



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61470371
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC Mục lục:
CÂU 1:Vấn đề cơ bản của triết học 3 *Triết học là gì? 3
*Vấn đề cơ bản của triết học là gì? 4
*Vai trò của triết học: 5
* Liên hệ với đời sống vật chất và đời sống tinh thần của sinh viên hiện nay: 6
Câu 2.Vật chất và ý thức 6 *Vật chất 6
*Vận động(phương thức tồn tại của vật chất) 8 *Ý thức 10
Câu 3. 2 nguyên lý cơ bản16 a,Nguyên lý phát triển 16
b,Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 21 *Liên hệ
Vn với các quốc gia trên thế giới 21
Câu 4.Cặp phạm trù 23 a, Cặp phạm trù chung riêng
23 b, cặp phạm trù nguyên nhân kết quả
26 Câu5. Quy luật lượng
chất,ql phủ định30 a, QL lượng,chất 30 b,quy luật phủ định 34
*Vận dụng nội dung quy luật phủ định của phủ y của VN trong việc lựa chọn con đường đi lên CNXH 37
Câu 6.Thực tiễn và vai trò của thực tiễn 38 a,Thực tiễn 38
b, Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức39 c, Liên hệ thực tiễn hiện nay về việc xây
dựng bộ máy chính quyền của nước ta 40
Câu 7.Sản xuất vật chất và vai trò 41
a, Sản xuất vật chất 42
b, Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của của xã hội loài người 42
Câu 8. Quan hệ biện chứng LLSX và QHSX 42
a, Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất 42
b, Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 43
c,Liên hệ, vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta 45 lOMoAR cPSD| 61470371
Câu 9.Biện chứng CSHT và KTTT 46
a, Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 46 b, Mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 47 c,Liên hệ, vận dụng mối
quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta 48
d.Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc hạ tầng ở nước ta hiện nay 48
Câu 10.Nguồn gốc,bản chất của nhà nước 49 a,Nguồn gốc 50 b, Bản chất của nhà
nước 51 c,Liên hệ đến Nhà nước Việt Nam51 Câu 11.Tồn tại xã hội và YTXH 52 a,
Tồn tại xã hội 52 b,Ý thức xã hội 53
c, Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? 54
3.Ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội 56
Câu 12. Bản chất con người theo quan điểm của Mác-Lênin 57 a, Con
người là thực thể sinh học –xã hội58 b,Con người là sản phẩm của lịch sử và
của chính bản thân con người 58 c,Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa
là sản phẩm của lịch sử. 59
d,“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 60
* Ý nghĩa trong việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay 60
CÂU 1:Vấn đề cơ bản của triết học
*Triết học là gì?
-Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng
từ thế kỉ VIII đến thế kỉ VI trước CN):
+ Ở phương Đông, theo quan niệm của người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc là
chữ “triết”, dựa theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là trí, ám chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu
sắc của con người về thế giới và về đạo lý làm người.
+ Theo quan niệm của người Ấn Độ, triết học được gọi là Darshara, có nghĩa là chiêm
ngưỡng, nhưng với hàm ý là sự hiểu biết dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt
con người đến lẽ phải.
+ Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp được gọi là
philosophia, có nghĩa là yêu mến (philo) sự thông thái (sophia). Ở đây, khi nói tới triết học,
tới philosophia, người Hy Lạp cổ đại không chỉ muốn nói tới sự hiểu biết sâu sắc về nhiều
lĩnh vực tri thức ở tầm cao nhất (tức sự thông thái) mà còn thể hiện khát vọng vươn tới tầm
cao nhận thức đó. Đối với người Hy Lạp cổ đại, triết học chính là hình thái cao nhất của tri
thức. Nhà triết học là nhà thông thái, là người có khả năng tiếp cận chân lý, làm sáng tỏ
bản chất của sự vật. Có thể thấy rằng, khái niệm “triết”, “triết học” dù ở phương Đông hay
phương Tây đều bao hàm hai yếu tố: đó là yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ và con lOMoAR cPSD| 61470371
người, sự giải thích thế giới bằng một khả năng tư duy lôgic nhất định) và yếu tố nhận định
(sự đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động tương ứng).
+Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới. - Triết
học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách
là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
+ Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được
cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
+ Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên
cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời. -
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra
đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó
có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
*Vấn đề cơ bản của triết học là gì? -
Triết học cũng như những khoa học khác
phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan
với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng
là nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết
những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. -
Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi
triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là
vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn
tại”(VC&YT).Sở dĩ gọi vấn đề quan hệ giữa
ý thức và vật chất, tư duy và tồn tại là vấn đề
cơ bản của triết học vì:
+Thứ nhất, đây chính là vấn đề liên quan trực tiếp tới vấn đề quan hệ giữa linh hồn
của con người với thể xác mà ngay từ thời cổ xưa con người đã đặt ra. Chính từ việc giải
thích những giấc mơ, người xưa đi tới quan niệm về sự tách rời giữa linh hồn và thể xác,
về sự bất tử của linh hồn. Từ đó nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con người với thế
giới bên ngoài. Khi triết học ra đời với tư cách lý luận về thế giới và về quan hệ giữa con
người với thế giới thì nó không thể không giải quyết vấn đề này.
+Thứ hai, suy cho cùng, tất cả các hiện tượng xảy ra trong thế giới đều có thể quy về
một trong hai mảng hiện tượng lớn nhất trong thế giới - hoặc nó thuộc mảng hiện tượng
vật chất, hoặc nó thuộc mảng hiện tượng tinh thần. Vấn đề quan hệ giữa tinh thần và vật
chất, hay giữa tư duy và tồn tại chính là vấn đề quan hệ giữa hai mảng hiện tượng lớn nhất
này trong thế giới. Triết học với tư cách lý luận chung nhất về thế giới không thể không đề
cập, giải quyết quan hệ giữa chúng. Điều đó được biểu hiện ở chỗ, tất cả các học thuyết
triết học, dù chúng có sự khác nhau như thế nào thì cũng phải trả lời các câu hỏi như: Tư lOMoAR cPSD| 61470371
duy con người có quan hệ thế nào với sự vật bên ngoài? Thế giới được tạo ra trong đầu óc
con người có quan hệ thế nào với thế giới tồn tại bên ngoài đầu óc con người? Tư duy con
người có khả năng hiểu biết được tồn tại bên ngoài hay không? v.v.. +Thứ ba, vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất được coi là vấn đề cơ bản hay tối
cao của triết học còn vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết mọi vấn đề khác
của triết học. Thực tế của lịch sử tư tưởng triết học cho thấy, tuỳ thuộc vào thái độ, lập
trường biểu hiện trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất mà người ta
có thái độ, quan điểm tương ứng trong việc giải quyết các vấn đề khác của triết học, thậm
chí là cả những vấn đề không thuần tuý triết học như chính trị, đạo đức, v.v..
→Có thể khẳng định ngắn gọn: vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, hay giữa tư duy
và tồn tại là vấn đề cơ bản của mọi triết học, mà nếu không giải quyết vấn đề này thì một
học thuyết nào đó không thể gọi là học thuyết triết học đúng nghĩa được. Việc giải quyết
vấn đề cơ bản của triết học chính là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của bất
kỳ một học thuyết triết học hay một triết gia nào.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, -
mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
+ Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
✥CNDV: cho rằng vật chất có trước quy định ý thức
✥CNDT: cho rằng ý thức có trước ý thức quyết định vật chất
✥ Nhà triết học nhị nguyên: cho rằng ý thức và vc cùng tồn tại ko nằm trong quan hệ quyết định nhau.
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
✥Các nhà triết học khả tri: cho rằng con người nhận thức được
✥ Các nhà triết học bất khả tri: cho rằng con người ko nhận thức đc thế giới hoặc chỉ nhận
thức đc bề ngoài mà ko biết đc bản chất.
Cách trả lời câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái triết học,
xác định việc hình thành các trường phái lớn của triết học
- Ý nghĩa của vấn đề cơ bản của triết học
+ Giải quyết vđ cb của triết học là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác của triết học +Giải
quyết vđ cb của triết học còn là tiêu chí khách quan phân chia các trường phái triết học lớn trong lịch sử.
- MQH vc và ý thức là vấn đề CB của triết học bởi vì:
+ Trong thế giới có nhiều htg khác nhau MQH giữa vc và ý thức bao trùm lên toàn bộ thế giới
+Quyết định MQH này là cơ sở nền tảng để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học
+Giải quyết MQH này là cơ sở để phân định lập trường tư tưởng thế giới quan của các nhà
triết học cx như học thuyết của họ lOMoAR cPSD| 61470371
+Tất cả các nhà triết học đều trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết MQH này
- Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học
*Vai trò của triết học:
a,Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học
+Thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vai
trò của con người trong thế giới. Nó đóng vai trò là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt
động sống của con người. Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận thức,
quan sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Từ đó giúp con người định
hướng thái độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình.
