















Preview text:
Câu 1: Nhiều người cho rằng, có thể nhận diện hoạt động sản xuất công nghiệp theo nhiều
dấu hiệu khác nhau. Quan điểm của Anh/Chị về nhận định này như thế nào. Lấy các ví dụ
thực tiễn và các nội dung liên quan để minh chứng cho quan điểm của mình. Anh/Chị có thể
viết trong khoảng 500 từ.
Sản xuất công nghiệp là sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được chế tạo, chế biến,
chế tác, chế phẩm cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo cho cuộc
sống loài người trong sinh hoạt. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc
đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ về công nghệ, khoa học, kỹ thuật.
Có thể nhận diện hoạt động sản xuất công nghiệp theo nhiều dấu hiệu khác nhau, tuy nhiên có 2
nhóm dấu hiệu chính nhận biết hoạt động sản xuất công nghiệp là kỹ thuật sản xuất và kinh tế
- xã hội của sản xuất. Theo đó, từng nhóm dấu hiệu sẽ đi kèm với những đặc trưng khác
nhau, cụ thể như sau:
Các đặc trưng về kỹ thuật sản xuất của công nghiệp được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Về công nghệ sản xuất
Sản xuất công nghiệp chủ yếu sử dụng các phương pháp cơ học, lý học hoá học và quá trình
sinh học làm thay đổi hình dáng, kích thước và tính chất của nguyên liệu để tạo ra các sản phẩm
phục vụ sản xuất hoặc sinh hoạt
Ví dụ: Một vài phương pháp lý học được đưa vào công nghệ sản xuất ô tô tự lái đó là chế
tạo các loại cảm biến có độ nhạy cao, phản hồi nhanh và chính xác. Ngoài ra, các thuật toán
để điều khiển bánh lái trong quá trình xe di chuyển cũng được xây dựng trên các kiến thức cơ học.
- Về sự biến đổi của đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất
Sau mỗi giai đoạn của quá trình công nghệ, các đối tượng lao động - nguyên liệu của công
nghiệp có sự thay đổi về hình dáng, kích thước, tính chất. Trong sản xuất công nghiệp, từ một loại
nguyên liệu có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: Từ một loại nguyên liệu là gỗ, có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có giá trị khác nhau
như bàn, ghế, nhà, kiến trúc
- Về công dụng kinh tế của sản phẩm
Sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng hầu hết mọi nhu cầu của sản xuất và đời sống,
phát triển khoa học công nghệ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp là ngành kinh tế duy
nhất sản xuất các loại tư liệu lao động, từ những công cụ, dụng cụ thủ công đơn giản, tới hệ thống
máy móc có trình độ hiện đại.
Ví dụ: Các sản phẩm của ngành công nghiệp như ô tô, xe máy, quần áo, tủ lạnh, điện
thoại… đáp ứng được hầu hết nhu cầu của đời sống của mọi người.
- Về mức độ ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến quá trình sản xuất
Các ngành công nghiệp khác nhau chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên với những mức độ
khác nhau: các ngành công nghiệp khai thác chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên với mức độ lớn
hơn các ngành công nghiệp chế biển. Với sự phát triển khoa học công nghệ, công nghiệp có thể
phát triển mạnh ngay cả khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
Ví dụ: So với ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên nhiều thì ngành công
nghiệp trong đó có các nhà máy, xí nghiệp hầu hết đều sản xuất trong nhà nên ít bị ảnh hưởng bởi tự nhiên.
Các đặc trưng về kinh tế - xã hội của công nghiệp được biểu hiện trên những khía cạnh chủ
yếu sau đây:
- Về trình độ xã hội hoá sản xuất: Công nghiệp là ngành có trình độ xã hội hoá cao. Một sản phẩm
công nghiệp thường lập kết tinh lao động của nhiều đơn vị khác nhau, các đơn vị này có thể cùng
trong một tổ chức, hoặc thuộc những tổ chức khác nhau được phân bố ở những địa điểm khác nhau,
thậm chí ở các nước khác nhau. Sự liên kết giữa chúng, từ khâu nghiên cứu thiết kế sản phẩm, đến
khâu tiêu thụ sản phẩm và thực hiện những dịch vụ sau bán hàng tạo thành chuỗi liên kết có sự ràng
buộc chặt chẽ với nhau. Quan hệ liên kết này không chi được thực hiện giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, mà còn được thực hiện giữa các ngành khác nhau, không chi giữa các doanh
nghiệp trong phạm vi một nước, mà còn ở phạm vi giữa các nước.
