lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu 1: Tại sao Mỹ học là khoa học nhân văn? Tại sao Mỹ học lại nghiên cứu cái
đẹp và nghệ thuật? Tính ứng dụng của Mỹ học?
* Mỹ học là khoa học nhân văn:
Mỹ học khoa học nhân văn, bởi cái đẹp một phạm trù mang tính nhân
văn, hướng tới vẻ đẹp của con người. Cái đẹp mang tính chủ quan, vì cùng một sự vật
hiện tượng, mỗi người có thể có những ý kiến, nhận định khác nhau.
Mỹ học một bộ phận của Triết học, quan tâm đến bản chất mối liên hệ giữa
các khách thể như cái Đẹp, cái Bi, cái Hài cái Cao Cả. Học mỹ học chính trau
dồi khả năng cảm thcái đẹp. Mỹ học một ngành khoa học, vậy nên các kết quả
nghiên cứu của môn học này các lập luận logic, khách quan. Bản thân Mỹ học không
dạy con người trở nên tốt đẹp hơn hay xấu xa hơn. Thế nhưng những ng trình nghiên
cứu Mỹ học thể cung cấp cho con người nhiều kiến thức về cái Đẹp và Nghệ thuật,
từ đó nâng cao khả năng cảm thụ của con người. Bằng con đường nói trên, Mỹ học
giúp con người có năng lực tạo lập cảm xúc tích cực trong chính cuộc sống của mình
thông quan việc việc nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp nghệ thuật. Từ thời Hy
Lạp cố đại, Aristotle đã cho rằng nghệ thuật khả năng "thanh lọc" (catharsis) tâm
hồn con người, giúp họ loại bỏ cảm xúc tiêu cực hướng đến sự ch cực. Một bộ
phim hay, một bản nhạc du dương hay một món ăn ngon thể làm tâm trạng chúng
ta tốt lên nhiều. Nếu chúng ta trau dồi kiến thức Mỹ học nhiều hơn, ta có thể cảm thụ
nghệ thuật một mức độ cao hơn, được “thanh lọc” một cách triệt để hơn, đồng thời
cũng có thể cảm thụ được cái đẹp trong các tác phẩm nghệ thuật trừu tượng, khó hiểu
hơn so với nghệ thuật đại chúng. Như vậy, Mỹ học ngành khoa học nhân văn không
phải vì nó dạy chúng ta phải nhân văn mà cung cấp cho ta những tri thức cần thiết để
thể cảm nhận i Đẹp sâu sắc hơn, từ đó thúc đẩy các cảm xúc tích cực trong ta,
khiến ta có năng lực để sống đẹp hơn, sống nhân văn hơn.
* Mỹ học lại nghiên cứu cái đẹp và nghệ thuật :
Nghệ thuật chính dạng vật chất của cái Đẹp - một trong những đối tượng
nghiên cứu cơ bản của Mỹ học.
Mỹ học là một bước trung gian, mỹ học nghiên cứu về cái đẹp, mà nghthuật
là nơi tập trung cái đẹp.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Cái đẹp nghệ thuật mang đến cảm xúc tích cực cho người tiếp nhận. Đó
cảm năng học , cái mà mỹ học hướng đến.
* Tính ứng dụng của Mỹ học:
Mỹ học hay có thể nói giáo dục thẩm mgiúp phát triển nhân cách nói chung
khả năng thưởng thức nghệ thuật cái đẹp i riêng vậy nên mỹ học được ứng
dụng rộng rãi vào thực tiễn. Mà đơn giản hơn, có thể hiểu và ứng dụng mỹ học chính
sự nhận thức, thưởng thức cảm nhận cái đẹp bằng sự rung động bản năng của con
người, điều ai cũng thể rèn luyện học hỏi được, càng sớm càng tốt không
phân biệt lứa tuổi. Càng tiếp xúc với nhiều điều tốt đẹp thì duy càng hội cởi
mở, càng hiểu được sự đa dạng và khác biệt của cái đẹp, để từ đó con người có thể tự
học được cách tôn trọng sự khác biệt và cũng sớm định vị được bản thân để không tự
ti.
Câu 2: Phân tích và chứng minh lao động là nguồn gốc hình thành quan hệ thẩm
mỹ. Tính thẩm mỹ của sản phẩm lao động hình thành như thế nào?
Con người ban đầu sinh thể tự nhiên, sau nhờ quá trình lao động phát triển
thành sinh thể hội. Độc lập khỏi giới tự nhiên, không những không phụ thuộc
còn lợi dụng, tận dụng tự nhiên, biết khai thác sản vật từ tự nhiên để phục vụ cho nhu
cầu sống của mình. Khi đó, con người trở thành chủ thể, chđộng bắt đầu hoạt
động thực tiễn. Hoàn cảnh sống xung quanh con người chính khách thể, mà khách
thể chính là vùng quan tâm của chủ thể là con người.
Lao động chính qtrình khởi nguồn của quan hệ thẩm mỹ. Lao động hoạt
động mục đích, ý thức của con người nhằm thay đi các vật thể tự nhiên phù
hợp với nhu cầu của con người. thể hiểu lao động vận dụng các sức mạnh của
tay chân hoặc trí óc thông qua công cụ lao động để cải tạo thiên nhiên nhằm mục đích
tinh thần phục vụ con người. Càng phát triển, càng nhiều dạng thức lao động (lao
động tay chân, lao động trí óc, lao động phức tạp, lao động nghệ thuật…). Học tập là
lao động dự trữ, càng xài càng không mất đi mà nó nhiều lên.
Lao động là nguồn gốc hình thành quan hệ thẩm mỹ bởi quá trình lao động giúp
cho con người hoàn thiện các giác quan và đôi bàn tay. Giác quan bao gồm mắt và tai,
đó chính là năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Đôi bàn tay kỹ năng kỹ xảo, chính năng
lực sáng tạo thẩm mỹ. Đôi tay con người vừa công cụ lao động vừa quan lao động
tạo ra sản phẩm mang tính thực dụng cho nhu cầu vật chất và mang tính thẩm mcao.
VD: Đồ thủ công mỹ nghệ là các tác phẩm nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao, là sản
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
phẩm tạo ra bởi năng lực tinh thần, kỹ năng, kỹ xảo và thủ pháp nghệ thuật. Thông
qua các sản phẩm này, cảm xúc của người sáng tạo được truyền đạt đến người tiếp
nhận
Câu 3: Phân tích và chứng minh sự đồng hóa trên lĩnh vực tinh thần là nội dung
của quan hệ thẩm mỹ. Ý nghĩa của vấn đề này trong đời sống thẩm mỹ?
Khái niệm quan hệ thẩm mỹ mối quan hệ giữa chủ thế thẩm mỹ - tức chủ
thể người hội nhu cầu khả năng đánh giá, thưởng thức, sáng tạo các giá trị
thẩm mỹ, với khách thể thẩm mỹ - tức những thuộc tính, khía cạnh, phẩm chất thẩm
mỹ ở các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên, trong xã hội và con người.
Đồng hóa là làm cho giống mình, làm cho những khách thể tự nhiên có những
tưởng, tình cảm , đặc tính của con người, chiếm lĩnh thực thể tri vô giác trên một
phương diện tinh thần.
Đồng hóa tinh thần diễn ra trong ý thức, tưởng. Sự đồng hoá về mặt tinh thần
này cũng trên cơ sở hoạt động thực tiễn của xã hội, nhưng đến lượt mình nó có
ý nghĩa xác định tính mục đích, phương pháp và định hướng cho hoạt động của con
người. Đồng hoá tinh thần năng lực chiếm nh đối tượng của chủ thể trong lĩnh vực
tinh thần, làm cho đối tượng đó có năng lực, phẩm chất như chủ thể mong muốn. Đối
tượng trở thành phương tiện để vật chất hoá tình cảm con người.
Giới tnhiên: phản ánh vào não người, não bắt đầu tiếp nhận lưu giữ cũng
như tái tạo thông tin (tái tạo + cảm xúc), xuất hiện những tưởng ợng các hình ảnh
trong hiện thực đã được thăng hoa trong ý thức. Ý thức thực thể hóa sự thăng hoa
thành biểu trưng, chuyện kể mang tính thần thoại. Đây quá trình của sự đồng hóa
tinh thần. Đây cũng là nội dung của quan hệ thẩm mỹ.
Câu 4: Phân tích và chứng minh giá trị thẩm mỹ hệ qucủa quan hệ thẩm mỹ.
Ý nghĩa của giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống?
Giá trị là đáp ứng được nhu cầu thì sẽ mang tính giá trị. Giá trị thẩm mỹ là nhu
cầu thẩm mỹ, biến đổi theo giá trị của lịch sử, là những đáp ứng cho nhu cầu của
con người vcái đẹp. Giá trị sống đẹp là nhiệm vụ của quan hệ thẩm mỹ. những
thuộc tính chung quy định giá trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ khách quan với nhân,
chủ quan với quy định chung của cộng đồng.
Thẩm mỹ không chỉ đòi hỏi vmặt nội dung còn về mặt nhận thức. Ngoài
ra, giá trị thẩm mỹ còn có tính dân tộc, thời đại, khách quan và chủ quan.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Cái thẩm mỹ không chỉ một thuộc tính của vật chất mà còn là một giá trị
xã hội quan hệ với con người trong quan hệ thẩm mỹ. Cái thẩm mỹmột loại giá trị
hội được đo bằng thước đo thẩm mcủa hội. Luận điểm này dựa trên học thuyết
Mác Lênin về vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức, quá trình đồng hoá thế
giới về mặt thẩm mỹ.
Giá trị phản ánh qua mức độ đáp ứng được nhu cầu sống, tồn tại của loài người.
Giá trị thẩm mỹ giá trị qua đó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của con người,
đáp ứng cho sự thiết định của cái đẹp.
Giá trị phản ánh nhu cầu, nhu cầu thay đổi thì giá trị sẽ thay đổi, nhu cầu mất đi
giá trị sẽ mất đi.
* Ý nghĩa :
Những giá trị được hình thành và phát minh trên cơ sở quy luật của cái đẹp, tức
là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá trị là nói đến cách nhìn, cách đánh giá, từ cách
đánh giá của con người đối với thế giới về nhiều mối quan hệ khác nhau như kinh tế,
chính trị, đạo đức, triết học, pháp quyền, khoa học. Trong đó, cái thẩm mỹ không hẳn
phải đối lập với các quan hệ xã hội đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản chất với các
quan hệ đó. Bởi, cái thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thỏa mãn những động cơ về
kinh tế, sự mưu cầu những lợi ích vật chất trực tiếp của con người.
Con người tiếp nhận thông tin, sau đó tái hiện lại thông tin cảm c thông
qua sự tưởng tượng, đồng thời tái hiện lại thông tin vốn có, đôi lúc phóng đại nó lên.
Giáo dục là nghệ thuật phát huy năng lực và phẩm chất của con người.
Câu 5: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Tây. Ý nghĩa của
quan niệm này trong Mỹ học hiện nay?
* Quan niệm cái đẹp trong lịch sử phương Tây:
Về mặt bản thể học: Thực chất cái đẹp là gì?
Theo quan niệm của Plato: Đẹp ý niệm - giữ ý niệm bên trong không thể
bị phai mờ. Còn trong quan niệm của Aristotle: Đẹp thực thể - thể hiện ra bên ngoài,
là cái có thể nhìn thấy và thay đổi theo thời gian.
Ý niệm đó tồn tại ngoài thế giới của chúng ta, ý niệm đó nhập vào con người
theo một mức độ khác nhau cho nên con người có một năng lực cảm nhận về cái đẹp
khác nhau. thể thấy, mỗi vùng miền, mỗi đất nước khác nhau con người ta lại
những quan niệm về cái đẹp khác nhau.
Cái Đẹp là Thực thể (Kant): Môsự vâđẹp là có hình dáng, kết cấu, sự liên kết
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Về mặt tâm thức luận: Làm thế nào tôi biết đó là đẹp?
Cái gì gây cho ta một cảm xúc vui sướng và sự hân hoan chính là cái đẹp. Đây
là cái đẹp không nghĩ về lợi ích mà phụ thuộc vào tâm ý, cảm xúc
Biểu trưng ý nghĩa toát ra từ đối tượng, từ hành đông. Từ cái A
n dắt đến cái B, vd thấy hoa sen liên tưởng đến tính cách con người.
Làm thế nào để hiểu về cái đẹp:
Phải thông qua ngôn ngữ, không chỉ tiếng nói chữ viết mà còn màu sắc, âm
thanh, dáng điệu, ký hiệu, biểu trưng, nghi thức
Đến giai đoạn này, sự thể hiện của cái đẹp bắt đầu mrộng về chiều sâu lý tính.
Hiểu về cái đẹp hiểu về nghệ thuật, hiểu về nghệ thuật hiểu được ngôn ngữ của
nghệ thuật, tạo hình và biểu hiện của nghệ thuật (văn chương).
Hiểu vchiều sâu tính hiểu được ý tưởng sâu xa, thấy được ý nghĩa thoát
ra từ đối tượng.
* Ý nghĩa: Cái đẹp theo quan niệm mỹ học ở phương Tây và Phương Đông được tiếp
cận nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc trên lập trường
duy tâm. Có quan niệm nhấn mạnh cái đẹpsự hòa điệu, có quan niệm đồng nhất cái
đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự nhiên, có quan niệm đi
tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần bên ngoài con người; song
cũng có quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó là sản phẩm của tầng lớp thống trị, là cái
không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái đẹp trong thời kỳ cổ đại
cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn đấu đạt đến và đều để lại
những tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu thêm tưởng thẩm mỹ
của mình.
Câu 6: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Đông. Ý nghĩa của
quan niệm này trong mỹ học hiện nay?
Trung Quốc:
Theo Kinh dịch: Cái sinh mệnh (sự sống) của con người bắt nguồn từ sự vận
động, biến đổi của trời đất, đây chính là bản chất của sinh mệnh. Bên cạnh đó là sự
thống nhất hài hoà tam tài, Thiên - Địa - Nhân, đây là yêu cầu của sinh
mệnh.
Sự vận động biến đổi phối hợp với sự thống nhất hài hoà dn đến đạo Âm -
Dương hòa hợp.
