











Preview text:
ĐỀ CƯƠNG LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc là những điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo trong các việc làm. Có
nghĩa là trong cuộc sống thường ngày, hoạt động của con người, hoạt động của các tổ chức
do con người xây dựng nên ( cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và
các tổ chức xã hội nghề nghiệp...). Khi con người và các tổ chức của con người hoạt động thì
phải tuân theo những điều cơ bản ( nguyên tắc) nằm ở trong các quy phạm xã hội là nội quy,
quy chế phong tục tập quán và các quy phạm xã hội khác biệt là các quy phạm pháp luật.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật có nội
dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Trong QLHCNN có những nguyên tắc định hướng cho tất cả các hoạt động
quản lý, người ta gọi đó là những nguyên tắc cơ bản và nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là
một trong số các nguyên tắc cơ bản trong QLHCNN.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi nhận trong điều 8 Hiến pháp 2013, là nguyên
tắc có sự kết hợp giữa tập trung và dân chủ. Tập trung là ghi nhận quyền quyết định của chủ
thể quản lý hoặc quyền quyết định của số đông nhằm bảo đảm sự quản lý, lãnh đạo thống
nhất và thông suốt. Dân chủ là phương thức để các cá nhân, tổ chức, các địa phương tham gia
ý kiến vào việc ra quyết định, dân chủ cho phép phát huy khả năng của mọi cá nhân, tổ chức,
giúp hoạt động quản lý ko bị chủ chủ quan, duy ý chí.
Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện ở các nội dung:
Thứ nhất, sự phục thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có quyền thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan
hành chính cùng cấp, như Quốc hội thành lập Chính phủ và quyết định việc tổ chức lại các
bộ, ngành. Trong hoạt động, các cơ quan hành chính luôn chịu sự giám sát và chỉ đạo của cơ
quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của hệ thống cơ quan mình
trước cơ quan quyền lực nhà nước. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm bảo đảm hoạt động của bộ
máy hành chính phù hợp với ý chí, lợi ích của nhân dân. Đồng thời, điều này thể hiện sự tập
trung quyền lực vào cơ quan do dân bầu ra, nhưng vẫn đảm bảo tính dân chủ khi trao quyền
chủ động, sáng tạo cho cơ quan hành chính trong việc thực thi pháp luật.
Thứ hai, sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương.
Sự phục tùng này nhằm đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo,
giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương nếu thiếu sự phục tùng này có thể dẫn
đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ ở địa phương. Sự phục tùng biểu hiện ở hai
phương diện tổ chức và hoạt động nghĩa là, tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và
trung ương đưa ra, cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Nhưng phải lưu ý
rằng đây không phải sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp
pháp dựa trên cơ sở quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cấp trên cũng cần lắng nghe, tôn
trọng ý kiến và tạo điều kiện để cấp dưới phát huy tính chủ động, sáng tạo trong các vấn đề
quản lý hành chính nhà nước, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và tránh tình trạng quan liêu, áp đặt.
Thứ ba, việc phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được
một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Khi tiến
hành phân cấp quản lý, đã có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp
trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm
quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp
mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao, mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những
hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của mình. Tuy nhiên, việc phân
cấp quản lý cũng cần đảm bảo một số yêu cầu nhất định như việc phân cấp quản lý phải đảm
bảo cho trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa chiến để
đảm bảo sự sự phát triển của toàn xã hội; mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, đơn vị
cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tọa trong hoạt động quản lý tránh ôm đồm đồng thời
cũng việc phân cấp quản lý cũng cần hợp lý, cụ thể trên cơ sở những quy định của pháp luật.
Thứ tư, hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý
tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực
thuộc. Các đơn vị này là tế bào của nền kinh tế, có quyền tự chủ sản xuất, được bảo hộ tài
sản hợp pháp và hỗ trợ về vật chất, tinh thần. Đồng thời, nhà nước quản lý thống nhất, chặt
chẽ nhằm thúc đẩy sự phát triển đúng định hướng.
Thứ năm, sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng. Ở địa phương, UBND các cấp
phụ thuộc vào HĐND cùng cấp (mối phụ thuộc ngang), UBND các cấp phụ thuộc vài cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc).
Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế
mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp
cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên
một hoạt động chung thống nhất. Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng nhằm đảm bảo sự thống
nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích lãnh thổ. .
