
















Preview text:
Mục lục
Lời mở đầu ....................................................................................................... 4
I. Các mô hình bảo hiến trên thế giới .............................................................. 5
1.1. Mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ ............................................................... 5
1.1.1. Cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến ở Hoa Kỳ ..................................... 5
1.1.2. Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến ở Hoa Kỳ ....................................... 5 1.1.3.
Cơ chế giám sát mang tính cụ thể ở Hoa Kỳ ................................. 6 1.1.4.
Cơ chế giám sát sau của Hoa Kỳ .................................................. 6
1.1.5. Hệ quả pháp lý đối với một đạo luật bị tuyên là vi hiến ở Hoa Kỳ ..... 7
1.2. Mô hình bảo hiến của Pháp ................................................................... 8
1.2.1. Cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến ở Pháp ......................................... 8
1.2.2. Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến ở Pháp ........................................... 8
1.2.3. Cơ chế giám sát mang tính trừu tượng ở Pháp .................................. 9
1.2.4. Cơ chế giám sát trước của Pháp ....................................................... 9
1.2.5. Hệ quả pháp lý đối với một đạo luật bị tuyên là vi hiến ở Pháp......... 9
II. Quá trình phát triển của cơ chế bảo hiến của Việt Nam ......................... 10
2.1. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1946.......................................... 10
2.2. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959.......................................... 11
2.3. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980.......................................... 11
2.4. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1992.......................................... 12
2.5. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013.......................................... 13
III. Đánh giá cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013.............................. 13
3.1. Ưu điểm ................................................................................................ 13
3.2 Hạn chế ................................................................................................. 14
IV. Đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt Nam hiện nay .................. 15
4.1. Nâng cao năng lực, trình độ lập pháp của Quốc hội. .......................... 15
4.2. Kiện toàn hệ thống kiểm soát ............................................................... 15
4.3. Hoàn thiện văn bản pháp lý tối cao - Hiến pháp .................................. 16
4.4. Cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp ............................................. 17 Lời mở đầu
Bảo hiến có thể hiểu đơn giản là bảo vệ Hiến pháp. Hoạt động bảo hiến dù với
hình thức hiến định nào cũng đều thực hiện những nhiệm vụ: bảo đảm sự ổn định và tối
cao của Hiến pháp, sự tuân thủ những mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà
nước, bảo vệ những quyền và tự do hiến định của con người. Dù theo mô hình nào thì
mục đích cuối cùng vẫn là bảo vệ Hiến pháp – đạo luật tối cao, bảo đảm Nhà nước pháp
quyền không có một mô hình bảo hiến nào là tối ưu và áp dụng cho tất cả các quốc gia.
Mỗi quốc gia, khu vực đều có những cơ chế bảo hiến hiệu quả, riêng biệt phù hợp với
tình hình chính trị, xã hội của quốc gia mình.
Việc áp dụng cơ chế bảo hiến nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn của Nhà
nước đó dựa trên tổng thể các yếu tố lịch sử, xã hội, kinh tế, chính trị đặc thù. Ở Việt
Nam, do yếu tố lịch sử, xã hội, kinh tế, chính trị có sự biến động trong từng thời kỳ mà
cơ chế bảo hiến trong từng giai đoạn là khác nhau.
Bài tiểu luận tập trung tìm hiểu cơ chế bảo hiến theo hiến pháp Việt Nam 2013,
về ưu điểm và những hạn chế còn tồn tại, từ đó đưa ra những đề xuất để góp phần hoàn
thiện hơn cơ chế bảo hiện Việt Nam hiện nay.
I. Các mô hình bảo hiến trên thế giới
Lý thuyết về bảo hiến thường chia các mô hình bảo hiến trên thế giới bằng cơ
quan tư pháp thành hai mô hình cơ bản là: mô hình bảo hiến phi tập trung với đại diện
tiêu biểu là Hoa Kỳ (Hoa Kỳ) và mô hình bảo hiến tập trung với đại diện tiêu biểu là Pháp.
1.1. Mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ
1.1.1. Cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến ở Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế giới trao cho các tòa án quyền phán quyết
về tính hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới luật. Trong toàn bộ Hiến pháp
Hoa Kỳ nhìn chung không có điều nào quy định trao cho Tòa án thẩm quyền tuyên bố
một đạo luật do Nghị viện ban hành là vi hiến. Việc tòa án được quyền phán quyết tính
hợp hiến của các văn bản luật và văn bản dưới luật được xác định từ năm 1803 sau vụ
án nổi tiếng của nước Hoa Kỳ – vụ án John Marbury chống Madison. Theo đó, cơ sở
hình thành cơ chế bảo hiến của Hoa Kỳ là từ án lệ.
Giải quyết vụ án Marbury và Madison, Chánh án Tòa án tối cáo John Marshall
đã đưa ra các tuyên bố sau: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước; những luật hay quyết
định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của Hiến pháp và không được
trái với Hiến pháp; thẩm phán, người đã từng tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên
bố hủy bỏ những luật lệ quy định nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp.
Ba tuyên bố trên đây đã xác lập chức năng bảo hiến của tòa án và quyền tài phán của
tòa án về các quyết định của lập pháp và hành pháp liên quan đến Hiến pháp.
1.1.2. Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến ở Hoa Kỳ
Bảo hiến ở Hoa Kỳ được thực hiện theo cơ chế giám sát tư pháp với mô hình phi
tập trung. Mô hình này theo hướng trao thẩm quyền trong giám sát việc bảo hiến cho
hệ thống các cơ quan Tòa án, kể cả Tòa án của các bang và hệ thống Tòa án liên bang.