Nghệ thuật trong tranh vẽ, văn chương của TQ thống nhất một quy luật chung:
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Dương hiện Âm ẩn.
Người TQ quan niệm về cái đẹp: Chú trọng cái đẹp ở con người, quan niệm
rằng các phẩm chất cần có của cái đẹp là: Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh. Nghĩa
là:
Nguyên bản nguyên, nguyên thủy của muôn vât, khởi nguồn, được
cho là đứng đầu cái “thiện”, trong con người có những thứ tự nhiên,
không chỉnh sửa
Hanh sự tốt đẹp quan hệ màu sắc, hình thức cái đẹp và sự hưởng
thụ cái đẹp của con người
Lợi → có nghĩa là lợi ích, gắn bó với quan hệ giữa cái đẹp và sự tồn tại,
phát triển của sự sống; còn được hiểu là sự tương quan giữa cảm thụ thẩm mỹ với
dục vọng sinh lý như là một cảm quan tự nhiên như là sự phát triển lành mạnh bình
thường của sự sống tự nhiên, phù hợp với đặc
điểm sinh lý con người
Trinh → có nghĩa là phù hợp với chính đạo, giữ vững chính đạo có
quan hệ giữa cái đẹp quy luật tự nhiên, giữa cái Đẹp đạo đức
phẩm cách của con người.
Ấn Độ:
Thờ ba vị thần chính là Brahama, Shiva, Vishiu, ngoài ra còn thờ thần Agai.
Người Ấn Độ quan niệm rằng, con người phải giải phóng từ tâm linh của
chính mình, và trong con người có 2 “cái ta” (cái tôi), một ta thật và một ta giả - làm
những không thật với chính mình. Cũng từ đây tạo ra nghiệt, sinh ra khổ,
thế con người phải tu tập, tìm đến thiền định, tìm thấy được cái an bình
tĩnh lặng trong tâm hồn, để có thể trở về với cái ta thật của chính mình.
Quan niệm triết học Ấn Độ cổ đại:
Cái đẹp bản chất (chân thực) đằng sau vô vàn cái đẹp hỗn tạp, mà chỉ thông
qua tu tập mới giác ngộ được.
Cái đẹp này luôn trong tiềm thức của con người nhưng phải tự giác ngộ
lấy.
Khi sinh ra, con ng mang bản chất thật sự, phản ánh những gì họ thấy,
nghe, cảm nhận đc. Nhưng sau 1 thời gian, con ng sẽ dần thành bản chất
giả, do mọi thứ xung quanh tác động lên khiến bản chất bị thay đổi, phải
mang bộ mặt giả để thích nghi với xã hội
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Quan điểm Ấn Độ: Tư tưởng mỹ học quan niệm rằng cái đẹp là cái đẹp có
thực, nhưng không phải là cái đẹp chân thực (cái hình ảnh ko phai mờ, lưu
giữ mãi
trong tim, đó mới là cái đẹp chân thực nhất)
Tóm lại: cái đẹp của Ấn Độ cổ đại được hiểu như là cái đẹp của Brahman
(linh hồn vĩ đại) đc nhận thức trong trạng thái con ng đã lánh xa đc tội lỗi, đạt
đc đến sự thanh thoát, thư thái, ko còn ham muốn dục vọng Tạm kết: Trong quan
niệm cái đẹp Triết học Đông phương:
Trung Quốc: cái đẹp chú trọng đạo đức con người: nó là cái thiện, hình thức là
cái mỹ.
Ấn Độ: cái đẹp mang ý nghĩa tôn giáo, cái đẹp mang tính chất thiêng liêng đầy
yếu tố tâm linh.
* Ý nghĩa: cái đẹp theo quan niệm mỹ học cổ đại phương Đông phương Tây cũng
được tiếp cận ở nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc trên lập
trường duy tâm. Có quan niệm nhấn mạnh cái đẹp sự hòa điệu, quan niệm đồng
nhất cái đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự nhiên, có quan
niệm đi tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần ở bên ngoài con người;
song cũng quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó là sản phẩm của tầng lớp thống trị,
là cái không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái đẹp trong thời kỳ
cổ đại cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn đấu đạt đến và đều
để lại những tư tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu thêm tư tưởng thẩm
mỹ của mình.
Câu 7:
Câu 8:
Câu 9: Trình bày phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả và các hình thức biểu
hiện của cái Bi? Dẫn chứng một nh huống Bi trong đời sống hoặc trong nghệ
thuật.
* Nguồn gốc:
Khi con người ta rơi vào bi kịch nhưng họ sẽ không thấy đời mình bi kịch. Khi
mà vượt qua được rồi, nhìn lại, tách chủ thể và đối tượng ra khỏi, mới thấy bi kịch.
Cái bi hiện tượng thẩm mỹ, diễn tả quy của một hành động hoàn chỉnh
(bao gồm tình tiết như là linh hồn, cơ sở của bi kịch và tính cách đi theo sau tình tiết)
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
thường kết thúc bằng một cái chết. Mặc dù cái chết không phải lúc nào cũng là cái bi.
thực chất cái bi cái đẹp bị thất bại, bị huỷ diệt trong quá trình đấu tranh với cái
xấu.
Cái Bi thất bại của cái đẹp, là cái chết của cái “đẹp” trong quá trình chống lại
cái “xấu”.
Người học mỹ học phải biết tới Katharcis, 1 sự phản tính trong nhân cách. (Phản
tính là sự nhận thức lại cái sự việc, xđ lại giá trị của nó cũng như làm quay lưng lại vs
cái xấu, đấu tranh chống lại cái xấu và quay lưng lại vs cái xấu)
Có 3 nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh cái Bi:
- Cái bi nảy sinh do những hiện tượng tự nhiên quái ác, bất ngờ gây ra để lại
những hậu quả nghiêm trọng cho người lương thiện: động đất, bão lụt, nước dâng…
- Cái bi nảy sinh từ các cuộc đấu tranh giai cấp trong hội khi những lực
lượng tiến bộ cách mạng đứng lên nhằm lật đổ các thế lực phản động lạc hậu nhưng
lực bất tòng tâm không những không chiến thắng còn phải nhận đòn thất bại
(VD: công xã Pari, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh…)
- Cái bi là hậu quả của sự ngu dốt của con người. Vì ngu dốt con người đã có
những việc làm trái với tự nhiên, trái với quy luật nên bị thất bại thảm hại. ng
ngu dốt mà con người đã tự đặt ra những hủ tục lạc hậu để trói buộc mình và gây nên
những hậu quả thương tâm * Bản chất :
Bản chất của cái bi sự xung đột. Giữa cái đẹp/ cái thiện với cái xấu/ cái ác.
Nó diễn ra trong mỗi cá nhân, ý niệm của cái thiện đối chọi với cái ác, là sự đấu tranh
giữa cá nhân với xã hội, giữa đạo đức cá nhân với luân lý xã hội.
Cái bi thường gắn liền với sự thất bại, nỗi đau đớn, niềm bất hạnh của một con
người hay của một hiện tượng xã hội nào đó mà xét về mặt bản chất vốn thuộc về
cái đẹp, cái cao cả hoặc cái anh hùng. Nói một cách khái quát, cái bi là cái đẹp bị thất
bại tạm thời, cái đẹp nửa đường đứt gánh. Mặc dầu bị thất bại nhưng cái bi không
gợi lên cảm giác về sự bi quan, bi lụy mà ngược lại vn mang âm hưởng lạc quan
bởi lẽ sự thất bại của cái bi chỉ là sự thất bại tính chất ngu nhiên tạm thời, sự thất
bại để gieo mầm chiến thắng. Trước cái bi người ta thường bộc lộ sự đồng cảm tiếc
thương sâu sắc.
“Xung đột bi kịch giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử tình trạng ko tài nào
thực hiện đc điều đó thực tiễn. Bỏ qua yếu tố ấy thì đã làm giảm sự bi kịch” (Engels)
* Hệ quả: - Cái bi tạo ra sự đa dạng về mặt cảm xúc (sợ hãi, tích cực, vui vẻ, căm
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
giận,...). Nhưng những cảm xúc đó hoàn toàn mang tính tích cực đó là sự thăng hoa
từ những giá trị thẩm mỹ cái bi mang lại.
=> Trạng thái: thanh lọc, thanh tẩy.
Khi một giọt nước mắt nhỏ xuống xót thương cho cái đẹp bị thất bại, hủy diệt, nghĩa
là ở đó đã sinh ra sphản đối, không đồng tình với cái xấu, đấu tranh tiêu diệt cái xấu,
phục sinh cái đẹp.
* Biểu hiện:
- Bi của cái cũ: những lực lượng hội đã xác lập được vị thế trong lịch sử, vn
còn năng lực thúc đẩy sự phát triển của hội nhưng một do nào đó bị thất bại,
huỷ diệt từ đó nảy sinh cái bi.
- Bi của cái mới: những con người xã hội, cá nhân đại diện cho một trào lưu tiến
bộ mở đường cho sự phát triển, tuy nhiên trong quá trình phát triển lại bị cái xấu chống
đối tiêu diệt d
n đến thất bại (“chết trong bình minh”).
- Cái bi lầm lạc: sự hạn chế năng lực của nhận thức * Dẫn chứng:
Đây câu chuyện thật xảy ra từ thời Trung Cổ, Romeo Juliet” kể về tình
yêu lãng mạn nhưng cũng đầy bi kịch giữa Romeo Montague một chàng trai lương
thiện, tốt bụng – và Juliet Capulet một cô gái xinh đẹp, thánh thiện và thơ ngây.
Tóm tắt: Trong thành Verona của Italy, hai dòng họ Montague và Capulet vốn
mối hận thù lâu đời. Bi kịch bắt đầu từ khi con trai của dòng họ Montague Romeo
trà trộn dạ tiệc hóa trang của nhà Capulet, chàng đã gặp nàng Juliet hai người
yêu nhau ngay tcái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên, do mối hận thù sâu sắc giữa hai dòng
họ, lại thêm sự cố khiến Romeo giết chết người họ hàng của Juliet Tybalt, nên hai
người không thể đến được với nhau. Romeo bị trục xuất khỏi thành Verona, còn Juliet
thì bị gia đình ép gả cho tước Paris. Nhờ tu nhà thờ giúp đỡ, nàng đã uống một
liều thuốc ngủ để giả chết trong vòng 24 giờ, thế đám cưới giữa Juliet Paris lại
trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mcủa gia đình. Nghe tin nàng
chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Khi ngắm nhìn dung nhan người yêu thương đã
khuất, chàng uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì
cũng lúc thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo
bên cạnh. Quá tuyệt vọng, nàng rút dao tự v n.
Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Họ đã xóa sạch
mối thù truyền kiếp và bắt tay hữu nghị. Nhưng những gì còn lại vn là nỗi xót xa cho
một cuộc tình đẹp tựa bài thơ. Câu chuyện Romeo Juliet không chỉ ngợi ca tình u
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
lãng mạn trong sáng, mà nó n gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn. Quả thật,
tình yêu trong ngần và đẹp tựa pha thlàm tan chảy những gì “thù hận”, là
“định kiến”, hay bảo thủ truyền thống. Hành động của Spartacus hành động bi
kịch của nô lệ cách mạng khác với nô lệ thuần túy và nô lệ thô bỉ.
Câu 10: Trình bày phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả các hình
thức biểu hiện của cái Hài? Dẫn chứng một tình huống Hài trong đời sống hoặc
trong nghệ thuật.
* Nguồn gốc:
Cái hài là sự ngụy tạo của một nội dung xấu trong một hình thức đẹp nhưng lại
bị phát hiện và tạo ra tiếng cười phê phán.
Cái hài từ một hiện tượng trong đời sống xã hội mà hệ quả của nó thường đem
lại tiếng cười. Tuy nhiên không phải tiếng cười nào cũng hệ quả của cái hài.
những tiếng cười bắt nguồn từ tâm sinh lý hay bệnh lý.
Cái hài hước được hình thành từ khập khiễng, từ sự mâu thun:
- Sự khập khiễng, mất cân xứng (“so le”) về hình thức.
- Sự mâu thun ở hình thức và nội dung. * Bản chất:
Cái hài là cái xấu nhưng không cam phận xấu. Để che đậy bản chất xấu xa, đồi
bại của cái hài đã tự khoác lên mình một bộ áo giả tạo bên ngoài hiện thân của
cái đẹp để đánh lừa luận xã hội, đkéo dài stồn tại vốn đã lỗi thời của nó. Tuy
nhiên, dù cố tình che đậy hay bưng bít thế nào chăng nữa thì cuối cùng bản chất đích
thực của vn bị lộ trần. Cái hài bộc lộ hàng loạt các mâu thun gay gắt giữa nội dung
và hình thức, giữa bên ngoài bên trong, giữa bản chất hiện tượng, giữa khả năng
hiện thực… Người ta dùng tiếng cười để cảm nhận, đánh giá pphán cái hài.
Đây không phải tiếng cười sinh giản đơn, tiếng cười thưởng vô phạt mà
tiếng cười của trí, của trí tuệ mang ý nghĩa tố cáo quyết liệt. Tiếng ời được sử
dụng ở đây giống như mt thứ khí đấu tranh sắc bén nhằm lật mặt và công kích cái
hài.
Cái hài được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:
- Tự trào bằng cách thừa nhận khuyết điểm của mình và người thân, nói quá lên
để làm cho mình tồn tại.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
- Châm biếm, mỉa mai, tỏ thái độ nghiêm khắc, không đồng tình, phê phán đối
tượng một cách sâu cay.
- Đả kích phê phán bằng thái độ quyết liệt, đấu tranh không chấp nhận cái xấu.
Cái hài trong nghệ thuật phải mang tính nhân văn, không cười trên nỗi bất hạnh của
người khác.