- Về đội ngũ lao động: Do những đặc trưng về kỹ thuật sản xuất, công nghiệp đại diện cho phương
thức sản xuất mới, lao động công nghiệp có tư duy, tác phong và kỷ luật cao, nhanh nhạy với sự
thay đổi của môi trường và có những đổi mới mang tính cách mạng. Sự phát triển, mở rộng quy mô
và nâng cao trình độ phát triển công nghiệp, dẫn đến sự phát triển đội ngũ lao động công nghiệp cả
về mặt số lượng và chất lượng.
- Về quản lý công nghiệp: Do trình độ kỹ thuật của sản xuất ngày càng hiện đại, trình độ xã hội hoá
sản xuất ngày càng được nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, quản lý quá trình
sản xuất công nghiệp được thực hiện hết sức chặt chẽ và khoa học. Các phương pháp quản lý công
nghiệp ngày càng được hoàn thiện gắn liền với việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học
công nghệ và để bảo đảm thích ứng với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại. Các mô
hình và phương pháp quản lý công nghiệp thường được coi là hình mẫu cho đổi mới quản lý của
các ngành kinh tế quốc dân, trong đó có nông nghiệp.
Câu 2: Khối ngành công nghiệp có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam trong
những thập kỷ qua, đặc biệt là trong những năm gần đây. Anh/Chị có thể đưa ra những ví
dụ, những dẫn chứng về dữ liệu để làm rõ vấn đề này. Anh/Chị có thể viết trong khoảng 500 từ
Công nghiệp nắm giữ vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Thứ nhất, công nghiệp định hướng về tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý cho các ngành kinh tế quốc dân.
Trình độ tổ chức xã hội của sản xuất là một trong những biểu hiện cụ thể của sự phát triển lực
lượng sản xuất. So với nông nghiệp, sản xuất công nghiệp ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và nó
có điều kiện tự đổi mới, nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và phân công lao động. Đó chính là
những yếu tố cho phép công nghiệp đi đầu về tổ chức sản xuất xã hội, về phân công lao động xã
hội, về trình độ kỹ thuật và về quan hệ sản xuất theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Từ sự đi đầu đó, công nghiệp định hướng và chi
phối sự phát triển trình độ tổ chức sản xuất xã hội của các ngành ở chỗ:
- Vạch ra kiểu mẫu về tổ chức sản xuất và về phân công lao động xã hội nhằm bảo đảm hiệu
quả cao nhất vừa thích ứng với trình độ kỹ thuật được nâng cao, vừa thúc đẩy nâng cao trình độ kỹ
thuật của sản xuất. Chẳng hạn, thông qua quá trình tập trung hoá, chuyên môn hoá sản xuất của
mình, công nghiệp vừa tạo ra nhu cầu, vừa thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp theo hướng tập trung
chuyên canh, tạo nông sản hàng hoá với khối lượng lớn, chất lượng cao, chi phí thấp trên cơ sở ứng
dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ.
- Sự thay đổi về tổ chức sản xuất và phân công lao động xã hội được thúc đẩy bởi “mô hình
công nghiệp” tạo ra những điều kiện để ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến,
đồng thời cũng là những tác nhân thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong mỗi ngành kinh tế.
- Những thay đổi trên đây sẽ thúc đẩy sự thay đổi các mặt của quan hệ sản xuất, từ quan hệ
sở hữu, quan hệ quản lý đến quan hệ phân phối, nhằm đảm bảo sự “phù hợp” với trình độ ngày
càng được nâng cao và tính chất xã hội ngày càng được mở rộng của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, công nghiệp tạo những điều kiện vật chất để thực hiện yêu cầu trang bị và trang bị lại kỹ
thuật cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Vai trò này được thể hiện tập trung trên hai khía cạnh sau đầy:
- Phạm vi và trình độ trang bị kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân phụ thuộc trực tiếp
vào khả năng sản xuất của công nghiệp, trước hết là của một số ngành công nghiệp nặng chủ chốt
(cơ khí, điện năng, hoá chất...). Do trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp là ngành duy nhất sản
xuất và cung ứng các loại tư liệu sản xuất phục vụ thực hiện các nội dung của tiến bộ khoa học
công nghệ, nên sự phát triển của một số ngành công nghiệp nặng với trình độ kỹ thuật, quy mô và
cơ cấu hợp lý sẽ là điều kiện bảo đảm tốc độ và phạm vi thực hiện tiến bộ công nghệ trong các ngành kinh tế quốc dân.
- Công nghiệp hướng dẫn các ngành kinh tế sử dụng các điều kiện vật chất mà nó đã cung
ứng. Việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm vật chất của công nghiệp cho các ngành kinh tế quốc
dân mới chỉ là điều kiện cần, việc hướng dẫn sử dụng các sản phẩm vật chất ấy là điều kiện đủ để
chúng phát huy tác dụng trong việc tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự phát triển bền vững của từng ngành kinh tế.
Thứ ba, công nghiệp là nhân tố chủ yếu góp phần thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước.