Bất kỳ Tòa nào cũng có thẩm quyền phán quyết tính hợp hiến của một đạo luật nhưng
phán quyết của Tối cao pháp viện – cấp tòa cao nhất của hệ thống Tòa án Hoa Kỳ mới
có tính bắt buộc đối với các Tòa án còn lại.
Tính phi tập trung còn thể hiện ở việc xem xét một đạo luật có vi hiến hay không
chỉ được tiến hành khi đạo luật đó được áp dụng vào một vụ việc cụ thể, khi đó Tòa án
xét xử vụ việc đó mới thực hiện bảo hiến – tức tuyên bố đạo luật đó vi hiến. Như vậy,
tất cả các Tòa án ở Hoa Kỳ đều có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trong
một vụ việc cụ thể, họ phải áp dụng chúng và các Tòa án có quyền từ chối áp dụng
những đạo luật này khi thấy chúng không phù hợp với Hiến pháp. Thẩm quyền này của
Tòa án không được quy định trong Hiến pháp mà được hình thành từ chức năng giải
thích Hiến pháp được chánh án J. Marshall – Tối cao pháp viện sáng tạo ra năm 1803
sau vụ án Marbury kiện Madison. Tiền lệ này đã đặt nền tảng cho Hoa Kỳ về hoạt động
bảo hiến với đặc điểm chính là sự giám sát bảo hiến do chính các Tòa án có thẩm quyền chung thực hiện.
Ưu điểm của cơ chế bảo hiến theo mô hình phi tập trung là có nhiều cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động bảo hiến. Tất cả các Tòa án đều có thể tuyên bố một đạo
luật là vi hiến khi xem xét chúng trong một vụ việc cụ thể nên khả năng phát hiện và
tiếp cận sẽ dễ dàng. Thêm vào đó, do sự độc lập của nhánh tư pháp và của các Tòa thuộc
hệ thống Tòa án Liên bang và Tòa thuộc hệ thống Tòa án các tiểu bang nên sự ảnh
hưởng trong hoạt động của mỗi cơ quan hầu như rất hạn chế.
Nhược điểm của cơ chế giám sát này là do không có sự thống nhất trong hệ thống
nên dễ tạo ra tình trạng mâu thuẫn giữa các Tòa. Do cách giải thích Hiến pháp của các
Chánh án là khác nhau. Việc tìm kiếm thông tin liên quan cũng gặp nhiều khó khăn, rất
khó để tìm kiếm một cách nhanh chóng một đạo luật vì sao bị tuyên bố vi hiến theo
phán quyết của một Tòa án nào đó trong hệ thống Tòa án ở Hoa Kỳ. Hơn nữa, do Tòa
án nào cũng có thẩm quyền về bảo hiến nên đòi hỏi các Chánh án phải có trình độ
chuyên môn cao, được đào tạo bài bản, có hiểu biết sâu rộng về Hiến pháp Liên bang
để thực hiện tốt hoạt động bảo hiến.
1.1.3. Cơ chế giám sát mang tính cụ thể ở Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ hình thành hệ thống giám sát cụ thể. Quyền bảo hiến gắn liền với việc
giải quyết các vụ việc cụ thể. Tòa án sẽ xem xét áp dụng đạo luật đó hoặc từ chối áp
dụng khi đạo luật có dấu hiệu vi hiến. Chỉ có tòa án mới được xem xét tính bảo hiến
trong trường hợp có sự liên quan trực tiếp các quyền và lợi ích hợp pháp của người đề
nghị. Như vậy, tiền đề để quyền bảo hiến được tòa án xem xét tới và giải quyết là khi
có vụ kiện liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể.
Ưu điểm là cơ chế giám sát cụ thể luôn mang tính rõ ràng, thể hiện nội dung của
đạo luật có vi hiến một cách rõ ràng khi thi hành và áp dụng do nó được đặt trong một
vụ việc, một tranh chấp cụ thể.
Về nhược điểm, việc giám sát cụ thể lại dựa trên kiện tụng – tiền đề xem xét của
Tòa án về tính hợp hiến thì khả năng bao quát, cái nhìn toàn diện cho một đạo luật có
hợp hiến hay không luôn bị thu hẹp và phụ thuộc nhiều vào cách đánh giá, nhìn nhận
chủ quan của các Thẩm phán.
1.1.4. Cơ chế giám sát sau của Hoa Kỳ
Với cơ chế giám sát sau thì sau khi một đạo luật được ban hành bởi Nghị viện
thì đạo luật đó có hiệu lực. Tòa án tư pháp không có thẩm quyền tuyên bố hủy hay vô
hiệu một đạo luật đó dù nó có vi hiến. Đặc biệt, Tòa án chỉ được xem xét tính hợp hiến
khi đạo luật đó đã chính thức có hiệu lực pháp luật.
Cơ chế giám sát sau luôn được thể hiện một cách rõ ràng, khi mà những đạo luật
bị xem xét trong một trường hợp cụ thể, thể hiện được tăng cường cơ chế kìm chế, đối
trọng, nâng cao vai trò kiểm sát của tòa án đối với cơ quan lập pháp.
Tuy nhiên việc giám sát sau nếu không được kiện tụng thì nó mãi luôn là đạo
luật vi hiến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong một tương lai
gần. Không những vậy, việc giám sát sau đồng nghĩa với việc công dân đã bị thiệt hại
về quyền và lợi ích trên thực tế rồi mới được kiện tụng để xem xét tính hợp hiến của một đạo luật.
