Đề số 2: Phân tích 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng trong nền kinh tế thị trường
bản chủ nghĩa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 phương pháp này đối với quá trình phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay?
BÀI LÀM
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong những phát kiến lớn nhất mà Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng của Mác vẫn giữ nguyên
giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D. Ricardo cũng không
giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản vẫn thu
được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá, C. Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng trong quá trình sản
xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được
tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm
một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra
ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động, C. Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản
chiếm đoạt.
Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư liệu sản xuất,
nhưng không phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng hoá, là mối quan hệ sản
xuất giữa giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy,
cũng dễ hiểu khi mục đích của giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá
trị thặng dư, trước hết nhà bản phải sản xuất ra hàng hoá giá trị sử dụng, vì giá trị sử
dụng là nội dung vật chất của hàng hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây cũng
là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất
giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản
thuộc sở hữu của nhà bản. Trong quá trình sản xuất bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ
thể của mình công nhân lao động làm thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của
chúng vào hàng hoá, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị
sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Khi thu được giá trị thặng nhà bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử dụng vào
những mục đích khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua liệu sản xuất, để tái
mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều sản xuất giá trị thặng dư của Chủ Nghĩa tư Bản.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng trong nền kinh tế thị trường
bản chủ nghĩa
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng C. Mác đã
chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Mỗi một phương pháp mang
một đặc điểm, tính chất riêng, đặc trưng đại diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp
tư sản, cũng như từng giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
Sản xuất giá trị thặng tuyệt đối
giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất bản chủ nghĩa, khi khoa học thuật
còn thấp, tiến bộ vô cùng chậm chạo, trì trệ, thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị
thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân. Giai đoạn này, nền kinh tế sản xuất
chủ yếu dùng là lao động thủ công hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở công
trường thủ công. Như vậy, có thể hiểu: giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu
được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất
lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Chẳng hạn,
nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng
dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động
thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối sẽ tăng từ 4 giờ
lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’= 6 giờ/ 4 giờ * 100%= 150%
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do
thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức
lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con
người. vậy, ngoài thời gian người công nhân làm việc cho nhà bản trongnghiệp,
người công nhân đòi hỏi còn phải thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra
sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật
chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh
thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản
đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới
của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động
thăng bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao
động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao
động.
vậy, giai cấp sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn,
đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải
thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào sản xuất.
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chấttinh thần của người lao độngvấp
phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất
tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm
cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương
thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bó lột giá trị thặng tương đối. Giá
trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu
bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được
quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên
muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các liệu sinh hoạtdịch vụ cần
thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động
hội cho các ngành sản xuất liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất liệu sản xuất để
sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, được chia ra 4 giờ thời gian lao động tất yếu,
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi
máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động tất yếu của
người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng đã tăng lên là 5 giờ,
vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ thủ công, vì
công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng sức lao động
nên bị hạn chế bởi khả năng sinh của con người, nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ
không gặp phải những hạn chế đó. thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất lao động
tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao
động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà
bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày
càng được nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học
công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử
loài người, khác với cuộc cách mạng khoa học dẫn đến sự hình thành các nguyên lý
công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ sản xuất như cách mạng khoa
học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang một nền văn
minh mới – nền văn minh trí tuệ.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là
cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu
được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã
hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng siêu ngạch là hiện tượng tạm thời,
sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo phạm vi toàn
xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì
vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật,
hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh
chóng. C.Mác gọi giá trị thặng siêu ngạch hình thức biến tướng của giá trị thặng
tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 phương pháp này đối với quá trình phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích tính chất của chủ
nghĩa bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng trong các danh
nghệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ
thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản
xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng
của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn
thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao
độngsản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất
lao động hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân
giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê tạo
ra, mục đích, kết quả hoạt động của bản, của giai cấp sản. Trong xã hội hội chủ
nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người công nhân không còn nữa, nhưng
không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại, mà giá trị thặng dư được sử dụng vào
mục đích khác không giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở,
tiền đề để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích
phát triển xã hội chủ nghĩa, vì con người. Không tách ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt
Nam vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ hàng đầu,
đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ quản kinh tếhội, từ sử dụng lao
động thủ công chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với công nghệ, phương
tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Thực chất công nghiệp hóa-
hiện đại hóa là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công
nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ
nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ
công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại đạt tới năng suất lao động
xã hội cao, tạo ra sự đổi mới trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực.
một nước tiến lên hội chủ nghĩa chưa không kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản. Vì
vậy, chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như
những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất
phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản
phẩm của lao động thừa vượt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng,
tích luỹ quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở
cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ
kích thích sự tiến bộ hơn nữa…”
Chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước
tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có sản xuất
hàng hoá. Cái thiếu của đất nước ta – theo cách nói của C. Mác không phải là và chủ
yếu cái đó, cái chính chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tếhội
theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt
đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ tạo ra
ngày càng nhiều giá trị thặng chúng biểu hiện những quan hệhội khác nhau.
Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn phải biết
rút ngắn những quá trình tất yếu mà chủ nghĩa bản đã phải trải qua và đang thực hiện
để có một nền kinh tế thị trường cực thịnh như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển
trải qua nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa hình thành và giá trị thặng dư cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao trong
sự phân công lao động, đặc biệt khi khoa học công nghệ phát triểnvận dụng ý thức,
rộng rãi vào sản xuất với quy mô chưa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và
chiếm đoạt giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự.
Nhưng đó cũng những giai đoạn của một quá trình lịch sử tự nhiên chúng ta chỉ
có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết
giá trị thặng dư của C.Mác.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần phương hướng khai thác và vận dụng
những tưởngcác nguyên của học thuyết giá trị thặng một cách hiệu quả để đạt
được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải phạm trù riêng của
chủ nghĩa bản và phạm trù giá trị thặng xét về mặt định lượng cũng vậy. Nó tồn tại
như là một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất
yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh
doanh; là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng nhất tăng năng suất của
lao động thặng dư.
Tuân thủ hai nguyên tắc bản của vốn khi đầu sử dụng nó. Đó nguyên
tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn
đầu tư sử dụng được tăng thêm giá trị.
Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
Vấn đề thu hồi giá trị thặng định hướnghội chủ nghĩa trong điều kiện cho
phép bóc lột giá trị thặng đã được Lênin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực
tiễn ở nước Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng
vào ngân sách nhà nước.
Nhà nước sử dụng giá trị thặng được điều tiết sao cho lợi đối với việc thực
hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản và uy tín đối với
hội.
Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu thế kỷ trước cũng khác nhiều so với
cách hiểu của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều
phương diện, song chúng ta không thể bỏ qua hai khía cạnh:
hội mới hội chủ nghĩa muốn giải phóng người công nhân từ người làm
thuê thành người làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản,
vốn. Do vậy, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai
cấp hữu sản. Thực tiễn đã diễn ra như vậy.
Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó
được quan niệm như một lực lượng lao động vận động theo hướng lao động trí tuệ
cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trưng của lao động sống.
Kết quả phát triển khả quan của Việt Nam cho thấy trong những năm vừa qua
nước ta đã xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng hướng
trong phát triển kinh tế, con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước là hoàn toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam phải
cố gắng nhiều hơn nữa thì mới thể đạt được mục tiêu tới năm 2025 nước ta bản trở
thành nước công nghiệp.
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho chúng ta
thấy rằng: Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, và thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá
trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao,
chấp nhận những khó khăn thử tháchvà hy sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợiđang cố
gắng.

Preview text:

Đề số 2: Phân tích 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 phương pháp này đối với quá trình phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay? BÀI LÀM
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong những phát kiến lớn nhất mà Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ nguyên
giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D. Ricardo cũng không
giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản vẫn thu
được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá, C. Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng trong quá trình sản
xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được
tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm
một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra
ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động, C. Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư liệu sản xuất,
nhưng không phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng hoá, là mối quan hệ sản
xuất giữa giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy,
cũng dễ hiểu khi mục đích của giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá
trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử dụng, vì giá trị sử
dụng là nội dung vật chất của hàng hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây cũng
là quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất
giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản và
thuộc sở hữu của nhà tư bản. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ
thể của mình công nhân lao động làm thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của
chúng vào hàng hoá, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị
sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử dụng vào
những mục đích khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua tư liệu sản xuất, để tái
mở rộng sản xuất nhằm đem lại nhiều sản xuất giá trị thặng dư của Chủ Nghĩa tư Bản.
Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng C. Mác đã
chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Mỗi một phương pháp mang
một đặc điểm, tính chất riêng, đặc trưng đại diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp
tư sản, cũng như từng giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Ở giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi khoa học kĩ thuật
còn thấp, tiến bộ vô cùng chậm chạo, trì trệ, thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị
thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân. Giai đoạn này, nền kinh tế sản xuất
chủ yếu dùng là lao động thủ công hoặc lao động với những máy móc giản đơn ở công
trường thủ công. Như vậy, có thể hiểu: giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu
được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất
lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Chẳng hạn,
nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng
dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động
thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối sẽ tăng từ 4 giờ
lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’= 6 giờ/ 4 giờ * 100%= 150%
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do
thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức
lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con
người. Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp,
người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra
sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật
chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh
thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản
đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới
của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động
thăng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao
động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn,
đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải
thì nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào sản xuất.