- Sự phát triển rộng rãi công nghiệp trên cơ sở khai thác các nguồn lực và phát huy lợi thế
của mỗi vùng lãnh thổ, đẩy mạnh giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các vùng lãnh thổ sẽ tạo điều kiện
giảm dân sự chênh lệch về kinh tế và xã hội giữa các vùng của đất nước.
- Sự phát triển công nghiệp về quy mô, tốc độ và trình độ sẽ kéo theo sự gia tăng cả về số
lượng và chất lượng đội ngũ công nhân. Hơn nữa, việc sử dụng các sản phẩm và các phương pháp
công nghiệp trong các ngành kinh tế cũng làm thay đổi căn bản tính chất lao động của các ngành.
Những yếu tố đó đã làm thay đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng tiến bộ.
- Sự phát triển công nghiệp tập trung là hạt nhân kinh tế của việc hình thành các cụm dân
cư, các khu đô thị mới. Quá trình đô thị hoá, do vậy, được thực hiện một cách vững chắc, làm thay
đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước, tạo cơ sở giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành
thị, miền núi và miền xuôi.
Thứ tư, sự phát triển công nghiệp thúc đẩy sự thay đổi ý thức xã hội, tư duy và lối sống.
Vai trò của công nghiệp không chỉ thể hiện ở sự tác động đến mặt vật chất và kỹ thuật của đời sống
kinh tế - xã hội, mà còn tác động sâu sắc tới các mặt thuộc về ý thức xã hội.
Sự phát triển công nghiệp kéo theo sự phát triển của giai cấp công nhân công nghiệp. Từ đó, ý thức
hệ của giai cấp công nhân đại công nghiệp - giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới - sẽ trở thành ý thức hệ chủ đạo của hình thái kinh tế - xã hội mới.
Nền sản xuất công nghiệp với tính chặt chẽ và nghiêm ngặt của quá trình sản xuất là nơi đào luyện
con người về tính tổ chức kỷ luật, tư duy và tác phong trong lao động. Từ đó, phương pháp tư duy,
tính tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp sẽ thay thế cho phương pháp tư duy, phong cách làm
việc và lối sống theo kiểu tiểu nông gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp thủ công, lạc hậu và phân tán.
Trên đây là những nội dung tổng quát thể hiện vai trò chủ đạo của công nghiệp. Trong những quan
hệ kinh tế cụ thể, những nội dung ấy có những biểu hiện cụ thể khác nhau.
Ở những nước tiến hành công nghiệp hóa từ điểm xuất phát ban đầu là nền nông nghiệp lạc hậu,
phân tán, sản xuất nhỏ mang nặng tính chất tự cung tự cấp, công nghiệp có vai trò hết sức quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong đó, công
nghiệp tác động đèn giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trên các khía cạnh chủ yêu sau đây:
- Sản xuất và cung cấp các sản phẩm vật chất để thực hiện các nội dung của cách mạng khoa
học công nghệ trong nông nghiệp (thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, sinh học
hoá), góp phần trực tiếp thúc đẩy đưa nông nghiệp lên trình độ sản xuất lớn.
- Chế biến các sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp để một mặt, nâng cao giá trị sử dụng
của các sản phẩm ấy, mặt khác, thúc đẩy hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh với tỷ
suất nông sản hàng hoá cao, xóa bỏ tình trạng tự cung tự cấp.
- Công nghiệp sản xuất và cung ứng cho dân cư nông thôn các loại hàng hoá tiêu dùng, để
vừa góp phần cải thiện đời sống dân cư, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở nông thôn.
- Sự phát triển công nghiệp nông thôn, trong đó có các ngành nghề thù công nghiệp là
phương hướng quan trọng của việc thực hiện phân công lao động tại chỗ, chuyển lao động từ khu
vực có năng suất và thu nhập thấp sang khu vực có năng suất và thu nhập cao.
- Các doanh nghiệp công nghiệp còn trợ giúp việc đào tạo lao động nông thôn, cung cấp cho
hộ kỹ năng và nghề nghiệp cần thiết để sử dụng có hiệu quả các tư liệu sản xuất do công nghiệp
cung cấp, đồng thời tạo điều kiện tiền đề để chuyển sang các ngành nghề phải nông nghiệp.
Trong 10 năm qua, công nghiệp Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý sau: (chọn 1)
- Công nghiệp là ngành đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế. Bình quân giai đoạn 2006 –
2017, công nghiệp chiếm hơn 30% trong GDP của cả nước. Ngành công nghiệp cũng là ngành đóng
góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
- Sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao.Tổng giá trị sản xuất công nghiệp
tăng liên tục trong giai đoạn 2006 – 2017, giá trị gia tăng công nghiệp tăng bình quân 6,79%/năm.