1.1.5. Hệ quả pháp lý đối với một đạo luật bị tuyên là vi hiến ở Hoa Kỳ
Đối với các hành vi bị Tòa án Hoa Kỳ tuyên bố là vi hiến, Tòa án không có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc phân quyền, cơ chế kiểm
soát và cân bằng quyền lực giữa 3 nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, không có nhánh
quyền lực nào chiếm ưu thế. Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện nên sửa đổi, bổ sung
cũng là thẩm quyền của Nghị viện chứ không phải cơ quan tư pháp. Do vậy, Tòa án
không có thẩm quyền hủy bỏ hiệu lực cũng như sửa đổi bổ sung đạo luật được phán xét là vi hiến.
Khi Tòa án tối cao ra một phán quyết tuyên bố hành vi lập pháp, hành pháp là vi
hiến thì Tòa án cấp dưới sẽ từ chối áp dụng hành vi vi hiến đó, từ đó hành vi vi hiến
không bị bãi bỏ nhưng cũng không còn phát sinh hiệu lực trên thực tế.
Do thủ tục xem xét hành vi lập pháp, hành pháp có vi hiến hay không là thủ tục
thông thường, được xem xét theo thủ tục Tố tụng dân sự hoặc Tố tụng hình sự tùy theo
tính chất vụ việc cụ thể, nên khi Tòa án đưa ra một phán quyết tuyên bố một hành vi
lập pháp, hành pháp vô hiệu thì phán quyết này không có giá trị chung thẩm mà có thể
bị kháng cáo, kháng nghị bởi một cơ quan cao hơn và bị cưỡng chế thi hành như là một vụ án thông thường.
Việc chỉ cho phép Tòa án phán quyết về một hành vi lập pháp, hành pháp vi hiến
mà không bãi bỏ sẽ giảm đi một quy trình không cần thiết và tốn thời gian bởi về mặt
nguyên tắc, phán quyết này tuy chỉ có giá trị pháp lý trong một vụ việc cụ thể nhưng lại
không thể được áp dụng bởi các tòa án cấp dưới. Đồng thời, việc cho phép cơ quan có
địa vị pháp lý cao hơn so với Tòa án đưa ra phán quyết có thể kháng cáo, kháng nghị sẽ
khắc phục được sai lầm của Tòa án cấp dưới trong việc đạo luật đó không vi hiến nhưng
lại bị tòa án phán quyết vi hiến, đảm bảo được quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vụ việc.
Tuy nhiên sẽ gây khó khăn trong việc nghiên cứu pháp luật và ảnh hưởng đến
khả năng tranh tụng của luật sư. Việc không bãi bỏ các hành vi lập pháp, hành pháp bị
phán quyết là vi hiến dễ dẫn đến tình trạng gây nhầm lẫn đối với các đối tượng muốn
nghiên cứu về hệ thống pháp luật Hoa Kỳ hoặc các luật sư muốn dùng án lệ để làm bằng
chứng phải tốn nhiều thời gian hơn để lọc bỏ bớt các vụ việc vi hiến. Việc cho phép
kháng cáo, kháng nghị của cơ quan cấp cao hơn đối với phán quyết vi hiến của Tòa án
sẽ làm giảm tính tối cao của Hiến pháp.
1.2. Mô hình bảo hiến của Pháp
1.2.1. Cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến ở Pháp
Hiến pháp ngày 04/10/1958 đánh dấu sự ra đời của nền Cộng hòa thứ V – chính
thể hiện hành của nước Pháp. Hiến pháp thiết lập chế độ Cộng hòa lưỡng tính dựa trên
chế độ Nghị viện hợp lý và xu hướng đề cao vai trò của Tổng thống. Lần đầu tiên, Hiến
pháp Pháp quy định việc thành lập một cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp – Hội
đồng Hiến pháp. Như vậy, cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến của Pháp là do Hiến pháp
quy định và trao cho Hội đồng bảo hiến của Cộng hòa Pháp được Tổng thống Charles
De Gaulle thành lập năm 1958 nhằm làm suy yếu Nghị viện, tăng cường quyền lực cho
Tổng thống Cộng hòa Pháp.
1.2.2. Chủ thể có thẩm quyền bảo hiến ở Pháp
Khác với mô hình giám sát bảo hiến phi tập trung của Hoa Kỳ – hoạt động bảo
hiến gắn liền với hệ thống Tòa án, mọi vụ việc về những vấn đề liên quan đến Hiến
pháp đều do các Tòa có thẩm quyền chung xem xét thì cơ chế bảo hiến ở Pháp được
thực hiện theo mô hình tập trung, tức là thẩm quyền thực hiện bảo hiến chỉ thuộc về
một cơ quan duy nhất là Hội đồng Hiến pháp – Conseil Constitutionnel (Hội đồng bảo
hiến), được thành lập với sự tham gia của nhóm hành pháp và lập pháp. Việc tham gia
của cả hai nhánh cơ quan quyền lực trên vào cơ quan bảo hiến chuyên trách này có thể
tránh được khả năng phải phục tùng một nhánh, điều này đảm bảo được sự độc lập của
Hội đồng Hiến pháp trong hoạt động giám sát các vấn đề hiến định của mình.
Ưu điểm là do Hội đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên trách về bảo hiến nên hoạt
động của cơ quan này luôn được xuyên suốt và không gặp trở ngại từ các cơ quan khác,
do đó, sẽ không xuất hiện tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong hoạt động bảo hiến
như ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, khi cần tìm kiếm thông tin liên quan đến vấn đề bảo hiến, chỉ
cần liên hệ với Hội đồng Hiến pháp.