* Biểu hiện:
Tiếng cười trong cái hài khí phê phán, mang tính nhân văn. Đặc trưng tiếng
cười của cái hài tiếng cười của trí tuệ, là tiếng cười của ng chiến thắng, tiếng cười
mang tính nhân văn
Tiếng cười của trí tuệ là phát hiện những hiện tượng chứa đựng sự khác biệt đã
tạo ra số những nghịch lý, những mâu thun mà không thể xếp đặt vào trong những
khuôn khổ của hiện tượng được coi là thống nhất thuần nhất, theo thước đo mà con
người được giáo dục, được nhận biết
Tiếng cười của người chiến thắng khi phát hiện được sự việc bị che đậy, ng
chiến thắng sử dụng tiếng cười
Sự khoan dung khi phát hiện, chủ thể đã thể hiện sự cảm thông, bỏ qua
không quan tâm đến, đó cũng chính hình phạt nặng nề chứ không phải chỉ mặc
kệ cho qua. Tiếng cười thể hiện thái độ sẵn sàng tiễn biệt quá khứ của 1 cái xấu (cái
quá khứ ko hẳn là cái xấu mà là cái không còn phù hợp nữa) 1 cách vui vẻ
Tiếng cười mang tính nhân văn là cái hài không đến từ sự khiếm khuyết cơ thể,
từ sự bất bình thường như là nỗi bất hạnh của ng khác
* Dẫn chứng: Phim Tiệc trăng máu
- Khôi hài
- Mỉa mai, châm biếm: Hôn nhân trở thành nấm mồ của tình yêu → cưới nhau,
nhưng chưa học được cách ở bên nhau; Ngoại tình; sự vô tâm; Cái xấu - Cái đẹp -
Đả kích: cái nhìn về LGBTQIA+
Mâu thun giữa nội dung và hình thức
Mỹ học đại cương
Câu 11: Trình bày cấu trúc của ý thức thẩm mỹ. Vai trò của tình cảm, thế giới
quan và hệ tư tưởng trong đời sống thẩm mỹ?
* Cấu trúc của ý thức thẩm mỹ:
Những thành tbản hợp thành ý thức TM cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm
mỹ và lý tưởng thẩm mỹ.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
- Cảm xúc thẩm mỹ: Cảm xúc thẩm mỹ là cảm xúc được nảy sinh nơi con người
khi có một khách thể thẩm mnào đó tác động tới. Cái bên ngoài (rung động trực tiếp
trước cái đẹp) tư, không vụ lợi tự nhiên xúc động xúc động làm giàu
cho đời sống tinh thần, là yếu tố giúp con người vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống.
+ Tính liên tưởng: khi cảm xúc thẩm mỹ hình thành nó có tính liên tưởng, 3 dạng
thức: nhớ về quá khứ (hồi tưởng, hoài niêm), phóng chiếu tới tương lai, suy ng
m, suy tư về hiê tại. + Tính nhập cảm → đồng cảm với nhân vật → sân khấu “lấy
cảm xúc” khán giả hay “thức tỉnh” khán giả?
- Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sthích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm c thẩm
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố lý tính.
luôn gắn với lựa chọn đánh gcủa chủ thể trước đối tượng. Thị hiếu thẩm
mỹ một hiện tượng phức tạp trong đó chứa đựng hàng loạt các mâu thun thống
nhất: giữa cái riêng chung; giữa cái mới; giữa xu thế hướng nội hướng
ngoại...sự thể hiê năng lực cảm nhân, đánh giá, tiếp nhâ thẩm vào trong chính
bản thân đời sống của thẩm mĩ→ sở thích tương đối ổn định của nhân hay cộng
đồng về phương diện thẩm mỹ
- Lý tưởng thẩm mỹ → ước mơ, khát vọng đẹp sẽ có trong tương lai ( có ở trong
1 thi nhân đẹp, 1 công
đồng đẹp) dần loại bđi sự tiêu cực. tưởng thẩm mỹ là một
bộ phận hợp thành của lý tưởng xã hội (bên cạnh lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo
đức, lý tưởng luật pháp, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng khoa học)
tưởng thẩm mỹ là sự khát khao, mong mỏi của con người được vươn tới sự hoàn
thiện hoàn mtrong cuộc sống. Nói một cách khái quát, tưởng thẩm mỹ tưởng
vươn tới cái đẹp. Lý tưởng thẩm mỹ của con người được biểu hiện ra sự hình dung c
thể trong đầu óc của hvề những mu đời, mu người, mu vật, mu việc hoàn thiện
hoàn mỹ hkhát khao được. tưởng thẩm mỹ không phải cái cao siêu
hay xa lạ mà nó vốn thường trực trong đầu óc của mỗi chúng ta, trực tiếp chỉ đạo mọi
hành động sống của chúng ta. Bởi trước khi làm bất cứ điều gì con người cũng hình
dung ra trước cái kết quả tốt đẹp của công việc mình làm phấn đấu hết mình cho
nó.
+ Nội dung của lý tưởng thẩm mỹ:
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Môi trường thiên nhiên Đẹp
Cộng đồng xã hội Đẹp ●
Một nhân cách đẹp
* V ai trò của tình cảm, thế giới quan và hệ tư tưởng:
- Cảm xúc thẩm mỹ trong cuộc sống và trong sáng tạo nghệ thuật: Mặc dù mang
nặng tính chất cảm tính nhưng cảm xúc thẩm mỹ lại giữ một vai trò rất quan trọng
trong đời sống tâm lý cá nhân, bởi lẽ nó là cơ sở để tạo dựng nên chiều sâu, sự phong
phú trong thế giới tâm hồn tình cảm của mỗi người. Thực tế xác nhận rằng người nào
càng giàu cảm xúc thẩm mvà cảm xúc thẩm mỹ của họ càng nhạy bén, tinh tế thì họ
càng có nhiều điều kiện thuận lợi để tạo nên cho mình một thế giới tâm hồn rộng mở,
phong phú, sâu sắc. Ngược lại người nào càng ít cảm xúc thẩm mỹ hoặc cảm xúc thẩm
mỹ của họ bị chai thì chắc chắn họ sẽ một tâm hồn nông cạn, nhạt nhẽo, trống
rỗng. Trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật (bao gồm hoạt động sáng tác, hoạt động
biểu diễn, hoạt động cảm thụ) thì cảm xúc thẩm mỹ lại đặc biệt cần thiết. Chinh cảm
xúc thẩm mỹ đã tạo nên niềm say mê, shứng thú cho con người trong toàn bộ quá
trình hoạt động nghệ thuật. như vậy, trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt
động nghệ thuật.
- Thị hiếu thẩm mỹ: Thhiếu thẩm mỹ liên quan trực tiếp góp phần quan trọng
vào việc hình thành lối sống, phong cách sống của mỗi người. Vì vậy, để xây dựng lối
sống văn hóa, nhân cách văn hóa thì mỗi người cần được một thị hiếu thẩm
mỹ lành mạnh, tiến bộ.
- tưởng thẩm mỹ: Trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật thì tưởng thẩm mỹ
giữ vai trò quyết định bởi chi phối trực tiếp tới động mục tiêu sáng tác của
người nghệ sĩ.
Câu 12: Trình bày khái niệm, tính chất, vai trò của thị hiếu thẩm mỹ. Đặc trưng
của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ?
* Khái niệm:
Thị hiếu là sở thích cá nhân, cá nhân có sở thích riêng về cái đẹp và cảm nhận
cái đẹp.
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sthích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố tính.
Vì nó luôn gắn với lựa chọn và đánh giá của chủ thể trước đối tượng * Tính chất
của thị hiếu thẩm mỹ:
Tính phản ứng mau lẹ:
Khi tiếp xúc với các hiện tượng thẩm mỹ ( trong đời sống và trong nghệ thuật )
nơi chứa đựng các phạm trù thẩm mĩ và những mặt đối lập, con người lập tức bộc lộ
thái độ một cách tự do, không e dè.
Những con người từng trải, vốn văn hóa cao, năng lực thẩm mĩ và nghệ thuật
sâu sắc thì càng tự tin khi biểu lộ phản ứng và có cảm xúc mãnh liệt hơn.
Tính hài hoà vô tư
Đó là sự đánh giá thẩm mkhông vụ lợi, chỉ nhằm thỏa mãn lòng hâm mộ của
mình. Một thị hiếu vô tư giúp con người lựa chọn đúng các giá trị Chân Thiện
Mỹ. Con người phải chọn một giữa hai hướng: mộng hay thực dụng. Mơ mộng
quá sẽ rơi vào phiêu lưu, không tưởng. Thực dụng quá dn đến khô khan, nghèo nàn
cảm xúc trước vẻ đẹp của đối tượng, khi chán nản thì đã muộn. Người thực dụng
sẽ không tránh khỏi dục vọng tầm thường.
Một thị hiếu vô tư là sự hài hòa giữa mơ mộng và thực tế.
Tính cá biệt và tính xã hội:
Mỗi nhân sự thích thú khác nhau, hội được hình thành từ nhiều
nhân, không nghĩa là một tập hợp lộn xộn các thị hiếu thẩm nhân. Đó những
giá trị thẩm mĩ chung của cộng đồng, có tác dụng lôi cuốn, định hướng thị hiếu thẩm
mĩ cá nhân (nói cách khác, cá nhân chịu áp lực tự nhiên của xã hội ).
Nhưng đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng trong đời sống thẩm mỹ.
Một cá nhân nghệ sĩ sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật, sau đó được cả cộng
đồng thừa nhận như một giá trị chung của xã hội, thậm chí của chung nhân loại.
Nhà triết học I.Kant, người đầu tiên nghiên cứu hệ thống về thị hiếu thẩm
mỹ, ông đã tuyệt đối hóa vai trò của thị hiếu thẩm nhân (cá biệt) . Ông lúng túng
không lý giải được sự song hành của cả hai loại thị hiếu đó. Ông cho rằng, sở dĩ th
hiếu thẩm mĩ xã hội là do ngu nhiên nhiều người có cùng thị hiếu thẩm mvới những
cái đẹp phổ quát.
Mỹ học Mác- nin giải đúng đắn hơn: không có nhân nào sống tách biệt
hội hình thành được thị hiếu thẩm mỹ (hãy xem nhân vật Robinson Crusoe trong
tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Anh Daniel Defoe thế kỉ 19- khi sống một mình trên
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
đảo, anh ta hầu như chẳng thị hiếu thẩm mỹ nữa !) . Thực ra, trong cộng đồng
tồn tại cùng lúc các thị hiếu cá nhân, thị hiếu giai cấp, thị hiếu xã hội và thị hiếu nhân
loại.
Tính giai cấp:
Mỗi giai cấp một thị hiếu riêng, nghĩa là, quan niệm khác nhau về cái
đẹp.
Quý tộc phong kiến ca tụng và ưa chuộng mu người “yểu điệu thục nữ” , “liễu
yếu đào tơ”, “hào hoa phong nhã”, nho nhã”. Người nông dân đề cao con người khỏe
mạnh thậm chí mập mạp, chất phác, duyên. Ca dao “Mười thương” bộc lộ quan
niệm của nhân dân xưa về cái đẹp phụ nữ thôn quê (Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai
thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền . . . .).
Nhân vật Natasha trong tiểu thuyết Chiến tranh hòa bình” của L.Tolstoi
mang cả vẻ đẹp của tiểu thư tước thượng lưu quý tộc vừa vđẹp thiếu nữ làng
quê Nga . Theo nhà văn, đó là sắc đẹp hài hòa, hoàn hảo nhất. Nhìn chung, nếu so với
giai cấp tư sản ưa chuộng vẻ đẹp hình thức, thậm chí thiên về thể chất, thì quý tộc
phong kiến ưa vẻ đẹp tinh thần hơn, cao nhã hơn.(Quan niệm thẩm của giới quí tộc
tinh tế, sắc sảo hơn sản. Vở hài kịch “Gã sản học đòi quý tộc” của Moliere đã
chứng minh điều đó).
Tính dân tộc:
Trải qua lịch sử, mỗi dân tộc hình thành một thị hiếu thẩm mỹ riêng, có khi trái
ngược với dân tộc khác phương Đông: con rồng đẹp đẽ cao quý, còn phương Tây,
con rồng độc ác, xảo quyệt …). Nghệ thuật phương Tây ưa tả thực, chuẩn xác khiến
khán giả thán phục, còn nghệ thuật phương Đông ưa tạo khoảng trống” ước lệ
khiến cho người thưởng thức phải tưởng tượng và đồng sáng tạo. Mặt khác, có những
chuẩn mực chung về Chân Thiện Mỹ đặc biệt i đẹp được cả nhân loại công nhận.
Chẳng hạn, màu xanh da trời được coi màu hy vọng, ước mơ, hòa bình. Màu đỏ
hạnh phúc, màu trắng bình đẳng, màu đen tang tóc, buồn bã… Cành nguyệt quế (olive)
được coi là biểu tượng của chiến thắng vinh quang. Con chim bồ câu tượng trưng ước
vọng hoà bình .v.v…
Tính thời đại:
Thẩm mỹ trang phục thay đổi theo mùa, theo lứa tuổi, theo mode (model), rất
hiếm loại trang phục được ưa chuộng lâu bền như chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam,
bộ complet châu Âu Chưa ai biết chiếc quần jeans Âu Mỹ sẽ n tồn tại bao lâu.
những tác phẩm nghệ thuật vừa ra đời đã được trao ngày vòng nguyệt quế và trường
tồn mãi mãi. Lại tác phẩm phải chờ đợi một thời gian dài mới bừng sáng, nó đi
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
trước thời đại (Hồng Lâu Mộng, Đường Thi, Truyện Kiều, nhạc cổ điển châu Âu thế
kỉ 18-19. Nhiều tác phẩm nghệ thuật sớm nở tối tàn.
* Vai trò của thị hiếu thẩm mỹ:
- Thị hiếu thẩm mỹ đông vai trò chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, góp phần
tạo ra khuynh hướng cá nhân và nhu cầu thưởng thức của chủ thể.
- Thị hiếu thẩm mỹ là cơ chế độc đáo bảo đảm cho chủ thể kết hợp và vận dụng
các tiêu chuẩn trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ, biểu hiện như một tiêu chuẩn để
đánh giá dạng phán đoán “thích hay không thích”.