Năm 2018, trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp tăng 8,79%, đóng góp
2,85 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực công nghiệp và
là động lực chính của tăng trưởng với mức tăng 12,98%, tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm
2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm 2012-2016<1>, đóng góp 2,55 điểm phần trăm
vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngành công nghiệp khai khoáng
tiếp tục xu hướng giảm theo định hướng tái cơ cấu chung (giảm 3,11%), làm giảm 0,23 điểm phần
trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng10,2%, vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đã được
đặt ra từ đầu năm (tăng 9%), tuy thấp hơn mức tăng 11,3% của năm 2017 nhưng cao hơn mức tăng
các năm 2012 – 2016<2>.Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng với tốc độ cao, phù hợp
với định hướng tái cơ cấu mô hình tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp.
- Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến,
chế tạo và giảm tỷ trọng của ngành khai khoáng, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành. Đóng
góp vào tăng trưởng GDP của công nghiệp chế biến, chế tạo liên tục tăng từ năm 2015. Tỷ trọng
GDP của nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 14,6% bình quân giai đoạn 2011 –
2015 lên 16,2% năm 2016, 17,4% năm 2017 và 18,3% ước cho năm 2018; của nhóm ngành khai
khoáng giảm từ 8,8% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 xuống 7,6% năm 2016, 6,6% năm 2017 và 6% ước cho năm 2018.
Câu 3: Một trong những công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước về công nghiệp là chính
sách phát triển công nghiệp; Anh/Chị dùng những ví dụ minh họa để minh chứng cho ý kiến
này. Anh/Chị có thể viết trong khoảng 500 từ.
*Mở đầu: Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế
*Vai trò và tầm quan trọng của công cụ trong quản lý nhà nước về công nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong xác định định
hướng và chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho mỗi quốc gia và khả năng quản lý điều hành
trong thực hiện hệ thống chính sách đã ban hành. Các công cụ của quản lý nhà nước với công
nghiệp là các phương tiện mà cơ quan quản lý nhà nước sử dụng để tác động đến các bộ phận khác
nhau của hệ thống công nghiệp nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát triển công nghiệp. Quản
lý nhà nước với hệ thống công nghiệp ngày nay không phải chỉ là quản lý quá trình sản xuất sản
phẩm mà còn phải là quản lý tổng thể các khâu công việc của quá trình tái sản xuất mở rộng, từ
nghiên cứu khoa học công nghệ, thiết kế sản phẩm và sản xuất sản phẩm, đến thiết lập hệ thống
phân phối sản phẩm và thực hiện các dịch vụ khách hàng. Chính vì vậy, chính sách phát triển công
nghiệp như một công cụ quan trọng để định hướng và điều tiết vĩ mô, thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp. Các công cụ của quản lý nhà nước với công nghiệp có thể kể đến như chính sách phát triển,
công cụ luật pháp, công cụ kế hoạch, công cụ tài chính (ngân sách nhà nước, thuế, tỷ giá hối đoái), doanh nghiệp nhà nước
*Vai trò và tầm quan trọng của chính sách phát triển công nghiệp
Chính sách phát triển công nghiệp là sự cụ thể hóa các chủ chương, hoạt động của Đảng về
phát triển công nghiệp, là công cụ phối hợp hoạt động của các bộ phận hợp thành hệ thống công
nghiệp hướng vào thực hiện mục tiêu chung của công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Có thể kể đến các chính sách chính sách phát triển các thành phần kinh tế trong công nghiệp; chính
sách phát triển khoa học công nghệ; chính sách huy động và bảo đảm các nguồn lực cho phát triển
công nghiệp (nguồn nhân lực, nguồn vốn, hợp tác quốc tế...). Chính sách phát triển công nghiệp
không phải chỉ thể hiện định hướng phát triển của bản thân công nghiệp, mà còn thể hiện định
hướng phát triển của các ngành, các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân theo mô hình, phong
cách của công nghiệp, bảo đảm cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân những điều
kiện vật chất để thực hiện mục tiêu ấy. Tóm lại, chính sách phát triển công nghiệp có vai trò đặc
biệt quan trọng trong quản lý nhà nước để đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững của từng ngành công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
*Minh chứng bằng ví dụ
Để hiện thực hóa các mục tiêu trong ngành công nghiệp, Ban Chấp hành Trung ương đề ra
08 định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, cụ thể:
+ Phân bố không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp;
+ Phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên;
+ Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công nghiệp;
+ Phát triển doanh nghiệp công nghiệp;
+ Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp;
+ Khoa học và công nghệ cho phát triển công nghiệp;
+ Khai thác tài nguyên, khoáng sản và chính sách bảo vệ môi trường, thích ứng với
biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển công nghiệp;
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và triển khai thực hiện chính
sách phát triển công nghiệp quốc gia
Có thể thấy sự tác động đến các chính sách phát triển trên đều được biểu hiện qua 3 cơ chế:
dẫn dắt - kích thích - cưỡng chế của Nhà nước. Có nghĩa là Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây
dựng và hoàn thiện thể chế cho phát triển công nghiệp, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh công
nghiệp thuận lợi, ổn định, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh. Bên cạnh đó, thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để
giải phóng sức sản xuất trong công nghiệp.
