Đề cương ôn tập giữa kỳ LSĐ. Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Về kinh tế, Pháp tiến hành khai thác thuộc địa: lần 1 từ năm 1897 đến năm 1914, lần 2
từ năm 1919 đến năm 1929 với mục đích vơ vét tài nguyên,.. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:
Trường:

Đại học Nguyễn Tất Thành 1 K tài liệu

Thông tin:
31 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Đề cương ôn tập giữa kỳ LSĐ. Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Về kinh tế, Pháp tiến hành khai thác thuộc địa: lần 1 từ năm 1897 đến năm 1914, lần 2
từ năm 1919 đến năm 1929 với mục đích vơ vét tài nguyên,.. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

14 7 lượt tải Tải xuống
| 1/31

Preview text:

lOMoARcPSD| 45562685
I. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(tháng 2/1930) 1. Bối cảnh thế giới
a. Tình hình thế giới
Thắng lợi CM tháng 10 Nga (1917) có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản và phong trào giải phóng dân tộc
Phong trào đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc ở các
thuộc địa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp
Quốc tế Cộng sản ra đời (3/1919): trở thành bộ tham mưu chiến đấu, lực lượng lãnh đạo
phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa
CNTB phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, đẩy
mạnh xâm chiếm thuộc địa
→ chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ (1914 - 1918)
b. Tình hình Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị,
biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của
thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối
nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chúng đàn áp đẫm máu các
phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng
thi hành chính sách “chia để trị”: chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành
ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, Pháp tiến hành khai thác thuộc địa: lần 1 từ năm 1897 đến năm 1914, lần 2
từ năm 1919 đến năm 1929 với mục đích vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân công và mở
rộng thị trường. Chúng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cướp ruộng đất lập đồn điền, tăng
cường khai thác tài nguyên. Điều này đã khiến nền kinh tế Việt Nam phát triển không
bình thường, què quặt và phụ thuộc vào Pháp.
Về văn hóa, Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” đằng sau cái vỏ bọc “ bảo hộ” hay
“khai hóa văn minh”. Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học. Pháp ra sức đầu độc dân
ta bằng rượu cồn và thuốc phiện, dung túng các hủ tục lạc hậu
Những chính sách trên đã khiến Việt Nam biến đổi sâu sắc trên mọi phương diện.
Xã hội Việt Nam có sự phân hóa và biến đổi về giai cấp: phân hóa giữa đại địa chủ,
trung địa chủ và tiểu địa chủ. Tuy nhiên phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân
Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia cách
mạng, ủng hộ kháng chiến dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng
lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực
dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mâu thuẫn cơ 1 lOMoARcPSD| 45562685
bản trong xã hội Việt Nam lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược, bên cạnh đó là mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến.
c. Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ:
Cuối thế kỷ XIX, phong trào theo khuynh hướng phong kiến: Phong trào Cần Vương,
cuộc khởi nghĩa Yên Thế…
Đầu thế kỷ XX, phong trào theo khuynh hướng tư sản: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…
Tuy nhiên, các phong trào đều thất bại do thiếu giai cấp đủ khả năng lãnh đạo; thiếu
đường lối, chiến lược cứu nước; thiếu sự đoàn kết và tập hợp lực lượng. Yêu cầu lịch
sử đặt ra là phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện để thành lập Đảng
● 1911 - 1920: ra đi tìm đường cứu nước và tìm thấy con đường cứu nước
Tìm đường cứu nước (5/6/1911) → nước Pháp
→ 1911 - 1920: vô cùng quan trọng
(từ 1 thanh niên yêu nước → 1 chiến sĩ cộng sản) (trưởng thành về mặt lý luận, tưduy, nhận thức) ● Chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị,tổ chức → sự ra đời và hoạt động của Hội Việt NamCM
thanh niên là bước chuẩn bị căn bản về tổ
chức cho sự ra đời của Đảng
→ sự biến đổi về chất(số lượng, cách thức)
→ Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập ĐCS
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong
bối cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều
thất bại thì Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về
"tự do, bình đẳng, bác ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã
sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần 2 lOMoARcPSD| 45562685
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã
tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản,
giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết
của một Đảng lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân
chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước.
Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách
mạng Việt Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của Người cho những cán bộ
cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên…
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc thành lập tờ báo “Người cùng khổ”, viết bài trên
các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, … Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác
Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai
cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống
xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền bá là những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ
của các giai tầng trong xã hội.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời
của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán
bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ,
vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho
75 đồng chí, từ đó giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành
phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và
là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được
Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong
trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ họ. Thông qua
phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn,
giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của nhân
dân, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến
tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng 3 lOMoARcPSD| 45562685
do sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất,
thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa
chiến lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn
bao giờ hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là
do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Thành lập ĐCS VN và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
● Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời
- Cuối 1929, 3 tổ chức cộng sản Đảng ra đời dưới sự ảnh hưởng của Hội VNCM
Thanh niên về chủ nghĩa Mác, khuynh hướng vô sản, phong trào công nhân, chủ nghĩa yêu nước.
