
















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601492
ĐỀ CƯƠNG CUỐI KỲ - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Tinh hoa văn hóa phương Đông,
tinh hoa văn hóa phương Tây.
1.1. Phân tích tinh hoa văn hóa phương Đông trong việc hình thành TTHCM
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kế thừa một cách có chọn lọc các tư tưởng tiến bộ của văn
hóa phương Đông, có thể kể tới như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo hay 1 số tư tưởng tiến bộ như
Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Cụ thể: a) Về Nho giáo: -
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã hội.
Kếthừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng 1 xã hội lý tưởng, trong đó công
bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến 1 thế giới đại đồng
với hòa bình, không có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí
Minh chú ý kế thừa, đổi mới và phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Tuy nhiên, Hồ
Chí Minh cũng phê phán các mặt tiêu cực của Nho giáo như: bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia
đẳng cấp, trọng nam khinh nữ, coi trọng thi cử; suy nghĩ bảo thủ, một chiều; khinh thường công
việc lao động chân tay, lao động xã hội, chỉ đề cao nghề đọc sách, ... -
Người tiếp thu thông qua việc thường xuyên sử dụng các mệnh đề để đưa ra vấn đề về việc
tudưỡng đạo đức cá nhân (thể hiện xuyên suốt trong các tác phẩm “Đường Cách mệnh” (1927),
“Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Cần, kiệm, liêm, chính” (1949) cho đến “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969) và bản Di chúc của Người (1969)). b) Về Phật giáo: -
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người,
khuyếnkhích làm việc thiện, chống lại điều ác; khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất
nước của đạo Phật. Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của đạo Phật được Hồ Chí Minh
vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. -
Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo đức tích cực
trongPhật giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam hiện nay.
c) Về Lão giáo (Đạo giáo):
- Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn
bóvới thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Hồ Chí
Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ môi trường sinh thái cho
chính cuộc sống của con người.
- Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong
Lão giáo. Người khuyên cán bộ, Đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất; thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
d) Về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: lOMoAR cPSD| 61601492
- Người tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam Dân: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh
phúc” của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập
– Tự do – Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản và
bước đầu nhận thấy trong đó nhiều tư tưởng tiến bộ, tích cực, phù hợp với xu thế thời đại và có
thể vận dụng được vào cách mạng Việt Nam, đó là quan điểm về dân tộc, dân quyền và dân sinh.
e) Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau
trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, ... Đồng thời, Hồ
Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ như chủ nghĩa Găngđi.
=> Kết luận: Cách thức tiếp thu của Hồ Chí Minh: tiếp thu trên tinh thần biện chứng, có chọn lọc,
không rập khuôn máy móc, vận dụng sáng tạo và phát triển vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ưu điểm được Hồ Chí Minh tiếp thu, cương quyết loại bỏ nhược điểm ra khỏi tư tưởng của mình,
đồng thời những điểm chưa phù hợp được Hồ Chí Minh cải biến cho phù hợp. Có thể nêu ra một
số phạm trù của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng như Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Trung,
Hiếu, v.v.. Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù
Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ.
Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với
đồng bào”. Rõ ràng, ở Hồ Chí Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ Trung
với vua trở thành Trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ quát hoá đạo đức
cá nhân, trong đó gốc của Hiếu với dân phải là Hiếu với cha mẹ. f) Liên hệ sinh viên ngày nay:
- Giá trị văn hóa phương Đông là những điều tốt đẹp tiến bộ văn minh mà người dân phương Đông
đạt được. Việc tiếp nhận văn hóa phương Đông có ý nghĩa vô cùng to lớn với sinh viên làm gia
tăng kiến thức, vốn văn hóa của nhân dân. Mỗi một sinh viên cần thực hành những mặt tích cực
của giá trị văn hóa phương đông trong cuộc sống và học tập, làm việc như:
+ Sinh viên cần tìm hiểu, học hỏi và thực hành các giá trị đạo đức “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” trong
cuộc sống hàng ngày. Phải biết yêu thương, quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong những hoàn
cảnh hoạn nạn, sống cần phải biết lễ phép, lễ độ và phải biết nói lời “cảm ơn, xin lỗi” lúc cần thiết;
cần không ngừng học tập, tôi rèn trí tuệ để có thể hiểu rõ được cái gì là đúng, cái gì là sai, cái nào nên và không nên làm..
+ Cần thực hành triết lý hành động, nói phải đi đôi với làm, đã hứa với ai cái gì, đã nói với ai điều
gì thì phải gắng sức mà hoàn thành cho bằng được.
+ Có lối sống giản dị gần gũi với thiên nhiên, biết quan tâm tới cộng đồng.
+ Học được cách tiếp thu văn hóa 1 cách có chọn lọc. Đồng thời, mỗi sinh viên chúng ta cần phải
tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính
sự phát triển của bản thân
+ Khi đã nhận thức được những giá trị trong văn hóa phương Đông, cần có sự tiếp thu một cách
chọn lọc, biết tận dụng những điều tốt, loại bỏ những điều chưa tốt, đồng thời kết hợp hài hòa với
truyền thống văn hóa dân tộc ta. lOMoAR cPSD| 61601492 Hoặc: -
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng xác định: " Phát triển
conngười Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc". Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người có văn hóa, thấm
nhuần bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho
kho tàng ấy giàu có hơn, phong phú hơn, cũng là một cách để khẳng định mình trong thế giới rộng
lớn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hóa quốc tế hiện nay, khi mà nhân loại đang lo âu
về sự đánh mất chính mình trong "thế giới phẳng" và nguy cơ đồng phục văn hóa, chúng ta càng
thấy rõ hơn về việc ứng xử linh hoạt với các giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần bồi
đắp những thiếu hụt cho mỗi bên và tạo nên sự đa dạng văn hóa. -
Hiện nay nhiều nguồn văn hóa đang du nhập vào nước ta khiến nhiều người dần thay đổi
nhậnthức và đánh mất đi những bản sắc, giá trị dân tộc. Hơn lúc nào hết, lúc này chúng ta, nhất là
thế hệ trẻ "xung kích" để bảo vệ những giá trị truyền thống văn hóa, để đất nước chúng ta vẫn giữ
nguyên được bản sắc, hòa nhập chứ không hòa tan. Để làm được điều đó, mỗi sinh viên chúng ta
cần phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng
và vì chính sự phát triển của bản thân. Quan trọng hơn, thế hệ trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa,
sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh, chủ động, sáng tạo
và linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt tích
cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại.