Song, do tính chất chuyên trách nên cần phải có một Hội đồng Hiến pháp với cơ
cấu tổ chức chặt chẽ, đòi hỏi quy mô cả về cơ cấu tổ chức và chuyên môn nghiệp vụ
với các thành viên được đào tạo chuyên sâu, bài bản, có kiến thức sâu rộng về Hiến
pháp và áp lực công việc đối với việc bảo hiến là rất lớn do khối lượng công việc nhiều hơn.
1.2.3. Cơ chế giám sát mang tính trừu tượng ở Pháp
Ở Pháp hình thành cơ chế giám sát mang tính trừu tượng. Quyền bảo hiến gắn
liền với hoạt động giám sát trước khi công bố một đạo luật. Không cần tới một vụ kiện
cụ thể, việc giám sát tuân thủ Hiến pháp diễn ra khi đạo luật chưa được áp dụng trên
thực tế, việc tuyên bố một đạo luật là vi hiến cũng không dựa trên việc nó xâm phạm cụ
thể đến quyền lợi của chủ thể nào trong xã hội mà dựa trên hiến pháp và các nguyên tắc
có giá trị như hiến pháp, một đạo luật được xem xét tính hợp hiến bởi Hội đồng bảo
hiến hoặc Hội đồng hiến pháp. Từng tính chất hay nội dung được giám sát chung, tổng
quát dựa trên các lí do và cơ sở.
Hệ thống giám sát này luôn đi kèm với việc ban hành một đạo luật có hợp hiến
hay không, đảm bảo tính hợp hiến ngay từ khi có hiệu lực dựa trên hiến pháp.
Tuy nhiên cách đánh giá một đạo luật có hợp hiến hay không chỉ dừng lại ở mặt
lý thuyết, câu chữ, thiếu thực tế. Đạo luật bị hủy bỏ có thể vi hiến về mặt câu chữ nhưng
khi áp dụng trên thực tế thì hoàn toàn hợp hiến và vẫn đảm bảo được quyền và lợi ích
hơp pháp của các chủ thể.
1.2.4. Cơ chế giám sát trước của Pháp
Khi một đạo luật đã được Nghị viện thông qua, đang trong thời gian công bố và
các Điều ước quốc tế đang chờ phê chuẩn thì việc giám sát tính hợp hiến được thực hiện
bắt buộc đối với những đạo luật do Nghị viện ban hành trước khi có hiệu lực pháp luật;
không bắt buộc đối với những đạo luật khác. Tổng thư ký văn phòng Chính Phủ có trách
nhiệm kiểm tra các kiến nghị về việc xem xét tính hợp hiến trước khi ban hành.
Giám sát trước giúp cho đạo luật được hợp lý, đúng đắn hơn và không vi hiến,
tránh được tình trạng đạo luật vi hiến gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân rồi mới đươc xem xét, sửa đổi. Cơ chế giám sát trước thực hiện một cách
tương đối hình thức, bởi khi chưa có thực tiễn để nhận biết rõ đạo luật đó trên thực tế
có vi hiến hay không để sửa đổi hay xóa bỏ.
1.2.5. Hệ quả pháp lý đối với một đạo luật bị tuyên là vi hiến ở Pháp
Theo Điều 62 Hiến pháp 1958 của Cộng hòa Pháp thì khi một đạo luật bị Hội
đồng hiến pháp tuyên bố là vi hiến thì sẽ không được ban hành và áp dụng. Phán quyết
này của Hội đồng hiến pháp có giá trị chung thẩm, không bị khiếu nại hay kháng cáo,
kháng nghị và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước và tất
cả các cơ quan hành chính và tư pháp.
Đạo luật sau khi được Hội đồng hiến pháp tuyên bố là vi hiến hay hợp hiến sẽ
được thông qua bởi Nghị viên theo yêu cầu của Tổng thống.
II. Quá trình phát triển của cơ chế bảo hiến của Việt Nam
2.1. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta, ngắn gọn, súc tích, có
giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta. Do hoàn cảnh lịch sử, Hiến
pháp không được đưa ra trưng cầu dân ý trong toàn quốc nữa mà trở thành chính thức
từ ngày 9/11/1946, Quốc hội vốn là cơ quan lập hiến đã tiếp tục làm cả nhiệm vụ lập
hiến và lập pháp. Mặc dù Hiến pháp 1946 không quy định trực tiếp về hiệu lực tối cao
của Hiến pháp nhưng xét về bản chất pháp lí, nội dung quy định, về chủ thể và thủ tục
thông qua, sửa đổi Hiến pháp thì có thể thấy Hiến pháp 1946 là đạo luật cơ bản của nhà
nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất.
Hiến pháp năm 1946 có quy định chung về sự kiểm tra, giám sát hoạt động của
cơ quan công quyền nhưng không có quy định nào cụ thể, rõ ràng về việc kiểm tra, giám sát Hiến pháp:
Với luật của Nghị viện Điều 31 của Hiến pháp quy định những luật đã được Nghị
viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại.
Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ
tịch phải ban bố. Như vậy, dù không quy định trực tiếp về giám sát Hiến pháp nhưng
có thể thấy việc giám sát có thể được thực hiện thông qua Chủ tịch nước, Chủ tịch nước
có vai trò trong việc giám sát pháp luật, đặc trưng được học hỏi từ nguyên tắc tam quyền
phân lập, đây là điểm tiến bộ của Hiến pháp 1946, vai trò giám sát của Chủ tịch nước
đã được thể hiện, tuy nhiên, mặc dù bị Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nhưng nếu
Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố cho dù nó có thể trái với
Hiến pháp, đây có thể là điểm không hợp lí, quy định về quyền giám sát của Chủ tịch
nước vẫn còn yếu, quyết định vẫn nằm trong tay của Nghị viện.
