung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoạivới các tầng lớp
nhândân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng,trong các tổ chức và xã hội được mở rộng,
nâng cao quyền làm chủ của nhân dânđược phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xử lýcác hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giaicấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộngvà tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu 16
dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, dân chủ, văn minh.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân pháthuy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, mởrộng tổ chức, phát
triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiềucuộc vận động có hiệu quả thiết thực cùng
Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợiích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội,góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước.
2.4 Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của côngcuộc đổi mới, diễn biến mới của
tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng củachủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào tổng
kết và bổ sung,phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020và các văn kiện
khác trình Đại hội XI của Đảng.Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn
nhiệmvụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có kếtquả bước đầu cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chủ
động hơn trong đấu tranhchống “diễn biến hoà bình”, bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền
của các thế lực thù địch. Các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâmlãnh đạo, chỉ đạo chú trọng ngăn
ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu hiệnxa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác thông tin đối ngoại được đẩy
mạnh. Đa số cánbộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộcđổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướngchủ đạo trong đời sống xã hội.Việc củng cố, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chấtlượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết
quả; chú trọng hơn xây dựng,củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.
Câu 8: Vai trò của sinh viên trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Một là,tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức và năng lực giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
cho thanh niên: đây là giải pháp cơ bản nhằm nâng cao nhận thức, năng lực và hiệu quả hoạt
động của thanh niên trong việc tham gia giữ gìn bẳn sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc
tế hiện nay. Việc thực hiện giải pháp này giúp cho thanh niên nhận thức sâu sắc và đầy đủ
quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng
về giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Năng lực và hiệu quả giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc phụ thuộc rất lớn vào nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền
thống và giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc. Chính trong quá trình giáo dục mà thanh niên
chúng ta lĩnh hội được hệ thống các tri thức khoa học trên mọi lĩnh vực, cùng các giá trị và
chuẩn mực văn hóa, đạo đức xã hội, bảo đảm cho sự hình thành, phát triển và hoàn thiện
những phẩm chất nhân cách cần thiết đáp ứng với những yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ và sự
phát triển xã hội. Trên cơ sở đó, xác định rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của tuổi trẻ đối với sự
nghiệp cách mạng nói chung, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng, từ đó ra
sức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao tinh thần yêu nước, tự tôn, tự hào dân tộc, không ngừng
nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị,
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, giữ vững bản chất truyền thống của ông cha đã dày công vun
đắp, tạo dựng nên, huy động nguồn trí tuệ tài năng của sức trẻ, cống hiến thật nhiều cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay.
Hai là,phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên thông qua các phong trào của đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: Với thế mạnh thích tìm tòi, khám phá, để khẳng định
mình, cho nên muốn thanh niên trưởng thành phải tích cực đưa họ vào hoạt động thực tiễn để
tôi luyện, thử thách bản lĩnh, nâng cao phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Khi 17
được trang bị đầy đủ tri thức và bản lĩnh, họ phát huy hết vai trò của mình đối với quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, góp phần quyết định
việc giữ vững, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Để đoàn viên thanh niên
phát huy vai trò của mình trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với tổ chức đoàn, nhất là đội ngũ cán bộ đoàn là luôn đổi mới về nội dung,
phương pháp, gắn hoạt động với các cuộc vận động lớn trên phạm vi cả nước, nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của phong trào đoàn, nâng cao chất lượng đoàn viên thanh niên.
Ba là,thực hiện tốt hoạt động kết nghĩa với đoàn thanh niên địa phương, tích cực nâng cao
hiệu quả giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hoạt động kết nghĩa với thanh niên địa phương là
một việc làm rất quan trọng tạo nên sức mạnh to lớn góp phần quyết định làm nên những
thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong lịch sử đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc. Thường
xuyên tổ chức các hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc trao đổi giữa các ban chấp hành đoàn nhằm tìm
hiểu tình hình, nhiệm vụ và những vấn đề mới nảy sinh ở địa phương, xây dựng kế hoạch
phối hợp mặt công tác trong từng giai đoạn, bảo đảm kế hoạch thống nhất, nhịp nhàng và
hiệu quả. Đội ngũ cán bộ đoàn trong quá trình phối hợp tổ chức các hoạt động kết nghĩa phải
làm sao cho mỗi người thanh niên nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của họ đối với việc phát
triển mọi mặt của địa phương, phải ghi dấu ấn thật sự rõ nét của thế hệ thanh niên thời kỳ hội
nhập quốc tế, hoàn thành sứ mệnh và nhiệm vụ lịch sử được nêu trong Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ X: Đoàn kết, sáng tạo, hội nhập và phát triển.
Bốn là,xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh phòng, chống và làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng của các thế lực thù địch
đối với cách mạng nước ta. Môi trường văn hóa có vai trò quan trọng to lớn, trực tiếp nuôi
dưỡng, phát triển những giá trị của thanh niên chúng ta trong thời kỳ mới, nó góp phần nâng
cao trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tình cảm cách mạng, xây dựng nhân cách
con người mới vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, vừa phát huy bản chất truyền thống,
góp phần giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Môi trường văn hóa phải
được coi như là “phên dậu”, như “rào chắn” có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn và “miễn
dịch” trước những tác động, ảnh hưởng, xâm nhập và phá hoại của các hiện tượng phản văn
hóa của âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình.
Câu 9: Chủ trương và giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa CHỦ TRƯƠNG
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới vừa
qua, Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh một số chủ trương cần thực hiện là:
- Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp
của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế.
- Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, coi trọng
văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng
xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ - đạo đức, lối sống, thể chất, lòng
tự tin dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ. 18
- Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Thực hiện tốt bình đẳng giới, sự tiến bộ
của phụ nữ; chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền trẻ em.
- Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp luật.
- Khuyến khích tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật.
- Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao.
- Coi trọng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
- Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản. Đảm bảo quyền
được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số…
- Đấu tranh phòng, chống các biểu hiện phản văn hóa, các tiêu cực và tệ nạn xã hội.
- Nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây đựng dời sống văn hóa. GIẢI PHÁP
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
2. Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. 19