+ Bắc Kỳ: Đông Dương CSĐ (6/1929)
+ Nam Kỳ: An Nam CSĐ (11-1929)
+ Đông Dương CSLĐ: Trung Kỳ (9/1929)
- Tuy nhiên, điều này không tránh khỏi sự phân tán lực lượng và thiếu thống nhất
về tổ chức trên cả nước nên đòi hỏi cần tiến tới thành lập hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của VN.
● Hội nghị thành lập ĐCS VN
- Địa điểm: Hương Cảng (Hồng Kông), TQ
- Thời gian: từ 6/1 đến 7/2/1930
- Thành phần: 2 đại biểu DDCSD và 2 đại biểu ANCSD
- Chủ trì: Nguyễn Ái Quốc - phái viên của Quốc tế Cộng sản
● Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
- Do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
- Được hình thành từ hai văn kiện: + Chính cương vắn tắt + Sách lược vắn tắt
- Mục tiêu chiến lược:
+ Phân tích tình hình, xác định mâu thuẫn: dân tộc Việt Nam >< đế quốc
+ Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản
→ Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng CSVN (2-1930) thể hiện tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo?
Cương lĩnh chính trị - Ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của chúng
ta. Tuy còn vắn tắt nhưng nó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc, đúng đắn và 4 lOMoARcPSD| 45562685
sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc nhân văn. Độc
lập, tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Tính khoa học đúng đắn: Cương lĩnh chính trị được xây dựng dựa trên cơ sở quán triệt,
vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và phát triển các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lenin, truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc, phản ánh đúng thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Nó vừa có tính lý luận khoa học vừa có tính thực tiễn sâu sắc, kết hợp tính
giai cấp và tính dân tộc, đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân.
Tính độc lập, tự chủ: Cương lĩnh chính trị là sản phẩm thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ
của dân tộc Việt Nam, nó là bảo vật quốc gia, là kết tinh tư tưởng, cống hiến vĩ đại của
Hồ Chí Minh. Cương lĩnh là của riêng người Việt Nam, dưới ngọn cờ chỉ đạo của Đảng,
nó không bị lệ thuộc hay bị áp đặt bởi bất kỳ một tổ chức nào khác. Với tư tưởng cốt
lõi bao trùm là độc lập, tự do, cương lĩnh chính trị đã vạch rõ con đường cách mạng của
Đảng đã lựa chọn, đó là con đường kết hợp: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo:
+ Phương hướng chiến lược: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản” + Nhiệm vụ:
▪ Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông bình, tổ chức quân đội công
nông. Trong đó, đánh đổ đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu
▪ Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của TBCN
Pháp giao cho chính phủ công nông; tịch thu ruộng đất của đế quốc làm của công và
chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân nghèo; thi hành luật ngày làm 8 giờ… ▪
Về VH – XH: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục
theo hướng công nông hóa.
+ Lực lượng cách mạng: Lực lượng nòng cốt của cách mạng nước ta là công - nông,
đồng thời thấy được các giai cấp và tầng lớp khác cũng là lực lượng cách mạng cần
phải liên minh hoặc lôi kéo hay trung lập.
+ Phương pháp CM: Bằng con đường bạo lực của quần chúng → “không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”
+ Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
trong đó Đảng là đội tiên phong.
⇨ Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với cách mạng nước ta, vì phải có chính đảng
của giai cấp vô sản với đường lối cách mạng đúng đắn mới lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi. 5 lOMoARcPSD| 45562685
+ Quan hệ quốc tế: CM VN là một bộ phận khăng khít của CM thế giới: đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới
→ Tóm lại, Cương lĩnh đã xđ được đường lối chiến lược và sách lược của CMVN chấm
dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài trong lịch sử VN
→ Cương lĩnh thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc và
ĐCSVN (so với quan điểm Quốc tế Cộng sản và các ĐCS khác)
→ Phân tích nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930)?
- Hoàn cảnh lịch sử: Tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (từ
ngày 3 đến ngày 7 - 2 - 1930) ở Hương Cảng (Trung Quốc) do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản
để thành lập một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn
Ái Quốc dự thảo. Các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Cương lĩnh đã vạch ra con đường của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai
giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai
giai đoạn này kế tiếp nhau “không có bức tường nào ngăn cách”. → Phân tích:
Như vậy là ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấu suốt con đường phát
triển của cách mạng nước ta là con đường kết hợp và giương cao hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường tất yếu và đúng đắn của cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh chỉ rõ: Cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ bọn đế
quốc Pháp; bọn phong kiến và giai cấp tư sản phản động, làm cho nước Việt
Nam được độc lập; dựng lên chính phủ công nông binh; tiến hành cách mạng
ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân…
→ Phân tích: Các nội dung trên đã bao trùm cả hai nội dung cơ bản của cách mạng
giải phóng dân tộc ở nước ta là dân tộc và dân chủ (chống đế quốc và chống phong
kiến). Đặc biệt, Cương lĩnh đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc (chống đế quốc) lên vị trí hàng đầu.