Đối với sắc luật của Chính phủ, Điều 36 quy định khi Nghị viện không họp, Ban
thường vụ có quyền biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những sắc luật đó
phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ.
Tuy nhiên căn cứ để Nghị viện bãi bỏ các sắc luật này chưa được xác định rõ.
Khoản d Điều 52 Hiến pháp 1946 quy định quyền hạn của Chính phủ: Bãi bỏ
những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần. Như vậy, Chính phủ
giám sát hoạt động ban hành văn bản của cơ quan cấp dưới, tuy nhiên việc giám sát này
mang tính tùy nghi, vì nếu văn bản của cơ quan cấp dưới vi hiến nhưng chính phủ nhận
thấy không cần bãi bỏ thì văn bản đó vẫn được đưa vào thi hành.
Hiến pháp 1946 còn thể hiện sự tiến bộ ở việc trao cả quyền tham gia vào cơ chế
bảo hiến cho nhân dân khi quy định tại Điều 21 Hiến pháp 1946 nhân dân có quyền
phúc quyết về hiến pháp và những vấn đề khác quan trọng của đất nước theo Điều 32
và Điều 70. Theo đó, ngay cả quy trình sửa đổi Hiến pháp cũng phải được thông qua ý
kiến của người dân, nhằm đảm bảo việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp không trở nên tùy
tiện, bảo vệ hiệu lực tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, có thể thấy, cơ chế bảo hiến đã
phần nào được đề cập trong Hiến pháp 1946, tuy nhiên vẫn chưa rõ ràng và còn nhiều bất cập.
2.2. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp 1959 đã gián tiếp quy định Hiến pháp có hiệu lực pháp lí cao nhất,
nên đương nhiên luật, nghị quyết của quốc hội và các văn bản pháp luật của cơ quan
nhà nước khác ban hành không được trái với Hiến pháp.
Hiến pháp 1959 lần đầu tiên xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Điều 43). Điều 43, 44, 50 quy định:
“Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa”, là cơ quan duy nhất “có quyền lập pháp”, có quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp; làm pháp luật; giám sát việc thi hành Hiến pháp… của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa”. Cho thấy vị trí, vai trò của Quốc hội đã được tăng cường, được nâng
cao trong tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và đã thay đổi căn bản so với chế định
Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp 1946. Hiến pháp trực tiếp quy định Quốc hội có
quyền hạn quan trọng là: Giám sát việc thi hành Hiến pháp. Như vậy, cơ chế bảo hiến
đã được quy định một cách trực tiếp, quốc hội là cơ quan giám sát Hiến pháp, đây là
bước tiến của Hiến pháp 1959.
Bên cạnh đó, Hiến pháp quy định một loạt các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra,
giám sát, xử lí các văn bản, quyết định “không thích đáng” như Hội đồng chính phủ,
Hội đồng nhân dân nhưng chưa có giải thích cụ thể về “không thích đáng”.
Tóm lại, mặc dù đã quy định về cơ quan kiểm tra giám sát nhưng việc quy định
của Hiến pháp 1959 vẫn còn chung chung, không có cơ quan nào chuyên thực hiện việc
bảo hiến. Hơn nữa, quy định Quốc hội là cơ quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến
pháp chưa thực sự khách quan, trong khi Quốc hội là cơ quan nắm quyền lập pháp, để
quốc hội tự mình xử lí các văn bản mình ban hành vì lí do vi hiến không chắc bảo đảm
được tính khách quan, và vấn đề này rất khó thực hiện được trên thực tế.
2.3. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
Về chủ thể ban hành Hiến pháp thì Điều 82 Hiến pháp 1980 quy định “Quốc hội
là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Như vậy, bản Hiến pháp này tiếp
tục thừa nhận quyền lập hiến chỉ thuộc về Quốc hội, không còn có sự phân biệt giữa
Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp và đặt Quốc hội cao hơn Hiến pháp dù lần đầu
tiên quy định tại Điều 146 rằng “Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất”.
Đến thời điểm này Hiến pháp vẫn chưa trao quyền bãi bỏ văn bản pháp luật trái
hiến pháp cho Quốc hội, chỉ quy định thực hiện quyền kiểm tra giám sát tối cao hiến
pháp một cách rất chung chung và hình thức. Hơn nữa việc tiếp tục quy định hội đồng
nhà nước có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật nên bất cập vẫn còn tồn tại như trên,
không hề đề cập đến việc xử lý đối với pháp lệnh của hội đồng nhà nước trái hiến pháp.
Do Quốc hội vẫn là cơ quan giám sát hiến pháp tối cao và quyền giám sát này vẫn còn
chung chung nên cơ chế giám sát các văn bản từ hội đồng nhà nước và Quốc hội chắc chắn vẫn còn bỏ ngỏ.
2.4. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1992
Về chủ thể ban hành Điều 83 Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định “Quốc hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và cũng chưa có cơ chế xem xét tính
hợp hiến của các dự luật do Quốc hội ban hành.
Kế thừa Hiến pháp 1980 Điều 146 Hiến pháp 1992 quy định Hiến pháp là luật
cơ bản của nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù
hợp với Hiến pháp, nên mọi hành vi đều phải dựa trên Hiến pháp, tuân thủ Hiến pháp,
không được trái với Hiến pháp.