- Đóng vai trò trong sự sáng tạo thẩm m, kích thích bên trong đối với hoạt động
sáng tạo, là một nhân tố hướng dn chủ thể lựa chọn đề tài, chất liệu, hình thức,p
phần tạo ra thiên hướng cá nhân, tạo ra phong cách độc đáo của cá nhân
- Tạo ra nhu cầu thưởng thức, trong đời sống hằng ngày thị hiếu thẩm mỹ của
đông đảo công chúng có sự tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo thẩm mỹ, sáng
tạo nghệ thuật.
- Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn ở nhiều
lĩnh vực khác của cuộc sống. Có thể kể ra như thẩm mỹ trong xây dựng, trang trí nội
thất nhà ở, trong văn hoá giao tiếp, Cuộc sống chúng ta cần những con người
hiểu biết về cái đẹp, từ đó mới có thể gìn giữ những nét đẹp truyền thống và tạo dựng
thêm những giá trị mới.
* Đặc trưng của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ:
- Bản chất của giáo dục thẩm mỹ theo quan điểm của mỹ học Mác Lênin gắn
liền với các hoạt động sáng tạo, nghĩa là con người luôn hướng tới những giá trị mới.
Giáo dục thẩm mỹ làm hình thái năng động của chủ thể thẩm mỹ phát triển mạnh mẽ
tự do trên sở nhân sinh quan thế giới quan đúng đắn. Mỹ học Mác Lênin
khẳng định giáo dục thẩm mỹ một bộ phận hợp tnh sự nghiệp giáo dục toàn
hội. gắn bó chặt chẽ với giáo dục lao động, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
quốc tế sự hài hoà giữa truyền thống với hiện đại, nhân với hội, thể xác với
tinh thần. Nhưng giáo dục thẩm mỹ tính đặc thù khác với mọi phương tiện giáo dục
khác là bản chất của cái thẩm mỹ của nó. Tuy nhiên giáo dục thẩm mỹ và các hình
thức giáo dục khác mối liên hệ biện chứng với nhau đều một mục đích chung
đó là sự hoàn thiện nhân cách con người.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
- Giáo dục thẩm mỹ mang nội dung hội sâu sắc trước hết phải nói đến tính dân
tộc. Các chủ thể thẩm mhưởng thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp bao giờ cũng ở một
dân tộc nhất định. Xa rời nội dung tính dân tộc, giáo dục thẩm msẽ đánh mất bản
chất hội của nó.Mỗi dân tộc trong hội giai cấp đều những quan hệ giai cấp
khác nhau. Các tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ tưởng thẩm mỹ của giai cấp
đều phụ thuộc vào điều kiện sinh sống mục tiêu giáo dục của giai cấp đó. Trong xã
hội giai nhiều cấp khác nhau cùng tồn tại tthước đo gtrị thẩm mbao giờ cũng
thuộc về giai cấp thống trị.Tĩnh hội của giáo dục thẩm mỹ còn gắn liền với tính thời
đại, mỗi thời đại có mục tiêu, hình thức, biện pháp giáo dục và xây dựng các chủ thể
thẩm mỹ khác nhau. Thời lệ, phong kiến, bản ngày nay, các chủ thể đều mang
dấu ấn của thời đại mình.
Câu 13: Phân tích, nhận định dẫn chứng từ luận đề: Nghệ thuật sự phản
ánh hiện thực cuộc sống con người bằng tình yêu rộng lớn tình yêu đối với cái
đẹp
Hiện thực cuộc sống con người 3 mối liên hệ: giữa con người với tự nhiên,
với người khác (quan hệ hội) với chính bản thân. Chính phản ánh toàn bộ
những diễn ra trong ba mối quan hnày. Đó chính nội dung của nghệ thuật (cuộc
sống của con người). Do đó, phạm vi phản ánh của nghệ thuật cùng rộng. Trung
tâm của hiện thực là đời sống của con người. Hơn thế, con người là con người xã hội.
Nghệ thuật vì hội cũng chính nghệ thuật vì con người. Hiện thực phong phú
cùng vô tận của tự nhiên và xã hội là đối tượng của nghệ thuật. Biélinski đã từng xác
nhận: tất cả thế giới, tất cả những bông hoa, màu sắc âm thanh, tất cả các hình thức
của tự nhiên đời sống đều thể những hiện tượng của thơ ca. Xác định một
phạm vi phản ánh rộng lớn như vậy của nghệ thuật để khẳng định khả năng to lớn
của nghệ thuật trong việc miêu tả phản ánh. Hay Chernychevski đã khẳng định
phạm vi của nghệ thuật bao hàm trong nó tất cả những gì có trong hiện thực (trong tự
nhiên và trong xã hội) khơi gợi được hứng thú của con người- không phải với tư cách
là học giả mà với tư cách con người bình thường; cái mọi người quan tâm trong đời
sống -đó là nội dung của nghệ thuật.
Trong đời sống, con người có hai mối quan tâm lớn: mối quan tâm tới tự nhiên
mối quan tâm tới hội. Tức chính hai mối quan tâm đảm bảo cho con người tồn
tại và phát triển: quan hệ tự nhiên quan hệ xã hội. Hai mối quan hệ này quay quanh
một trung tâm con người. Chính những mối quan htrung tâm con người trung
tâm chú ý của nghệ sĩ. Nếu như đối tượng của khoa học svật, hiện tượng tồn tại
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
độc lập với ý thức con người tđối tượng của nghệ thuật tất cả những quan hệ
với con người.
Chính vì yêu cuộc sống những nhà làm nghệ thuật đã tái tạo, tái hiện những
hiện thực để phản ánh cuộc sống. Qua đó gửi gắm những ước mơ, khát vọng về cuộc
sống hoàn thiện, cuộc sống tốt đẹp hơn -> mang tính lý tưởng. Có thể thấy, nhà chính
trị xem chiến tranh sự xung đột tất yếu giữa hai lực lượng xã hội đối kháng nhau về
mặt lợi ích nhưng qua góc nhìn từ nghệ thuật chiến tranh một sự kiện, một tình
huống để bộc lộ tính cách, số phận con người, để bộc lộ những tưởng, khát vọng
của con người dựa trên góc nhìn nhân đạo, tình yêu thương con người, yêu cuộc sống.
Nghệ thuật là tình yêu đối với cuộc sống, một cuộc sống không đẹp nhưng nghệ thuật
phải đẹp mặc trong khi tái tạo hiện thực cuộc sống vào trong nghệ thuật, người
nghệ sĩ không chỉ tái tạo mặt tối mà còn gián tiếp/trực tiếp tái tạo nên một mảng sáng
của cuộc sống vào trong nghệ thuật. Cho nên tính phê phán trong nghệ thuật một sự
phê phán nhằm đi đến sự hoàn thiện chứ không đơn thuần phê phán đi đến sự huỷ
diệt. Tất nhiên cái xấu cần được huỷ diệt, nhưng huỷ diệt đlàm thì câu hỏi này
nghệ thuật cần có trách nhiệm trả lời.
Câu 14: Phân tích và dẫn chứng từ nhận định: Bản chất của nghệ thuật là
những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy định của cái Đẹp
Bản chất của nghệ thuật những thuộc tính, những yếu tố stồn tại bản chất
của nghệ thuật, không những thuộc tính yếu tố này thì bản chất của nghệ thuật
không tồn tại. là những yếu tố thuộc tính quy định cho sự tồn tại, phát triển của
nghệ thuật. Cái đẹp được tạo ra mang giá trị của nghệ thuật (phụ thuộc vào thị hiểu
thẩm mỹ của con người) cái đẹp được sự thừa nhận của công chúng. Ngoài ra bản
chất của nghệ thuật còn là những giá trị hội được đánh giá theo sthiết định của
cái đẹp. Giá trị những đáp ứng cho nhu cầu của con người xét từ tận cùng nhu
cầu xã hội là nhu cầu sống (Con người không giá cả, khi gắn giá cả nô lệ). Giá trị
hội các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, hội, đạo đức, thẩm mỹ,... nói lên
giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những gì đáp ứng nhu cầu, khát vọng sống của
con người. giá trị của giá trị. những gtrị hội được đánh giá theo quy
định riêng của tình cảm. Cái đẹp biểu trưng cho những giá trị vậy nên cái đẹp trong
nghệ thuật là giá trị của giá trị - giá trị của đời thường thăng hoa lên thành giá trị của
thẩm mỹ.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Tại sao người ta thấy mình không đẹp? Do người ta không thấy thứ đó sự đáp
ứng nhu cầu sâu xa của bản thân họ: yếu tố chủ quan tác động hệ giá trị khác nhau. Ở
trong mối quan hệ khác có nhu cầu khác.
Hay ở Phương Đông quan niệm da trắng là đẹp có những người phụ nữ tìm đến
các loại kem trộn…
Câu 15: Phân tích và dẫn chứng từ luận điểm: “Bản chất của nghệ thuật là
những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình cảm”
Giá trị XH các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, hội, đạo đức, thẩm
mỹ, …=> nói lên giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những đáp ứng nhu cầu,
khát vọng sống của con người.
Bản chất của nghệ thuật là những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy luật
riêng của tình cảm không đánh giá theo chuẩn mực của khoa học bởi nhận thức thẩm
mỹ khác với nhận thức khoa học.
- Thẩm mỹ là đánh giá trên góc độ cảm xúc
- Giá trị thẩm mỹ được tạo ra trên cơ sở của giá trị xã hội
Nghệ thuật những gtrị hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình
cảm.
Có công chúng nghệ thuật thì có tồn tại nghệ thuật, không có công chúng thì nghệ
thuật chết. Tác phẩm không có ai nhớ đến là tác phẩm chết. Lý tính có đúng
và sai. Nghệ thuật có Thích hay không thích Cảm xúc -> Hành động
Câu 16: Trình bày định nghĩa, đặc trưng và vai trò của hình tượng nghệ thuật
*
Định nghĩa:
Hình tượng nghệ thuật (tiếng Anh: image) là phương thức chiếm lĩnh, thể hiện
i tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật. Là một phương
thức phản ánh, đặc biệt riêng của nghệ thuật. Tính hình tượng sliên kết giữa
các yếu tố nhằm tạo nên chính thể mang tính sinh động của nó, biểu hiện bên ngoài và
trực quan (Nó đem lại một hình ảnh cụ thể, sinh động) về một sự vật, chủ thể nhằm
truyền tải ý nghĩa.
Sự phân tuyến giữa thế giới nghệ thuật thực tại cuộc sống, chính nhờ hình
tượng nghệ thuật ý thức nghệ thuật hàm chứa nhiều tưởng, cảm xúc, tình cảm
của cuộc sống thật.
lOMoARcPSD|41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS IC3
lOMoARcPSD| 61815267
Hình tượng nghệ thuật kết quả của sự tưởng tượng, Như vậy, hình tượng
nghệ thuật chính các khách thể đời sống được nghệ tái hiện bằng tưởng tượng
sáng tạo trong
Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học thẩm mỹ của
nghệ thuật, những lẽ trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng suy
thống nhất cao do giữa các mặt đối lập: chủ quan - khách quan, trí và tình cảm,
biệt khái quát, hiện thực lý tưởng, tạo hình biểu hiện, hữu hình và hình.
cũng chính những lẽ trên, hình tượng còn một quan hệ hội - thẩm mỹ võ
cùng phức tạp. Nghệ thuật có thể cho con người nhận thức về chân lý, chân lý thể
trực quan được thông qua hình trọng nghệ thuật.
thể nói hình tượng nghệ thuật sự kiến tạo nghệ thuật. nh tượng nghệ
thuật yếu tố cần thiết được hình thức truyền tải của nghệ thuật nên khi nói hình
tượng nghệ thuật, bức tranh được truyền tải hiện ra giữa thế giới nghệ thuật thế giới
thực tại giúp liên kết giữa cuộc sống của người xem, trải nghiệm thế giới tâm tư.
Hình tượng nghệ thuật mối liên hnhận thức cảm tính và chiều sâu trong nhận thức.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa 3 cấp độ (222 - tâm - vật chất)
mà thực chất là 2 cấp độ tinh thần và vật chất.
Tinh thần: cảm xúc của người nghệ sĩ và người tiếp nhận
Vật chất: ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc... sự kết hợp của chúng — vật chất hóa
Hình tượng nghệ thuật sự thống nhất của ba cấp độ: tưởng - tình cảm -
hình tượng → sự liên kết chất liệu.
Hình tượng - ý đồ: phát huy nh tưởng tượng của người nghệ sĩ (vạch ra
đường viền cơ bản của tác phẩm).
Hình tượng - cảm thụ; có tình cảm biến trong cảm thụ và có tính bất biến trong
hình tượng. Vấn đề ở đây là ý nghĩa lịch sử - xã hội đặt ra trong tác phẩm.
Hình tượng - tác phẩm: là sự thống nhất giữa tinh thần vật chất làm nên sự
tác động toàn vẹn của nghệ thuật.
* Đặc trưng:
nh tượng nghệ thuật gắn liền với đời sống:
Nhắc đến hai chữ nghệ thuật đôi khi người ta nhầm tưởng là hiện thân của những
cái hoa mỹ, diễm lệ, của những thứ lãng mạn, viển vông, xa rời thực tế, nhưng thực
chất nghệ thuật luôn đi liền với đời thực, nó bám sát cuộc sống, dựa hơi người, đời,

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu 1: Tại sao Mỹ học là khoa học nhân văn? Tại sao Mỹ học lại nghiên cứu cái
đẹp và nghệ thuật? Tính ứng dụng của Mỹ học?
* Mỹ học là khoa học nhân văn:
Mỹ học là khoa học nhân văn, bởi vì cái đẹp là một phạm trù mang tính nhân
văn, hướng tới vẻ đẹp của con người. Cái đẹp mang tính chủ quan, vì cùng một sự vật
hiện tượng, mỗi người có thể có những ý kiến, nhận định khác nhau.