- Cương lĩnh cũng chỉ ra rằng: lực lượng để đánh đổ đế quốc phong kiến là công
nông. Đồng thời phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để lôi
kéo họ về phe giai cấp vô sản. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
sản dân tộc thì phải lợi dụng hay ít ra là trung lập họ…
→ Phân tích: Cương lĩnh đã phản ánh đúng đắn động lực của cách mạng Việt Nam,
phát huy được truyền thống yêu nước của dân tộc ta; từ đó, xây dựng được khối đại
đoàn kết dân tộc nhằm thực hiện được nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng giải phóng
dân tộc ở nước ta là giành độc lập dân tộc. 6 lOMoARcPSD| 45562685
- Cương lĩnh khẳng định: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc bị áp bức và
giai cấp công nhân thế giới.
→ Phân tích: Điều này phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, thấm nhuần quan
điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin; qua đó kết hợp được sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng của
giai cấp vô sản và là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đảng phải có trách nhiệm thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, thu phục cho được
đại đa số dân cày, đồng thời phải liên minh với giai cấp cách mạng và các tầng
lớp yêu nước khác, đoàn kết và tổ chức họ đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
→ Phân tích: Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bởi vì, trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, chỉ có giai cấp công nhân,
thông qua chính đảng của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo mới có đủ điều kiện và khả
năng đi đến thắng lợi hoàn toàn.
→ Kết luận: Cương lĩnh chính trị của Đảng ta do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương
lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm
giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn; trong
đó, độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng cốt lõi. Nó đặt cơ sở cho Đảng ta kế thừa và
hoàn chỉnh đường lối lãnh đạo cách mạng nước ta trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
→ Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đối với cách mạng Việt Nam? Giá trị lý luận:
+ Cương lĩnh đã xác định đúng đắn những vấn đề chiến lược, sách lược của cách
mạng Việt Nam, phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp
ứng được yêu cầu cấp bách và cơ bản của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại.
+ Những nội dung của Cương lĩnh chính trị là sự vận dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện nước ta, một nước thuộc địa nửa phong kiến, giải quyết
đúng đắn hàng loạt vấn đề như: mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về lực lượng cách mạng… Qua
đó, cương lĩnh đã góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ghi đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh, phản ánh
công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Giá trị thực tiễn: 7 lOMoARcPSD| 45562685
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên ngay khi mới ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng
của nhân dân và thâm nhập vào quần chúng trở thành sức mạnh vật chất, biến
thành phong trào cách mạng, chấm dứt tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc thuộc địa
trở thành dân tộc độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm
chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Cương lĩnh ra đời gần một thế kỷ,
nhưng đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng
Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc
đã lựa chọn. Cương lĩnh đã, đang, sẽ được toàn Đảng, toàn dân trung thành, vận
dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay. Vận dụng:
- Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên
giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường
mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã lựa chọn.
- Trong bối cảnh đó, đòi hỏi Đảng ta:
▪ Phải giữ vững định hướng, nhất là những vấn đề có tính chiến lược đã được đề
cập ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ▪
Không ngừng nghiên cứu lý luận và thực tiễn để đề ra được những chủ trương
đúng đắn và có những chỉ đạo thực tiễn linh hoạt, sáng tạo đáp ứng được những
yêu cầu đặt ra trong thực tiễn cách mạng.
▪ Cần phát huy việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo Cương lĩnh của Đảng trong
từng giai đoạn cách mạng, trong đó có Cương lĩnh chính trị đầu tiên để Cương lĩnh
của Đảng thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta nhất là trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Các yếu tố dẫn đến sự ra đời của ĐCS VN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin,
phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa trên
căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ thể: 8 lOMoARcPSD| 45562685
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài
nguyên, bóc lột sức lao động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho chính sách khai thác.
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp liên tục diễn ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào công nhân.
Phong trào yêu nước chống Pháp đã nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người
đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và từ đó Người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào nước ta, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào
yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu nước,
đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những trong phong trào công nhân
mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa cộng sản trong nông dân lao
động, trí thức và trong phong trào yêu nước.