Câu 4: Các nhà kinh tế thường sử dụng hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sản xuất
công nghiệp. Quan điểm của Anh/Chị về vấn đề này là như thế nào và sử dụng những ví dụ
điển hình để minh chứng cho quan điểm của mình. Anh/Chị viết trong khoảng 500 từ
Hiệu quả sản xuất là tình trạng nền kinh tế hoặc một hệ thống kinh tế (ví dụ: ngân hàng,
bệnh viện, khu công nghiệp, quốc gia) hoạt động với sự ràng buộc của công nghệ hiện tại và không
thể tăng sản xuất một mặt hàng mà không cần phải hy sinh sản xuất của hàng hoá khác. Hiệu quả
sản xuất là một khía cạnh của hiệu quả kinh tế tập trung vào việc làm thế nào để tối đa hóa sản
lượng của một danh mục sản phẩm đã chọn mà không cần quan tâm đến việc liệu danh mục sản
phẩm của đó có đang tạo ra hàng hóa theo đúng tỷ lệ hay không; khi ứng dụng sai lệch, nó sẽ làm
cho việc sản xuất sai sản phẩm đầu ra nhanh hơn và rẻ hơn bao giờ hết.
Hiệu quả sản xuất của một ngành đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải hoạt động bằng các
quy trình quản lý và công nghệ thực tiễn tốt nhất và không có sự phân bổ lại nhằm mang lại nhiều
sản lượng hơn với cùng một đầu vào và cùng một công nghệ sản xuất. Bằng cách cải thiện các quy
trình này, một nền kinh tế hoặc một doanh nghiệp có thể mở rộng lĩnh vực khả năng sản xuất của
mình ra bên ngoài, để sản xuất hiệu quả mang lại nhiều sản lượng hơn trước đây.
Các nhà nghiên cứu thường sử dụng hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sản xuất công
nghiệp. Đây là một điều hoàn toàn tất yếu, và cần thiết.
Mặc dù hiệu quả sản xuất được các nhà nghiên cứu đưa ra theo các khía cạnh khác nhau ví
dụ Jain và cộng sự (2014) cho rằng, hiệu quả sản xuất gồm có bốn thông số đo lường, đó là: chi
phí, độ tin cậy, tối ưu nguồn lực (utilization), và chất lượng. Trong đó, chi phí cho biết tính kinh
tế của quá trình sản xuất; độ tin cậy là xác suất của một sản phẩm chứng tỏ công dụng của nó và
không bị lỗi trong một khoảng thời gian công bố với những điều kiện cụ thể; tối ưu nguồn lực là
sản xuất sản lượng tối đa trong một khoản thời gian tối thiểu với máy móc thiết bị hiện có; và chất
lượng là sự đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng. Hay Porter (1980) và Hallgren (2007) lại cho
rằng, hiệu quả sản xuất bao gồm hiệu quả chất lượng, hiệu quả thời gian đáp ứng sản phẩm cho
khách hàng, hiệu quả của sự linh hoạt trong sản xuất, và hiệu quả chi phí. Tuy nhiên trên thực tế,
việc đưa ra hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá là hoàn toàn phù hợp. Hiệu quả sản xuất công nghiệp
phải được đánh giá trên nhiều mặt của ngành kể cả chi phí, lợi nhuận, doanh thu hay cả thời hạn thu hồi vốn,...
Bên cạnh đó, việc dựa vào những chỉ tiêu cụ thể để đánh giá sẽ giúp cho mọi người nói
chung và các nhà nghiên cứu nói riêng có cái nhìn tổng quan ban đầu tốt hơn khi hướng vào một
ngành công nghiệp bất kì.
Hơn nữa, hiệu quả sản xuất công nghiệp là kết quả của hoạt động sản xuất của con người, là kết quả
cuối cùng của các hoạt động sản xuất công nghiệp, giúp cho công nghiệp tồn tại và phát triển, các
chỉ tiêu đó giúp các nhà kinh tế có thể phân tích, thay đổi phương án làm việc kịp thời cũng như
định hướng sản xuất công nghiệp một cách rõ ràng.
Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu cho phép thấy được chỉ số sản xuất công nghiệp. Ta thấy
được việc nghiên cứu và tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp là đòi hỏi tất yếu và để
dễ dàng thì sử dụng hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sản xuất công nghiệp là duy nhất để
chúng ta có thể làm được.