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp
phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất
tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm
cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương
thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bó lột giá trị thặng dư tương đối. Giá
trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu
bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được
quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên
muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động
xã hội cho các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động tất yếu,
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi
máy móc được thay đổi, ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động tất yếu của
người công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì
vậy tỷ suất thặng dư đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các công cụ thủ công, vì
công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng sức lao động
nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ
không gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất lao động
tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao
động, rút ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư
bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày
càng được nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học
công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử
loài người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự hình thành các nguyên lý
công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ sản xuất như cách mạng khoa
học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang một nền văn
minh mới – nền văn minh trí tuệ.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là
cái đích hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu
được do áp dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã
hội của nó. Xét trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời,
nó sẽ bị mất đi khi công nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo phạm vi toàn
xã hội thì đây một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì
vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật,
hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh
chóng. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở
tăng năng suất lao động.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 phương pháp này đối với quá trình phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ
nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng trong các danh
nghệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ
thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản
xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng
của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn
thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao
động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất
lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là
giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giá trị thặng dư là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê tạo
ra, là mục đích, kết quả hoạt động của tư bản, của giai cấp tư sản. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, việc bóc lột sức lao động không công của người công nhân không còn nữa, nhưng
không có nghĩa là giá trị thặng dư không tồn tại, mà giá trị thặng dư được sử dụng vào
mục đích khác không giống như giai cấp tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở,
tiền đề để xây dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, vì mục đích
phát triển xã hội chủ nghĩa, vì con người. Không tách ra khỏi xu hướng của xã hội, Việt
Nam vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư vào trong công cuộc xây dựng
đất nước, trong đó tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một nhiệm vụ hàng đầu,
đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với công nghệ, phương
tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Thực chất công nghiệp hóa-
hiện đại hóa là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công
nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ
nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ
công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại đạt tới năng suất lao động
xã hội cao, tạo ra sự đổi mới trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực.
Là một nước tiến lên xã hội chủ nghĩa chưa và không kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản. Vì
vậy, chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như
những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất
phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản
phẩm của lao động thừa vượt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng,
tích luỹ quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở
cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ
kích thích sự tiến bộ hơn nữa…”
Chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước
tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có sản xuất
hàng hoá. Cái thiếu của đất nước ta – theo cách nói của C. Mác – không phải là và chủ
yếu là cái đó, mà cái chính là chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội
theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt
đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ tạo ra
ngày càng nhiều giá trị thặng dư dù là chúng biểu hiện những quan hệ xã hội khác nhau.
Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải biết
rút ngắn những quá trình tất yếu mà chủ nghĩa tư bản đã phải trải qua và đang thực hiện
để có một nền kinh tế thị trường cực thịnh như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển
trải qua nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa hình thành và giá trị thặng dư cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao trong
sự phân công lao động, đặc biệt khi khoa học công nghệ phát triển và vận dụng có ý thức,
rộng rãi vào sản xuất với quy mô chưa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và
chiếm đoạt giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự.
Nhưng đó cũng là những giai đoạn của một quá trình lịch sử – tự nhiên mà chúng ta chỉ
có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết
giá trị thặng dư của C.Mác.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác và vận dụng
những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư một cách hiệu quả để đạt
được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải là phạm trù riêng có của
chủ nghĩa tư bản và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng vậy. Nó tồn tại
như là một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất
yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh
doanh; là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
– Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng suất của lao động thặng dư.
– Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó là nguyên
tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn
đầu tư sử dụng được tăng thêm giá trị.
– Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cho
phép bóc lột giá trị thặng dư đã được Lênin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực
tiễn ở nước Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
– Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư
vào ngân sách nhà nước.
– Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực
hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
– Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội.
– Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỷ trước cũng khác nhiều so với
cách hiểu của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều
phương diện, song chúng ta không thể bỏ qua hai khía cạnh:
– Xã hội mới – xã hội chủ nghĩa muốn giải phóng người công nhân từ người làm
thuê thành người làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản,
vốn. Do vậy, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai
cấp hữu sản. Thực tiễn đã diễn ra như vậy.
– Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó
được quan niệm như là một lực lượng lao động vận động theo hướng lao động có trí tuệ
cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trưng của lao động sống.
Kết quả phát triển khả quan của Việt Nam cho thấy trong những năm vừa qua
nước ta đã xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng hướng
trong phát triển kinh tế, con đường phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước là hoàn toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam phải
cố gắng nhiều hơn nữa thì mới có thể đạt được mục tiêu tới năm 2025 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp.
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho chúng ta
thấy rằng: Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, và thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá
trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao,
chấp nhận những khó khăn thử tháchvà hy sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợi và đang cố gắng.