II. Lãnh đạo quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
1. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 và khôi phục phong trào 1932 - 1935 (tự đọc)
a. Phong trào cách mạng năm 1930 - 1931 ● Nguyên nhân
- Khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933
- Khởi nghĩa Yên Bái (2/1930)
- Đảng CSVN ra đời, lãnh đạo CM ● Diễn biến - Tháng 1-4/1930
+ Phong trào nông dân ở Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh
+ Phong trào công nhân ở Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Bến Thủy, … - Tháng 5-8/1930
+ Điển hình là KCN Vinh - Bến Thủy
+ Hàng trăm cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân - Tháng 9/1930
+ Chính quyền đế quốc, tay sai tan rã, các Xô Viết được thành lập
+ 12/9, nông dân Hưng Nguyên biểu tình, máy bay Pháp ném bom chết 171 người 9 lOMoARcPSD| 45562685
+ Nông dân Nghệ An, Hà Tĩnh nổi dậy → Chính quyền Xô Viết
- Ban bố rộng rãi quyền tự do, dân chủ
- Xóa nợ, giảm tô, thuế
- Mở mang giáo dục, phát triển văn hóa
→ Pháp tập trung lực lượng đàn áp khốc liệt →
- Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản và người yêu nước bị giết hại, tù đày
- BCH TW Đảng bị bắt không còn lại một ủy viên nào ● Ý nghĩa
- Cho thấy vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng
- Rèn luyện cho cán bộ, đảng viên quần chúng
- Để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu
b. Luận cương chính trị của ĐCS Đông Dương, tháng 10/1930
● Hội nghị lần thứ nhất BCH TW 10/1930
- Đổi tên thành ĐCS Đông Dương
- Bầu BCH TW do Trần Phú làm TBT
- Thông qua luận cương chính trị
(lý do thành lập cương lĩnh mới → 3/1930, NAQ và .. không nhận được
thư của QTCS → quan điểm quốc tế cộng sản phải thành lập đảng chung
cho ba nước đông dương → quan điểm nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp →
văn kiện tháng 3 mang tính vắn tắt → thành lập BCH TW chính thức) ● Nội dung
- Về mâu thuẫn xã hội: Xác định giai cấp là mâu thuẫn chủ yếu, thợ thuyền, dân
cày, các phần tử lao khổ. Địa chủ, phong kiến tư bản và chủ nghĩa đế quốc không
được chú trọng. => Nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp.
- Về tính chất và mục tiêu chiến lược của cách mạng Đông Dương (phương
hướng chiến lược): Lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính
chất thổ địa và phản đế. "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm
xã hội cách mạng. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục
phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà đi thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".
- Nhiệm vụ: Đấu tranh để đánh đổ các di tích phong kiến, thực hành cách mạng
ruộng đất; đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai
mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau nhưng "vấn đề thổ địa là cái cốt của
cách mạng tư sản dân quyền".
- Về lực lượng của cách mạng:
+ Công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, trong đó giai
cấp công nhân là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng;
nông dân là một động lực đông đảo và mạnh của cách mạng. 10 lOMoARcPSD| 45562685
+ Tư sản thương nghiệp thì đứng về đế quốc chống Cộng sản. Tư sản công
nghiệp thì đứng về quốc gia cải lương, khi cách mạng phát triển cao thì
họ sẽ đứng về đế quốc.
+ Trong giai cấp tiểu tư sản: bộ phận thủ công nghiệp thì do dự, thành phần
thương gia thì không tán thành cách mạng, trí thức thì có xu hướng quốc
gia chỉ hăng hái trong thời kỳ đầu, chỉ các phần tử lao khổ mới theo cách mạng mà thôi.
- Lãnh đạo CM: ĐCS
+ Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, gắn bó với giai cấp, lấy chủ
nghĩa Mác Lênin làm nền tảng. Đảng phải có tính kỷ luật tập trung.
+ Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho chính
quyền lợi của giai cấp công nhân, đấu tranh cho mục tiêu chủ nghĩa cộng sản.
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản Pháp.
+ Từng trải đấu tranh mà trưởng thành
- Phương pháp CM: Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên “võ trang bạo
động” để giành chính quyền. Phải tuân theo khuôn phép nhà binh.
- Đoàn kết quốc tế: CM Đông Dương là một bộ phận của CMTG
+ Đoàn kết giai cấp vô sản TG, vô sản Pháp +
Liên hệ với CM ở thuộc địa và nửa thuộc địa → Đánh giá:
- Đã xđ được nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược CM
- Không nêu rõ mâu thuẫn XH, nặng nề đấu tranh giai cấp
- Không có chiến lược liên minh dân tộc và đoàn kết rộng rãi
→ ngày 18/11/1930, Đảng ra Chỉ thị về vấn đề thành lập “Hội phản đế Đồng Minh” 11 lOMoARcPSD| 45562685
→ Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ được xem là hai nhiệm
vụ quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời năm 1930, hai nhiệm vụ này đã được xác định rõ ràng trong Chính cương vắn tắt
của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo. Chính
cương đã xác định rõ con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Trong Luận cương
chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(10 - 1930) cũng đã chỉ ra các bước tiến triển của cách mạng Việt Nam là: Trong lúc
đầu sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền tiếp sau đó sẽ tiếp tục đấu tranh thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy hai nhà lãnh đạo lỗi lạc của Việt Nam là Hồ Chí
Minh và Trần Phú đều nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam
là "tư sản dân quyền cách mạng" (cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân, đế
quốc) và "thổ địa cách mạng" (cách mạng dân chủ, chống phong kiến).