1.2. Văn hóa phương Tây
a, Phân tích tinh hoa văn hóa phương Tây trong việc hình thành TTHCM
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh (1905), Hồ Chí Minh đã
quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp năm 1789: Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Đi sang phương Tây, Người quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách
mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã tiếp thu các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc, sự bình đẳng trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ. Đối với Bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp, Người tiếp thu các quyền như là quyền
cá nhân và quyền tập thể của tất cả các giai cấp là bình đẳng, không thể chuyển nhượng và bất khả
xâm phạm với mọi mục đích. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân
quyền trong 2 bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập,
tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay. Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do”. Việc đề cao tư tưởng nhân quyền và dân quyền như trên chính là để khẳng định: mục tiêu
của Cách mạng Việt Nam hoàn toàn phù hợp với khuôn khổ pháp lý quốc tế, với “lẽ phải” thông
thường và là điều “không ai có thể chối cãi được”. Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu
dân, Hồ Chí Minh đã sống, hoạt động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế,
văn hóa nhân loại tại những trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc trên thế giới
như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, v.v. bằng chính ngôn ngữ của các nước đó. Trong thời gian
Hồ Chí Minh sống và hoạt động ở phương Tây, Người đã tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng của lOMoAR cPSD| 61601492
các nhà khai sáng Pháp như: Voltaire, Rousso, Montesquieu, v.v.. Hồ Chí Minh còn tham gia các
hoạt động chính trị, nghiên cứu lý luận, kinh tế, văn hóa, v.v., đồng thời tiếp thu tư tưởng của Thiên
Chúa giáo trong quá trình hình thành tư tưởng của minh, tiêu biểu nhất là tinh thần bác ái, yêu thương con người.
b, Giá trị của việc tiếp thu văn hóa phương Tây trong giai đoạn hiện nay
Việc tiếp thu giá trị của các văn hóa phương Tây có 1 vai trò quan trọng, ngay cả trong giai đoạn
hiện nay. Phong cách sống của người phương Tây thiên về sự tự do, tự khám phá giá trị sống; con
người ưa sự xê dịch, tìm kiếm các trải nghiệm mới mẻ, họ thích sử dụng các mô hình lập luận,
tranh biện, logic, thuật ngữ trong khi trò chuyện. Tuy nhiên, người phương Tây sống theo chủ
nghĩa duy vật, đề cao danh tiếng và thành tựu, gắn tiền bạc với sự xa xỉ và giàu có, tôn sùng lợi
nhuận. Họ hứng thú và thao tác với công nghệ nhanh hơn là giao tiếp trong đời thực, đồng thời có
quan niệm về tình yêu, giá trị hôn nhân khác độc đáo, khác so với chúng ta. Khi đã nhận thức được
những giá trị trong văn hóa phương Tây, cần có sự tiếp thu một cách chọn lọc, biết tận dụng những
điều tốt, loại bỏ những điều chưa tốt, đồng thời kết hợp hài hòa với truyền thống văn hóa dân tộc
ta. Việc tiếp thu văn hóa phương Tây giúp cho chúng ta làm giàu vốn tri thức, kết hợp yếu tố truyền
thống và yếu tố hiện đại, phù hợp với các giá trị truyền thống dân tộc, thích nghi với quá trình giao
lưu, hội nhập văn hóa. Nhìn chung, trong quá trình toàn cầu hóa, văn hóa, tư duy, lối sống... của
phương Tây cũng đem lại những lợi ích nhất định cho Việt Nam, như về các mặt kinh tế, thu nhập
quốc dân, mức sống, tiện nghi vật chất ... nhưng mặt khác nó cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết.
Đó là đạo lý, giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc đang thật sự bị xâm hại. Trước nguy cơ
có thật này, cần có ngay những giải pháp thích hợp để chỉnh đốn lại những nề nếp truyền thống,
đồng thời tìm cách phát huy cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của bản sắc Việt Nam trên đường hội
nhập vào kho tàng văn hóa toàn cầu. Vì vậy, chúng ta cần phải tuyên truyền và nâng cao nhận thức
cho cộng đồng về việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa phương Tây, đồng thời giữ gìn
và phát huy những giá trị truyền thống dân tộc, để xây dựng một xã hội phát triển hài hòa, bền
vững trong quá trình hội nhập toàn cầu.
Câu 2: Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc 2.1.
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Lịch sử Việt Nam gắn liền với truyền thống yêu nước và đấu tranh chống ngoại xâm. Khát khao
của dân tộc là độc lập và tự do, trong đó Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh thần ấy. Người khẳng
định: “Cái tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập!”
Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vecxay, đòi quyền
bình đẳng pháp lý và quyền tự do, dân chủ cho người dân Đông Dương. Mặc dù không được chấp
nhận, bản yêu sách đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tự do và bình đẳng
của các dân tộc thuộc địa.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chính là đánh đổ
đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Trong Tuyên ngôn độc lập
năm 1945, Người tuyên bố Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và toàn dân sẽ bảo vệ quyền đó
bằng mọi giá. Ý chí và quyết tâm này được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân lOMoAR cPSD| 61601492
Pháp và đế quốc Mỹ. Khi Pháp xâm lược lần hai, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến,
khẳng định: "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ". Năm 1956, trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh tuyên bố: "Không có gì
quý hơn độc lập, tự do," khẳng định tầm quan trọng của độc lập và tự do. Tư tưởng này đã giúp
nhân dân Việt Nam chiến thắng đế quốc Mỹ, buộc Mỹ ký Hiệp định Pari, công nhận quyền dân
tộc cơ bản của Việt Nam.
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Hồ Chí Minh cho rằng độc lập dân tộc phải gắn với tự do và hạnh phúc của nhân dân. Người đánh
giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập, tự do và hạnh phúc. Hồ Chí Minh
khẳng định rằng dân tộc Việt Nam cũng có quyền được tự do và bình đẳng về quyền lợi, điều này
là lẽ phải không thể chối cãi.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Người xác định mục tiêu cách mạng là làm cho
nước Việt Nam độc lập và đem lại quyền lợi cho dân nghèo. Sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Hồ Chí Minh yêu cầu thực hiện ngay các biện pháp cải thiện đời sống nhân dân, như đảm bảo ăn,
mặc, ở và học hành cho dân. Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
và mong muốn "nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành."
c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập hoàn toàn, triệt để trên mọi lĩnh vực bao gồm
quyền tự quyết về ngoại giao, quân đội, và nền tài chính riêng. Người nhấn mạnh rằng nếu thiếu
những yếu tố này, độc lập sẽ không có ý nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Tám, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, Hồ Chí Minh và Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sử dụng nhiều biện pháp, bao gồm ngoại giao để bảo vệ nền
độc lập thật sự mà dân tộc vừa giành được.
d) Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc và toàn
vẹn lãnh thổ. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ năm 1946, Người nhấn mạnh: "Đồng bào Nam Bộ
là dân nước Việt Nam," và khẳng định chân lý này sẽ không thay đổi. Người tiếp tục xác định:
"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" trong tháng 2/1958. Trong di chúc, Hồ Chí
Minh thể hiện niềm tin vào sự thống nhất nước nhà, khẳng định dù khó khăn, nhân dân ta nhất
định sẽ thắng lợi, và Tổ quốc sẽ thống nhất. Tư tưởng này là xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
2.2. Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc
Trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng và mang
tính nền tảng, bởi thế hệ trẻ chính là sức mạnh của quốc gia trong tương lai. Vì vậy, mỗi sinh viên
cần nhận thức đúng đắn và hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ độc lập dân tộc. lOMoAR cPSD| 61601492
Sinh viên cần nỗ lực học tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức và kỹ năng, hiểu rõ về lịch sử đấu
tranh giành độc lập và giá trị của nền độc lập. Mỗi sinh viên cần phát huy tinh thần yêu nước, tự
hào dân tộc, góp phần xây dựng đất nước mạnh mẽ. Bảo vệ nền độc lập còn là tham gia vào sự
phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ, đồng thời bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, đặc biệt là trong bối cảnh các vấn đề biên giới và biển Đông. Sinh viên cũng cần tham gia vào
các phong trào bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Tóm lại, trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc không chỉ là bảo vệ đất
nước khỏi nguy cơ xâm lược mà còn là duy trì và phát triển nền độc lập trong mọi lĩnh vực, đóng
góp vào sự thịnh vượng và sự nghiệp xây dựng một xã hội công bằng, giàu mạnh.
Câu 3: Những vấn đề về nguyên tắc trong hoạt động của Đảng: Tập trung dân chủ, Tự phê
bình và phê bình, Đoàn kết thống nhất trong Đảng 3.1. Tập trung dân chủ a) Phân tích -
Tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản nhất để xây dựng Đảng trở thành một
tổchức chặt chẽ vừa phát huy được sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy được sức mạnh của tập
thể. Tập trung là "Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên; bộ phận phục tùng toàn
thể, địa phương phục tùng Trung ương, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện Điều lệ Đảng,
các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Dân chủ là tạo điều kiện để mọi đảng viên phát biểu ý kiến, trình
bày sáng kiến, có quyền bảo lưu ý kiến; "phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ
ý kiến của mình". Theo Hồ Chí Minh, “Tập trung” và “dân chủ” là hai mặt của một vấn đề, có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Tập trung và dân chủ luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ: Tập trung
trên cơ sở dân chủ nhằm chống quan liêu, độc đoán chuyên quyền. Dân chủ để đi tới tập trung, là
cơ sở của tập trung chứ không phải vô tổ chức, tuỳ tiện, phân tán. “Tập trung trên nền tảng dân
chủ “và "dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung"; phải chống thói vô Chinh phủ. Điều kiện
tiên quyết khi thực hiện nguyên tắc này là tổ chức đảng phải trong sạch, vững mạnh. -
Hồ Chí Minh gọi nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” là nguyên tắc lãnh đạo,
làchế độ lãnh đạo của Đảng. Theo Người, nguyên tắc này quan hệ mật thiết với nguyên tắc trên:
"Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung". Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
là dân chủ tập trung. Khi xây dựng nghị quyết, đường lối, chính sách phải được tập thể bàn bạc,
thảo luận. Hồ Chí Minh giải thích: "Một người khôn ngoan, tài giỏi đến mấy, kinh nghiệm đến đâu
cũng chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc một số mặt của vấn đề, không thể xem xét được tất
cả mọi mặt của vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều
người thì vấn đề mới được thấy rõ mọi mặt", “khôn bầy hơn khôn độc”. "Lãnh đạo không tập thể
sẽ dẫn tới độc đoán, bao biện, kết quả là hỏng việc". Khi tập thể đã thảo luận, góp ý kiến, đã thành
nghị quyết thì theo đó mà thi hành. Thực hiện cá nhân phụ trách nghĩa là: "Việc gì đã được đông
người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm
người phụ trách theo kế hoạch mà làm, như thế công việc mới chạy". "Không cá nhân phụ trách
sẽ sinh ra tệ người này uỷ cho người kia không ai thi hành". Kết quả là "việc gì cũng không xong".