Như vậy, từ những phân tích trên, ta thấy nguyên tắc tập trung là nền tảng cơ bản
trong tổ chức và hoạt động của quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc này bảo đảm sự kết
hợp hài hòa giữa quyền lực tập trung để lãnh đạo thống nhất và việc phát huy dân chủ, tính
chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, địa phương và cơ sở. Việc thực hiện đúng nguyên
tắc này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Nhà nước
đồng thời phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý xã hội.
Câu 2: Tính chất chấp hành, điều hành trong quản lý hành chính.
Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực
hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự
chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và
chỉ đạp một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và
hành chính – chính trị, nói cách khác đây là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước.
Chấp hành là tuân thủ pháp luật, tính chấp hành thể hiện ở mục đích của quản lý hành
chính nhà nước là đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan
quyền lực nhà nước. Mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều được tiến hành trên cơ
sở pháp luật và để thực hiện pháp luật.
Điều hành là việc tổ chức, chỉ đọa thực hiện pháp luật đưa pháp luật vào đời sống.
Tính chất điều hành của quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở chỗ, để đảm bảo cho các
văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện trên thực tế, các chủ
thể quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối
với các đối tượng quản lý thuộc thẩm quyền.
Hoạt động chấp hành thường đồng thời bao hàm điều hành, nói cách khác điều hành
là để chấp hành pháp luật tốt hơn. Ví dụ, để chấp hành luật Phòng, chống tham nhũng, phải
tổ chức thành lập Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham những, tiêu cực chỉ đạo các
bộ và các địa phương thành lập các ban tương tự và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra việc tổ
chức thực hiện các biện pháp phòng, chống tham những theo quy định của pháp luật trong bộ máy hành chính.
Như vậy, ta thấy tính chất chấp hành và điều hành là hai tính chất quan trọng trong
quản lý hành chính nhà nước, thể hiện vai trò tổ chức và chỉ đạo trực tiếp của NN trong việc
thực hiện pháp luật vào đời sống xã hội. Sự kết hợp giữa hai tính chấp hành và điều hành
đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm túc, naag cao hiệu quả quản lý của nhà nước trên
các lĩnh vực trong đời sống xã hội
Câu 3: Sự phục thuộc hai chiều
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà
nước. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa
bảo đảm sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự
lãnh đạo tập trung. Sự phụ thuộc hai chiều là một trong những biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ
thuộc này được thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể.
Ở địa phương, UBND các cấp trước hết phụ thuộc vào HĐND cùng cấp ( mối quan
hệ phụ thuộc ngang). Đồng thời, chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp ( mối quan hệ phụ thuộc dọc). Trong hoạt động,
UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và UBND cấp trên;
UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và Chính phủ.
Ví dụ: UBND thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm và báo cáo trước HĐND thành phố Hà Nội
(mối quan hệ phụ thuộc ngang) và Chính phủ ( mối quan hệ phụ thuộc dọc). Về tổ chức, kết
quả bầu các thành viên UBND phải được chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết
quả UBND cấp tỉnh phải được Thủ tưởng Chính phủ phê chuẩn
Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, thế mạnh
của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp
cho cấp trên có thể tập trung quyền lực Nhà nước để chỉ đạo hoạt động cấp dưới, tạo nên một
hoạt động chung thống nhất. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung
của cả nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích của ngành với lợi ích vùng lãnh thổ.
Nguyên tắc phụ thuộc 2 chiều này đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với
lợi ích của địa phương. Giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ.
Như vậy, sự phụ thuộc hai chiều trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước, góp phần bảo đảm sự thống nhất trong quản lý từ trung ương đến địa phương. Sự
kết hợp giữa mối quan hệ phụ thuộc ngang và dọc không chỉ tăng cường tính dân chủ và chủ
động của địa phương mà còn giúp Nhà nước điều hành hiệu quả, hài hòa giữa lợi ích quốc gia và địa phương.