Về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp thì tiếp tục quy định chỉ Quốc hội mới có quyền
sửa đổi Hiến pháp, việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo Hiến pháp 1992 có sự tham gia khá
nhiều các chủ thể khác nhau từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội đến
Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, cơ quan chính quyền địa phương. Mỗi cơ quan được quy định cho
những quyền hạn nhất định trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình và được hiểu
là bắt nguồn từ Quốc hội, do sự phân công, phân nhiệm từ Quốc hội.
Ở thời kì này đã có sự quy định quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản theo khoản 9
Điều 84. Đây được xem là điểm tiến bộ vì đã giải quyết được bất cập đã được đề cập ở
các bản Hiến pháp trước.
2.5. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
Điều 119 Hiến pháp 2013 quy định về tính tối cao của Hiến pháp như: Hiến pháp
có hiệu lực pháp lý cao nhất; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp;
mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”.
Điều 119 Hiến pháp 2013 cũng quy định các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ Hiến
pháp gồm: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân.
Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến” chứ không quy
định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” như Điều 83 của Hiến pháp 1992.
Theo Hiến pháp 2013 vẫn không thành lập một cơ quan chuyên trách bảo vệ
Hiến pháp mà tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp như Hiến pháp 1992. Quốc
hội đóng vai trò kiểm soát và chi phối hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước kể cả
hoạt động giám sát Hiến pháp. Quốc hội giám sát, bảo vệ Hiến pháp thông qua những
quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống pháp luật quy định cơ chế bảo hiến Việt
Nam là hai cấp, thẩm quyền bảo hiến được trao rất nhiều cơ quan từ trung ương đến địa
phương. Ở trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Ủy ban pháp luật thuộc Quốc hội, bộ Tư pháp thuộc chính phủ đều
được trao thẩm quyền bảo hiến.
Bên cạnh đó, Điều 120 Hiến pháp 2013 quy định rộng hơn cơ hội cho nhân dân
tham gia vào quy trình lập hiến: “3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý
kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp.”
III. Đánh giá cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
3.1. Ưu điểm
Việt Nam lựa chọn cơ chế bảo hiến tập trung, và cơ chế này có những điểm phù
hợp với hệ thống pháp luật quốc gia hiện nay.
Về hoạt động giám sát, mô hình lấy nền tảng là Hiến pháp với sự hoạt động của
Quốc hội trong vấn đề kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc giám sát bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật là
sự phối hợp giữa nhiều cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà nước gồm Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, ngành. Cơ chế
được phân cấp quản lý nhà nước rõ ràng, sự phối hợp được ghi nhận mang tính đồng bộ cao.
Về cách thức xây dựng mô hình bảo hiến đảm bảo quyền lực nhà nước có sự
phân công, quyền lực của Quốc hội là quyền lực cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân vẫn được giữ vững. Trong giai đoạn xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật, tính hợp hiến và thống nhất được bảo đảm về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
ban hành cũng như nội dung và hình thức xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc
thực hiện nhiệm vụ bảo hiến đối với văn bản pháp luật giai đoạn này đuợc giao cho
nhiều đơn vị phối hợp thực hiện. Quy trình lập pháp thường được xây dựng theo trình
tự thủ tục khép kín, được các cơ quan tham gia có trách nhiệm đảm bảo tính hợp hiến,
hợp pháp với hệ thống pháp luật. Tính pháp lý của văn bản quy phạm trong hệ thống
pháp luật cũng đáp ứng yêu cầu của mô hình bảo hiến chuyên trách. 3.2 Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp nước ta cũng bộc
lộ những điểm bất cập trong quá trình hoạt động làm hạn chế bớt hiệu quả của công tác
bảo vệ sự toàn vẹn và bất khả xâm phạm của Hiến pháp.
Trước hết là ở phương diện giám sát, kiểm tra sự tuân thủ và thực thi Hiến pháp.
Hoạt động kiểm tra, giám sát sự tuân thủ, thực thi Hiến pháp được thực hiện thông qua
một cơ chế giám sát với quá nhiều chủ thể và nhiều trình tự, thủ tục làm hạn chế vai trò
giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời khiến cho hoạt động giám sát Hiến pháp không
đạt được hiệu quả mong đợi. Chẳng hạn việc cơ chế giám sát đã bỏ ngỏ khả năng giám
sát hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do
Quốc hội ban hành. Mặt khác, do hoạt động giám sát của Quốc hội chủ yếu thông qua
các cơ quan nhà nước bên dưới được Quốc hội ủy quyền nên không tránh khỏi tình
trạng Quốc hội không nắm được tình hình thực tế của công tác giám sát, không đi sâu,
đi sát vào những vấn đề nhức nhối liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
việc tuân thủ và thực thi nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật…Khiến cho hoạt động
giám sát của Quốc hội chưa thực sự phát huy hiệu quả cần thiết. Đó cũng là nguyên
nhân quan trọng khiến cho cơ chế nhà nước ta vẫn chưa phát huy được vai trò và sứ
mệnh bảo vệ Hiến pháp của mình.
Một điểm nữa liên quan đến tính hiệu quả trong hoạt động của cơ chế nhà nước
bảo vệ Hiến pháp ở nước ta là sự thiếu hoàn chỉnh của cơ chế giám sát tính hợp hiến
của các văn bản quy phạm pháp luật. Có thể nói cơ chế giám sát tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật nước ta chưa có cách tiếp cận đối với giám sát tính hợp hiến của các văn bản
pháp luật ở những khía cạnh khác nhau như: đối tượng chịu sự giám sát; chủ thể có
quyền đề nghị giám sát tính hợp hiến của các văn bản pháp lý; các dạng giám sát - giám
sát trước và giám sát sau, giám sát trừu tượng và giám sát cụ thể; hậu quả pháp lý của
giám sát bảo hiến - tính chất bắt buộc của phán quyết do cơ quan bảo hiến đưa ra là như
thế nào. Mặt khác, trong tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, thẩm quyền hủy bỏ đối
với các văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội được quy định một cách không thống nhất, và dàn trải cho nhiều cơ quan
khác nhau. Hơn nữa, các quy định pháp luật liên quan đến thẩm quyền bãi bỏ các văn
bản pháp luật có nội dung vi hiến, vi phạm pháp luật này chỉ dừng lại ở việc quy định
về mặt thẩm quyền của các chủ thể mà không chỉ rõ quy trình, thủ tục rõ ràng, cụ thể
để hoạt động này được thực hiện.
Trong số các hoạt động bảo vệ Hiến pháp được thực hiện bởi cơ chế nhà nước
bảo vệ Hiến pháp nước ta, hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thực sự vẫn
chưa đạt được hiệu quả cao và cũng chưa được chú trọng thực hiện. Hiến pháp chưa
mang lại sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Hiến pháp khi xây dựng còn
nhiều vấn đề chưa được chú trọng và làm sáng tỏ. Nhiệm vụ giải thích Hiến pháp cần
được giao cho cơ quan chuyên trách liên quan đến Hiến pháp thực hiện là đảm bảo tính hiệu quả.
Thêm vào đó, khi đề cập tới hiệu quả của hoạt động bảo hiến do cơ chế nhà nước
bảo vệ Hiến pháp đảm nhiệm trong thời gian qua, không thể không nhắc đến vai trò của
Tòa án nhân dân. Không thể phủ nhận tầm quan trọng của Tòa án trong việc góp phần
kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền lực hành pháp, cũng như việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm pháp chế và dân chủ ở mức độ cao trong
quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp và pháp luật giao phó. Nhưng bên
cạnh đó, sự tín nhiệm của người dân đối với công lý mà Tòa án đem lại chưa cao là điều
khiến cho chúng ta phải nhìn lại, nhất là đối với vai trò giải quyết các tranh chấp, vi
phạm Hiến pháp của Tòa án.
IV. Đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt Nam hiện nay.
4.1. Nâng cao năng lực, trình độ lập pháp của Quốc hội.
Nâng cao năng lực, trình độ lập pháp của Quốc hội. Đây là một giải pháp hết sức
quan trọng có tính quyết định đối với sự hoàn thiện của Hiến pháp và hệ thống pháp
luật nước ta, vì Quốc hội là cơ quan lập pháp và là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ban
hành Hiến pháp, đồng thời là nơi hàng năm cho ra đời một số lượng lớn các đạo luật,
nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng. Nếu năng lực lập pháp của
Quốc hội được tăng cường, cải thiện thì đương nhiên tính khả thi và hiệu quả của Hiến
pháp, các đạo luật và nghị quyết cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác sẽ
được nâng cao rõ rệt và ngược lại. Cùng với việc nâng cao năng lực giám sát của Quốc
hội và của các chủ thể giữ trọng trách.
4.2. Kiện toàn hệ thống kiểm soát
Kiểm soát nhà nước đối với quyền lực hành pháp cần phải chấn chỉnh lại hoạt
động của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, kiện toàn lại hệ thống kiểm
tra ngay trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó cần phải nâng cao
hơn nữa chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở nước ta, tạo điều kiện thuận
lợi để người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của họ. Không những phải chú trọng
kiểm soát nhà nước đối với quyền lực hành pháp, việc kiểm soát quyền lực tư pháp cũng
không thể coi nhẹ. Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 24 tháng 05 năm
2005 đã nhấn mạnh vào giải pháp cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, trong đó trọng tâm là hoạt động xét xử của tòa án theo chiến lược cải cách tư pháp.
Rõ ràng đây là giải pháp hết sức cần thiết nếu chúng ta muốn nâng cao chất lượng hoạt
động bảo vệ Hiến pháp nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp nói riêng.
4.3. Hoàn thiện văn bản pháp lý tối cao - Hiến pháp
Việt Nam đã xây dựng Hiến pháp thành văn và cũng đã tuyên bố về tính tối cao
trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp 2013 đã ghi nhận tại điều 119, chương XI về “Hiến
pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp
lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi
vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”. Những quy định trên đã thể hiện rõ giá trị tối cao của
Hiến pháp so với toàn bộ hệ thống pháp luật, đồng thời tạo nền tảng pháp lý để xây
dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp đã bước đầu đi
sâu vào hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước, công dân và các tổ chức. Mọi
hoạt động từ đơn giản hay phức tạp đều đã bắt đầu dự theo quy định của Hiến pháp.
Các văn bản quy phạm do các cơ quan trung ương hay địa phương ban hành đều đã
tham vấn rõ ràng quy định trong Hiến pháp, và đều trích dẫn những quy định của Hiến
pháp khi thấy cần thiết. Việc xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề của đất
nước đều được cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên nội dung của Hiến pháp mà
thực hiện. Nhân dân đã từng bước tham gia sửa đổi Hiến pháp, đóng góp ý kiến nhằm
tạo ra bản Hiến pháp mới thực sự của nhân dân. Đồng thời đã tìm hiểu và vận dụng
những quy định của Hiến pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hiến
pháp đã từng bước mang tính nền tảng cho mọi hoạt động và đã áp dụng khả thi vào thực tiễn cuộc sống.