Mỹ học là một bộ phận của Triết học, quan tâm đến bản chất và mối liên hệ giữa
các khách thể như cái Đẹp, cái Bi, cái Hài và cái Cao Cả. Học mỹ học chính là trau
dồi khả năng cảm thụ cái đẹp. Mỹ học là một ngành khoa học, vậy nên các kết quả
nghiên cứu của môn học này là các lập luận logic, khách quan. Bản thân Mỹ học không
dạy con người trở nên tốt đẹp hơn hay xấu xa hơn. Thế nhưng những công trình nghiên
cứu Mỹ học có thể cung cấp cho con người nhiều kiến thức về cái Đẹp và Nghệ thuật,
từ đó nâng cao khả năng cảm thụ của con người. Bằng con đường nói trên, Mỹ học
giúp con người có năng lực tạo lập cảm xúc tích cực trong chính cuộc sống của mình
thông quan việc việc nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp và nghệ thuật. Từ thời Hy
Lạp cố đại, Aristotle đã cho rằng nghệ thuật có khả năng "thanh lọc" (catharsis) tâm
hồn con người, giúp họ loại bỏ cảm xúc tiêu cực và hướng đến sự tích cực. Một bộ
phim hay, một bản nhạc du dương hay một món ăn ngon có thể làm tâm trạng chúng
ta tốt lên nhiều. Nếu chúng ta trau dồi kiến thức Mỹ học nhiều hơn, ta có thể cảm thụ
nghệ thuật ở một mức độ cao hơn, được “thanh lọc” một cách triệt để hơn, đồng thời
cũng có thể cảm thụ được cái đẹp trong các tác phẩm nghệ thuật trừu tượng, khó hiểu
hơn so với nghệ thuật đại chúng. Như vậy, Mỹ học là ngành khoa học nhân văn không
phải vì nó dạy chúng ta phải nhân văn mà cung cấp cho ta những tri thức cần thiết để
có thể cảm nhận cái Đẹp sâu sắc hơn, từ đó thúc đẩy các cảm xúc tích cực trong ta,
khiến ta có năng lực để sống đẹp hơn, sống nhân văn hơn.
* Mỹ học lại nghiên cứu cái đẹp và nghệ thuật vì:
Nghệ thuật chính là dạng vật chất của cái Đẹp - một trong những đối tượng
nghiên cứu cơ bản của Mỹ học.
Mỹ học là một bước trung gian, mỹ học nghiên cứu về cái đẹp, mà nghệ thuật
là nơi tập trung cái đẹp. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Cái đẹp và nghệ thuật mang đến cảm xúc tích cực cho người tiếp nhận. Đó là cảm năng học
, cái mà mỹ học hướng đến.
* Tính ứng dụng của Mỹ học:
Mỹ học hay có thể nói là giáo dục thẩm mỹ giúp phát triển nhân cách nói chung
và khả năng thưởng thức nghệ thuật và cái đẹp nói riêng vậy nên mỹ học được ứng
dụng rộng rãi vào thực tiễn. Mà đơn giản hơn, có thể hiểu và ứng dụng mỹ học chính
ở sự nhận thức, thưởng thức cảm nhận cái đẹp bằng sự rung động bản năng của con
người, điều ai cũng có thể rèn luyện và học hỏi được, càng sớm càng tốt và không
phân biệt lứa tuổi. Càng tiếp xúc với nhiều điều tốt đẹp thì tư duy càng có cơ hội cởi
mở, càng hiểu được sự đa dạng và khác biệt của cái đẹp, để từ đó con người có thể tự
học được cách tôn trọng sự khác biệt và cũng sớm định vị được bản thân để không tự ti.
Câu 2: Phân tích và chứng minh lao động là nguồn gốc hình thành quan hệ thẩm
mỹ. Tính thẩm mỹ của sản phẩm lao động hình thành như thế nào?
Con người ban đầu là sinh thể tự nhiên, sau nhờ quá trình lao động mà phát triển
thành sinh thể xã hội. Độc lập khỏi giới tự nhiên, không những không phụ thuộc mà
còn lợi dụng, tận dụng tự nhiên, biết khai thác sản vật từ tự nhiên để phục vụ cho nhu
cầu sống của mình. Khi đó, con người trở thành chủ thể, chủ động và bắt đầu hoạt
động thực tiễn. Hoàn cảnh sống xung quanh con người chính là khách thể, mà khách
thể chính là vùng quan tâm của chủ thể là con người.
Lao động chính là quá trình khởi nguồn của quan hệ thẩm mỹ. Lao động là hoạt
động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù
hợp với nhu cầu của con người. Có thể hiểu lao động là vận dụng các sức mạnh của
tay chân hoặc trí óc thông qua công cụ lao động để cải tạo thiên nhiên nhằm mục đích
tinh thần phục vụ con người. Càng phát triển, càng có nhiều dạng thức lao động (lao
động tay chân, lao động trí óc, lao động phức tạp, lao động nghệ thuật…). Học tập là
lao động dự trữ, càng xài càng không mất đi mà nó nhiều lên.
Lao động là nguồn gốc hình thành quan hệ thẩm mỹ bởi quá trình lao động giúp
cho con người hoàn thiện các giác quan và đôi bàn tay. Giác quan bao gồm mắt và tai,
đó chính là năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Đôi bàn tay là kỹ năng kỹ xảo, chính là năng
lực sáng tạo thẩm mỹ. Đôi tay con người vừa là công cụ lao động vừa là quan lao động
tạo ra sản phẩm mang tính thực dụng cho nhu cầu vật chất và mang tính thẩm mỹ cao.
VD: Đồ thủ công mỹ nghệ là các tác phẩm nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao, là sản lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
phẩm tạo ra bởi năng lực tinh thần, kỹ năng, kỹ xảo và thủ pháp nghệ thuật. Thông
qua các sản phẩm này, cảm xúc của người sáng tạo được truyền đạt đến người tiếp nhận
Câu 3: Phân tích và chứng minh sự đồng hóa trên lĩnh vực tinh thần là nội dung
của quan hệ thẩm mỹ. Ý nghĩa của vấn đề này trong đời sống thẩm mỹ?
Khái niệm quan hệ thẩm mỹ là mối quan hệ giữa chủ thế thẩm mỹ - tức là chủ
thể người xã hội có nhu cầu và khả năng đánh giá, thưởng thức, sáng tạo các giá trị
thẩm mỹ, với khách thể thẩm mỹ - tức là những thuộc tính, khía cạnh, phẩm chất thẩm
mỹ ở các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên, trong xã hội và con người.
Đồng hóa là làm cho giống mình, làm cho những khách thể tự nhiên có những
tư tưởng, tình cảm , đặc tính của con người, chiếm lĩnh thực thể vô tri vô giác trên một phương diện tinh thần.
Đồng hóa tinh thần diễn ra trong ý thức, tư tưởng. Sự đồng hoá về mặt tinh thần
này cũng trên cơ sở hoạt động thực tiễn của xã hội, nhưng đến lượt mình nó có
ý nghĩa xác định tính mục đích, phương pháp và định hướng cho hoạt động của con
người. Đồng hoá tinh thần là năng lực chiếm lĩnh đối tượng của chủ thể trong lĩnh vực
tinh thần, làm cho đối tượng đó có năng lực, phẩm chất như chủ thể mong muốn. Đối
tượng trở thành phương tiện để vật chất hoá tình cảm con người.
Giới tự nhiên: phản ánh vào não người, não bắt đầu tiếp nhận và lưu giữ cũng
như tái tạo thông tin (tái tạo + cảm xúc), xuất hiện những tưởng tượng và các hình ảnh
trong hiện thực đã được thăng hoa trong ý thức. Ý thức thực thể hóa sự thăng hoa
thành biểu trưng, chuyện kể mang tính thần thoại. Đây là quá trình của sự đồng hóa
tinh thần. Đây cũng là nội dung của quan hệ thẩm mỹ.
Câu 4: Phân tích và chứng minh giá trị thẩm mỹ là hệ quả của quan hệ thẩm mỹ.
Ý nghĩa của giá trị thẩm mỹ trong cuộc sống?
Giá trị là đáp ứng được nhu cầu thì sẽ mang tính giá trị. Giá trị thẩm mỹ là nhu
cầu thẩm mỹ, biến đổi theo giá trị của lịch sử, là những gì đáp ứng cho nhu cầu của
con người về cái đẹp. Giá trị sống đẹp là nhiệm vụ của quan hệ thẩm mỹ. Có những
thuộc tính chung quy định giá trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ khách quan với cá nhân,
chủ quan với quy định chung của cộng đồng.
Thẩm mỹ không chỉ đòi hỏi về mặt nội dung mà còn về mặt nhận thức. Ngoài
ra, giá trị thẩm mỹ còn có tính dân tộc, thời đại, khách quan và chủ quan. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Cái thẩm mỹ không chỉ là một thuộc tính của vật chất mà nó còn là một giá trị
xã hội quan hệ với con người trong quan hệ thẩm mỹ. Cái thẩm mỹ là một loại giá trị
xã hội được đo bằng thước đo thẩm mỹ của xã hội. Luận điểm này dựa trên học thuyết
Mác – Lênin về vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức, quá trình đồng hoá thế
giới về mặt thẩm mỹ.
Giá trị phản ánh qua mức độ đáp ứng được nhu cầu sống, tồn tại của loài người.
Giá trị thẩm mỹ là giá trị mà qua đó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ của con người,
đáp ứng cho sự thiết định của cái đẹp.
Giá trị phản ánh nhu cầu, nhu cầu thay đổi thì giá trị sẽ thay đổi, nhu cầu mất đi giá trị sẽ mất đi. * Ý nghĩa :
Những giá trị được hình thành và phát minh trên cơ sở quy luật của cái đẹp, tức
là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá trị là nói đến cách nhìn, cách đánh giá, từ cách
đánh giá của con người đối với thế giới về nhiều mối quan hệ khác nhau như kinh tế,
chính trị, đạo đức, triết học, pháp quyền, khoa học. Trong đó, cái thẩm mỹ không hẳn
phải đối lập với các quan hệ xã hội đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản chất với các
quan hệ đó. Bởi, cái thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thỏa mãn những động cơ về
kinh tế, sự mưu cầu những lợi ích vật chất trực tiếp của con người.
Con người tiếp nhận thông tin, sau đó tái hiện lại thông tin và cảm xúc thông
qua sự tưởng tượng, đồng thời tái hiện lại thông tin vốn có, đôi lúc phóng đại nó lên.
Giáo dục là nghệ thuật phát huy năng lực và phẩm chất của con người.
Câu 5: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Tây. Ý nghĩa của
quan niệm này trong Mỹ học hiện nay?
* Quan niệm cái đẹp trong lịch sử phương Tây:
• Về mặt bản thể học:
Thực chất cái đẹp là gì?
Theo quan niệm của Plato: Đẹp là ý niệm - giữ ý niệm bên trong và không thể
bị phai mờ. Còn trong quan niệm của Aristotle: Đẹp là thực thể - thể hiện ra bên ngoài,
là cái có thể nhìn thấy và thay đổi theo thời gian.
Ý niệm đó tồn tại ngoài thế giới của chúng ta, ý niệm đó nhập vào con người
theo một mức độ khác nhau cho nên con người có một năng lực cảm nhận về cái đẹp
khác nhau. Có thể thấy, mỗi vùng miền, mỗi đất nước khác nhau con người ta lại có
những quan niệm về cái đẹp khác nhau.
Cái Đẹp là Thực thể (Kant): Môṭsự vâṭđẹp là có hình dáng, kết cấu, sự liên kết lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
• Về mặt tâm thức luận: Làm thế nào tôi biết đó là đẹp?
Cái gì gây cho ta một cảm xúc vui sướng và sự hân hoan chính là cái đẹp. Đây
là cái đẹp không nghĩ về lợi ích mà phụ thuộc vào tâm ý, cảm xúc
Biểu trưng là ý nghĩa toát ra từ đối tượng, từ môṭhành đông. Từ cái A ḍ
̀n dắt đến cái B, vd thấy hoa sen liên tưởng đến tính cách con người.
• Làm thế nào để hiểu về cái đẹp:
Phải thông qua ngôn ngữ, không chỉ tiếng nói và chữ viết mà còn màu sắc, âm
thanh, dáng điệu, ký hiệu, biểu trưng, nghi thức
Đến giai đoạn này, sự thể hiện của cái đẹp bắt đầu mở rộng về chiều sâu lý tính.
Hiểu về cái đẹp là hiểu về nghệ thuật, hiểu về nghệ thuật là hiểu được ngôn ngữ của
nghệ thuật, tạo hình và biểu hiện của nghệ thuật (văn chương).
Hiểu về chiều sâu lý tính là hiểu được ý tưởng sâu xa, thấy được ý nghĩa thoát ra từ đối tượng.
* Ý nghĩa: Cái đẹp theo quan niệm mỹ học ở phương Tây và Phương Đông được tiếp
cận ở nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc trên lập trường
duy tâm. Có quan niệm nhấn mạnh cái đẹp ở sự hòa điệu, có quan niệm đồng nhất cái
đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự nhiên, có quan niệm đi
tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần ở bên ngoài con người; song
cũng có quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó là sản phẩm của tầng lớp thống trị, là cái
không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái đẹp trong thời kỳ cổ đại
cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn đấu đạt đến và đều để lại
những tư tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu thêm tư tưởng thẩm mỹ của mình.
Câu 6: Trình bày quan niệm về cái Đẹp trong lịch sử phương Đông. Ý nghĩa của
quan niệm này trong mỹ học hiện nay? Trung Quốc:
Theo Kinh dịch: Cái sinh mệnh (sự sống) của con người bắt nguồn từ sự vận
động, biến đổi của trời đất, đây chính là bản chất của sinh mệnh. Bên cạnh đó là sự
thống nhất hài hoà tam tài, Thiên - Địa - Nhân, đây là yêu cầu của sinh mệnh.
Sự vận động biến đổi phối hợp với sự thống nhất hài hoà d ̀n đến đạo Âm - Dương hòa hợp.
Nghệ thuật trong tranh vẽ, văn chương của TQ thống nhất một quy luật chung: lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3 Dương hiện Âm ẩn.