+Phương pháp luận: Phương pháp luận (lý luận về phương pháp) là hệ thống
những quan điểm chung nhất đóng vai trò xây dựng, lựa chọn vận dụng các phương pháp.
Phương pháp luận chia thành nhiều cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp luận
chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Phương pháp luận
triết học đóng vai trò chỉ đạo, định hướng trong quá trình tìm kiếm, lựa chọn và vận dụng
các phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn.
b,Vai trò của Triết học trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay
-Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, bên cạnh giải quyết những vấn đề “muôn thuở”,
triết học còn giúp cho con người tìm ra lời giải đối với những vấn đề hoàn toàn mới, phát
sinh trong quá trình toàn cầu hóa. Không chỉ giúp con người nhìn nhận đúng đắn về thế
giới quan, nhờ vào triết học, con người còn có khả năng đánh giá những biến động đang
diễn ra, gợi mở hướng giải quyết, “lối thoát” cho vấn đề mà con người đang gặp phải trong
bối cảnh toàn cầu hóa. Nói tóm lại, dù là trong quá khứ hay ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, triết
học vẫn giữ nguyên vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại.
* Liên hệ với đời sống vật chất và đời sống tinh thần của sinh viên hiện nay:
a. Đời sống vật chất: •
Sinh viên có vị trí "song hành", vị trí "kép" trong xã hội. Một mặt, họ là những thanh
niên sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất hiện đại, người
chủ của đất nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản để bổ sung vào
đội ngũ trí thức trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất lượng cao đầy tiềm
năng sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ để góp phần thực hiện thành công
sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay. •
Sinh viên - một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể hiện tính đặc thù
trong nhân cách của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách,
là hình thức biểu hiện tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Có thể hiểu nhân
cách sinh viên là tổng thể những phẩm chất đạo đức và tài năng, thể chất và lOMoAR cPSD| 61470371
tinh thần được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, quy định giá trị và những hành
vi xã hội của sinh viên, được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, hoạt động
giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của cá nhân mỗi sinh viên. •
Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những đặc điểm
chung của nhân cách, thì còn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức và
năng lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn. So với các thế
hệ sinh viên trước đổi mới, sinh viên hiện nay có tính thực tế cao. Chọn ngành học
là biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung nhất vào những ngành học mà ra
trường có thể xin việc được ngay vì xã hội đang cần, những nghề có thu nhập cao,
chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ ước. •
Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận tri
thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham
gia vào hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài
ngày trong một tuần, buổi tối), phong phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc
nhà...). Một số sinh viên có tham vọng trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở
cửa hàng kinh doanh thể hiện tính chủ động, sáng tạo cao trong công việc của mình. •
Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên tham gia nghiên
cứu khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc gia, giải thưởng Tài năng
trẻ Việt Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức... •
Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ
đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh
viên luôn có ý thức cao việc khẳng định nhân cách bằng cách trau dồi kiến thức
chuyên môn, khẳng định vị trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện rõ vai
trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành động. Lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ
với những người xung quanh dường như bị lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích
riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên. •
Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng trước hết phải
trân trọng và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng
biết bao mồ hôi và xương máu của các thế hệ cha ông trong dựng nước và giữ nước.