Dân gian nói: “Cha chung không ai khóc”, “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” là như vậy. Thực
hiện nguyên tắc này phải linh hoạt: "Không thể việc nhỏ nhặt vụn vặt cũng chờ tập thể bàn bạc"; lOMoAR cPSD| 61601492
không thể vin vào trách nhiệm cá nhân "để lấn át tập thể, dẫn đến độc đoán chuyên quyền". b) Vận dụng
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay
là nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh mới. Đối với sinh viên, việc vận dụng nguyên tắc
này không chỉ là bài học lý thuyết mà còn là trách nhiệm thực tiễn trong việc xây dựng môi trường
học tập, rèn luyện và phát triển bản thân. Sinh viên cần hiểu rõ rằng tập thể lãnh đạo và cá nhân
phụ trách là hai yếu tố không thể tách rời, và chỉ khi kết hợp chúng một cách hài hòa mới có thể
phát huy được sức mạnh tập thể, đồng thời đảm bảo trách nhiệm cá nhân trong công việc, học tập.
Sinh viên phải biết thực hành dân chủ trong môi trường học đường, tham gia đóng góp ý kiến xây
dựng tập thể, tuân thủ kỷ luật và kỷ cương. Tuy nhiên, dân chủ không thể tách rời tập trung, nên
việc đưa ra quyết định, lãnh đạo và thực thi các công việc phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cá nhân và tập thể. Sinh viên cũng cần nhận thức rằng, khi thực hiện quyền dân chủ, phải gắn liền
với trách nhiệm, không để các hành động cá nhân đi ngược lại lợi ích chung. Từ đó, mỗi sinh viên
góp phần xây dựng môi trường học tập và công tác dân chủ, đoàn kết, kỷ luật, thúc đẩy sự phát
triển bền vững trong xã hội.
3.2. Tự phê bình và phê bình a) Phân tích
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình cũng là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật
phát triển của Đảng. Phê bình là nêu ưu điểm và khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là
nêu ưu điểm và khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê bình và phê bình là để nhận rõ ưu khuyết
điểm của mình và đồng chí mình để có hướng phát huy và khắc phục. Theo Hồ Chí Minh: "Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết
điểm của mình, xem khuyết điểm đó từ đâu tới rồi tìm mọi cách sửa chữa. Như vậy mới là một
Đảng mạnh dạn, chắc chắn chân chính”. Với mỗi cán bộ, đảng viên Hồ Chí Minh nói: "Người đời
không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm". Phải tự phê bình trước, phải biết mình
phải quấy chỗ nào trước rồi phê bình người khác. "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” phải hiểu là như
vậy. Mục đích của phê bình và tự phê bình là giúp nhau tiến bộ, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm;
làm cái ác mất dần đi, cái thiện nảy nở sinh sôi, để làm việc tốt hơn; toàn Đảng sẽ dần hết khuyết
điểm, ưu điểm ngày càng nhiều thêm. Khi tự phê bình hay phê bình, cần có thái độ, tinh thần triệt
để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt; phải có tinh thần nhân ái, "phê bình việc làm chứ
không phê bình người"; "không soi mói chua cay, mỉa mai, đâm thọc"; không phải đập cho tơi bời,
không trù dập người phê bình mình. Đồng thời, cần phải phê bình công khai có tổ chức; phái thực
sự dân chủ, mềm dẻo, khéo léo; phải cụ thể, chính xác, nói có sách, mách có chứng. Phê bình trong
nội bộ đảng đồng thời phải tự phê bình trước quần chúng. Người nói: dân ta rất tốt, ai có khuyết
điểm mà thành thật tự phê bình trước dân, quyết tâm sửa chữa thì dân sẵn sàng tha cho. Tự phê
bình, phê bình phải thường xuyên như hàng ngày rửa mặt. b) Liên hệ
Tự phê bình và phê bình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của
tổ chức đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng. Thực hiện tốt công tác tự phê bình
sẽ là cơ sở, là yếu tố cơ bản góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, chính sách pháp lOMoAR cPSD| 61601492
luật của Nhà nước. Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả, trước hết phải tạo được chuyển biến
trong nhận thức, động cơ, thái độ, trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên trước vấn đề có tính quy
luật trong xây dựng Đảng, phải coi tự phê bình và phê bình là công việc hàng ngày của Đảng. Như
vậy, để thực hiện tốt tự phê bình, phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),
trước hết đòi hỏi cấp ủy, chi bộ phải làm tốt công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, tư tưởng cho
mỗi cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình; xây dựng động cơ, thái độ, tinh thần trách nhiệm
của người đảng viên, trung thực, khách quan, thẳng thắn, chân thành, công tâm trong tự phê bình
và phê bình, kiên quyết đấu tranh khắc phục thái độ "dĩ hòa vi quý", hữu khuynh né tránh “im lặng
là vàng”, hoặc tô hồng thành tích, bao che, dấu giếm khuyết điểm và mọi biểu hiện cơ hội, thực
dụng trong tự phê bình và phê bình. 3.3. Đoàn kết, thống nhất trong Đảng a) Phân tích
Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết, thống nhất
trong Đảng trước hết là trong cấp ủy, trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng. Trong
Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết
là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. b) Liên hệ
Đoàn kết trong Đảng là yếu tố quyết định đến sức mạnh và sự ổn định của Đảng, đồng thời là nền
tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, sự đoàn kết trong Đảng
không chỉ thể hiện trong việc thực hiện các nghị quyết, đường lối của Đảng mà còn trong sự thống
nhất giữa các cấp ủy, cán bộ lãnh đạo. Việc đoàn kết trong Đảng sẽ tạo ra một môi trường làm việc
hiệu quả, từ đó củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, đoàn kết là
truyền thống quý báu của Đảng và dân tộc ta, là động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước. Đặc biệt,
trong giai đoạn hội nhập quốc tế và đối mặt với nhiều thách thức, đoàn kết càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết. Trong thực tiễn, mỗi đảng viên và cán bộ cần ý thức được tầm quan trọng của sự
đoàn kết, không chỉ trong công tác lãnh đạo mà còn trong mọi hoạt động xã hội. Đoàn kết trong
Đảng chính là hình mẫu để toàn dân thực hiện mục tiêu chung, xây dựng một xã hội vững mạnh, tiến bộ.
Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước: Nhà nước dân chủ, Nhà nước pháp quyền 4.1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ
a) Bản chất giai cấp của nhà nước -
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ nhưng không phải
là“nhà nước toàn dân”. Nhà nước bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, mà Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo quan điểm của Hồ Chí Minh là nhà nước mang bản chất
của giai cấp công nhân, được thể hiện trên ba phương diện:
• Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là Đảng cầm quyền. Hiến pháp năm 1959
khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh lOMoAR cPSD| 61601492
công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh nòng cốt của
nhân dân là liên minh công – nông – trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó
là ĐCSVN lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng các phương thức: (1) Bằng đường lối, quan
điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch; (2) Bằng
hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước;
(3) Bằng công tác kiểm tra
• Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng XHCN trong
sự phát triển đất nước. Mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh là đưa đất nước đi
lên CNXH và CNCS. Việc giành chính quyền và lập Nhà nước Việt Nam mới là để giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện mục tiêu này.
• Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh chú ý đến cả hai mặt dân chủ và tập trung; Người nhấn mạnh đến sự cần thiết
phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải
tập trung thống nhất quyền lực để tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. -
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và
tínhdân tộc, thể hiện cụ thể ở:
• Một là, Nhà nước mới ở Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ
của nhiều thế hệ. Đảng ra đời trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân
dân, kết hợp sức mạnh của toàn dân tộc đi đến thắng lợi. Do vậy, Nhà nước Việt Nam
không phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào mà là thuộc về nhân dân.
• Hai là, Nhà nước Việt Nam xác định rõ mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi
của dân tộc là nền tảng. Hồ Chí Minh khằng định quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân
thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Nhà nước Việt Nam mới
không chỉ là đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân mà còn của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
• Ba là, nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam mới là tổ chức nhân dân tiến hành kháng chiến
bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh. Quá độ lên CNXH và tiến đến CNCS là sự nghiệp của Nhà nước. b) Nhà nước của dân -
Theo quan điểm HCM, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả mọi quyền lực trong
nhànước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước của dân tức là “dân là chủ”. -
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực qua dân chủ trực tiếp và gián tiếp.
Dânchủ trực tiếp là nhân dân quyết định mọi vấn đề liên quan đến quốc gia và quyền lợi của mình,
Hồ Chí Minh luôn coi trọng hình thức này. Dân chủ gián tiếp là nhân dân thực thi quyền lực qua
các đại diện và thiết chế quyền lực được bầu ra. Theo quan điểm của HCM, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
• Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Quyền lực của nhà nước là do nhân
dân ủy thác. Các cơ quan quyền lực cùng cán bộ nhà nước là "công bộc của dân", không
phải để "đè đầu dân". Người nhấn mạnh rằng cán bộ, từ chủ tịch đến bộ trưởng đều là "đầy
tớ" của nhân dân, không phải "quan cách mạng". Hồ Chí Minh phê phán các cán bộ thoái lOMoAR cPSD| 61601492
hóa, biến chất, coi mình là "quan cách mạng", đứng trên nhân dân, quên rằng họ được bầu ra để phục vụ dân.
• Nhân dân có quyền kiểm soát, phên bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu mà
họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên.
Đây là quan điểm rõ ràng của HCM nhằm đảm bảo cho mọi quyền lực, trong đó có quyền
lực nhà nước luôn nằm trong tay dân chúng.
• Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Luật phá trong Nhà nước việt
Nam mới phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Luật pháp đó là của
dân, là công cụ thực thi quyền lực nhân dân, phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước.
c) Nhà nước do nhân dân
Trong TTHCM, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân dân lập nên sau thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên nền
tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ.
Nhà nước do nhân dân làm chủ có nghĩa là nhân dân không chỉ nắm quyền lực mà còn có quyền
lợi và nghĩa vụ đối với đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhân dân làm chủ thì phải có nghĩa
vụ làm tròn bổn phận công dân", tuân theo pháp luật, giữ trật tự, đóng thuế đúng hạn và tham gia
bảo vệ Tổ quốc, tài sản công cộng.
Nhà nước do nhân dân làm chủ phải tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ
của mình theo Hiến pháp và pháp luật. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên tôn trọng quyền
làm chủ của nhân dân và coi trọng việc giáo dục để nhân dân có năng lực thực hiện quyền dân chủ.
Nhà nước không chỉ tuyên bố quyền làm chủ mà còn động viên nhân dân chuẩn bị năng lực làm
chủ, thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân. d) Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì nhân dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc
quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan và
cán bộ nhà nước phải vì nhân dân phục vụ, luôn đặt quyền lợi dân lên trên hết. Thước đo một Nhà
nước vì dân là phải được lòng dân và để được lòng dân, cán bộ phải yêu dân, đặt quyền lợi của
dân trên hết, và có tinh thần chí công vô tư. Cán bộ vừa là đày tớ vừa là lãnh đạo nhân dân, phải
có đức và tài, trung thành, tận tụy, và trí tuệ sáng suốt, gần gũi nhân dân, vì lợi ích lâu dài của dân.
* Liên hệ trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng và bảo vệ Nhà nước dân chủ đồng thời
phát huy quyền dân chủ của công dân
Sinh viên có trách nhiệm trong việc xây dựng và bảo vệ Nhà nước dân chủ bằng cách tham gia vào
các hoạt động xã hội, chính trị và thực hiện quyền công dân của mình. Sinh viên cần phát huy
quyền dân chủ, tham gia bầu cử khi đủ tuổi, phản ánh chính kiến và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của bản thân và cộng đồng. Đồng thời, sinh viên cần rèn luyện phẩm chất đạo đức, trí thức để trở
thành những công dân có trách nhiệm, góp phần vào quá trình phát triển đất nước theo hướng dân
chủ, công bằng và văn minh.
4.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền lOMoAR cPSD| 61601492
a) Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà nước Việt Nam mới, nhận thức rõ tầm
quan trọng của Hiến pháp và pháp luật. Điều này thể hiện qua bản Yêu sách của nhân dân An Nam
gửi Hội nghị Vécxây năm 1919, yêu cầu cải cách nền pháp lý, bảo đảm quyền lợi pháp lý cho
người dân và xoá bỏ các toà án đặc biệt.
Sau này, khi lãnh đạo Nhà nước, Hồ Chí Minh tiếp tục quan tâm đến việc tổ chức Nhà nước và
điều hành xã hội dựa trên pháp luật, làm cho tinh thần pháp quyền thấm sâu trong mọi hoạt động.
Ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đề xuất tổ chức Tổng tuyển cử với chế
độ phổ thông đầu phiếu để lập Quốc hội và Chính phủ hợp hiến, nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho Nhà nước và quan hệ quốc tế. Cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 đã thành công, đánh dấu
lần đầu tiên mọi công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử. Ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I họp
và Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ, lập ra các cơ quan Nhà nước với tư cách pháp
lý đầy đủ để giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại. b) Nhà nước thượng tôn pháp luật
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý bằng Hiến pháp và pháp luật, với việc chú trọng
xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại. Hồ Chí Minh đã tham gia soạn thảo Hiến pháp năm
1946 và 1959, ký 16 đạo luật, 613 sắc lệnh, chủ yếu về tổ chức Nhà nước và pháp luật, thể hiện
nỗ lực trong công tác lập pháp dù đất nước gặp nhiều khó khăn.
Cùng với công tác lập pháp, Hồ Chí Minh còn chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, bảo
đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng luật của nhân
dân, đặc biệt là giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật. Người cho rằng pháp luật là công cụ quyền
lực của nhân dân, vì vậy cần giúp dân biết sử dụng quyền dân chủ của mình. Việc giáo dục pháp
luật, đặc biệt cho thế hệ trẻ, là yếu tố quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền. Hồ Chí
Minh cũng chú trọng nâng cao dân trí và phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, giúp họ
tham gia vào công việc chính quyền.
Hồ Chí Minh nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật, khẳng định pháp luật Việt Nam khoan hồng
với những người cải tà quy chính, nhưng sẽ trừng trị nghiêm khắc những kẻ phản quốc. Người yêu
cầu pháp luật phải đúng và đủ, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho dân.
Cán bộ thực thi pháp luật phải công tâm và nghiêm minh. Hồ Chí Minh phê phán tình trạng thưởng
quá rộng, phạt không nghiêm, và lẫn lộn giữa công và tội.
Hồ Chí Minh khuyến khích nhân dân giám sát công việc của Nhà nước và quá trình thực thi pháp
luật, đồng thời yêu cầu cán bộ các cấp, đặc biệt là ngành hành pháp và tư pháp, phải gương mẫu
tuân thủ pháp luật. Người nhấn mạnh cán bộ cần nêu cao gương mẫu "phụng công, thủ pháp, chí
công vô tư". Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về việc sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, coi đó là nền nếp, thói quen tự nhiên trong cuộc sống. c) Pháp quyền nhân nghĩa
“Pháp quyền nhân nghĩa” là Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, chăm lo lợi ích mọi
người. Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người toàn diện, bao gồm quyền sống, quyền chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, và quyền của các nhóm như phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số. Mục
tiêu cách mạng là giải phóng con người, giúp họ có cuộc sống tự do, hạnh phúc và được hưởng lOMoAR cPSD| 61601492
đầy đủ quyền con người. Hiến pháp Việt Nam ghi nhận quyền con người, là cơ sở pháp lý để bảo
vệ và thực thi quyền lợi này.
Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật mang tính nhân văn, khuyến thiện, bảo vệ quyền con
người và nghiêm minh nhưng công bằng. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ đầu đã
xoá bỏ luật pháp hà khắc của thực dân, cam kết không tàn sát bất kỳ ai, kể cả kẻ phản bội Tổ quốc,
mà trừng trị theo pháp luật. Hệ thống pháp luật khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt, và tập trung
vào giáo dục, cảm hóa con người. Hồ Chí Minh cho rằng, pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo
đức xã hội và phục vụ con người. * Liên hệ:
Sinh viên, với vai trò là thế hệ trẻ và trí thức của đất nước, có trách nhiệm quan trọng trong việc
bảo vệ và phát triển Nhà nước pháp quyền. Sinh viên cần hiểu và tôn trọng pháp luật, đồng thời
phát huy quyền dân chủ của công dân, tham gia tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng,
văn minh. Sinh viên có thể đóng góp vào việc thúc đẩy giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật trong cộng đồng, đồng thời thể hiện tinh thần trách nhiệm trong việc giám sát các
cơ quan, tổ chức để bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Bằng cách này, sinh viên không chỉ góp phần
vào sự phát triển của Nhà nước pháp quyền, mà còn xây dựng nền tảng đạo đức và trí thức vững mạnh cho xã hội.
Câu 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc.
5.1. TTHCM về vai trò của đại đoàn kết dân tộc
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc thể hiện ở các vấn đề chính sau:
a) Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. -
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán của
cáchmạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn
người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài
xâm lấn”. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên chiến lược
này được duy trì trong cả cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi
giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp
tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau,
song không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng. -
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều
luậnđiểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết
là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó
khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh,
là then chốt của thành công”, “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này
mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”. Người đã đi đến kết luận: lOMoAR cPSD| 61601492
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành
công, thành công, đại thành công”
b) Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. -
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu
lâudài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên tất yếu đại đoàn kết
toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ này phải được quán
triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của
Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh tuyên
bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. -
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết là
yêucầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất bại trong cuộc đấu
tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo
thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người. -
Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt
Nam vàNhà nước Việt Nam.
5.2. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. -
Trước hết sinh viên cần nhận thức rõ về vai trò của đại đoàn kết dân tộc, quán triệt tư tưởng
đạiđoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc, từ đó ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy tính năng động của bản thân, tinh thần tự lực tự
cường, vượt qua mọi thách thức. Sinh viên cung cần nâng cao nhận thức của bản thân về vị trí, vai
trò và tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện
Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ chính trị về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ Chí
Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo
là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều hình thức; trong đó chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. -
Sinh viên cần gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân: tuyên truyền, vận động gia đình
vànhân dân trên địa bàn thực hiện tốt chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước; bảo vệ quyền
lợi, lợi ích hợp pháp của công dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. -
Trong đời sống, sinh viên cần tích cực tham gia các tổ chức chính trị xã hội nhằm tuyên
truyềncho mọi người về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân (mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội sinh viên , Đoàn thanh niên. . . ). lOMoAR cPSD| 61601492
Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm chất
đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm
chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách mệnh cho đến bản Di chúc.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, trong khi phong kiến yêu cầu dân tuân theo phẩm chất cần, kiệm,
liêm, chính nhưng không thực hiện, thì ngày nay, cán bộ phải làm gương cho nhân dân, thực hiện
các phẩm chất này vì lợi ích của nước và dân. Đây cũng là biểu hiện của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân".
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những khái niệm truyền thống trong đạo đức dân tộc,
được Hồ Chí Minh cải biên, loại bỏ những yếu tố không phù hợp và bổ sung nội dung mới, đáp
ứng yêu cầu của cách mạng.
Cần là siêng năng, chăm chỉ và có kế hoạch trong công việc, lao động sáng tạo và có năng suất
cao, với tinh thần tự lực cánh sinh. Phải thấy rõ: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi; là tiết kiệm sức lao động, thời
gian, tiền của, không phô trương hay hoang phí. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, khi cần phải
chi tiêu cho công việc ích lợi cho dân tộc và đất nước, dù nhiều hay ít cũng phải vui lòng. Hồ Chí
Minh yêu cầu phải "Cần kiệm xây dựng nước nhà".
Liêm là trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, tiền tài, hay sung sướng. Liêm đi đôi với
Kiệm, phải tiết kiệm mới có thể trong sạch. Liêm cũng là ham học, ham làm, ham tiến bộ, không ham người tâng bốc.
Chính là thẳng thắn, đúng đắn, không tà, thể hiện qua các mối quan hệ: với bản thân phải khiêm
tốn, với người phải chân thành và thực hành bác ái, với công việc phải đặt lợi ích quốc gia lên trên
lợi ích cá nhân, làm việc thiện và tránh việc ác.
Hồ Chí Minh cho rằng các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ chặt chẽ, ai cũng phải
thực hiện, nhưng cán bộ, đảng viên phải là những người gương mẫu, thực hành trước. Người nhấn
mạnh rằng các cán bộ, công chức, nhất là những người có quyền hạn, nếu không giữ vững các
phẩm chất này sẽ dễ trở thành hủ bại, gây tổn hại cho dân.
Chí công vô tư là vì lợi ích chung, không vì lợi ích cá nhân, công bằng, không thiên vị, luôn đặt
lợi ích của Đảng, nhân dân, dân tộc lên trên hết. Nó là sự phản đối chủ nghĩa cá nhân, thể hiện qua
việc luôn lo cho tập thể trước, không nghĩ đến lợi ích cá nhân. Chí công vô tư gắn liền với các
phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, và yêu cầu cán bộ, dù ở cấp nào, cũng phải thực hành liêm chính, làm gương mẫu cho dân.
Hồ Chí Minh cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới và phong trào thi đua
yêu nước. Đây là bốn đức tính cơ bản, thể hiện sự giàu có về vật chất, mạnh mẽ về tinh thần và là
yếu tố thiết yếu để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt. Thiếu một trong các đức tính này thì không thể thành người. lOMoAR cPSD| 61601492 * Liên hệ:
Sinh viên, với vai trò là thế hệ trẻ, có trách nhiệm thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng như
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cần chủ động, siêng năng trong học tập và rèn luyện bản
thân, sử dụng thời gian và tài chính hiệu quả. Kiệm trong việc tiết kiệm thời gian, tránh lãng phí,
tập trung vào việc học và phát triển bản thân. Liêm trong sạch, trung thực, không tham lam và
dũng cảm lên tiếng đấu tranh chống lại sai trái. Chính nghĩa là công bằng, không thiên vị, đặt lợi
ích cộng đồng lên trên hết. Chí công vô tư là vì lợi ích chung, không vì cá nhân, luôn nghĩ đến
trách nhiệm đối với xã hội. Thực hiện các chuẩn mực này, sinh viên không chỉ phát triển bản thân
mà còn đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Câu 7: Quan điểm của Hồ Chí
Minh về vai trò của văn hóa
7.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
a) Văn hóa là mục tiêu
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nằm trong mục tiêu
chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu nhìn một cách tổng quát là quyền sống, quyền
sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân,
thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân chủ - dân là chủ và dân làm chủ - công bằng, văn minh, ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân luôn luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho một xã hội phát triển bền vững với ba trụ cột là bền vững về kinh
tế, xã hội và môi trường. Chúng ta có thể nhận thức ở những mức độ khác nhau trong di sản Hồ
Chí Minh về các mục tiêu của Chương trình nghị sự XXI, một phần quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.
b) Văn hóa là động lực.
Động lực là cái thúc đẩy cho sự phát triển. Di sản Hồ Chí Minh cho thấy động lực phát triển đất
nước bao gồm động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại
lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu
tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở các
phương diện chủ yếu sau:
- Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi, lãnh
đạoquốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Tư duy biện chứng, độc lập, tự chủ, sáng tạo
của cán bộ, đảng viên là một động lực lớn dẫn đến tư tưởng và hành động cách mạng có chất
lượng khoa học và cách mạng.
- Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạcquan,
ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. lOMoAR cPSD| 61601492
- Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật phát triển của
xãhội. Với sứ mệnh “trồng người”, văn hóa giáo dục đào tạo con người mới, cán bộ mới, nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
- Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người, hướngcon
người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người
cách mạng. Mọi việc thành hay là bại, là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không.
Nhận thức như vậy để thấy văn hóa đạo đức là một động lực lớn thúc đẩy cách mạng phát triển.
- Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.
7.2. Văn hóa là một mặt trận
Văn hóa là một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội, quan trọng ngang các vấn
đề kinh tế, chính trị và xã hội. Nói mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc
lập, có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh tính chất cam go, quyết
liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa -
tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống... của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là định hướng giá trị chân,
thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật. Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy
anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật
có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật phải có lập trường tư tưởng vững vàng; ngòi bút là vũ
khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần
chúng, để phê bình nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu, và ca
tụng chân thật những người tốt việc tốt để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay và giáo dục con
cháu đời sau. Đó chính là “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một thời đại vẻ vang. Vì vậy
chiến sĩ văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.
7.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng văn hóa của Người
cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc
sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của quần chúng.
Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn; phải trả
lời được các câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu mà viết? Cách viết như thế nào?
Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết rau muống mà ham dùng chữ. Nói cũng vậy. Nói ít, nhưng
nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần chúng thích hơn. Tóm lại “từ trong quần chúng ra.
Về sâu trong quần chúng”. Trên cơ sở đó để định hướng giá trị cho quần chúng.
Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là những người sáng tác rất
hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu quý. Và chính họ là những người
thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ. Nhân dân phải là những
người được hưởng thụ các giá trị văn hóa. lOMoAR cPSD| 61601492 7.4. Liên hệ
Sinh viên, là thế hệ trẻ, đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân
tộc. Trách nhiệm của sinh viên đối với văn hóa không chỉ dừng lại ở việc hiểu biết về lịch sử,
truyền thống mà còn thể hiện qua hành động và thái độ sống. Trước hết, sinh viên cần nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa dân tộc, từ đó chủ động tìm hiểu, học hỏi và truyền bá
các giá trị văn hóa này. Điều này có thể được thể hiện qua việc tham gia các hoạt động bảo tồn văn
hóa, bảo vệ di sản, tổ chức các sự kiện văn hóa truyền thống, hay đơn giản là giữ gìn các phong
tục, tập quán trong đời sống hằng ngày.
Bên cạnh đó, sinh viên cần tiếp thu những tinh hoa văn hóa quốc tế một cách có chọn lọc, sáng
suốt, tránh việc tiếp nhận một cách thụ động mà không suy nghĩ. Việc tiếp thu văn hóa mới cần đi
đôi với việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp xây dựng một nền văn hóa vừa hiện
đại, vừa giữ được những giá trị cốt lõi của dân tộc. Trách nhiệm của sinh viên còn thể hiện trong
việc tuyên truyền, giáo dục các thế hệ trẻ về giá trị của văn hóa, giúp họ nhận thức đúng đắn về ý
nghĩa của việc bảo vệ bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Với những đóng góp này, sinh viên sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển nền văn
hóa dân tộc, đồng thời nâng cao giá trị văn hóa của đất nước trong cộng đồng quốc tế.