Người TQ quan niệm về cái đẹp: Chú trọng cái đẹp ở con người, quan niệm
rằng các phẩm chất cần có của cái đẹp là: Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh. Nghĩa là:
Nguyên → bản nguyên, nguyên thủy của muôn vât,̣ khởi nguồn, được
cho là đứng đầu cái “thiện”, trong con người có những thứ tự nhiên, không chỉnh sửa
Hanh → sự tốt đẹp có quan hệ màu sắc, hình thức cái đẹp và sự hưởng
thụ cái đẹp của con người
Lợi → có nghĩa là lợi ích, gắn bó với quan hệ giữa cái đẹp và sự tồn tại,
phát triển của sự sống; còn được hiểu là sự tương quan giữa cảm thụ thẩm mỹ với
dục vọng sinh lý như là một cảm quan tự nhiên như là sự phát triển lành mạnh bình
thường của sự sống tự nhiên, phù hợp với đặc điểm sinh lý con người
Trinh → có nghĩa là phù hợp với chính đạo, giữ vững chính đạo có
quan hệ giữa cái đẹp và quy luật tự nhiên, giữa cái Đẹp và đạo đức
phẩm cách của con người. Ấn Độ:
Thờ ba vị thần chính là Brahama, Shiva, Vishiu, ngoài ra còn thờ thần Agai.
Người Ấn Độ quan niệm rằng, con người phải giải phóng từ tâm linh của
chính mình, và trong con người có 2 “cái ta” (cái tôi), một ta thật và một ta giả - làm
những gì không thật với chính mình. Cũng từ đây tạo ra nghiệt, sinh ra khổ, vì
thế con người phải tu tập, tìm đến thiền định, tìm thấy được cái an bình
tĩnh lặng trong tâm hồn, để có thể trở về với cái ta thật của chính mình.
Quan niệm triết học Ấn Độ cổ đại:
Cái đẹp bản chất (chân thực) đằng sau vô vàn cái đẹp hỗn tạp, mà chỉ thông
qua tu tập mới giác ngộ được.
Cái đẹp này luôn trong tiềm thức của con người nhưng phải tự giác ngộ lấy.
Khi sinh ra, con ng mang bản chất thật sự, phản ánh những gì họ thấy,
nghe, cảm nhận đc. Nhưng sau 1 thời gian, con ng sẽ dần thành bản chất
giả, do mọi thứ xung quanh tác động lên khiến bản chất bị thay đổi, phải
mang bộ mặt giả để thích nghi với xã hội lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Quan điểm Ấn Độ: Tư tưởng mỹ học quan niệm rằng cái đẹp là cái đẹp có
thực, nhưng không phải là cái đẹp chân thực (cái hình ảnh ko phai mờ, lưu giữ mãi
trong tim, đó mới là cái đẹp chân thực nhất)
Tóm lại: cái đẹp của Ấn Độ cổ đại được hiểu như là cái đẹp của Brahman
(linh hồn vĩ đại) đc nhận thức trong trạng thái con ng đã lánh xa đc tội lỗi, đạt
đc đến sự thanh thoát, thư thái, ko còn ham muốn dục vọng Tạm kết: Trong quan
niệm cái đẹp Triết học Đông phương:
Trung Quốc: cái đẹp chú trọng đạo đức con người: nó là cái thiện, hình thức là cái mỹ.
Ấn Độ: cái đẹp mang ý nghĩa tôn giáo, cái đẹp mang tính chất thiêng liêng đầy yếu tố tâm linh.
* Ý nghĩa: cái đẹp theo quan niệm mỹ học cổ đại ở phương Đông và phương Tây cũng
được tiếp cận ở nhiều cách nhìn khác nhau hoặc trên lập trường duy vật, hoặc trên lập
trường duy tâm. Có quan niệm nhấn mạnh cái đẹp ở sự hòa điệu, có quan niệm đồng
nhất cái đẹp với tính thiện, với đức hạnh, đồng nhất cái đẹp với tính tự nhiên, có quan
niệm đi tìm cái đẹp từ thế giới siêu tự nhiên, ý niệm, tinh thần ở bên ngoài con người;
song cũng có quan niệm phủ nhận cái đẹp, coi đó là sản phẩm của tầng lớp thống trị,
là cái không cần thiết. Tuy nhiên, nhìn chung các quan niệm về cái đẹp trong thời kỳ
cổ đại cũng hướng đến những giá trị chung nhất để con người phấn đấu đạt đến và đều
để lại những tư tưởng quý báu cho những thế hệ mai sau làm giàu thêm tư tưởng thẩm mỹ của mình. Câu 7: Câu 8:
Câu 9: Trình bày và phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả và các hình thức biểu
hiện của cái Bi? Dẫn chứng một tình huống Bi trong đời sống hoặc trong nghệ thuật.
* Nguồn gốc:
Khi con người ta rơi vào bi kịch nhưng họ sẽ không thấy đời mình bi kịch. Khi
mà vượt qua được rồi, nhìn lại, tách chủ thể và đối tượng ra khỏi, mới thấy bi kịch.
Cái bi là hiện tượng thẩm mỹ, diễn tả quy mô của một hành động hoàn chỉnh
(bao gồm tình tiết như là linh hồn, cơ sở của bi kịch và tính cách đi theo sau tình tiết) lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
thường kết thúc bằng một cái chết. Mặc dù cái chết không phải lúc nào cũng là cái bi.
Vì thực chất cái bi là cái đẹp bị thất bại, bị huỷ diệt trong quá trình đấu tranh với cái xấu.
Cái Bi là thất bại của cái đẹp, là cái chết của cái “đẹp” trong quá trình chống lại cái “xấu”.
Người học mỹ học phải biết tới Katharcis, 1 sự phản tính trong nhân cách. (Phản
tính là sự nhận thức lại cái sự việc, xđ lại giá trị của nó cũng như làm quay lưng lại vs
cái xấu, đấu tranh chống lại cái xấu và quay lưng lại vs cái xấu)
Có 3 nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh cái Bi: -
Cái bi nảy sinh do những hiện tượng tự nhiên quái ác, bất ngờ gây ra và để lại
những hậu quả nghiêm trọng cho người lương thiện: động đất, bão lụt, nước dâng…
- Cái bi nảy sinh từ các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội khi những lực
lượng tiến bộ cách mạng đứng lên nhằm lật đổ các thế lực phản động lạc hậu nhưng
vì lực bất tòng tâm không những không chiến thắng mà còn phải nhận đòn thất bại
(VD: công xã Pari, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh…) -
Cái bi là hậu quả của sự ngu dốt của con người. Vì ngu dốt mà con người đã có
những việc làm trái với tự nhiên, trái với quy luật nên bị thất bại thảm hại. Cũng vì
ngu dốt mà con người đã tự đặt ra những hủ tục lạc hậu để trói buộc mình và gây nên
những hậu quả thương tâm
* Bản chất :
Bản chất của cái bi là sự xung đột. Giữa cái đẹp/ cái thiện với cái xấu/ cái ác.
Nó diễn ra trong mỗi cá nhân, ý niệm của cái thiện đối chọi với cái ác, là sự đấu tranh
giữa cá nhân với xã hội, giữa đạo đức cá nhân với luân lý xã hội.
Cái bi thường gắn liền với sự thất bại, nỗi đau đớn, niềm bất hạnh của một con
người hay của một hiện tượng xã hội nào đó mà xét về mặt bản chất nó vốn thuộc về
cái đẹp, cái cao cả hoặc cái anh hùng. Nói một cách khái quát, cái bi là cái đẹp bị thất
bại tạm thời, là cái đẹp nửa đường đứt gánh. Mặc dầu bị thất bại nhưng cái bi không
gợi lên cảm giác về sự bi quan, bi lụy mà ngược lại nó v ̀n mang âm hưởng lạc quan
bởi lẽ sự thất bại của cái bi chỉ là sự thất bại có tính chất ng ̀u nhiên tạm thời, sự thất
bại để gieo mầm chiến thắng. Trước cái bi người ta thường bộc lộ sự đồng cảm và tiếc thương sâu sắc.
“Xung đột bi kịch giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng ko tài nào
thực hiện đc điều đó thực tiễn. Bỏ qua yếu tố ấy thì đã làm giảm sự bi kịch” (Engels)
* Hệ quả: - Cái bi tạo ra sự đa dạng về mặt cảm xúc (sợ hãi, tích cực, vui vẻ, căm lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
giận,...). Nhưng những cảm xúc đó hoàn toàn mang tính tích cực vì đó là sự thăng hoa
từ những giá trị thẩm mỹ cái bi mang lại.
=> Trạng thái: thanh lọc, thanh tẩy.
Khi một giọt nước mắt nhỏ xuống xót thương cho cái đẹp bị thất bại, hủy diệt, nghĩa
là ở đó đã sinh ra sự phản đối, không đồng tình với cái xấu, đấu tranh tiêu diệt cái xấu, phục sinh cái đẹp.
* Biểu hiện: -
Bi của cái cũ: những lực lượng xã hội đã xác lập được vị thế trong lịch sử, v ̀n
còn năng lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhưng vì một lí do nào đó bị thất bại,
huỷ diệt từ đó nảy sinh cái bi. -
Bi của cái mới: những con người xã hội, cá nhân đại diện cho một trào lưu tiến
bộ mở đường cho sự phát triển, tuy nhiên trong quá trình phát triển lại bị cái xấu chống
đối tiêu diệt d ̀n đến thất bại (“chết trong bình minh”). -
Cái bi lầm lạc: sự hạn chế năng lực của nhận thức * Dẫn chứng:
Đây là câu chuyện có thật xảy ra từ thời Trung Cổ, “Romeo và Juliet” kể về tình
yêu lãng mạn nhưng cũng đầy bi kịch giữa Romeo Montague – một chàng trai lương
thiện, tốt bụng – và Juliet Capulet – một cô gái xinh đẹp, thánh thiện và thơ ngây.
Tóm tắt: Trong thành Verona của Italy, hai dòng họ Montague và Capulet vốn
có mối hận thù lâu đời. Bi kịch bắt đầu từ khi con trai của dòng họ Montague là Romeo
trà trộn và dạ tiệc hóa trang của nhà Capulet, chàng đã gặp nàng Juliet và hai người
yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên, do mối hận thù sâu sắc giữa hai dòng
họ, lại thêm sự cố khiến Romeo giết chết người họ hàng của Juliet là Tybalt, nên hai
người không thể đến được với nhau. Romeo bị trục xuất khỏi thành Verona, còn Juliet
thì bị gia đình ép gả cho bá tước Paris. Nhờ tu sĩ nhà thờ giúp đỡ, nàng đã uống một
liều thuốc ngủ để giả chết trong vòng 24 giờ, vì thế đám cưới giữa Juliet và Paris lại
trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ của gia đình. Nghe tin nàng
chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Khi ngắm nhìn dung nhan người yêu thương đã
khuất, chàng uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì
cũng là lúc thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo
bên cạnh. Quá tuyệt vọng, nàng rút dao tự v ̀n.
Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Họ đã xóa sạch
mối thù truyền kiếp và bắt tay hữu nghị. Nhưng những gì còn lại v ̀n là nỗi xót xa cho
một cuộc tình đẹp tựa bài thơ. Câu chuyện Romeo và Juliet không chỉ ngợi ca tình yêu lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
lãng mạn và trong sáng, mà nó còn gửi gắm thông điệp đầy tính nhân văn. Quả thật,
tình yêu trong ngần và đẹp tựa pha lê có thể làm tan chảy những gì là “thù hận”, là
“định kiến”, hay là bảo thủ truyền thống. Hành động của Spartacus là hành động bi
kịch của nô lệ cách mạng khác với nô lệ thuần túy và nô lệ thô bỉ.
Câu 10: Trình bày và phân tích nguồn gốc, bản chất, hệ quả và các hình
thức biểu hiện của cái Hài? Dẫn chứng một tình huống Hài trong đời sống hoặc trong nghệ thuật.
* Nguồn gốc:
Cái hài là sự ngụy tạo của một nội dung xấu trong một hình thức đẹp nhưng lại
bị phát hiện và tạo ra tiếng cười phê phán.
Cái hài từ một hiện tượng trong đời sống xã hội mà hệ quả của nó thường đem
lại tiếng cười. Tuy nhiên không phải tiếng cười nào cũng là hệ quả của cái hài. Có
những tiếng cười bắt nguồn từ tâm sinh lý hay bệnh lý.
Cái hài hước được hình thành từ khập khiễng, từ sự mâu thu ̀n: -
Sự khập khiễng, mất cân xứng (“so le”) về hình thức. -
Sự mâu thu ̀n ở hình thức và nội dung. * Bản chất:
Cái hài là cái xấu nhưng không cam phận xấu. Để che đậy bản chất xấu xa, đồi
bại của nó cái hài đã tự khoác lên mình một bộ áo giả tạo bên ngoài là hiện thân của
cái đẹp để đánh lừa dư luận xã hội, để kéo dài sự tồn tại vốn đã lỗi thời của nó. Tuy
nhiên, dù cố tình che đậy hay bưng bít thế nào chăng nữa thì cuối cùng bản chất đích
thực của nó v ̀n bị lộ trần. Cái hài bộc lộ hàng loạt các mâu thu ̀n gay gắt giữa nội dung
và hình thức, giữa bên ngoài và bên trong, giữa bản chất và hiện tượng, giữa khả năng
và hiện thực… Người ta dùng tiếng cười để cảm nhận, đánh giá và phê phán cái hài.
Đây không phải là tiếng cười sinh lý giản đơn, tiếng cười vô thưởng vô phạt mà là
tiếng cười của lý trí, của trí tuệ mang ý nghĩa tố cáo quyết liệt. Tiếng cười được sử
dụng ở đây giống như một thứ vũ khí đấu tranh sắc bén nhằm lật mặt và công kích cái hài.
Cái hài được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau: -
Tự trào bằng cách thừa nhận khuyết điểm của mình và người thân, nói quá lên
để làm cho mình tồn tại. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3 -
Châm biếm, mỉa mai, tỏ thái độ nghiêm khắc, không đồng tình, phê phán đối
tượng một cách sâu cay. -
Đả kích phê phán bằng thái độ quyết liệt, đấu tranh không chấp nhận cái xấu.