Thứ hai, sinh viên phải dốc lòng học tập, rèn luyện để góp sức mình thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến những bước vững chắc trong quá trình
hội nhập, phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa. Họ hiểu muốn củng cố và bảo vệ
nền độc lập tự do của dân tộc chỉ có một con đường duy nhất đúng là đưa đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng của sinh viên được biểu hiện rõ nhất ở khát vọng
học tập, nghiên cứu, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo trong học tập nhằm nắm
vững những tri thức vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ,
nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi vì,
trong xu thế phát triển hiện nay, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh lOMoAR cPSD| 61470371
cao trí tuệ thì dân tộc đó sẽ chiến thắng. Đúng như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu"
b. Đời sống tinh thần: •
Tư duy của sinh viên đã phát triển khá hoàn thiện, phong phú ở các mặt tuy nhiên vẫn cần trau dồi thêm. •
Sinh viên đc tiếp nhận những giá trị đạo đức hiện đại tự gia đình, nhà trường, xã hội. •
Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý tưởng cao cả
của sinh viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu tố cấu thành quan trọng
nên lý tưởng của sinh viên. Khẳng định điều này vì đạo đức là thành phần đặc biệt
trong nhân cách của sinh viên, cái để phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách này
với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc là "đức" trong mỗi con người. •
Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên,
chúng ta thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình
giáo dục và tự giáo dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ
những "phẩm chất người" của mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ
đạo. Giáo dục triết học Mác - Lênin cho sinh viên là một yếu tố hợp thành quan
trọng của nền giáo dục đại học nước ta hướng đến việc xây dựng những thế hệ sinh
viên có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp ứng
đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển đất nước. •
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động
của giáo dục triết học Mác - Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những
phẩm chất cần thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về
mặt xã hội, giúp sinh viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén
với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có
ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong cuộc sống con người không thể
sống mà thiếu lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc nội tâm giúp con người
hành động để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy, giáo
dục triết học Mác - Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh
viên là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng
cá nhân sinh viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên. Đạt đến
mục tiêu này, giáo dục triết học Mác - Lênin hoàn toàn khẳng định vai trò quan
trọng và quyết định của mình trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về
suy thoái đạo đức, nhân cách của sinh viên trước những tác động tiêu cực của quá
trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay. lOMoAR cPSD| 61470371
Đối với sinh viên HNUE:
+ Phát huy vai trò, trí tuệ, tinh thần xung kích của tuổi trẻ, những năm qua, học sinh, sinh
viên (HSSV) HNUE đã lập nhiều thành tích trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học,
sáng tạo khởi nghiệp. Qua đó, góp phần tạo không khí thi đua sôi nổi trong HSSV, xây
dựng thương hiệu HSSV HNUE sáng tạo, năng động, tài năng trong thời kỳ hội nhập. +
Những năm qua, HSSV HNUE luôn là lực lượng nòng cốt, chủ đạo trong các hoạt động
tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng. Lực lượng HSSV tham gia đầy đủ các lĩnh vực, địa
bàn, chuyên đề hoạt động tình nguyện, như: Bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường tự
nhiên; xây dựng nông thôn mới, văn minh đô thị; hiến máu tình nguyện…
+ Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trường tiếp tục phát động HSSV tập luyện thường xuyên
một môn thể thao. Nhiều câu lạc bộ thể thao được duy trì thường xuyên; hoạt động thể dục,
thể thao ngày càng có tính hấp dẫn, đổi mới về phương thức, mở rộng về phạm vi, góp
phần giáo dục và nâng cao thể lực cho HSSV.
Câu 2.Vật chất và ý thức ? *Vật chất
1.Các quan niệm trước Mác về vật chất
- Triết học duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với dạng vật chất cụ thể.
VD: Các nhà triết học duy vật như Ta-lét cho rằng vật chất là nước; A-na-xi-men coi là
không khí; Hê-ra-clít coi là lửa. Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại
trong học thuyết về vật chất là thuyết nguyên tử của Lơ-xíp và học trò của ông là Đê- môcrít.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình cận đại thế kỷ XVII-XVIII: đồng nhất vật chất với dạng vật
chất cụ thể và tính chất của chúng.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các phát minh của vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng
nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc với thuộc tính của vật chất của các nhà
triết học duy vật cổ đại và cận đại. Phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu định nghĩa “Vật
chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”
2. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Vật chất là “phạm trù triết học” do vậy vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể.+ Tính
trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất - đó là đặc
tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để
phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
VD: Nhà nước phong kiến có bản chất là giai cấp địa chủ phong kiến chống lại nông dân
và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ. lOMoAR cPSD| 61470371
+ Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác
quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự
vật, hiện tượng vật chất cụ thể.
VD: Tính nóng của nước sôi được cảm nhận thông qua xúc giác, qua nghiên cứu biết được
rằng nước sôi nóng 100 độ C.
- Vật chất là “thực tại khách quan” có đặc tính cơ bản (cũng là đặc trưng cơ bản) là tồn
tạikhông phụ thuộc vào ý thức. Dù con người có nhận thức được hay chưa nhận thức được nó nó vẫn tồn tại.
VD: Thủy triều là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian
phụ thuộc vào biến chuyển thiên văn, là đặc tính cơ bản của sông nước. Nó tồn tại một
cách tự nhiên, không phụ thuộc vào nhận thức của con người.
- Vật chất có tính khách thể - con người có thể nhận biết vật chất bằng các giác quan.VD:
Sự tăng trưởng về cân nặng, kích thước của đàn lợn sau một thời gian nuôi dưỡng có thể
được người chủ nhận biết bằng thị giác, xúc giác,…
- Ý thức là sự “chép lại, chụp lại, phản ánh lại” thực tại khách quan. Bằng các giác quan
của mình, con người có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được thực tại khách quan; chỉ
có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được nhận biết chứ không thể không biết.