Tuy nhiên, hai nhiệm vụ này lại được các nhà lãnh đạo xác định khác nhau: nhiệm vụ
nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau? hay cùng làm một lúc? Tất cả những câu hỏi này
cũng là sự trăn trở, tư duy không ngừng của các nhà lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đó - nó
cũng thể hiện sự nhận thức từng bước của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với những
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ.
Sự khác nhau giữa Chính cương và Luận cương đã thể hiện tư duy phản biện trong
Đảng, không chấp nhận quan điểm một chiều. Quan điểm của Hồ Chí Minh trong Chính
cương nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc làm trước, nhiệm vụ dân chủ làm sau. Với quan
điểm này Hồ Chí Minh đã kêu gọi và tập hợp hầu hết các tầng lớp nhân dân đứng về
phía công nông để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc nhân dân. Nhưng quan điểm của
Trần Phú trong Luận cương lại ngược lại: nhấn mạnh nhiệm vụ dân chủ, sau mới thực
hiện nhiệm vụ dân tộc. Vì thế Trần Phú mới chỉ thấy được vai trò của lực lượng đấu
tranh chính là lực công nông mà chưa thấy hết vai trò của các lực lượng khác trong xã hội.
Tháng 10/ 1930 sau khi Luận cương ra đời, được sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông dương và Trần Phú, cao trào Xô Viết Nghệ tĩnh đã nổ ra -
cao trào là điển hình của việc thực hiện nhiệm vụ dân chủ, công nông kéo lên đập phá
chính quyền tại địa phương ở một vai huyện như Thanh Chương, Nghệ An. Sau khi
giành được huyện lị trong thời gian ngắn, quan lại phong kiến địa phương được sự hậu
thuẫn của thực dân pháp đã giành lại huyện lị nhanh chóng và tiến hành cuộc đàn áp
đẫm máu lực lượng cách mạng của chúng ta. 12 lOMoARcPSD| 45562685
Năm 1932 - 1935 là giai đoạn khủng bố trắng của địch, Đảng cộng sản non trẻ của
chúng ta bị đàn áp và tiêu diệt trên trên tất cả các miền của Tố quốc. Nhưng thời điểm
này Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục nhiệm vụ dân chủ với ngọn cờ "Trí, phú, địa,
hào đào tận gốc trốc tận rễ" - đây tiếp tục là một sai lầm khi đặt nhiệm vụ dân chủ trước
nhiệm vụ dân tộc vì "nước mất thì nhà tan".
Giai đoạn cuối 1935 Đảng ta đã cố gắng phục hồi các tổ chức đảng và bình tĩnh để đưa
ra những lựa chọn sáng suốt hơn cho cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn 1936 - 1939 được coi là giai đoạn nhận thức mới của Đảng. Đảng bắt đầu
nhìn nhận 2 nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Thời điểm này: đảng
ta xác định: nhiệm vụ dân tộc hay nhiệm vụ dân chủ, nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm
vụ nào làm sau đều được miễn là phải phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt
Nam tại thời điểm đó. Vì vậy cao trào 1936 - 1939 là cao trào đòi dân chủ dân sinh, tiếp
tục thực hiện dân chủ nhưng lại là sự lựa chọn vô cùng đúng đắn trong giai đoạn này
khi đời sống của nhân dân VN quá khổ cực. Thực dân Pháp bị ảnh hưởng bởi khủng
hoảng kinh tế 1929 - 1933, dẫn tới chúng đổ hết mọi hậu quả của khủng hoảng lên nhân
dân Việt Nam, chúng còn bắt bớ người dân Việt Nam đi làm bia đỡ đạn cho chúng. Vì
vậy việc biểu tình đưa lời thỉnh cầu dân nguyện, đấu tranh nghị trường, đấu tranh công
khai, nửa hợp pháp... hoàn toàn là những phương pháp đấu tranh dân chủ, công khai,
tuy không triệt để nhưng lại cần thiết tại thời điểm này nhằm mục đích củng cố sức dân,
động viên tinh thần người dân, chờ đợi cuộc chiến lớn hơn sau đó.