Cái hài trong nghệ thuật phải mang tính nhân văn, không cười trên nỗi bất hạnh của
người khác. * Biểu hiện:
Tiếng cười trong cái hài là vũ khí phê phán, mang tính nhân văn. Đặc trưng tiếng
cười của cái hài là tiếng cười của trí tuệ, là tiếng cười của ng chiến thắng, tiếng cười mang tính nhân văn
Tiếng cười của trí tuệ là phát hiện những hiện tượng chứa đựng sự khác biệt đã
tạo ra vô số những nghịch lý, những mâu thu ̀n mà không thể xếp đặt vào trong những
khuôn khổ của hiện tượng được coi là thống nhất và thuần nhất, theo thước đo mà con
người được giáo dục, được nhận biết
Tiếng cười của người chiến thắng là khi phát hiện được sự việc bị che đậy, ng
chiến thắng sử dụng tiếng cười
Sự khoan dung là khi phát hiện, chủ thể đã thể hiện sự cảm thông, bỏ qua và
không quan tâm đến, đó cũng chính là hình phạt nặng nề chứ không phải chỉ là mặc
kệ cho qua. Tiếng cười thể hiện thái độ sẵn sàng tiễn biệt quá khứ của 1 cái xấu (cái
quá khứ ko hẳn là cái xấu mà là cái không còn phù hợp nữa) 1 cách vui vẻ
Tiếng cười mang tính nhân văn là cái hài không đến từ sự khiếm khuyết cơ thể,
từ sự bất bình thường như là nỗi bất hạnh của ng khác
* Dẫn chứng: Phim Tiệc trăng máu - Khôi hài
- Mỉa mai, châm biếm: Hôn nhân trở thành nấm mồ của tình yêu → cưới nhau,
nhưng chưa học được cách ở bên nhau; Ngoại tình; sự vô tâm; Cái xấu - Cái đẹp -
Đả kích: cái nhìn về LGBTQIA+
→ Mâu thu ̀n giữa nội dung và hình thức Mỹ học đại cương
Câu 11: Trình bày cấu trúc của ý thức thẩm mỹ. Vai trò của tình cảm, thế giới
quan và hệ tư tưởng trong đời sống thẩm mỹ?
* Cấu trúc của ý thức thẩm mỹ:
Những thành tố cơ bản hợp thành ý thức TM là cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm
mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3 -
Cảm xúc thẩm mỹ: Cảm xúc thẩm mỹ là cảm xúc được nảy sinh nơi con người
khi có một khách thể thẩm mỹ nào đó tác động tới. Cái bên ngoài (rung động trực tiếp
trước cái đẹp) → vô tư, không vụ lợi → tự nhiên xúc động là xúc động → làm giàu
cho đời sống tinh thần, là yếu tố giúp con người vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
+ Tính liên tưởng: khi cảm xúc thẩm mỹ hình thành nó có tính liên tưởng, 3 dạng
thức: nhớ về quá khứ (hồi tưởng, hoài niêm),̣ phóng chiếu tới tương lai, suy ng
̀m, suy tư về hiêṇ tại. + Tính nhập cảm → đồng cảm với nhân vật → sân khấu “lấy
cảm xúc” khán giả hay “thức tỉnh” khán giả? -
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sở thích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố lý tính.
Vì nó luôn gắn với lựa chọn và đánh giá của chủ thể trước đối tượng. Thị hiếu thẩm
mỹ là một hiện tượng phức tạp mà trong đó chứa đựng hàng loạt các mâu thu ̀n – thống
nhất: giữa cái riêng và chung; giữa cái cũ và mới; giữa xu thế hướng nội và hướng
ngoại...sự thể hiêṇ môṭnăng lực cảm nhân,̣ đánh giá, tiếp nhâṇ thẩm mĩ vào trong chính
bản thân đời sống của thẩm mĩ→ “sở thích tương đối ổn định của cá nhân hay cộng
đồng về phương diện thẩm mỹ” -
Lý tưởng thẩm mỹ → ước mơ, khát vọng đẹp sẽ có trong tương lai ( có ở trong
1 thi nhân đẹp, 1 công ̣ đồng đẹp) dần loại bỏ đi sự tiêu cực. Lý tưởng thẩm mỹ là một
bộ phận hợp thành của lý tưởng xã hội (bên cạnh lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo
đức, lý tưởng luật pháp, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng khoa học)
Lý tưởng thẩm mỹ là sự khát khao, mong mỏi của con người được vươn tới sự hoàn
thiện hoàn mỹ trong cuộc sống. Nói một cách khái quát, lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng
vươn tới cái đẹp. Lý tưởng thẩm mỹ của con người được biểu hiện ra sự hình dung cụ
thể trong đầu óc của họ về những m ̀u đời, m ̀u người, m ̀u vật, m ̀u việc hoàn thiện
hoàn mỹ mà họ khát khao có được. Lý tưởng thẩm mỹ không phải là cái gì cao siêu
hay xa lạ mà nó vốn thường trực trong đầu óc của mỗi chúng ta, trực tiếp chỉ đạo mọi
hành động sống của chúng ta. Bởi vì trước khi làm bất cứ điều gì con người cũng hình
dung ra trước cái kết quả tốt đẹp của công việc mình làm và phấn đấu hết mình cho nó. +
Nội dung của lý tưởng thẩm mỹ: lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
● Môi trường thiên nhiên Đẹp
● Cộng đồng xã hội Đẹp ● Một nhân cách đẹp
* V ai trò của tình cảm, thế giới quan và hệ tư tưởng: -
Cảm xúc thẩm mỹ trong cuộc sống và trong sáng tạo nghệ thuật: Mặc dù mang
nặng tính chất cảm tính nhưng cảm xúc thẩm mỹ lại giữ một vai trò rất quan trọng
trong đời sống tâm lý cá nhân, bởi lẽ nó là cơ sở để tạo dựng nên chiều sâu, sự phong
phú trong thế giới tâm hồn tình cảm của mỗi người. Thực tế xác nhận rằng người nào
càng giàu cảm xúc thẩm mỹ và cảm xúc thẩm mỹ của họ càng nhạy bén, tinh tế thì họ
càng có nhiều điều kiện thuận lợi để tạo nên cho mình một thế giới tâm hồn rộng mở,
phong phú, sâu sắc. Ngược lại người nào càng ít cảm xúc thẩm mỹ hoặc cảm xúc thẩm
mỹ của họ bị chai lì thì chắc chắn họ sẽ có một tâm hồn nông cạn, nhạt nhẽo, trống
rỗng. Trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật (bao gồm hoạt động sáng tác, hoạt động
biểu diễn, hoạt động cảm thụ) thì cảm xúc thẩm mỹ lại đặc biệt cần thiết. Chinh cảm
xúc thẩm mỹ đã tạo nên niềm say mê, sự hứng thú cho con người trong toàn bộ quá
trình hoạt động nghệ thuật. Và như vậy, nó trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động nghệ thuật. -
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ liên quan trực tiếp và góp phần quan trọng
vào việc hình thành lối sống, phong cách sống của mỗi người. Vì vậy, để xây dựng lối
sống có văn hóa, nhân cách có văn hóa thì mỗi người cần có được một thị hiếu thẩm
mỹ lành mạnh, tiến bộ. -
Lý tưởng thẩm mỹ: Trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật thì lý tưởng thẩm mỹ
giữ vai trò quyết định bởi nó chi phối trực tiếp tới động cơ và mục tiêu sáng tác của người nghệ sĩ.
Câu 12: Trình bày khái niệm, tính chất, vai trò của thị hiếu thẩm mỹ. Đặc trưng
của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ? * Khái niệm:
Thị hiếu là sở thích cá nhân, cá nhân có sở thích riêng về cái đẹp và cảm nhận cái đẹp.
Thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ (còn được gọi là óc thẩm mỹ, khiếu thẩm
mỹ, gu thẩm mỹ, sở thích thẩm mỹ) biểu hiện sự say mê, hứng thú đặc biệt của con
người trước một loại hiện tượng thẩm mỹ khách quan nhất định. Nếu cảm xúc thẩm lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
mỹ mang nặng tính chất cảm tính thì thị hiếu thẩm mỹ lại chứa đựng nhân tố lý tính.
Vì nó luôn gắn với lựa chọn và đánh giá của chủ thể trước đối tượng * Tính chất
của thị hiếu thẩm mỹ:
Tính phản ứng mau lẹ:
Khi tiếp xúc với các hiện tượng thẩm mỹ ( trong đời sống và trong nghệ thuật )
nơi chứa đựng các phạm trù thẩm mĩ và những mặt đối lập, con người lập tức bộc lộ
thái độ một cách tự do, không e dè.
Những con người từng trải, vốn văn hóa cao, năng lực thẩm mĩ và nghệ thuật
sâu sắc thì càng tự tin khi biểu lộ phản ứng và có cảm xúc mãnh liệt hơn. Tính hài hoà vô tư
Đó là sự đánh giá thẩm mỹ không vụ lợi, chỉ nhằm thỏa mãn lòng hâm mộ của
mình. Một thị hiếu vô tư giúp con người lựa chọn đúng các giá trị Chân – Thiện
– Mỹ. Con người phải chọn một giữa hai hướng: mơ mộng hay thực dụng. Mơ mộng
quá sẽ rơi vào phiêu lưu, không tưởng. Thực dụng quá d ̀n đến khô khan, nghèo nàn
cảm xúc trước vẻ đẹp của đối tượng, và khi chán nản thì đã muộn. Người thực dụng
sẽ không tránh khỏi dục vọng tầm thường.
Một thị hiếu vô tư là sự hài hòa giữa mơ mộng và thực tế.
Tính cá biệt và tính xã hội :
Mỗi cá nhân có sự thích thú khác nhau, xã hội được hình thành từ nhiều cá
nhân, không có nghĩa là một tập hợp lộn xộn các thị hiếu thẩm mĩ cá nhân. Đó là những
giá trị thẩm mĩ chung của cộng đồng, có tác dụng lôi cuốn, định hướng thị hiếu thẩm
mĩ cá nhân (nói cách khác, cá nhân chịu áp lực tự nhiên của xã hội ).
Nhưng đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng trong đời sống thẩm mỹ.
Một cá nhân nghệ sĩ sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật, sau đó được cả cộng
đồng thừa nhận như một giá trị chung của xã hội, thậm chí của chung nhân loại.
Nhà triết học I.Kant, người đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về thị hiếu thẩm
mỹ, ông đã tuyệt đối hóa vai trò của thị hiếu thẩm mĩ cá nhân (cá biệt) . Ông lúng túng
không lý giải được sự song hành của cả hai loại thị hiếu đó. Ông cho rằng, sở dĩ có thị
hiếu thẩm mĩ xã hội là do ng ̀u nhiên nhiều người có cùng thị hiếu thẩm mỹ với những cái đẹp phổ quát.
Mỹ học Mác- Lênin lý giải đúng đắn hơn: không có cá nhân nào sống tách biệt
xã hội mà hình thành được thị hiếu thẩm mỹ (hãy xem nhân vật Robinson Crusoe trong
tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Anh Daniel Defoe thế kỉ 19- khi sống một mình trên lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
đảo, anh ta hầu như chẳng có thị hiếu thẩm mỹ gì nữa !) . Thực ra, trong cộng đồng
tồn tại cùng lúc các thị hiếu cá nhân, thị hiếu giai cấp, thị hiếu xã hội và thị hiếu nhân loại. Tính giai cấp:
Mỗi giai cấp có một thị hiếu riêng, nghĩa là, có quan niệm khác nhau về cái đẹp.
Quý tộc phong kiến ca tụng và ưa chuộng m ̀u người “yểu điệu thục nữ” , “liễu
yếu đào tơ”, “hào hoa phong nhã”, “nho nhã”. Người nông dân đề cao con người khỏe
mạnh thậm chí mập mạp, chất phác, có duyên. Ca dao “Mười thương” bộc lộ quan
niệm của nhân dân xưa về cái đẹp phụ nữ thôn quê (Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai
thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền . . . .).
Nhân vật Natasha trong tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tolstoi
mang cả vẻ đẹp của tiểu thư bá tước thượng lưu quý tộc vừa có vẻ đẹp cô thiếu nữ làng
quê Nga . Theo nhà văn, đó là sắc đẹp hài hòa, hoàn hảo nhất. Nhìn chung, nếu so với
giai cấp tư sản ưa chuộng vẻ đẹp hình thức, thậm chí thiên về thể chất, thì quý tộc
phong kiến ưa vẻ đẹp tinh thần hơn, cao nhã hơn.(Quan niệm thẩm mĩ của giới quí tộc
tinh tế, sắc sảo hơn tư sản. Vở hài kịch “Gã tư sản học đòi quý tộc” của Moliere đã chứng minh điều đó). Tính dân tộc:
Trải qua lịch sử, mỗi dân tộc hình thành một thị hiếu thẩm mỹ riêng, có khi trái
ngược với dân tộc khác phương Đông: con rồng là đẹp đẽ cao quý, còn phương Tây,
con rồng là độc ác, xảo quyệt …). Nghệ thuật phương Tây ưa tả thực, chuẩn xác khiến
khán giả thán phục, còn nghệ thuật phương Đông ưa tạo “khoảng trống” và ước lệ
khiến cho người thưởng thức phải tưởng tượng và đồng sáng tạo. Mặt khác, có những
chuẩn mực chung về Chân – Thiện – Mỹ đặc biệt cái đẹp được cả nhân loại công nhận.
Chẳng hạn, màu xanh da trời được coi là màu hy vọng, ước mơ, hòa bình. Màu đỏ
hạnh phúc, màu trắng bình đẳng, màu đen tang tóc, buồn bã… Cành nguyệt quế (olive)
được coi là biểu tượng của chiến thắng vinh quang. Con chim bồ câu tượng trưng ước vọng hoà bình .v.v… Tính thời đại:
Thẩm mỹ trang phục thay đổi theo mùa, theo lứa tuổi, theo mode (model), rất
hiếm có loại trang phục được ưa chuộng lâu bền như chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam,
bộ complet châu Âu … Chưa ai biết chiếc quần jeans Âu Mỹ sẽ còn tồn tại bao lâu.
Có những tác phẩm nghệ thuật vừa ra đời đã được trao ngày vòng nguyệt quế và trường
tồn mãi mãi. Lại có tác phẩm phải chờ đợi một thời gian dài mới bừng sáng, vì nó đi lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
trước thời đại (Hồng Lâu Mộng, Đường Thi, Truyện Kiều, nhạc cổ điển châu Âu thế
kỉ 18-19. Nhiều tác phẩm nghệ thuật sớm nở tối tàn.
