





Preview text:
CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
1. Đề nghị cho biết, pháp luật quy định như thế nào về quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội của công dân?
Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là một trong những quyền chính trị quan
trọng của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ
xã hội, thực hiện phương châm mọi công việc của Nhà nước, của xã hội “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là quyền của
công dân tham gia thảo luận vào các công việc chung của đất nước trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong phạm vi cả nước và trong từng địa phương; quyền kiến
nghị với các cơ quan nhà nước về xây dựng bộ máy nhà nước và xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội…
Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân Việt Nam đã thể hiện bản chất
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Điều 28 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ:
“1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến
nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.”
Như vậy, mọi công dân Viê ̣t Nam, đủ điều kiê ̣n theo quy định của pháp luâ ̣t, đều có
quyền tham gia vào viê ̣c xây dựng, bảo vê ̣ và quản lý đất nước. Đây là một quyền chính
trị rất đă ̣c biê ̣t, là cơ sở pháp lý quan trọng để nhân dân tham gia vào hoạt động của bộ
máy nhà nước, nhằm động viên phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn xã hội vào việc xây
dựng nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân.
2. Lý A Mỷ muốn tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhưng bị chồng là A
Tráng gạt đi với lý do: “ Là đàn bà con gái, lại là người dân tộc thiểu số, ai cho tham
gia quản lý nhà nước . Thôi bỏ đi, làm hòa giải viên ở bản Tà Pua này là đủ rồi”. A
Mỷ băn khoăn không biết pháp luật quy định như thế nào về quyền bình đẳng trong
việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội?
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đều có quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội, có quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân theo quy định của pháp luật, có quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước...
Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và
cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai
trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
Cũng theo quy định tại Điều 27, Điều 28 Hiến pháp năm 2013 thì công dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định. Công dân có quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân
tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý
kiến, kiến nghị của công dân.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Nhà nước ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội,
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các văn bản hướng dẫn thực hiện quy định
cách thức thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân của công dân.
3. Được sự tín nhiệm của người dân, bà X - chi hội trưởng Chi hội phụ nữ thôn đã
được bầu vào Hội đồng nhân dân xã. Bà rất vui mừng nhưng cũng lo lắng, băn
khoăn không biết với tư cách là đại biểu Hội đồng nhân dân - người đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa phương, bà X có trách nhiệm gì trước nhân dân?
Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên. Từ đó cho thấy, đại biểu Hội đồng nhân dân là nhân tố quan trọng quyết định chất
lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân. Với tư cách là người đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân ở địa phương, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm
được pháp luật quy định cụ thể như sau:
Khoản 1 Điều 115 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân
địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp
xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân, trả lời những
yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu
Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật,
chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham
gia quản lý nhà nước.”
Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 94, Điều 95 Luật tổ chức chính quyền địa phương quy định:
- Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu cử bầu ra
mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; thực hiện
chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của
mình và của Hội đồng nhân dân nơi mình là đại biểu, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
- Sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm báo cáo
với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, vận động và cùng với Nhân dân thực hiện các nghị quyết đó.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tiếp công dân theo quy định của pháp luật.
- Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có
trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông
báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải
quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Hội đồng nhân dân
về kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân trong thời hạn do pháp luật quy định.
- Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp
luật, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu Hội đồng nhân dân yêu
cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
4. Theo dõi truyền hình trực tiếp trên và vừa qua được tham dự buổi tiếp xúc cử tri
của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, tôi thấy đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân bầu ra mình và nhân dân cả nước, có trách nhiệm
hết sức nặng nề. Ngay sau kỳ họp Quốc hội vừa kết thúc, tôi thấy đoàn đại biểu
Quốc tỉnh X tổ chức họp tiếp xúc cử tri tại xã tôi. Vậy xin hỏi, tiếp xúc cử rtri có
phảo là trách nhiệm của Đại biểu Quốc hội đối với nhân dân?
Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đối với Nhân dân được quy định tại Điều 79 Hiến pháp năm 2013 như sau:
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu
cử ra mình và của Nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản
ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu
quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của
Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước
Nhân dân, Điều 27, Điều 28 Luật tổ chức Quốc hội quy định:
- Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên
tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung
thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; phổ biến
và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
- Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ở nơi ứng cử theo chương trình tiếp xúc cử tri của
Đoàn đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú, nơi làm việc; tiếp
xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà đại biểu quan tâm. Trong quá
trình tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm báo cáo với cử tri về hoạt động của
đại biểu và Quốc hội; cử tri hoặc đại diện cử tri ở đơn vị bầu cử có thể góp ý kiến với đại
biểu Quốc hội tại hội nghị cử tri do Đoàn đại biểu Quốc hội phối hợp với Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và chính quyền địa phương tổ chức trong trường hợp cần thiết.
- Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân theo quy định của pháp luật.
- Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, đại biểu Quốc hội có trách
nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho
người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết.
Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Quốc hội về kết quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
- Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị không đúng pháp
luật, đại biểu Quốc hội có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan
để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại; khi cần thiết, đại biểu Quốc hội yêu cầu người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó giải quyết.
Căn cứ quy định trên của pháp luật cho thấy, tiếp xúc của tri là một trong các trách nhiệm
của đại biểu Quốc hội.