Hiến pháp đã giảm tính hình thức đi rất nhiều, quyền lực của Hiến pháp là điều
đã được ghi nhận. Qua các thời kỳ, Hiến pháp ngày càng thể hiện được quyền năng của
mình trong sự giới hạn quyền lực, sự giới hạn thể hiện trong các quy định của Hiến
pháp tạo nền tảng cho việc thực hiện xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách bảo vệ
lợi ích của nhân dân, tránh những sự lạm quyền xuất hiện ở cơ quan nhà nước. Tính tối
cao của Hiến pháp chính là điều kiện cơ bản quan trọng nhất để có thể xây dựng cơ
quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta hiện nay.
4.4. Cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp
Để hoàn thiện cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp, nhất thiết phải tổ chức xây
dựng cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp chuyên trách ở nước ta. Cho đến nay, đây là
giải pháp tối ưu, đồng thời cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nhưng đến tận thời điểm
này, thiết chế bảo hiến chuyên trách vẫn chưa xuất hiện ở nước ta, một trong những lý
do đó là chúng ta chưa lựa chọn được mô hình bảo vệ Hiến pháp thích hợp. Trong đó
có hai ý kiến thể hiện sự bất hợp lý như không thể có một Ủy ban trong Quốc hội lại
được quyền phán xử những quyết định hay xem xét tính hợp hiến của các đạo luật, nghị
quyết do Quốc hội ban hành, càng không có thể một phân tòa trong hệ thống tòa án -
vốn chịu sự kiểm soát của Quốc hội lại đưa ra những phán quyết về tính hợp hiến trong
các văn bản do Quốc hội ban hành và giám sát tính hợp hiến trong các hoạt động của
Quốc hội, mặt khác, phương án này làm cồng kềnh thêm hệ thống tòa án nước ta, đi
ngược lại mục tiêu cải cách hành chính và cải cách tư pháp nước ta hiện nay. Tóm lại,
phương án tối ưu hơn cả là thành lập một thiết chế tài phán Hiến pháp độc lập dưới dạng
mô hình tòa án Hiến pháp. Kết luận
Tóm lại, hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, vai
trò của Hiến pháp vô cùng quan trọng, bởi Hiến pháp do nhân dân thiết lập, thể hiện
chủ quyền và ý chí của nhân dân. Cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp có tầm quan trọng
đặc biệt đối với hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Hiện nay ở nước ta hoạt động bảo hiến
được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó, chức năng bảo hiến
chủ yếu được thực hiện thông qua chức năng giám sát tối cao của Quốc hội và được
lồng ghép trong nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, hoạt động giám sát Hiến pháp được thực hiện thông qua một cơ chế
với quá nhiều chủ thể, nhiều thủ tục đã phần nào làm giảm vai trò giám sát tối cao của
Quốc hội, đồng thời làm hạn chế hiệu quả của giám sát Hiến pháp. Cơ chế bảo hiến theo
Hiến pháp 2013 của Việt Nam nhìn chung phù hợp với nhiều ưu điểm được bộc lộ
nhưng có thể thấy chưa phải là cơ chế bảo hiến tối ưu nhất và vẫn còn tồn tại những hạn
chế nhất định. Đòi hỏi nước ta phải tổ chức một thiết chế bảo hiến độc lập, đó có thể là
tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến. Trong thời gian tới, việc cho ra đời thiết chế
bảo hiến chuyên trách là nhiệm vụ cấp bách không thể trì hoãn ở Việt Nam. Đây không
chỉ là một bước ngoặt đối với chế độ bảo hiến Việt Nam mà còn là một bước tiến có ý
nghĩa nền tảng nâng cao hiệu quả bảo vệ Hiến pháp trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Hải Đường, Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ.
2. GS.TS. Thái Vĩnh Thắng & PGS.TS. Tô Văn Hòa, Giáo trình Luật Hiến pháp
Việt Nam, NXB Tư pháp 2019.
3. luatminhkhue.vn, 21/04/2023, Hiến pháp và các cơ chế bảo hiến tại Việt Nam
hiện nay, https://luatminhkhue.vn/hien-phap-va-cac-co-che-bao-hien-tai-viet- nam-hien-nay.aspx
4. luatminhkhue.vn, 21/04/2023, Mô hình bảo hiến ở Hoa Kỳ và Pháp là gì? So
sánh cơ chế bảo hiến ở Hoa Kỳ và Pháp, https://luatminhkhue.vn/mo-hinh-bao-
hien-o-hoa-ky-va-phap-la-gi-so-sanh-co-che-bao-hien-o-hoa-ky-va-phap.aspx
5. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
6. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
7. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
8. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
9. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
10. Trịnh Phương Thảo, Xây dựng các cơ chế nhà nước bảo vệ Hiến pháp ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ.
Document Outline
- Mục lục
- Lời mở đầu
- I. Các mô hình bảo hiến trên thế giới
- 1.1. Mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ
- 1.2. Mô hình bảo hiến của Pháp
- II. Quá trình phát triển của cơ chế bảo hiến của Việt Nam
- 2.1. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1946
- 2.2. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
- 2.3. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
- 2.4. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1992
- 2.5. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
- III. Đánh giá cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
- 3.1. Ưu điểm
- 3.2 Hạn chế
- IV. Đề xuất hoàn thiện cơ chế bảo hiến của Việt Nam hiện nay.
- 4.1. Nâng cao năng lực, trình độ lập pháp của Quốc hội.
- 4.2. Kiện toàn hệ thống kiểm soát
- 4.3. Hoàn thiện văn bản pháp lý tối cao - Hiến pháp
- 4.4. Cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp
- I. Các mô hình bảo hiến trên thế giới
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo