












Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601688
Câu 1: Cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
Với sự am hiểu sâu sắc về các nền văn hóa trên thế giới cùng với các tư
tưởng tiến bộ, Hồ Chí Minh đã khéo léo tiếp thu và ứng dụng sự am hiểu
đó để hình thành nên hệ thống các quan điểm tiến bộ, mà sau này các nhà
nghiên cứu Hồ Chí Minh đã đúc kết thành tư tưởng
A. Tinh hoa văn hóa phương đông
Hồ Chí Minh tiếp thu các tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Đông trong
đó: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo,chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
- Nho giáo: Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến
bộ, tích cực: tư tưởng nhân trị và đức trị để quản lý xã hội, tinh
thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức con người, triết lý hành động… Tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng phê
phán những mặt tiêu cực của Nho giáo như: bảo vệ chế độ phong kiến,
phân chia đẳng cấp, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách, coi trọng thi cử.
- Phật giáo: kế thừa và phát triển tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu
khổ cứu nạn thương người như thể thương thân, đề cao nếp sống đạo
đức, trọng sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động,…Những quan
điểm này được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo
đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
- Lão giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa tư tưởng của Lão Tử, khuyên con
người nên sống gắn bó, hòa đồng với thiên nhiên, ít lòng ham muốn vật
chất hành động đúng với quy luật của tự nhiên và xã hội.
- Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh còn trực tiếp tìm hiểu chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn vì thấy trong đó nhiều tư tưởng tiến bộ,
tích cực và có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam, đó là quan điểm
về dân tộc, dân quyền và dân sinh. B. Tinh hoa văn hóa phương Tây:
- Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc và chịu
ảnh hưởng của văn hóa Pháp, chú ý đề Tự do- Bình đẳng- Bác ái của
cách mạng Pháp, chú ý đề lý tưởng Tự do- Bình đẳng- Bác ái của cách
mạng Pháp (1789), phát triển những quan điểm về dân chủ, quyền độc
lập dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), về nhân quyền
và dân quyền trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp (1791).
- Trong thời gian Hồ Chí Minh sống và hoạt động ở phương Tây, Người đã
tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, của các nhà khai sáng Pháp như:
Voltaire, Rousso, Montesquieu, v.v…Hồ Chí Minh còn tham gia các hoạt
động chính trị, nghiên cứu lý luận, kinh tế, văn hóa,…đồng thời tiếp lOMoAR cPSD| 61601688
thu tư tưởng của Thiên Chúa giáo trong quá trình hình thành tư tưởng
của minh, tiêu biểu nhất là tinh thần bác ái, yêu thương con người
C. Chủ nghĩa Mac – Lênin
- Các mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mac – Lenin là cơ sở lý luận
quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mac – Lenin có chọn lọc, không rập
khuôn, máy móc, giáo điều. Từ đó, vận dụng sáng tạo và phát triển để
giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng Việt Nam, giải quyết
được khủng hoảng trong đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
- Vai trò của chủ nghĩa Mac – Lenin đối với tư tưởng Hồ Chí Minh thể
hiện: quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh; quyết dịnh phương pháp hành động biện chứng của Hồ Chí Minh; tư
tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mac – Lenin ở Việt Nam, là tư tưởng
Việt Nam thời hiện đại
- Chủ nghĩa Mac – Lenin giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh
nghiêm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước. Người nhận thức: Trong
cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mac – Lenin, vừa làm công tác
thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới.
Câu 2: Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, mối quan hệ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội
A. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc.
Đối với với mỗi người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ
quốc, tự do của bản thân và của dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự
do, Tổ quốc tôi được độc lập. Trên đường đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã tiếp xúc với nhiều tư tưởng tiến bộ: Tuyên ngôn độc lập
Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1791, tinh thần Tự do
– Bình đẳng – Bác ái. Người đã khái quát nên chân lý về quyền cơ bản
của các dân tộc: Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Vận
dụng tinh thần về độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã tạo nên được những
cột mốc quan trọng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam. Sau hội nghị trung ương 8 (5-1941), thời điểm đặc biệt quan trọng
với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc
lập, tự do của Nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đốt lOMoAR cPSD| 61601688
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!”.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, Người đã thay mặt Chính phủ lâm
thời, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Năm 1946, trước khiêu khích của thực dân Pháp, nhận thấy một cuộc
chiến tranh là điều không tránh khỏi, Người ra lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Năm 1966, thực dân Mỹ
mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Người lại đưa ra chân lý
bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Đây không chỉ là tươ tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách
mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt
Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối tượng các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinnh là
“Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam, mà còn được thừa nhận là
người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của Nhân dân Đây
là vấn đề cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Nước độc lập mà dân còn đói rét thì độc lập đó không có ý nghĩa gì.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
Nhân dân. Hiện thực hóa quan điểm đó, trong hoàn cảnh nạn đói nguy
nan năm 1945, Người đã phát động chương trình “Hũ gạo cứu đói”, mở
lớp bình dân học vụ,….Có thể thấy rằng trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn coi độc lập và tự do, hạnh phúc
của nhân dân là 2 mặt không thể tách rời. Người bộc bạch: “Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, gắn liền với hòa bình
Trong quá trình đi xâm lược, bọn thực dân đế quốc dùng chiêu bài mị
dân, thành lập chính phủ bù nhìn, rêu rao về độc lập, nhưng bản chất
đó chỉ là “ăn cướp” và “giết người” đằng sau sự “độc lập giả dối”.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, hoàn toàn
và triệt để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà
người dân không có quyenf tự quyết về ngoại giao, không có quân đội
riêng, không có nền tài chính riêng,… thì nền độc lập đó chẳng có ý
nghĩa gì. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có độc lập dân tộc thực sự
mới có một nền hòa bình chân chính; và chỉ có hòa bình chân chính mới
có nền độc lập hoàn toàn. Không những vậy, đấu tranh cho độc lập dân
tộc mình, đồng thời cũng tôn trọng độc lập của dân tộc khác và góp lOMoAR cPSD| 61601688
phần vào việc giữ gìn hòa bình thế giới. Hồ Chí Minh luôn giương cao
ngọn cờ hòa bình, hòa hợp đoàn kết dân tộc; kiên quyết đấu tranh cho
một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển.
- Độc lập gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, đất nước ta luôn đứng
trước âm mưu chia cắt của kẻ thù: từ Pháp (chia nước ta ra 3 kỳ), sau
hiệp định Gionevo năm 1954, đất nước ta lại bị tạm thời chia cắt ra
2 miền. Trong thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các
nước vào thời gian sau cách mạng tháng 8, Người trịnh trọng tuyên bố:
“Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng
lợi của cách mạng, vào sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ
đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ
nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Có thể khẳng định
rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn
vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động các mạng của Hồ Chí Minh.
B. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội
- Độc lập là cơ sở, tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng. Từ
việc phân tích tình hình xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ ra mâu
thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, giữa nông dân
Việt Nam với giai cấp phong kiến. Cách mạng Việt Nam vì vậy trong
giai đoạn đầu là cách mạng dân tộc, dân chủ. Bởi vậy, trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930), Hồ Chí Minh đã chủ trương
đoàn kết toàn dân tộc nhằm “Đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”. Tuy nhiên, trong cách mạng dân
tộc dân chủ thì giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân
chủ phải phục tùng nhiệm vụ dân tộc và phải từng bước phụ thuộc vào nhiệm vụ dân tộc
Độc lập là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cuối cùng của
cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng vô sản nói chung là đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trong đó, độc lập tạo ra tiền đề tất yếu cho giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa: Về chính trị: Xác lập và phát triển
các thành tố của hệ thống chính trị mà trước hết là xác lập sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội, xây
dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân với Hiến pháp dân chủ. Về kinh lOMoAR cPSD| 61601688
tế: Bước đầu hình thành đường lối kinh tế mới, từng bước xây dựng các
cơ sở kinh tế có tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước nâng cao đời
sống Nhân dân, trong đó chú trọng tính định hướng của kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể. Về văn hóa-xã hội: đề ra đường lối xây dựng
nền văn hóa mới, nền văn hóa cách mạng, xây dựng xã hội mới trên nền
tảng của chủ nghĩa Mac-Lenin. Xác lập tư tưởng thống trị đối với xã
hội nhằm tạo tiền đề về tư tưởng cho công cuộc xây đựng xã hội chủ
nghĩa sau này. ./. Từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã
hội chủ nghĩa là một quá tình lâu dài. Vì vậy, việc xác lập và tăng
cường các tiền đề cho chủ nghĩa xã hội càng mạnh mẽ thì việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội càng có cơ sở vững chắc hơn.
- Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững
chắc. Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu khi giành được độc
lập dân tộc. Lịch sử loài người là quá trình lịch sử đấu tranh hướng
đến sự giải phóng ngày càng cao hơn của con người. Trong đó, cách
mạng vô sản là bắt đầu, thời kỳ quá độ là quá trình, chủ nghĩa xã hội
là mục tiêu. Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân
tộc, phát triển dân tộc. Bởi, CNXH sẽ xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu
xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản nghĩa về tư liệu sản xuất. Trên nền tảng làm chủ về kinh tế, chế
độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, Nhân dân là chủ và làm chủ
trên mọi phương diện. Từ việc lợi ích chính đáng của Nhân dân được
đáp ứng, là cơ sở cho sức mạnh toàn dân, góp phần giữ vững độc lập dân tộc.
- Điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Thứ nhất, phải xác lập, củng cố và phát
huy được vai trò lãnh đạo của Đảng. Bởi lẽ, Đảng là đội tiền phong
của giai cấp công nhân, giữ vai trò lãnh đạo Nhân dân giành thắng lợi
trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Thứ hai, Thiết lập khối
liên minh công-nông-tri thức làm nền tảng vững chắc để xây dựng để
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo. Với quan
điểm này, cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự nghiệp của toàn
nhân dân. Trong xuyên suốt quá trình bảo vệ, xây dựng đất nước, lực
lượng cách mạng Việt Nam là khối đại đoàn kết rộng rãi trên cơ sở
công-nông liên minh với tri thức trong Mặt trận dân tộc thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thứ ba, thường xuyên gắn bó chặt chẽ cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam là bộ phận
và có mối liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới trên cả phương diện
dân tộc và giai cấp. Do vậy, theo Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam
phải chủ động hoàn thành nhiệm vụ của mình để xứng đáng vào cách mạng lOMoAR cPSD| 61601688
thế giới. ./. Ba nhân tố trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức
mạnh tổng hợp quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan của cách mạng nước ta, nhưng nó chỉ được hiện thực hóa khi
những điều kiện trên đây được đảm bảo, trong đó việc xác lập và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quan trọng nhất. Vì vậy trong
sự nghiệp cách mạng hiện nay. Đảng rút ra bài học: Kiên định mục tiêu
và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định; Phát huy sức mạnh
dân chủ xã hội chủ nghĩa; Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và
hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị; Đấu tranh chống
biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống và
“tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Câu 3: Nguyên tắc hoạt động của Đảng: Đảng lấy chủ nghĩa Mac-Lenin
làm nền tảng tư tưởng
- Về tầm quan trọng của lý luận, Người nhắc lại lời của Lênin trong tác
phẩm Làm gì: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng” và “chỉ có một đảng có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
thể làm tròn được vai trò chiến sĩ tiền phong" và khẳng định, Đảng
muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa làm cốt
ví như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
- Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng học thuyết chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Toàn Đảng,
ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy. Người coi chủ nghĩa Mác -
Lênin "không chỉ là mặt trời soi sáng cho chúng ta trên con đường
cách mạng mà còn là cẩm nang thần kỳ" đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
- Hồ Chí Minh yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải hiểu và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Đối với cơ quan và tổ chức Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu:
o Chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động chứ không
phải là kinh thánh. Phải nắm vững phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, phải căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng quan
điểm, đường lối chính sách, pháp luật; phải vận dụng sáng tạo,
không máy móc, giáo điều, rập khuôn.
o Tìm các giải pháp, biện pháp thực hiện, phải có quyết tâm,
“đường lối 1, biện pháp phải 10, quyết tâm phải 20” o Tổng kết
kinh nghiệm của Đảng mình, các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn để
rút ra những bài học thành công, chưa thành công. lOMoAR cPSD| 61601688
o Tổ chức việc học tập, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên
phủ hợp, đồng thời phải tuyên truyền vận động quần chủng thực
hiện đường lối, chính sách
– Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh YÊU CẦU:
o Học lý luận, hiểu lý luận là phải vận dụng vào thực tiễn, "học
mà không hành là cái hòm đựng sách”, “để lòe thiên hạ”, để “ra
vẻ ta đây". Phải chống các biểu hiện kém lý luận, coi thưởng lý
luận, lý luận suông, lý luận giáo điều.
o Phải tin tưởng, nhất trị với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà
nước và quyết tâm thực hiện; phải bảo vệ quan điểm đường lối
chính sách, giữ vững kỷ luật Đảng và kỷ luật cơ quan đoàn thể.
o Phải lấy hiệu quả công tác, hoàn thành nhiệm vụ làm thước do sự
hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin; công việc bộ trễ thì
không thể nói là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin được.
o Phải coi việc thường xuyên học tập lý luận là nhiệm vụ và tiêu
chuẩn đảng viên. o Phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước: Nhà nước pháp quyền
1. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp
hiến, được Nhân dân tổ chức nên thông qua tổng tuyển cử, được xây
dựng và hoạt động theo các nguyên tắc của Hiến pháp. Ngay sau cách
mạng tháng 8 thành công, chính quyền về tay nhân dân, Hồ Chí Minh đã
nêu ra và thực hiện ngay điều này bằng việc thay mặt Chính phủ các
mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với Nhân dân toàn
thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới. Nhờ đó, Chính phủ
lâm thời do cuộc cách mạng của Nhân dân lập ra có được địa vị hợp
pháp. Tiếp đó, Người đề nghị tiến hành cuộc Tổng tuyển cử để thành
lập Quốc hội chính thức, từ đó lập ra các cơ quan, bộ máy khác của
Nhà nước. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 thành công tốt đẹp, cũng
từ đây, Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có Quốc hội có đầy dủ tư cách
và pháp lý trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
2. Nhà nước thượng tôn pháp luật
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ
được mở rộng, người dân sống và làm việc theo luật định. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước phải thể hiện được việc điều hành và quản lý
xã hội bằng pháp luật. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức được rất
rõ vị trí, vai trò của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội.
Tư tưởng pháp quyền đã xuyên suốt tổ chức và hoạt động của Nhà nước lOMoAR cPSD| 61601688
Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo
thực hiện các quyền tự do, dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân.
- Pháp luật là phương tiện để xây dựng và củng cố Nhà nước. Có pháp
luật tốt sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước điều hành và quản lý xã hội
tốt, thực hiện và mở rộng được dân chủ trong Nhân dân. Pháp luật Việt
Nam hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người dân lao động, bảo
vệ lợi ích tập thể, lợi ích của Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, luật pháp
của ta phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực
lượng lao động làm nền tẳng để xây dựng Nhà nước, xây dụng xã hội. Đó
là nội dung quyết định bản chất luật pháp của Nhà nước ta và nền tảng
xây dựng pháp luật. Từ đó, xây dựng các thể chế dân chủ cộng hòa,
quân đội, kinh tế trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân dưới sự tuân thủ pháp luật
- Luật pháp của chế độ dân chủ cộng hòa khác xa với luật pháp của chế
độ phong kiến cũng như tư bản. Nó không phải là vũ khí của giai cấp
công nhân thống trị xã hội dùng để trừng trị giai cấp khác, nó cũng
không phục vụ lợi ích riêng cho một tầng lớp nào mà cho toàn dân tộc
- Luật pháp là cần thiết, là quan trọng cho mỗi quốc gia. Khi không có
pháp luật dễ đẩy xã hội đến chỗ hỗn loạn, vô Chính phủ. Nhà nước có
nhiệm vụ phải triển khai hoạt động tuyên truyền pháp luật tới người
dân để họ hiểu và thực hiện. Đây là nhiệm vụ không kém khó khăn khi
đưa pháp luật vào đời sống. Tấm gương Hồ Chí Minh là người gương mẫu
cùng với Chính phủ và các cơ quan nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh.
Người không cho phép bất kỳ cá nhân, tổ chức nhà nước nào được đứng ra ngoài luật pháp
- Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và luật pháp phải đi đôi với nhau,
nương tựa vào nhau mới làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Quản lý
nhà nước quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống pháp luật trong đó,
bậc nhất là Hiến pháp. Song, có pháp luật nhưng không đưa được vào
đời sống thì xã hội cũng rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi
liền với kỷ cương, phép nước, tức là đi đôi với việc đưa pháp luật
vào cuộc sống. Do vậy, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm việc này, tạo cơ
chế đảm bảo luật pháp được thực hiện, tạo cơ chế kiểm tra, giám sát
việc thi hành đó trong các cơ quan Nhà nước và trong Nhân dân
- Để thực thi pháp luật một cách nghiêm chỉnh, theo Hồ Chí Minh, mọi
người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật. Vì vậy, giáo dục
pháp luật cho mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ đặc biêt là một việc
rất quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
- Trong việc thực thi Hiếp pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng
chú ý đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng. Pháp luật phải lOMoAR cPSD| 61601688
thực sự công tâm và nghiêm minh để trở thành cán cân công lý đối với
tất cả mọi người, mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Hồ Chí Minh luôn khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát, đóng góp
để hiến pháp thực sự có tính thực tế, đáp ứng được nhu cầu giám sát
của nhà nước và quyền lợi chính đáng của nhân dân. Hồ Chí Minh là tấm
gương trong sáng về sống và làm việc theo Hiến Pháp và pháp luật.
Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành
Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật trở thành nề
nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh
3. Pháp quyền nhân nghĩa
Câu 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc;
phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành công của cách mạng. Trong tư tưởng HCM, đại đoàn kết toàn dân
tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt Nam. Trong
từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau,
chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cấn thiết
phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song không
bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết dân tộc. HCM khái quát
chân lý: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực
lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng
lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”,….HCM đã đi đến
kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công,
đại thành công”. Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề mang tính
sống còn của dân tộc Việt Nam, làn nhân tố quyết định thành bại của cách mạng
- Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam. Đối với HCM, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến
lược mà còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng, phải được quán triệt
trong tất cả mọi lĩnh vực, đường lối, chủ trương, chính sách cho tới
hoạt động của Đảng. Cách mạng là sự nghiệp của quân chúng, do quần
chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng trong cuộc đấu
tranh vì lợi ích của chính mình. ĐCS phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập
hợp, giác ngộ quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách
quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành thực
hiện có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp lOMoAR cPSD| 61601688
trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do Nhân dân và hạnh
phúc cho con người. Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm
vụ của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
2. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Một là, làm tốt công tác vận động quần chúng. Để đạt được mục tiêu
nhiệm vụ hàng đầu của Đàng là đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải làm
tốt công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, để phát huy đầy đủ vai trò,
trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước, thì
mọi cán bộ, đảng viên phát biết cách làm tốt công tác giáo dục tuyên
truyền, hướng dẫn, vận động Nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; phải giúp Nhân
dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của
mình đối với Tổ quốc, với Đảng và với dân tộc.
- Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đơn
tượng. Để tập hợp quần chủng nhân dân có hiệu quả, cần phải xây dựng
những tổ chức đoàn thể phù hợp với từng giai cấp, lứa tuổi, tôn giáo,
giới tính, vùng miền, v.v. như Công đoàn, Hội Nông dân, Hội phụ nữ,
Đoàn thanh niên, v.v.. Có như vậy mới phát huy được hết sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân.
- Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc
thống nhất. Người nói: "Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong
những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam... Phải đoàn kết các
đảng phải, các đoàn thể, các nhân sĩ trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. 3. Liên hệ
Vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước đã có
những chủ trương chính sách nhằm: quán triệt tư tưởng HCM về đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong hoạch định đường lối, chủ trương
của Đảng; Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh công-nông-tri dưới sự lãnh đạo của Đảng; Đoàn kết dân tộc kết
hợp với đoàn kết quốc tế.
Câu 6: Nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
1. Nói đi đôi vưới làm, nêu gương về đạo đức
- Hồ Chí Minh coi nguyên tắc nói đi đôi với làm là nguyên tắc quan trọng
bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó đã trở thành phương pháp
luận trong cuộc sống và là nền tảng triết lý sống của Người. lOMoAR cPSD| 61601688
- Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương
Đông. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong lời nói và việc làm
không chỉ là cách thức để giáo dục đạo đức cho quần chủng, mà còn là
một phương pháp để tự giáo dục bản thân mình.
- Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một nền tảng rộng
lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức
hằng ngày của mỗi người và của toàn xã hội, mà những tấm gương đạo
đức của những người tiêu biểu có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đỏ.
2. Xây đi đôi với chống
- Hồ Chí Minh cho rằng, đây là đòi hỏi của nền đạo đức mới, thể hiện
tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tức
là xây dựng, bồi dưỡng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống
là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức. Để
xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp xây đi đôi với chống,
muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính.
- Xây dựng đạo đức mới theo Hồ Chí Minh phải được tiến hành bằng việc
giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia
đình đến nhà trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể –
nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bộ bằng hoạt động
thực tiễn của mình. Mặt khác, việc giáo dục đạo đức mới phải được
tiến hành phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi,
ngành nghề, giai cấp; khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người
- Để xây và chống có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh phải tuyên truyền, vận
động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành
mạnh, trong sạch về đạo đức, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân để
mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng, phải chủ trọng kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường tính
nghiêm minh của pháp luật. Thực tiễn chứng minh những cuộc vận động
đó đã mang lại kết quả rất lớn
3. Tư tưởng đạo đức suốt đời
- Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức là một cuộc cách mạng trường kỷ,
gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự
giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Người nhắc lại luận điểm của
Khổng Tử: “chính tâm, tu thân”, “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
- Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua
các hoạt động thực tiễn trong công việc, trong các mối quan hệ của
mình; phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối; phải thấy rõ cái
hay, cái tốt của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu của mình
để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện liên tục, tu dưỡng suốt đời,
trong đó thời tuổi trẻ là đặc biệt quan trọng. lOMoAR cPSD| 61601688
- Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tự
giáo dục về mặt đạo đức. Thực hiện việc này phải kiên trì, bền bỉ. Có
rèn luyện như vậy, con người mới có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp và
những phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao. 4. Liên hệ
Việc tu dưỡng,trau dồi đạo đức rất quan trọng đối với con người Việt
Nam trong sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, cần phải chú trọng chăm lo
giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống, văn hóa cho sinh viên,
hình thành thế hệ thanh niên mới có những phẩm chất tốt đẹp,
có khí phách và quyết tâm hành động, có trách nhiệm với Tổ quốc, với
Nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách HCM và phát huy trách nhiệm của mỗi cá nhân là
đòi hỏi của sực nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc
tế; nhằm làm cho mỗi người trở thành công dân tôt hơn,….
Câu 7: Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người
- Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng vừa
cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là
một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước,
có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
- “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" đã cho thấy đây là công
việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu
dài, là công việc của văn hóa giáo dục, phải được tiến hành thường
xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người. Công việc “trồng người" là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội kết hợp với
tính tích cực, chủ động của từng nguời
- "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người
xã hội chủ nghĩa". Con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt
ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
2. Nội dung xây dựng con người
- Hổ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa "hồng" vừa
“chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội,
có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và có năng lực làm chủ. lOMoAR cPSD| 61601688
- Xây dựng con người toàn diện với những khía cạnh chủ yếu sau:
o Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư
tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình";
o Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc; o Có lòng
yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng; o Có phương
pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực, trí tuệ, trình độ
lý luận, chính trị, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp
vụ, ngoại ngữ, sức khỏe 3. Phương pháp xây dựng con người
- Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây
dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc
nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Người
nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn
nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
- Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh luôn đánh
giá cao vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo
dục thế hệ trẻ. Nền giáo dục đó phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
cách mạng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước, do đó, khi tình
hình thực tiễn có sự thay đổi thì nền giáo dục cũng phải có sự điều
chỉnh, đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
- Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng.
Thông qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt
việc tốt”, đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào
ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta” 4. Liên hệ
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên XHCN khẳng định:
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.