Ví dụ Theo Vũ Thị Kim Oanh(2021) khi đánh giá hiệu quả sản xuất của ngành dệt may xuất
khẩu, có thể sử dụng những chỉ tiêu như Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (BEP), Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu (ROS), Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), Thu nhập một cổ phần thường
(EPS). Và từ những chỉ tiêu đó, tác giả đã đưa ra được kết luận và hàm ý về tình hình chung của
ngành và những tác động đến ngành.
Câu 5: Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng có thể phân tích chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp
để làm rõ những đặc trưng của ngành này. Ý kiến của Anh/Chị như thế nào; đưa những ví dụ
thực tiễn để minh họa cho ý kiến đó. Anh/Chị viết trong khoảng 500 từ.
*Chuỗi giá trị và phân tích chuỗi giá trị
- Chuỗi giá trị (Michael Porter) là chuỗi của các hoạt động của một công ty hoạt động trong một ngành cụ thể.
- Chuỗi giá trị là tập hợp những hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm hoặc một dịch vụ
từ lúc còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau (bao gồm một kết hợp
giữa sự biến đổi vật chất và đầu vào các dịch vụ sản xuất khác nhau), đến khi phân phối đến
tay người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng. (Raphael Kaplinsky và Mike Morris)
Như vậy có thể hiểu về chuỗi giá trị là tập hợp các giá trị được tạo ra từ các giai đoạn của
quá trình sản xuất một sản phẩm hay dịch vụ, từ khâu nghiên cứu phát triển, thiết kế, cung cấp đầu
vào, sản xuất, marketing và phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng. Nếu một chuỗi giá trị của một
sản phẩm hay dịch vụ diễn ra qua nhiều nước trên phạm vi toàn cầu thì chuỗi giá trị đó được gọi là
chuỗi giá trị toàn cầu.
Phân tích chuỗi giá trị là một cách để ngành/ doanh nghiệp phân tích các hoạt động mà họ
thực hiện để tạo ra một sản phẩm.
*Đặc trưng ngành công nghiệp biểu hiện qua phân tích chuỗi giá trị
- Sản xuất công nghiệp bao gồm nhiều giai đoạn phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ thuật và quá trình
sản xuất đòi hỏi tập trung cao độ để tạo ra khối lượng vật chất lớn
- Sản xuất công nghiệp bao gồm nhiều ngành phức tạp, được phân công tỉ mỉ và có sự phối
hợp giữa nhiều ngành để tạo ra sản phẩm cuối cùng
- Sản xuất công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo điều kiện
khai thác hiệu quả nguồn vốn, tạo khả năng mở rộng sản xuất, thị trường lao động
- Sản xuất công nghiệp là chỉ tiêu để đánh giá trình độ phát triển của một đất nước.
*Ví dụ thực tiễn: Chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp dệt may
Ngành dệt may là một minh họa kinh điển của chuỗi giá trị, việc tạo ra sản phẩm cuối cùng
phải qua nhiều công đoạn và hoạt động sản xuất thường được tiến hành ở nhiều nước (trong trường
hợp của ngành dệt may toàn cầu). Trong đó các nhà sản xuất với thương hiệu nổi tiếng, các nhà
buôn, nhà bán lẻ lớn đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập mạng lưới sản xuất và định hình việc
tiêu thụ hàng loạt thông qua các thương hiệu mạnh và sự phụ thuộc của chúng vào những chiến
lược thuê gia công toàn cầu nhằm thỏa mãn nhu cầu này.
Câu 6: Viết nhận định của Anh/Chị về sản xuất công nghiệp Việt Nam năm 2021 dựa
trên những số liệu sau:
Chỉ số sản xuất công nghiệp (Index of Industrial Production - IIP) Đơn vị: %
Tháng 12 năm 2021 so Tháng 12/2021
với tháng 12 năm gốc so với Tên ngành 2015 tháng 11/2021 (t1) (t2) Toàn ngành công nghiệp 165,7 103,5 Khai khoáng 79,4 100,4
Công nghiệp chế biến, chế tạo 183,5 104,2
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước 173,7 100,5
nóng, hơi nước và điều hoà không khí
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý 148,2 102,4 rác thải, nước thải
Ví dụ: Tháng 12/21 so với tháng 12 gốc thì nó là =165.7 so với năm 2015
Tăng thì tăng 65.7
Gấp thì gấp 1.657 BÀI LÀM
Ngành công nghiệp luôn giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và
vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Công
nghiệp định hướng về tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý cho các ngành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp còn tạo những điều kiện vật chất để thực hiện yêu cầu trang bị và trang bị lại
kỹ thuật cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp là nhân tố chủ yếu góp phần
thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển công nghiệp thúc đẩy
sự thay đổi ý thức xã hội, tư duy và lối sống.