VD: Kiến thức của nhân loại là kết quả của quá trình con người tiếp xúc và nghiên cứu thế
giới khách quan. Mọi khía cạnh về thế giới được con người cảm nhận và ghi chép lại.
3. Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
+ Thứ nhất, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc
khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục được quan điểm về vật chất của chủ nghĩa
duy vật cổ và cận đại).
+ Thứ hai, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới
vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện
chứng xác định được vật chất và mối quan hệ của nó với ý thức trong lĩnh vực xã hội: đó
là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v…; tạo cơ sở lý luận
cho các nhà khoa học tự nhiên.
VD: Nước nào có kinh tế phát triển hơn thì chính trị của nước đó mạnh hơn, nước đó có
tầm ảnh hưởng đến các quốc gia khác và trong khu vực sâu sắc hơn. (Mỹ can thiệp vào các
vấn đề trên Biển Đông của Việt Nam và Trung Quốc và có tầm ảnh hưởng) lOMoAR cPSD| 61470371
- Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức
nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn
có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để
phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt
đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không
cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết.
VD: Khi khởi nghiệp mở một công ty, vốn và năng lực từ người đứng ra mở công ty thôi
là chưa đủ, cần xét đến các yếu tố khác lúc đó như xu hướng thị trường, thời cơ, nhu cầu,
khu vực… Nếu đáp ứng đúng cái thị trường đang thiếu thì cơ hội phát triển là rất mạnh.
Ngược lại, nếu công ty cho ra những sản phẩm đang phổ biến, thậm chí là dư thừa thì nguy cơ phá sản là rất cao.
*Vận động(phương thức tồn tại của vật chất) 1. Định nghĩa:
-“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đc đem lại cho con
người trong cảm giác, đc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại ko
lệ thuộc vào cảm giác”
- Khái niệm vận động: là 1 sự biến đổi nói chung tức là mọi sự biến đổi từ đơn giản đến
phức tạp diễn ra trg TG.
-Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong
không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận
động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của
vật chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật chất.
VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh tế, sự
giảm sút trong học tập, giảm cân,…
2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên hệ biện
chứng giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di chuyển trên
đường phố khi tham gia giao thông.
b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình nhiệt, điện,...
VD: thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và phân giải.
VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2 à 2H2O)
d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v… VD: sự
hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất. lOMoAR cPSD| 61470371
e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v… của đời
sống xã hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng chưa có giai cấp,
sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là hình thành nhà nước.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng
với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng
không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động
cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức
vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận
động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
3. Làm rõ đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động. Cho ví dụ minh họa. Khi
khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này
không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song
đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng
chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định
chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức
vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
- Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong
một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự
đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dạng, kết cấu của sự vật.
VD: Thời bao cấp, nền kinh tế trì trệ, không phát triển, được coi như là đứng im. Nhưng
chỉ là đứng im trong hình thức vận động xã hội, trong mối quan hệ của nền kinh tế tư nhân
hay tiền tệ, chứng khoán, thị trường,… Sự đứng im của kinh tế chỉ diễn ra trong một thời
kỳ nhất định (1976 - 1986) tuy nhiên trong thời kì này, nội bộ nền kinh tế vẫn có những sự
biến đổi: nông nghiệp giảm nhẹ, công nghiệp và thương nghiệp có tiến triển,.. Sự tăng lên
của mặt này bù khuyết vào sự giảm đi của mặt kia khiến nền kinh tế không có sự tăng
trưởng, chưa thấy sự thay đổi nhiều.
4. Ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của khoa học:
Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc
phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau
về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh
đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động
khác trong quá trình nhận thức. lOMoAR cPSD| 61470371
VD: Dựa trên sự vận động của các sự vật hiện tượng, chúng ta có các ngành khoa học: Hóa
học, Vật lí học, Sinh học,…
*Hình thức tồn tại vật chất: Không gian và thời gian
+ Không gian: Hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính( chiều cao, rộng, dài),
sự cùng tồn tại, trật tự( trước hay sau, trên hay dưới, phải hay trái) và sự tác động lẫn nhau
+ Thời gian: xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của các quá trình vật chất( lâu, mau, nhanh, chậm)
Không gian và thời gian có tính khách quan, vĩnh cửu và vô tận. Không gian có tính 3
chiều, thời gian có tính 1 chiều
*Tính thống nhất vật chất của thế giới -
Chỉ có 1 thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất tồn tại khách quan. -
TGVC tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, ko đc sinh ra và ko bị mất đi -
Tính thống nhất vật chất của thế giới gắn liền với tính đa dạng của nó Ý THỨC 1,Ý thức là gì?
-Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm trù triết học dùng để
chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn ra trong não người, hình
thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ.
2. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần) a, Não người là sản phẩm quá trình tiến
hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ
tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội. Hoạt động
ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ; bộ não càng hoàn
thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để
bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có kiến thức
về thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay, con người dần
phát triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người hoàn thiện dần, ghi lại lOMoAR cPSD| 61470371
những kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người phong phú, văn minh. Từ đó, con
người làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình.
b,Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác trong
quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối
tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình thức thấp
lên hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả cao trong các kì thi
Các hình thức phản ánh.
a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý (nước đóng đá) và phản ánh hoá học
(hình thành hố vôi) ) là những phản ánh thụ động, không định hướng và không lựa chọn.
b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích (cây cối vươn ra ánh sáng)
c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn để nhờ đó mà động vật thích nghi
với môi trường sống (ngủ đông, di cư).
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ) a,
Lao động là hoạt động có mục đích,
có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm tạo ra của cải để tồn tại và phát triển. Lao động
làm cho ý thức không ngừng phát triển (bằng cách tích lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con
người nhận thức những tính chất mới (được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của giới
tự nhiên; dẫn đến năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên nhiên: Ráng
mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
b, Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với nhau,
tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao đổi với nhau
điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật chất của ý thức”. Nhờ
ngôn ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những kinh nghiệm để truyền lại cho
nhau. Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển. VD: Ghi lại
các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch sử,… Như vậy, nguồn
gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động,
là thực tiễn xã hội.
3. Bản chất của ý thức
-Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy không còn y
nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến thông qua tâm tư, tình lOMoAR cPSD| 61470371
cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v… Có thể nói, ý thức phản ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì
diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng
cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ- cái mà con người có thể cảm giác được.
Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và tồn tại được.
VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi.
-Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới có
chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm nắm bắt
bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng vượt trước (dự
báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác động tốt, xấu lên kết
quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo đó, con người điều chỉnh
chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp
thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu. Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới
khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong việc đáp
ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương lai thể hiện sự sáng tạo.
-Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và các quy luật
xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy
định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của bản thân
và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở cùng một thời đại, sự phản ánh (ý
thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh
thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã hội
phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự phát triển
của xã hội (Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán) -Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và chọn
lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo lại khách
thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hóa tư tưởng. Con
người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để thực hiện mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ cách
làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy nghĩ thành kết quả.
4. Kết cấu của ý thức: lOMoAR cPSD| 61470371
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức,
là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Mọi
hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu hiện của ý
thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều
kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó
một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự nhiên,
tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức
có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức
lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,…
Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình cảm
là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những
cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và
phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh,
một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình
cảm thì “xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì
không có một yếu tố thôi thúc những người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và
nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó trong
các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo đức, tình
cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân đội Việt
Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một
biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt
động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. có thể coi ý
chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con
người hướng đến mục đích một cách tự giác; cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ
bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân
chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội
dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những
yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp
quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng chiến
nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở ngại, tiến đến thắng lợi. lOMoAR cPSD| 61470371
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức là yếu
tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối
với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
5. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát từ
ý muốn chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên hiện thực
cuộc sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiệt hại về người
và của vô cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây dựng kinh tế mà phải làm lành các vết
thương chiến tranh cả về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con
người: giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng viên; bồi
dưỡng nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; vận dụng
đúng đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ khách quan khoa học không vụ
lợi; chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. VD: Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải
xuất phát từ ý thức người dân nên việc tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá
củanhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt
tình thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương chính sách xa rời
hiện thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.
6. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
✥Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức, tinh thần
là cái có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động tinh thần của con người xét
cho cùng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não người và bị quy định
bởi hoạt động thực tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị, pháp quyền,
đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh tế - xã hội tương ứng
của nó trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể.