Giai đoạn 1939 - 1945 là giai đoạn thay đổi hoàn toàn chiến lược cách mạng Việt Nam
từ cách mạng dân chủ sang cách mạng dân tộc. Lần đầu tiên chúng ta chính thức giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Quá trình đổi mới này cũng không diễn
ra ngay lập tức mà có sự nhận thức khá đầy đủ toàn diện của Đảng thông quan Hội nghị
Trung ương 6, 7, 8. Cuối cùng chúng ta xác định: Một là giương cao ngọn cờ đấu tranh
giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Hai là, thành lập mặt trận Việt minh để tập hợp lực
lượng; Ba là chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đến đây sự nhận
thức của Đảng về nhiệm vụ dân tộc và nhiệm dân chủ dân chủ đã tương đối rõ ràng, đã
thấy được đâu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ đây cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân của chúng ta chính thức phát triển lên một tầm cao mới và nhiệm vụ dân
chủ chỉ chính thức hoàn thành khi chúng ta tiến hành thành công cuộc cách mạng tháng
Tám năm 1946 (Xoá bỏ chế độ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà) và cuộc cách mạng dân tộc của chúng ta chỉ chính
thức thành công khi chúng đánh đuổi đế quốc Mỹ năm 1975.
c. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng
● Sau Xô Viết Nghệ Tĩnh, Pháp điên cuồng đàn áp, “khủng bố trắng” đã khiến cho CMVN tổn thất nặng nề 13 lOMoARcPSD| 45562685
- BCH TW bị bắt không còn một ủy viên nào
- Tổ chức đảng bị triệt phá nặng nề
- 18/4/1931, TBT Trần Phú bị bắt tại Sài Gòn
● Hoạt động CM trong lòng nhà tù thực dân
- Hô khẩu hiệu, tuyệt thực
- Tuyên truyền, huấn luyện
- Dịch sách, xuất bản báo, kết nạp đảng viên
● Năm 1932: Đảng công bố “Chương trình hành động của ĐCS Đông Dương”
→ khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
- Theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản
Ban chỉ huy ở ngoài của ĐCS Đông Dương được thành lập (1934)
→ đầu năm 1935, tổ chức Đảng được phục hồi
● Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất (3/1935) - Đề ra 3 nhiệm vụ”
+ Củng cố và phát triển Đảng
+ Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng
+ Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô
và ủng hộ CM Trung Quốc
- Bầu BCH TW: đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng bí thư
Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại biểu của Đảng ở Quốc tế Cộng sản
- Chủ trương: “người ta không làm CM phản đế sau đó mới làm CM điền địa. CM
sẽ chỉ thắng lợi nếu hai cuộc Cm ấy gắn bó chặt chẽ với nhau và cùng đi với nhau
→ Đại hội đã đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào CM quần chúng
Tuy nhiên, Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) vẫn chưa đề ra một
chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, chưa đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng toàn dân
tộc.
“Chính sách của Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách
mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ”.
2. Phong trào dân chủ 1936 - 1939 (tự đọc) a. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng
- Khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933
- Chủ nghĩa phát xít xuất hiện
- Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản + Kẻ thù: CN Phát xít
+ Nhiệm vụ: chống Phát xít, bảo vệ hòa bình
+ Thành lập mặt trận nhân dân - Nước Pháp
Mặt trận nhân dân Pháp ra đời (5/1935) 14 lOMoARcPSD| 45562685
→ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp (1936)
→ Nới lỏng các quyền tự do, dân chủ
- Đông Dương: sự ngột ngạt của khủng hoảng kinh tế cùng với những chính sách
hà khắc của khủng bố trắng → Mọi tầng lớp nhân dân mong muốn có những cải cách dân chủ
● Hội nghị TW2 (7/1936) → Hội nghị TW3 (1937)
- Nhiệm vụ: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc
địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình
- “Lập Mặt trận nhân dân phản đế” rộng rãi nhằm tổng hợp lực lượng, đấu tranh
đòi những quyền dân chủ đơn sơ
- Hình thức đấu tranh: chuyển từ bí mật không hợp pháp sang công khai nửa công
khai, hợp pháp nửa hợp pháp
- Văn kiện chung quanh vấn đề chính sách mới của Đảng (10/1936)
+ Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết hợp chặt chẽ với cuộc cách mạng điền địa
+ Nếu phát triển của đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế
thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước
+ Nhận thức mới đã khắc phục hạn chế của Luận cương (10/1930), phù hợp
với tinh thần Cương lĩnh (2/1930)
b. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình -
Các hình thức đấu tranh:
+ Thu thập nguyện vọng của quần chúng, đưa đơn “dân nguyện”
+ Xuất bản báo chí, sách chính trị
+ Thành lập Hội truyền bá chữ quốc ngữ (1938)
+ Hội nghị TW 3/1938, quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ Đông
Dương. Bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm TBT (Tự chỉ trích - 1939) - Kết quả:
+ Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ
+ Pháp đàn áp cách mạng + Cuộc
vận động dân chủ kết thúc - Ý nghĩa: +
Đội quân chính trị của quần chúng được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện
+ Uy tín của Đảng được mở rộng; tổ chức được củng cố và phát triển
+ Đảng tích lũy được những kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng
- Bài học kinh nghiệm: Phong trào dân chủ 1936 - 1939 để lại nhiều bài học về xây
dựng mặt trận dân tộc thống nhất, về kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu
trước mắt, về sử dụng hình thức đấu tranh.