Các nhóm ngành công nghiệp khai khoáng; công nghiệp chế biến, chế tạo; công
nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí;
công nghiệp cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; mỗi ngành công
nghiệp đều đóng một vai trò nhất định để đáp ứng xu hướng chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp nhiều thành phần là một trong những nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng đóng vai trò cung cấp
các nguyên liệu để sản xuất ra các loại vật liệu tiên tiến, đặc biệt là các kim loại quý hiếm
và các kim loại giá trị cao, phục vụ nền Công nghiệp 4.0. Ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo là động lực dẫn dắt nền kinh tế tăng trưởng, thay thế cho ngành nông nghiệp đang ngày
càng giảm tỷ trọng trong tổng sản phẩm trong nước, giúp nền kinh tế tránh khỏi nguy cơ tụt
hậu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí là các hoạt động sản xuất điện năng
như nhiệt điện, điện hạt nhân, tua bin khí,.. với số lượng lớn; sản xuất khí đốt, phân phối khí
tự nhiên cho mục đích cung cấp khí đốt. Về ngành cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử
lý rác thải, nước thải giúp khai thác, xử lý và phân phối nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
Dựa vào vai trò của toàn ngành công nghiệp nói chung và vai trò của bốn ngành
công nghiệp nói riêng theo dữ liệu bảng đã cho ta có thể đánh giá về sản xuất công nghiệp
Việt Nam năm 2021 thông qua chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) - chỉ tiêu đánh giá tốc độ
phát triển sản xuất ngành công nghiệp hàng tháng, quý, năm. Chỉ số được tính dựa trên khối
lượng sản phẩm sản xuất, nên còn được gọi là “chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp”.
Nhận định một cách khát quát, tháng 12/2021 so với tháng 12/2015, chỉ số sản xuất
công nghiệp (IIP) toàn ngành tăng 65.7%. Cụ thể, ba ngành công nghiệp chế biến, chế tạo;
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nước, hơi nước và điều hòa không khí; cung cấp
nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải nước thải lần lượt tăng 83.5%, 73,7% và 48,2%
trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng dẫn đầu và ngành công nghiệp
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa khí đứng thứ 2 (gấp
1,737 lần). Trong khi đó, ngành công nghiệp khai kháng khoáng lại giảm 20,6% so với cùng kì 6 năm trước đây
Nhìn vào những con số thống kê ta có thể lý giải được xu hướng dẫn đầu của công
nghiệp chế biến chế tạo, tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất cho khu vực công nghiệp và tác
động lan tỏa tổng thể đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến đang
thay thế cho ngành nông nghiệp ngày càng giảm tỷ trọng trong tổng sản phẩm trong nước,
giúp nền kinh tế tránh khỏi nguy cơ tụt hậu và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Công
nghiệp chế biến, chế tạo cũng là ngành tạo ra nguồn cung việc làm dài hạn và thu nhập ổn
định. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong nước phụ thuộc nhiều vào
việc nhập khẩu nguyên vật liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị sản xuất, khiến
cho hoạt động sản xuất trong nước thiếu tự chủ, dễ tổn thương bởi các biến động chính trị -
kinh tế - xã hội trên thế giới và trong khu vực. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của
Việt Nam đã có sự phát triển tích cực, đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận và thể hiện
vai trò quan trọng tạo nền tảng phát triển kinh tế. Trong một số ngành, trình độ của công
nghiệp chế biến, chế tạo đã dần tiệm cận với tiến bộ khoa học – công nghệ trên thế giới, đáp
ứng được nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu sang thị trường nhiều nước có yêu
cầu chất lượng sản phẩm nghiêm ngặt.
Nguyên nhân được cho là chủ yếu khiến IIP ngành khai khoáng giảm nhiều so
với 6 năm trước là tác động tiêu cực đến môi trường mà chưa có cách khắc phục hiệu quả
cũng như nguồn lực khoáng sản có hạn. Cụ thể, mặc dù là ngành công nghiệp có vai trò
trong CNH, HĐH ở VN, các chuyên gia khoáng sản đánh giá, Việt Nam không có tiềm
năng lớn về khoáng sản do không đủ trữ lượng để khai thác lâu dài và điều kiện khai thác
khó khăn. Bên cạnh đó, hoạt động khai thác tại các mỏ khoáng sản của Việt Nam làm ảnh
hưởng đến nhiều mặt kinh tế – xã hội. Khai thác khoáng sản là một trong những nguyên
nhân tác động nghiêm trọng đến môi trường.