5. Đề nghị cho biết, pháp luật quy định như thế nào về việc tham gia góp ý xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật của công dân? Tham gia quản lý nhà nước và xã hội là
một trong những quyền chính trị quan trọng của công dân. Người dân tham gia vào viê ̣c
quản lý nhà nước và xã hội dưới hai hình thức là: trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các
đại diê ̣n của mình do mình lựa chọn. Người dân có thể tham gia xây dựng các chính sách,
pháp luật thông qua đại biểu trong các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân),
các tổ chức chính trị - xã hội mà mình tham gia hoặc qua các phương tiện thông tin đại
chúng, nhưng cũng có thể tham gia ý kiến trực tiếp các vấn đề ở tầm quốc gia khi Nhà
nước tổ chức trưng cầu dân ý, hoặc trực tiếp quyết định các vấn đề ở cơ sở theo quy định
của pháp luật… Sự tham gia của nhân dân được thực hiện trong toàn bộ quá trình xây
dựng chính sách: từ các đề xuất sáng kiến ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây
dựng, quyết định và thi hành chính sách. Tuy nhiên, tùy vào tính chất của những chính
sách cụ thể mà người dân có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ khác nhau.
Cụ thể tại Điều 6 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2014 quy định, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức thành
viên khác của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức khác, cá nhân có quyền và được tạo điều
kiện góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo
và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá
nhân tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của
văn bản quy phạm pháp luật.
Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật phải được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản.
6. Xin cho biết, pháp luật quy định như thế nào về các biê ̣n pháp bảo đảm thực hiện
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội?
Việc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nuớc và xã hội đã
được ghi trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật
Phòng, chống tham nhũng, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… trong
đó quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt
động quản lý của Nhà nước như việc các đại biểu, các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận
và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng
góp vào các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội…
Theo khoản 6 Điều 96 Hiến pháp 2013 thì Chính phủ có nhiệm vụ: bảo vệ quyền và lợi
ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.."
Tiếp theo, khoản 2 Điều 27 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định, trong quá trình
tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm báo cáo với cử tri về hoạt động của đại
biểu và Quốc hội; cử tri hoặc đại diện cử tri ở đơn vị bầu cử có thể góp ý kiến với đại
biểu Quốc hội tại hội nghị cử tri do Đoàn đại biểu Quốc hội phối hợp với Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và chính quyền địa phương tổ chức trong trường hợp cần thiết..
Điều 8 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng quy định, trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình, cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân.
Theo Điều 6 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2007, năm 2012), trong trường hợp phát hiện có hành vi trái pháp luật của các cơ quan,
cán bộ, công chức nhà nước, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7. Đề nghị cho biết các trường hợp nào không tổ chức trưng cầu dân ý?
Theo Điều 9 Luật trưng cầu ý dân quy định các trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân như sau:
1. Không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân trong thời
hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố.
2. Không tổ chức trưng cầu ý dân trong thời gian ban bố tình trạng chiến tranh, tình trạng
khẩn cấp trong cả nước hoặc trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bãi bỏ tình trạng chiến
tranh, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước.
8. Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân?
Vấn đề bạn hỏi được quy định tại Điều 11 Luật trưng cầu ý dân; cụ thể như sau:
1. Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và
có hiệu lực kể từ ngày công bố.
2. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân.
3. Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm tổ chức và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh kết quả trưng cầu ý dân.
9. Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về các trường hợp không được ghi tên, bị
xóa tên, được bổ sung tên vào danh sách cử tri?
Theo quy định tại Điều 25 Luật trưng cầu ý dân, các trường hợp sau không được ghi tên,
bị xóa tên, được bổ sung tên vào danh sách cử tri:
1. Người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang phải chấp
hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.
2. Người đã có tên trong danh sách cử tri nếu đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị kết án tử
hình, phải chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo hoặc bị Tòa án tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự thì Ủy ban nhân dân cấp xã xóa tên người đó trong danh
sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.
3. Người thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 nêu trên nếu đến trước thời điểm bắt đầu
bỏ phiếu 24 giờ mà được trả tự do hoặc được Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri để bỏ phiếu trưng cầu ý dân.
4. Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu
24 giờ mà được trả tự do hoặc đã hết thời gian giáo dục bắt buộc, cai nghiện bắt buộc thì
được xóa tên trong danh sách cử tri tại nơi có trại tạm giam, nhà tạm giữ, nơi có cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và được bổ sung tên vào danh sách cử tri tại
nơi người đó đăng ký thường trú hoặc tạm trú, nhận thẻ cử tri để bỏ phiếu trưng cầu ý dân.
Document Outline
- CÂU HỎI TÌNH HUỐNG
- 2. Lý A Mỷ muốn tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã nhưng bị chồng là A Tráng gạt đi với lý do: “ Là đàn bà con gái, lại là người dân tộc thiểu số, ai cho tham gia quản lý nhà nước . Thôi bỏ đi, làm hòa giải viên ở bản Tà Pua này là đủ rồi”. A Mỷ ...
- 3. Được sự tín nhiệm của người dân, bà X - chi hội trưởng Chi hội phụ nữ thôn đã được bầu vào Hội đồng nhân dân xã. Bà rất vui mừng nhưng cũng lo lắng, băn khoăn không biết với tư cách là đại biểu Hội đồng nhân dân - người đại diện cho ý chí và nguyện...
- 4. Theo dõi truyền hình trực tiếp trên và vừa qua được tham dự buổi tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, tôi thấy đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân bầu ra mình và nhân dân cả nước, có trách nhiệm hết s...
- 6. Xin cho biết, pháp luật quy định như thế nào về các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội?
- 7. Đề nghị cho biết các trường hợp nào không tổ chức trưng cầu dân ý?
- 8. Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân?
- 9. Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về các trường hợp không được ghi tên, bị xóa tên, được bổ sung tên vào danh sách cử tri?