Câu 4: Phân cấp quản lý
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà
nước. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa
bảo đảm sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự
lãnh đạo tập trung. Việc phân cấp quản lý là một trong những biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phân cấp quản lý được hiểu là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có sự phân định rõ ràng chức trách, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền được
giao, mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính
năng động, sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lý trong tập trung dân chủ chỉ được thực hiện khi phân cấp quản lý bảo
đảm những yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc phân cấp quản lý phải bảo đảm cho trung ương có quyền quyết dịnh
trong lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm bảo đảm sự phát triển cân
đối và hài hoà của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước
trong phạm vi toàn quốc. Ví dụ: Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về chương trình
sách giáo khoa cấp tiểu học và trung học nhằm bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất
tránh tình trạng mỗi tỉnh lại có chương trình học khác nhau.
Thứ hai, mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính
chủ động, tích cực và sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh
sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và
cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp bảo đảm tập
trung, tránh cho trung ương và cấp trên phải “ ôm đồm” nhiều các công việc mang tính sự
phụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở. Ví dụ: Trong lĩnh vực giao thông nông
thôn, thay vì để Bộ Giao thông vận tải hoặc UBND tỉnh trực tiếp quản lý và phê duyệt cho
các tất cả các dự án làm đường giao thông tại nông thôn thì Trung ương đã mạnh dạn phân
cấp cho UBND cấp huyện, xã tự chủ.
Thứ ba, việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở những quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy phân cấp quản lý giữa các cấp trong bộ máy quản lý hành chính
nhà nước là công việc rất phức tạp, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc độ khác
nhau. Do đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lý cần phải có những sự cân
nhắc, tính toán kỹ lưỡng, hợp lý, tránh đưa ra những quy định mang tính chung chung và
phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật.
Câu 5: Năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành
chính nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính giữa các cơ quan tổ
chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng
lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Năng lực chủ thể là khả năng pháp lý của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia vào
quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể quan hệ đó.
Năng lực chủ thể của cá nhân được biểu hiện trong tổng thể năng lực pháp luật hành
chính và năng lực hành vi hành chính.
Một là, năng lực pháp luật hành chính
Năng lực pháp luật hành chính là khả năng cá nhân được hưởng các quyền và phải thực hiện
các nghĩa vụ pháp lý hành chính nhất định do nhà nước quy định. Năng lực pháp luật hành
chính của cá nhân là thuộc tính pháp lý hành chính phản ánh địa vị pháp lý hành chính của cá
nhân. Do năng lực pháp luật hành chính của cá nhân hoàn toàn tùy thuộc vào những quy định
cụ thể của pháp luật nên năng lực này sẽ thay đổi khi pháp luật thay đổi và có thể bị nhà
nước hạn chế trong một số trường hợp. Ví dụ: người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt bổ
sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Hai là, năng lực hành vi hành chính
Năng lực hành vi hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân được nhà nước thừa nhận
mà với khả năng đó, họ có thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính,
đồng thời phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do những hành vi của mình mang
lại. Tùy thuộc vào tính chất, nội dung của từng loại quan hệ pháp luật hành chính cụ thể mà
nhà nước đòi hỏi cá nhân phải đáp ứng những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng sức
khỏe,… khi tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính nhằm đảm bảo hiệu lực của quản lý
và đề cao trách nhiệm trong quan hệ pháp luật. Ví dụ: cá nhân phải từ đủ 14 tuổi trở lên mới
có thể bị xử phạt hành chính.
Như vậy, đối với cá nhân thì thời điểm phát sinh năng lực pháp luật hành chính và
năng lực hành vi hành chính không giống nhau. Mặt khác, năng lực hành vi hành chính cá
nhân không chỉ phụ thuộc vào khả năng thực tế của cá nhân, mà nhiều khi còn phụ thuộc vào
cách thức nhà nước thừa nhận khả năng thực tế đó.
Câu 6: Vai trò tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức VN có mục đích
tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng lợi ích
chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Tổ chức xã hội có nhiều loại, có tổ chức xã hội được thành lập hoạt động vì một mục
đích chính trị, có tổ chức xã hội được thành lập hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người cung giới tính, độ tuổi, ngành nghề. Tuy nhiên, các tổ chức xã hội đều có những
vai trò chung nhất định. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội có vai trò quan
trọng đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
Đề cương của Minh Ánh đó đừng copy nha bồ tèo
Về chính trị, tổ chức xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân. Với vai trò hội tụ
sức mạnh đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tổ chức xã hội góp phần ổn
định chính trị, tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Tổ chức xã hội đại diện
cho nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, thay mặt cho quần chúng nhân dân thực
hiện quyền lực chính trị, đồng thời giúp cho từng cá nhân phát huy tích cực chính trị thông
qua việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật Nhà nước thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Ngoài vai trò về mặt chính trị, sự tồn tại và phát triển của tổ chức xã hội cũng có ý nghĩa
trong việc tăng cường khả năng hoạt động kinh tế - xã hội của công dân. Thông qua các tổ
chức xã hội, công dân có điều kiện hơn trong việc thực hiện và bảo vệ các quyền lợi ích chính đáng của mình.