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945
a. Bối cảnh lịch sử Thế giới:
- 1/9/1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan
→ Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ 15 lOMoARcPSD| 45562685
- 6/1940, Đức tấn công Pháp
- 6/1941, Đức tấn công Liên Xô ● Trong nước
Chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam
- 28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định: cấm tuyên truyền cộng sản,
đặt ĐCS Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật; giải tán các hội, nghiệp đoàn,
đóng cửa các tờ báo, các nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người
- Pháp thi hành chính sách phản động thời chiến. Chúng phát xít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào CM của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào
ĐCS Đông Dương. Chúng ban bố lệnh Tổng Động Viên, thực hiện chính sách
“Kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến
tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn
- 22/9/1940, Nhật đánh vào Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng
Đông Dương cho Nhật. Từ đó, nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”,
phải chịu sự áp bức bóc lột vô cùng tàn nhẫn và dã man của Pháp – Nhật. Chính
cái cảnh chịu “Một cổ hai tròng” này đã làm cho mâu thuẫn giữa ta với phát xít
Pháp – Nhật ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b. Chủ trương chiến lược mới của Đảng ● HN BCH TW 6 (11/1939)
→ mở đầu: khởi xướng
đánh đổ đế quốc: → thành
lập Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế Đông Dương ● HN BCH TW 7 (11/1940)
● HN BCH TW 8 (5/1941) → Hoàn chỉnh đường lối của Đảng - Bối cảnh tg và trong nước:
+ Thế giới: Chiến tranh thế giới II bước vào năm thứ ba. Phát xít Đức chuẩn
bị tấn công Liên Xô, làm cho tính chất chiến tranh thay đổi. Thế giới hình
thành hai trận tuyến: Một là lực lượng dân chủ, bên kia là khối phát xít.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta là một bộ phận của lực lượng dân chủ.
+ Tình hình trong nước ngày càng khẩn trương. Tháng 1 - 1941, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ ngày 16 lOMoARcPSD| 45562685
10 đến 19-5 - 1941, Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. → Nội dung HN:
Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu:
BCH Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phát xít Pháp – Nhật. Đảng
xác định được rằng, đây là thời điểm mang tính quyết định, xác định nhiệm vụ bức thiết
nhất của cách mạng là giải phóng dân tộc: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
vạn năm cũng không đòi lại được”. Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của CM, lúc
này BCH Trung ương đã quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày” và thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức.
Như vậy, vấn đề ruộng đất chỉ được đề ra ở một mức độ nhất định, nhằm phân hóa giai
cấp địa chủ, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc - phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương. Song
các dân tộc ở Đông -Dương phải đoàn kết cùng nhau chống kẻ thù chung là Pháp -
Nhật, đồng thời liên hệ mật thiết với Liên Xô và các lực lượng dân chủ chống phát xít.
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết
định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, đổi tên các hội phản đế thành hội
cứu quốc, công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, … nhằm mục
đích để đoàn kết, tập hợp lực lượng CM nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đi đến
thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang), tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng. BCH Trung ương xác định
phương châm và hình thức khởi nghĩa ở Nước ta, đó là phải luôn luôn chuẩn bị 1 lực
lượng sẵn sàng nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù. Với lực lượng
sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có
thể dành được sự thắng lợi mà mở đường cho cuộc Tổng khởi nghĩa vô cùng to lớn.
Bên cạnh đó, Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
- Ý nghĩa: Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) đã:
+ Hoàn thành chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939,
khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930
+ Khẳng định lại đường lối CMGPDT đúng đắn Cương lĩnh chính trị trong 17 lOMoARcPSD| 45562685
đầu tiên của Đảng và Lý luận CMGPDT của NAQ
→ Đó là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân VN đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng,
tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
Vì sao trong HNTW lần thứ 8 (tháng 5-1941), Đảng quyết định đưa nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu?