Có thực mới vực được đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa
- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của nhân
tố tinh thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức cá nhân hay lOMoAR cPSD| 61470371
ý thức xã hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước hay sự phát triển
của khoa học cũng dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới có thể làm cho khả năng
khách quan trở thành hiện thực. Điều đó, cũng sẽ đúng nếu như chúng ta cho rằng đường
lối phát triển kinh tế - xã hội của một chính đảng, một nhà nước đều phụ thuộc vào điều
kiện khách quan nhất định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi nước ra đời
thay thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng, điện thoại di động
ra đời thay thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con người tăng lên,… - Tự
thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi nào trong
hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác từng nhấn mạnh rằng: chỉ
có lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất. Vì vậy, mọi sự biến đổi của đời
sống xã hội, xét cho cùng đều phụ thuộc vật chất, nhân tố vật chất. VD: Điều kiện sống
thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải tam tòng tứ đức, công dung ngôn
hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay giữa nam và nữ đã có sự bình đẳng.
✥Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật chất và con
người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản ánh của ý thức về hiện
thực khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản mà nó có tính năng động
và sáng tạo. Vì vậy, ý thức, nhân tố tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
mục đích, phương pháp hoạt động nói chung của con người. VD: Trong các cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, luôn có những bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến
đấu cho nhân dân, củng cố niềm tin chiến thắng để nhân dân vững lòng chiến đấu. Đó chính
là một trong những nhân tố tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước tồn tại xã
hội, khẳng định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Theo C.Mác: một
khi lý luận xâm nhập vào hoạt động của quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất trực
tiếp. Về vấn đề này, V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh: không có lý luận cách mạng sẽ không
có phong trào cách mạng. VD: Tất cả các vị tướng, những người cầm đầu, nhà lãnh đạo
các cuộc khởi nghĩa đều có cơ sở và lí luận cách mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra
cuộc khởi nghĩa mới: bác Hồ tìm hiểu về Cách mạng Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai trò
quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý thức, tư tưởng của
con người với sự nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con người có thể phát huy được
năng lực tối ưu của các nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong những điều kiện khách
quan nhất định để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn. VD: Hẳn trong
chúng ta cũng thường đặt ra những câu hỏi là tại sao trong những điều kiện khách quan
nhất định nào đó mà ranh giới giữa cái chết và cái sống… có những con người có thể vượt
lên chính mình bằng sức mạnh của lý trí, của niềm tin với nghị lực và bản lĩnh để làm một
việc gì đó mà mọi người cho là không tưởng, nhưng lại thành công. Nhưng xét về quá trình
lâu dài thì nhân tố vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân tố tinh thần. lOMoAR cPSD| 61470371
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động,
phát triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư tưởng khoán
10 của Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng chiến chống Pháp-Mĩ,... +
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức
phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất. VD: Tư
tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,...
7. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam
- Ý nghĩa phương pháp luận
+Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính khách quan trong sự
xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Nguyên
tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà
phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản ánh đúng đắn
và xây dựng mô hình lý luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính khách quan của sự
xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất - ý thức, giữa khách quan - chủ quan.
+Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người.
Nguyên tắc tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải phát
huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và sáng tạo của ý thức được thể
hiện ngay từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động cũng
như việc lựa chọn cách thức, phương pháp thực hiện mục tiêu.
+Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động
thực tiễn, xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất, nhân
tố vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ biện chứng đó đời
sống vật chất, nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố
tinh thần có tính năng động và sáng tạo.
- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là: “Mọi
chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân
sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của nó, không
lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực lOMoAR cPSD| 61470371
tế, phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến… Yêu cầu
của nguyên tắc tính khách quan còn đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đảng chủ
trương: “Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt là nguồn
lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược về con người,
về phát triển giáo dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Câu 3. 2 nguyên lý cơ bản a,Nguyên lý phát triển
1. Khái niệm phát triển
+ Quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật, hiện tượng khác nhau trong thế giới đứng im,
bất động; còn nếu giả sử có vận động, phát triển thì đó chỉ là sự tăng – giảm thuần túy về
lượng mà không có sự thay đổi về chất. Tính muôn vẻ về chất của vạn vật trong thế giới là
nhất thành bất biến. Phát triển, vì vậy, chỉ là một quá trình tiến lên liên tục mà không có
những bước quanh co phức tạp (đường thẳng). Còn nếu có sự thay đổi về chất thì đó cũng
chỉ là những chất kế tiếp nhau theo một chu trình kín (đường tròn).