Như vậy, các tổ chức xã hội luôn có một vai trò quan trọng nhất định đối với sự phát
triển đất nước. Không chỉ góp phần xây dựng xã hội tiến bộ mà còn đóng góp cho sự phát
triển bền vững, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nhờ đó, quá trình xây dựng đất nước và
hoàn thiện thể chế chính trị trở nên toàn diện và hiệu quả.
Câu 7: Địa vị pháp lý công dân VN
Địa vị pháp lý hành chính của công dân là vị trí của công dân trong mối quan hệ với
các chủ thể khác, trả lời câu hỏi công dân là ai, có nghĩa vụ gì trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước và phương thức để thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Quy chế pháp lý của công dân Việt Nam là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công
dân trong quản lý hành chính nhà nước.
Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, quốc tịch là 1 phạm trù chính trị
pháp lý thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, đồng thời quốc định còn xác định 1
cá nhân là công dân việt nam trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước ta
và công dân sống ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Thứ nhất, Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam ở trong lĩnh vực hành chính – chính trị.
Trong quản lý hành chính nhà nước, các quyền và nghĩa vụ về chính trị có ý nghĩa
xác định địa vị pháp lý của một công dân trong một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Quyền của công dân trong lĩnh vực hành chính – chính trị được ghi nhận tại các điều
từ 19 đến 31 Hiến pháp 2013, một số quyền có bản về chính trị, tự do cá nhân gồm: quyền
bầu cử, ứng cử vào cơ quan nhà nước; quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cần dân
ý; quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tín ngưỡng; quyền
tự do báo chí; tự do hội họp, lập hội, biểu tình, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền tự do đi lại trong nước,…
Nghĩa vụ của công dân được quy định tại các điều 44,45,46 Hiến pháp 2013, theo đó
công dân có các nghĩa vụ như: công dân có nghĩa vụ trung thành với tổ quốc, nghĩa vụ bảo
vệ tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, …
Quyền và nghĩa vụ của công dân trong quả lý hành chính là nền tảng để công dân
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý khác trong đời sống dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong đó, đặc biệt là quyền có quốc tịch trên đất nước mình.
Như vậy, quyền, nghĩa vụ về chính trị và tự do cá nhân của công dân trong quản lý
hành chính nhà nước luôn có sự gắn kết với nhau, bổ sung và tạo tiền đề cho nhau để thực
hiện một cách trọn vẹn các quyền, nghĩa vụ đó trong quản lý hành chính nhà nước. Trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước ngày càng được nâng cao đã góp phần tích cực vào việc
giải quyết những vấn đề có liên quan đến lợi ích của công dân, giữ vững được niềm tin của
công dân đối với nhà nước
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ trong đời sống xã hội
Một là, quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội
Quyền của công dân trong lĩnh vực kinh tế xã hội được quy định tại các điều 32, 33,
35 Hiến pháp 2013, theo đó công dân có một số quyền như quyền tự do kinh doanh, quyền,
quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp,…
Nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội được quy định tại điều
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Quốc hội ban hành các luật, Chính phủ ban
hành các nghị định, Bộ ban hành thông tư để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về các
lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trên cơ sở đó cơ quan hành chính có thẩm quyền triển khai, tổ chức
thực hiện các quy định của pháp luật đảm bảo cho công dân, cá nhân được thực hiện trong
thực tế các quyền và làm nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực kinh tế, xã hội như: quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh, …
Hai là, quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực văn hóa xã hội
Quyền của công dân trong lĩnh vực văn hóa xã hội được quy định tại điều 37, 38, 39,
40, 41 Hiến pháp 2013. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan nhà nước ban hành
các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền nhằm cụ thể hoá, chi tiết hóa các quy định cơ bản
của Hiến pháp quy định về lĩnh vực này. Dựa trên Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật
cơ quan hành chính nhà nước tổ chức đưa các quy định pháp luật vào thực tiễn giải quyết,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của cá nhân, công dân, tổ chức. Cụ thể:
+ Công dân, cá nhân được hưởng quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực học tập trong nước, nước
ngoài theo con đường tự chọn về ngành học, bậc học
+ Mọi người đều có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ sáng tạo văn học nghệ thuật và
các hoạt động văn hóa khác
+ Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa
+ Quyền được bảo vệ sức khỏe. Nhà nước đầu tư phát triển xây dựn các bệnh viện, đổi mới
trang thiết bị … phục vụ cho chẩn đoán sớm, chữa bệnh kịp thời
+ Công dân, cá nhân có nghĩa vụ bảo vệ di sản văn hóa, mọi công dân cá nhân, tổ chức phải
gánh chịu trách nhiệm pháp lý khi có những hành vi vi phạm quyền tác giả. Nhà nước
nghiêm cấm mọi hành vi tuyên truyền lối sống đồi trụy, vận chuyển tàng trữ những ấn phẩm
có nội dung không lành mạnh… Nếu cá nhân nào vi phạm tùy theo lỗi nặng nhẹ sẽ bị truy
cứu trách nhiệm pháp lý tương ứng.