Giai đoạn 1939 – 1945 là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử của cách mạng Việt
Nam. Đảng ta đã phải hết sức cố gắng để đưa ra những quyết định đúng đắn khi chèo
lái con thuyền cách mạng của dân tộc, đưa nhân dân thoát khỏi bóng tối nô lệ đi đến
độc lập, tự do. Thực tiễn tình hình thế giới và trong nước đã buộc Đảng ta quyết định
đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong HNTW lần thứ 8 (5/1941). 18 lOMoARcPSD| 45562685 -
Tình hình thế giới: Ngày 1 – 9 – 1939, Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới
thứ 2 bùng nổ. Tháng 6 – 1940, Đức tấn công Pháp. Ngày 22 – 6 – 1941, Đức tấn
công Liên Xô - Tình hình trong nước:
+ Pháp thực thi chính sách “cai trị thời chiến” cực kỳ tàn bạo, đẩy mâu thuẫn
giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương càng thêm gay gắt và
“thúc đẩy nhanh quá trình cách mạng”.
+ Pháp phát xít hóa, Nhật vào Đông Dương (22/9/1940) => Pháp – Nhật cấu
kết thống trị nhân dân ĐD, nhân dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”,
vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.
+ Nhân dân ta đã nhiều lần đứng dậy chống lại ách áp bức bóc lột đó. Tiêu
biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9 - 1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (11
- 1940), binh biến Đô Lương (1 - 1941). Các cuộc nổi dậy vũ trang đó đã
chứng tỏ ý thức quật cường, tinh thần anh dũng bất khuất của nhân dân
Việt Nam, giáng những đòn phủ đầu chí tử vào thực dân Pháp, đồng thời
nghiêm khắc cảnh cáo phát xít Nhật khi chúng vừa mới đặt chân vào Đông
Dương. Tuy nhiên, do kẻ thù còn mạnh, lực lượng cách mạng chưa được
chuẩn bị đầy đủ… nên trước sau đều bị thất bại nhưng nó như những tiếng
súng báo hiệu cho thời kỳ mới – thời kì giải phóng dân tộc.
- Trước tình hình đó, Đảng ta nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải
được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít
Pháp – Nhật. Bởi “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
- Tại HNTW 8 (5/1941), Đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và
xác định: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng
tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền
địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân
tộc giải phóng”. “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một
nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”.
→ Tóm lại, việc xác định nhiệm vụ duy nhất – giải phóng dân tộc ở đây là sự phát triển
lên một tầm cao mới, trong một hoàn cảnh mới của tư tưởng chống đế quốc là nhiệm vụ
hàng đầu. Nó thể hiện sự chuyển hướng và nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Đảng, xác
định đúng đắn con đường đi cho dân tộc.
c. Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang - KN Bắc Sơn (9/1940) 19 lOMoARcPSD| 45562685 - KN Nam Kỳ (11/1940)
- Binh biến Đô Lương (1/1941)
→ Những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc
- Pháp tử hình những cộng sản yêu nước (28/8/1941)
- Mặt trận Việt Minh (25/10/1941) → tập hợp lực lượng, đại đoàn kết dân tộc
- Đề cương Văn hóa VN (1943) → nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng 1944,
Hội Văn hóa cứu quốc ra đời
- Đảng dân chủ Việt Nam (6/1944) → thực hiện đoàn kết, tham gia MTVM
d. Cao trào kháng Nhật cứu nước
- Hoàn cảnh lịch sử: Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ II đi vào hồi kết. Hồng
quân Liên Xô truy kích tiêu diệt quân phát xít đến tận Berlin, phát xít Nhật lâm vào nguy khốn.
+ 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp để hòng độc chiếm toàn cõi Đông Dương,
Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Cũng ngay đêm đó,
do Đảng ta luôn luôn bám sát về tình hình thực tiễn của CMVN, Ban
thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định họp Hội nghị mở rộng ở làng
Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh.
- Nội dung: ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng ta xác định sau cuộc đảo chính,
kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật. Vì
vậy, Đảng ta đã thay đổi khẩu hiệu từ “Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng
khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động cao trào
kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Phương
châm đấu tranh lúc này mà Đảng ta đề ra là phát động chiến tranh du kích, giải
phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa CM. Đảng ta đã quyết định đẩy mạnh khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận. (khủng hoảng chính trị, thời cơ
thuận lợi nhưng tổng khởi nghĩa chưa chín muồi: kẻ thù trực tiếp đã bị đánh bại
+ Đảng lãnh đạo trưởng thành + nhân dân ủng hộ kẻ thù vẫn mạnh) → Ý nghĩa Chỉ thị:
- Thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kịp thời của
Đảng ta, nhờ đó, dấy lên 1 cao trào cách mạng, thúc đẩy tình thế cách mạng mau chóng chín muồi
- Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân để thực hiện khởi nghĩa
vũ trang từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa
- Thể hiện năng lực của Đảng trong nắm bắt thời cơ và đưa ra đường lối phù hợp
● Hội nghị quân sự CM Bắc Kỳ (15/4/1945) 20