Tháng 12/2021 so với tháng trước đó, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn ngành
tăng 3.5%. Đồng thời, các ngành công nghiệp cũng có chỉ số IIP tăng nhẹ từ mức 0,4% đến
4,2%. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn tăng trưởng dẫn đầu về chỉ số này, thêm
vào đó, chúng ta đã thấy bước phục hồi của ngành công nghiệp khai khai khoáng ở thời
điểm này so với thời điểm cách đây 6 năm trước.
Ở góc độ đối chiếu khác cho thấy, mặc dù so với 2015, chỉ số IIP tháng 12/2021
ngành sản xuất & phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có
mức tăng cao hơn (gấp 1,5 lần) ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải, lần lượt là 73,7% và 48,2%. Tuy nhiên, chỉ số IIP 2 ngành này vào 12/2021 so
với 1 tháng trước đó thì ngược lại, đổi vị trí cho nhau. Tức là chỉ số IIP ngành cung cung
cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng gấp 4,8 (xấp xỉ 5) lần ngành
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí. Dù vậy,
hai ngành ngày đều đóng góp tăng trưởng dương cho IIP toàn ngành. Dù trong thời kỳ nào
thì tầm quan trọng cũng như hoạt động sản xuất, cung cấp của hai ngành ngày cũng rất
đáng kể. Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn xã hội.
Ngoài ra, theo Tổng cục Thống kê, trong 4 tháng đầu năm năm 2021, ngành sản xuất và
phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí thu hút gần 5 tỉ USD
tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đây như là một bước đệm giúp tăng
trưởng ngành trong giai đoạn tiếp theo và qua đó minh chứng rằng ngành công nghiệp này
có nước ta có rất nhiều tiềm năng phát triển. Bên cạnh đó, mặc dù ngành cung cấp nước và
xử lý rác thải nước có xu hướng tăng về chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) cũng như đạt
những kết quả nhất định nhưng vẫn tồn tại vấn đề bất cập khi phải cân bằng giữa việc bảo
vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội.
Bình luận thêm về giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp năm 2021 ước tính tăng
4,82% so với năm trước (quý I tăng 6,44%; quý II tăng 11,18%; quý III giảm 4,4%; quý IV
tăng 6,52%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37% (quý I tăng 8,9%;
quý II tăng 13,35%; quý III giảm 4,09%; quý IV tăng 7,96%), đóng góp 1,61 điểm phần
trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện
tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử
lý rác thải, nước thải tăng 4%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm
6,21% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm 5,7% và khí đốt tự nhiên giảm 19,4%), làm
giảm 0,23 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
⇒ Nói tóm lại, dựa vào những số liệu trên, nhận định rằng chỉ số sản xuất công
nghiệp ở toàn ngành và bốn nhóm ngành nhìn chung đều có xu hướng gia tăng (có những
thời kỳ tăng trưởng âm) để ngành công nghiệp có thể đóng góp ngân sách lớn nhất vào
GDP quốc gia. Trong đó sự tăng trưởng rõ rệt của ngành công nghiệp chế biến chế tạo đóng
góp cao nhất trong GDP về giá trị gia tăng, tạo tiền đề và nền tảng cho quá trình phát triển
công nghiệp, hiện đại hóa đất nước. Những năm qua, nếu so sánh toàn bộ nền kinh tế, trong
ngành công nghiệp nói chung, lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo nói riêng có sức bứt
phá mạnh nhất. Bên cạnh đó, ngành ngành sản xuất & phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí cũng đã cho thấy những tiềm năng nhất định khi thu hút
được hơn 50% tổng số FDI. Tuy nhiên cũng không thể bỏ qua những vấn đề nhức nhối mà
bối cảnh Covid 19 đem lại nhiều hậu quả cho nền kinh tế - xã hội, đặc biệt là ngành công
nghiệp bị trì trệ có thể thấy ảnh hưởng nặng nề nhất là nhóm ngành khai khoáng khiến cho
ngành phát triển chậm hơn so với vai trò đáng phải gánh vác đối với cơ cấu dịch chuyển
chung của ngành. Ngành công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải dù đạt được những kết quả nhất định và nhu cầu, tiềm năng sử dụng nước sạch
ngày càng nâng cao nhưng vấn đề về chi phí vận hành và sự cân bằng giữa phát triển kinh tế
- xã hội và bảo vệ môi trường vẫn đang là bài toán khó giải. Để phát huy thêm vai trò, khắc
phục điểm hạn chế định hướng tái cấu trúc ngành công nghiệp theo hướng hiện đại ngày
càng trở nên quan trọng trong điều kiện thế giới hướng đến cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII định hướng, trong giai đoạn
2021-2025, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp, phấn đấu đạt tỷ trọng công
nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP tăng lên mức 25%. Tập trung phát triển mạnh công
nghiệp chế biến, chế tạo gắn với công nghệ thông minh; chú trọng phát triển công nghiệp xanh.