Đề cương của Minh Ánh đó đừng copy nha bồ tèo
Câu 8: Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc trong lĩnh vực quản lý hành chính
Nguyên tắc là những điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo trong các việc làm. Có
nghĩa là trong cuộc sống thường ngày, hoạt động của con người, hoạt động của các tổ chức
do con người xây dựng nên ( cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và
các tổ chức xã hội nghề nghiệp...). Khi con người và các tổ chức của con người hoạt động thì
phải tuân theo những điều cơ bản ( nguyên tắc) nằm ở trong các quy phạm xã hội là nội quy,
quy chế phong tục tập quán và các quy phạm xã hội khác biệt là các quy phạm pháp luật.
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật có nội
dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Trong QLHCNN có những nguyên tắc định hướng cho tất cả các hoạt động
quản lý, người ta gọi đó là những nguyên tắc cơ bản và nguyên tắc bình đẳng các dân tộc
cũng là một trong số các nguyên tắc cơ bản trong QLHCNN.
Dân tộc theo quan điểm Mác – Lenin dân tộc (theo nghĩa rộng – quốc gia) Chỉ cộng
đồng người ổn định làm thành nhân dân 1 nước, có lãnh thổ riêng, có nền kinh tế thống nhất,
có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình
lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Còn theo nghĩa hẹp – tộc người là chỉ 1 cộng đồng
tộc người được hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý
thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa. Bình đẳng có nghĩa là mọi người được đối xử
như nhau về địa vị, quyền lợi, và các mặt khác, không phân biệt thành phần hay địa vị xã hội.
Như vậy, nguyên tắc này thể hiện các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam có
quyền bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và đều được
Nhà nước quan tâm, giúp đỡ về mọi mặt để phát huy tài năng, sức lực và trí tuệ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam (Bổ sung, phát triển năm 2011) và khoản 2 điều 5 Hiến pháp 2013 đã đặt
nền móng pháp lý cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
trong quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lý
hành chính nhà nước biểu hiện như sau:
Thứ nhất, trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ
Nhà nước có các chính sách ưu tiên đối với con em các dân tộc ít người, giúp đỡ về vật chất,
động viên, khuyến khích về tinh thần để họ tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt.
Trên cơ sở này, Nhà nước bao giờ cũng dành tỉ lệ nhất định số cán bộ, công chức là người
dân tộc trong biên chế của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan nhà nước hoạt động
trên địa bàn các khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, nơi có nhiều đồng bào các dân tộc ít
người sinh sống và có chính sách khuyến khích đối với những tình nguyện đến phục vụ tại
những khu vực này. Nguyên tắc tuyển dụng công chức hiện hành của nước ta đã xác định ưu
tiên tuyển chọn người dân tộc thiểu số. Chính sách này tạo khả năng quan trọng để đồng bào
các dân tộc ít người có điều kiện góp phần quyết định những vấn đề có liên quan tới quyền
và lợi ích chính đáng của họ cũng như các vấn đề quan trọng khác của đất nước hay từng địa phương.