+ Quan điểm biện chứng cho rằng, trong thế giới các mối liên hệ ràng buộc, tác động qua
lại lẫn nhau làm cho mọi sự vật, hiện tượng tồn tại như những hệ thống có cấp độ kết cấu
tổ chức, với những quy định về chất (kết cấu tổ chức) và về lượng khác nhau. Các hệ thống
sự vật khác nhau không ngừng vận động, và sự vận động của hệ thống không loại trừ sự
đứng im (ổn định tương đối về chất) của nó hay của yếu tố tạo thành nó. Sự vận động –
thay đổi nói chung - của một hệ thống sự vật bao gồm: Một là, sự thay đổi những quy định
về chất theo xu hướng tiến bộ ; hai là, sự thay đổi những quy định về chất theo xu hướng
thoái bộ; và ba là, sự thay đổi những quy định về lượng theo xu hướng ổn định tương đối
về chất. Nếu vận động là sự thay đổi nói chung, thì phát triển là một khuynh hướng vận
động tổng hợp của một hệ thống, trong đó sự vận động có thay đổi những quy định về chất
(kết cấu tổ chức) theo xu hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo, còn sự vận động có thay đổi
những quy định về chất theo xu hướng thoái bộ và sự vận động có thay đổi những quy định
về lượng theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo, thống
trị trên. Như vậy, quan điểm biện chứng về phát triển không cho phép đối lập sự thay đổi
tiến bộ với thay đổi thoái bộ, sự thay đổi về lượng với thay đổi về chất, không cho phép
đồng nhất phát triển với thay đổi tiến bộ, mà phải hiểu phát triển như là một quá trình vận
động rất phức tạp khó khăn, vừa liên tục vừa gián đoạn, vừa tiến lên vừa thụt lùi, thông lOMoAR cPSD| 61470371
qua việc giải quyết những xung đột giữa các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn) thực hiện
sự chuyển hóa qua lại giữa lượng và chất (bước nhảy về chất) làm cho cái mới ra đời trên
cơ sở cái cũ (phủ định biện chứng). Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Nếu quan điểm biện
chứng duy tâm cố tìm nguồn gốc của sự phát triển trong các lực lượng siêu nhiên hay ý
thức con người (phi vật chất), thì quan điểm biện chứng duy vật luôn cho rằng nguồn gốc
của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật vật chất, do những mâu thuẫn của sự vật
vật chất quy định. Mọi quá trình phát triển của sự vật đều là quá trình tự thân của thế giới
vật chất. Vì vậy, sự phát triển mang tính khách quan – tức tồn tại không phụ thuộc vào ý
thức và nhận thức của con người, và mang tính phổ biến – tức tồn tại trong mọi sự vật, hiện
tượng, trong mọi lĩnh vực hiện thực. -VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu
tranh giữa cái đã biết và cái chưa biết của con người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự
vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn bên trong
của sự vật, hiện tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó.
2. Phân loại sự phát triển
Trong thế giới, sự phát triển diễn ra rất đa dạng. Chính tính đa dạng của tồn tại vật chất quy
định tính đa dạng của sự phát triển. Các hình thức, kiểu phát triển cụ thể xảy ra trong các
hệ thống (lĩnh vực) vật chất khác nhau được các ngành khoa học cụ thể nghiên cứu. Sự
phát triển trong lĩnh vực tự nhiên vô sinh biểu hiện ở sự điều chỉnh các cấu trúc tổ chức vật
chất bên trong hệ thống sao cho phù hợp với quá trình trao đổi vật chất, năng lượng và
thông tin từ môi trường xung quanh. Sự phát triển trong lĩnh vực tự nhiên hữu sinh biểu
hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở
khả năng tự hoàn thiện của cơ thể trong quá trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông
tin với môi trường xung quanh. Sự phát triển trong lĩnh vực xã hội (con người) biểu hiện ở
xu hướng nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo hiệu quả xã hội, hoàn thiện nhân
cách cá nhân, tiến đến mục tiêu cuối cùng là kết hợp hài hòa cá nhân với xã hội, xã hội với
tự nhiên để con người thật sự sống trong “vương quốc của tự do”. Sự phát triển trong lĩnh
vực tư duy – tinh thần biểu hiện ở xu hướng nâng cao năng lực tư duy, hoàn thiện khả năng
nhận thức của con người, giúp con người ngày càng nhận thức sâu sắc, đúng đắn nhiều
hiện tượng tự nhiên, xã hội và làm phong phú đời sống tinh thần của mình.
3. Tính chất của sự phát triển.
- Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
hiện tượng. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy -> Chiếm hữu
nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên dần dần, con người
không thể quay về được dù có muốn hay không.
- Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.