* Vai trò của thị hiếu thẩm mỹ: -
Thị hiếu thẩm mỹ đông vai trò chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, góp phần
tạo ra khuynh hướng cá nhân và nhu cầu thưởng thức của chủ thể. -
Thị hiếu thẩm mỹ là cơ chế độc đáo bảo đảm cho chủ thể kết hợp và vận dụng
các tiêu chuẩn trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ, biểu hiện như một tiêu chuẩn để
đánh giá dạng phán đoán “thích hay không thích”. -
Đóng vai trò trong sự sáng tạo thẩm mỹ, kích thích bên trong đối với hoạt động
sáng tạo, là một nhân tố hướng d ̀n chủ thể lựa chọn đề tài, chất liệu, hình thức,… Góp
phần tạo ra thiên hướng cá nhân, tạo ra phong cách độc đáo của cá nhân -
Tạo ra nhu cầu thưởng thức, trong đời sống hằng ngày thị hiếu thẩm mỹ của
đông đảo công chúng có sự tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo nghệ thuật. -
Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn ở nhiều
lĩnh vực khác của cuộc sống. Có thể kể ra như thẩm mỹ trong xây dựng, trang trí nội
thất nhà ở, trong văn hoá giao tiếp, … Cuộc sống chúng ta cần có những con người
hiểu biết về cái đẹp, từ đó mới có thể gìn giữ những nét đẹp truyền thống và tạo dựng
thêm những giá trị mới.
* Đặc trưng của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ: -
Bản chất của giáo dục thẩm mỹ theo quan điểm của mỹ học Mác – Lênin gắn
liền với các hoạt động sáng tạo, nghĩa là con người luôn hướng tới những giá trị mới.
Giáo dục thẩm mỹ làm hình thái năng động của chủ thể thẩm mỹ phát triển mạnh mẽ
và tự do trên cơ sở nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn. Mỹ học Mác – Lênin
khẳng định giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận hợp thành sự nghiệp giáo dục toàn xã
hội. Nó gắn bó chặt chẽ với giáo dục lao động, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
quốc tế và sự hài hoà giữa truyền thống với hiện đại, cá nhân với xã hội, thể xác với
tinh thần. Nhưng giáo dục thẩm mỹ có tính đặc thù khác với mọi phương tiện giáo dục
khác là ở bản chất của cái thẩm mỹ của nó. Tuy nhiên giáo dục thẩm mỹ và các hình
thức giáo dục khác có mối liên hệ biện chứng với nhau và đều có một mục đích chung
đó là sự hoàn thiện nhân cách con người. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3 -
Giáo dục thẩm mỹ mang nội dung xã hội sâu sắc trước hết phải nói đến tính dân
tộc. Các chủ thể thẩm mỹ hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp bao giờ cũng ở một
dân tộc nhất định. Xa rời nội dung tính dân tộc, giáo dục thẩm mỹ sẽ đánh mất bản
chất xã hội của nó.Mỗi dân tộc trong xã hội có giai cấp đều có những quan hệ giai cấp
khác nhau. Các tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của giai cấp
đều phụ thuộc vào điều kiện sinh sống và mục tiêu giáo dục của giai cấp đó. Trong xã
hội có giai nhiều cấp khác nhau cùng tồn tại thì thước đo giá trị thẩm mỹ bao giờ cũng
thuộc về giai cấp thống trị.Tĩnh xã hội của giáo dục thẩm mỹ còn gắn liền với tính thời
đại, mỗi thời đại có mục tiêu, hình thức, biện pháp giáo dục và xây dựng các chủ thể
thẩm mỹ khác nhau. Thời nô lệ, phong kiến, tư bản và ngày nay, các chủ thể đều mang
dấu ấn của thời đại mình.
Câu 13: Phân tích, nhận định và dẫn chứng từ luận đề: Nghệ thuật là sự phản
ánh hiện thực cuộc sống con người bằng tình yêu rộng lớn – tình yêu đối với cái đẹp
Hiện thực cuộc sống con người có 3 mối liên hệ: giữa con người với tự nhiên,
với người khác (quan hệ xã hội) và với chính bản thân. Chính là phản ánh toàn bộ
những gì diễn ra trong ba mối quan hệ này. Đó chính là nội dung của nghệ thuật (cuộc
sống của con người). Do đó, phạm vi phản ánh của nghệ thuật vô cùng rộng. Trung
tâm của hiện thực là đời sống của con người. Hơn thế, con người là con người xã hội.
Nghệ thuật vì xã hội cũng chính là nghệ thuật vì con người. Hiện thực phong phú vô
cùng vô tận của tự nhiên và xã hội là đối tượng của nghệ thuật. Biélinski đã từng xác
nhận: tất cả thế giới, tất cả những bông hoa, màu sắc và âm thanh, tất cả các hình thức
của tự nhiên và đời sống đều có thể là những hiện tượng của thơ ca. Xác định một
phạm vi phản ánh rộng lớn như vậy của nghệ thuật là để khẳng định khả năng to lớn
của nghệ thuật trong việc miêu tả và phản ánh. Hay Chernychevski đã khẳng định
phạm vi của nghệ thuật bao hàm trong nó tất cả những gì có trong hiện thực (trong tự
nhiên và trong xã hội) khơi gợi được hứng thú của con người- không phải với tư cách
là học giả mà với tư cách là con người bình thường; cái mọi người quan tâm trong đời
sống -đó là nội dung của nghệ thuật.
Trong đời sống, con người có hai mối quan tâm lớn: mối quan tâm tới tự nhiên
và mối quan tâm tới xã hội. Tức chính là hai mối quan tâm đảm bảo cho con người tồn
tại và phát triển: quan hệ tự nhiên và quan hệ xã hội. Hai mối quan hệ này quay quanh
một trung tâm là con người. Chính những mối quan hệ trung tâm con người là trung
tâm chú ý của nghệ sĩ. Nếu như đối tượng của khoa học là sự vật, hiện tượng tồn tại lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
độc lập với ý thức con người thì đối tượng của nghệ thuật là tất cả những gì quan hệ với con người.
Chính vì yêu cuộc sống mà những nhà làm nghệ thuật đã tái tạo, tái hiện những
hiện thực để phản ánh cuộc sống. Qua đó gửi gắm những ước mơ, khát vọng về cuộc
sống hoàn thiện, cuộc sống tốt đẹp hơn -> mang tính lý tưởng. Có thể thấy, nhà chính
trị xem chiến tranh là sự xung đột tất yếu giữa hai lực lượng xã hội đối kháng nhau về
mặt lợi ích nhưng qua góc nhìn từ nghệ thuật chiến tranh là một sự kiện, một tình
huống để bộc lộ tính cách, số phận con người, để bộc lộ những lý tưởng, khát vọng
của con người dựa trên góc nhìn nhân đạo, tình yêu thương con người, yêu cuộc sống.
Nghệ thuật là tình yêu đối với cuộc sống, một cuộc sống không đẹp nhưng nghệ thuật
phải đẹp mặc dù trong khi tái tạo hiện thực cuộc sống vào trong nghệ thuật, người
nghệ sĩ không chỉ tái tạo mặt tối mà còn gián tiếp/trực tiếp tái tạo nên một mảng sáng
của cuộc sống vào trong nghệ thuật. Cho nên tính phê phán trong nghệ thuật là một sự
phê phán nhằm đi đến sự hoàn thiện chứ không đơn thuần là phê phán đi đến sự huỷ
diệt. Tất nhiên cái xấu cần được huỷ diệt, nhưng huỷ diệt để làm gì thì câu hỏi này
nghệ thuật cần có trách nhiệm trả lời.
Câu 14: Phân tích và dẫn chứng từ nhận định: Bản chất của nghệ thuật là
những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy định của cái Đẹp
Bản chất của nghệ thuật là những thuộc tính, những yếu tố sự tồn tại bản chất
của nghệ thuật, không có những thuộc tính và yếu tố này thì bản chất của nghệ thuật
không tồn tại. Nó là những yếu tố thuộc tính quy định cho sự tồn tại, phát triển của
nghệ thuật. Cái đẹp được tạo ra mang giá trị của nghệ thuật (phụ thuộc vào thị hiểu
thẩm mỹ của con người) là cái đẹp được sự thừa nhận của công chúng. Ngoài ra bản
chất của nghệ thuật còn là những giá trị xã hội được đánh giá theo sự thiết định của
cái đẹp. Giá trị là những gì đáp ứng cho nhu cầu của con người xét từ tận cùng nhu
cầu xã hội là nhu cầu sống (Con người không có giá cả, khi gắn giá cả nô lệ). Giá trị
xã hội là các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, xã hội, đạo đức, thẩm mỹ,... nói lên
giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những gì đáp ứng nhu cầu, khát vọng sống của
con người. Nó là giá trị của giá trị. Là những giá trị xã hội được đánh giá theo quy
định riêng của tình cảm. Cái đẹp biểu trưng cho những giá trị vậy nên cái đẹp trong
nghệ thuật là giá trị của giá trị - giá trị của đời thường thăng hoa lên thành giá trị của thẩm mỹ. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Tại sao người ta thấy mình không đẹp? Do người ta không thấy ở thứ đó sự đáp
ứng nhu cầu sâu xa của bản thân họ: yếu tố chủ quan tác động hệ giá trị khác nhau. Ở
trong mối quan hệ khác có nhu cầu khác.
Hay ở Phương Đông quan niệm da trắng là đẹp có những người phụ nữ tìm đến các loại kem trộn…
Câu 15: Phân tích và dẫn chứng từ luận điểm: “Bản chất của nghệ thuật là
những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình cảm”
Giá trị XH là các giá trị văn học, cuộc sống, kinh tế, xã hội, đạo đức, thẩm
mỹ, …=> nói lên giá trị của con người, nói lên nhu cầu, những gì đáp ứng nhu cầu,
khát vọng sống của con người.
Bản chất của nghệ thuật là những giá trị của xã hội được đánh giá theo quy luật
riêng của tình cảm không đánh giá theo chuẩn mực của khoa học bởi nhận thức thẩm
mỹ khác với nhận thức khoa học. -
Thẩm mỹ là đánh giá trên góc độ cảm xúc -
Giá trị thẩm mỹ được tạo ra trên cơ sở của giá trị xã hội
Nghệ thuật là những giá trị xã hội được đánh giá theo quy luật riêng của tình cảm.
Có công chúng nghệ thuật thì có tồn tại nghệ thuật, không có công chúng thì nghệ
thuật chết. Tác phẩm không có ai nhớ đến là tác phẩm chết. Lý tính có đúng
và sai. Nghệ thuật có Thích hay không thích Cảm xúc -> Hành động
Câu 16: Trình bày định nghĩa, đặc trưng và vai trò của hình tượng nghệ thuật * Định nghĩa:
Hình tượng nghệ thuật (tiếng Anh: image) là phương thức chiếm lĩnh, thể hiện
và tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật. Là một phương
thức phản ánh, đặc biệt riêng có của nghệ thuật. Tính hình tượng là sự liên kết giữa
các yếu tố nhằm tạo nên chính thể mang tính sinh động của nó, biểu hiện bên ngoài và
trực quan (Nó đem lại một hình ảnh cụ thể, sinh động) về một sự vật, chủ thể nhằm truyền tải ý nghĩa.
Sự phân tuyến giữa thế giới nghệ thuật và thực tại cuộc sống, chính nhờ hình
tượng nghệ thuật mà ý thức nghệ thuật hàm chứa nhiều tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của cuộc sống thật. lOMoAR cPSD| 61815267 lOMoARcPSD| 41487147
TIN HỌC MINH LONG – MOS – IC3
Hình tượng nghệ thuật là kết quả của sự tưởng tượng, → Như vậy, hình tượng
nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong
Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mỹ của
nghệ thuật, Vì những lẽ trên, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là suy
thống nhất cao do giữa các mặt đối lập: chủ quan - khách quan, lý trí và tình cảm, cá
biệt và khái quát, hiện thực và lý tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình.
Và cũng chính vì những lẽ trên, hình tượng còn là một quan hệ xã hội - thẩm mỹ võ
cùng phức tạp. Nghệ thuật có thể cho con người nhận thức về chân lý, chân lý có thể
trực quan được thông qua hình trọng nghệ thuật.
Có thể nói hình tượng nghệ thuật là sự kiến tạo nghệ thuật. Hình tượng nghệ
thuật có yếu tố cần thiết có được ở hình thức truyền tải của nghệ thuật nên khi nói hình
tượng nghệ thuật, bức tranh được truyền tải hiện ra giữa thế giới nghệ thuật và thế giới
thực tại giúp liên kết giữa cuộc sống của người xem, trải nghiệm và thế giới tâm tư.
Hình tượng nghệ thuật là mối liên hệ nhận thức cảm tính và chiều sâu trong nhận thức.
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa 3 cấp độ (222 - tâm lý - vật chất)
mà thực chất là 2 cấp độ tinh thần và vật chất.
Tinh thần: cảm xúc của người nghệ sĩ và người tiếp nhận
Vật chất: ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc... sự kết hợp của chúng — vật chất hóa
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất của ba cấp độ: tư tưởng - tình cảm -
hình tượng → sự liên kết chất liệu.
Hình tượng - ý đồ: phát huy tính tưởng tượng của người nghệ sĩ (vạch ra
đường viền cơ bản của tác phẩm).
Hình tượng - cảm thụ; có tình cảm biến trong cảm thụ và có tính bất biến trong
hình tượng. Vấn đề ở đây là ý nghĩa lịch sử - xã hội đặt ra trong tác phẩm.
Hình tượng - tác phẩm: là sự thống nhất giữa tinh thần và vật chất làm nên sự
tác động toàn vẹn của nghệ thuật.
* Đặc trưng:
Hình tượng nghệ thuật gắn liền với đời sống:
Nhắc đến hai chữ nghệ thuật đôi khi người ta nhầm tưởng nó là hiện thân của những
cái hoa mỹ, diễm lệ, của những thứ lãng mạn, viển vông, xa rời thực tế, nhưng thực
chất nghệ thuật luôn đi liền với đời thực, nó bám sát cuộc sống, nó dựa hơi người, đời,