Chính sách ưu tiên của Nhà nước trong công tác cán bộ ở khu vực miền núi, biên giới và hải
đảo còn thể hiện ở việc quy định chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với các cán bộ,
công chức làm việc khu vực này theo khoản 4 điều 53 Luật cán bộ, công chức năm 2008, sửa
đổi bổ sung 2019. Chính sách đãi ngộ này góp phần động viên, khuyến khích các cán bộ,
công chức ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình đẻ
góp phần đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.
Thứ hai, trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội
Nhà nước luôn quan tâm tới việc đưa ra những giải pháp, chính sách phù hợp để tạo điều
kiện phát triển mọi mặt đời sống của đồng bào các dân tộc ít người, cụ thể là:
+ Chú ý tới việc đầu tư xây dựng các công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng ở vùng
các dân tộc thiểu số, một mặt nhằm khai thác những tiềm năng kinh tế, mặt khác nhằm từng
bước xóa bỏ sự chênh lệch giữa các vùng trong cả nước , bảo đảm nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc ít người.
+ Nhà nước có các chinh sách đúng đắn đối với những người đi xây dựng vùng kinh tế mới,
có kế hoạch và thường xuyên tổ chức điều động, phân bố lao động tới các vùng dân tộc thiểu
số. Việc làm này không chỉ phân bố lại lao động một cách hợp lý mà còn tạo điều kiện thuận
lợi để các dân tộc ít người nâng cao trình độ.
Như vậy, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lý hành chính nhà nước là
cơ sở để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho đồng bào dân tộc, góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân. Thông qua các chính sách ưu tiên trong đào tạo, tuyển dụng và phát triển
kinh tế – xã hội, Nhà nước tạo điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Câu 9: Phân tích nguyên tắc trong lĩnh vực cụ thể là xử phạt vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên
Nguyên tắc là những điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo trong các việc làm. Có
nghĩa là trong cuộc sống thường ngày, hoạt động của con người, hoạt động của các tổ chức
do con người xây dựng nên ( cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và
các tổ chức xã hội nghề nghiệp...). Khi con người và các tổ chức của con người hoạt động thì
phải tuân theo những điều cơ bản ( nguyên tắc) nằm ở trong các quy phạm xã hội là nội quy,
quy chế phong tục tập quán và các quy phạm xã hội khác biệt là các quy phạm pháp luật.
Xử phạt vi phạm hành chính là hành vi của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các
quy định của pháp luật hiện hành quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối
với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi được quy định tại khoản 1
điều 21 Bộ luật dân sự 2015, tuy nhiên trong quan hệ pháp luật hành chính thì chỉ người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có năng lực chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật hành chính. Người chưa thành niên khi tham gia quan hệ pháp luật hành chính
được chia thành hai độ tuổi: độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên được quy định
tại điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi bổ sung 2022. Điều luật quy định 5
nguyên tắc riêng được áp dụng khi xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên,
ngoài ra các nguyên tắc chung quy định tại điều 3 của Luật này cũng phải được áp dụng xử
lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên. Việc quy định 5 nguyên tắc trên thể
hiện rõ chính sách xử lý VPHC đối với đối tượng đặc thù là người chưa thành niên. Các
nguyên tắc này chính là tư tưởng chủ đạo trong việc xử lý người chưa thành niên VPHC.
Nguyên tắc đã thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nói chung và của Luật XLVPHC
nói riêng, tính nhân đạo thể hiện:
+ việc xử phạt với mức nhẹ hơn người đã thành niên nếu cùng một loại hành vi vi phạm và
cùng tính chất, mức độ vi phạm
+ chỉ xử lý người chưa thành niên VPHC khi cần thiết (chứ không phải mọi vi phạm đều bị xử lý)
+ Bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên khi xem xét xử lý họ
+ Tôn trọng và bảo vệ bí mật riêng tư của người chưa thành niên trong quá trình xử lý hok.
Document Outline
- Câu 2: Tính chất chấp hành, điều hành trong quản lý hành chính.
- Câu 3: Sự phục thuộc hai chiều
- Câu 4: Phân cấp quản lý
- Câu 5: Năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật hành chính
- Câu 6: Vai trò tổ chức xã hội
- Câu 7: Địa vị pháp lý công dân VN
- Câu 8: Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc trong lĩnh vực quản lý hành chính
- Câu 9: Phân tích nguyên tắc trong lĩnh vực cụ thể là xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên