Đề cương ôn tập Luật Hiến Pháp - Trình bày đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp.
Đối tượng điều chỉnh của ngành LHP là các QHXH nền tảng, cơ bản nhấtvà quan trọng nhất trong xã hội. Đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có thểchia thành 3 nhóm lớn như sau.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
ĐỀ CƯƠNG LUẬT HIẾN PHÁP
Câu 1: Trình bày đối tượng điều chỉnh của ngành luật Hiến pháp.
Đối tượng điều chỉnh của ngành LHP là các QHXH nền tảng, cơ bản nhất
và quan trọng nhất trong xã hội. Đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có thể chia
thành 3 nhóm lớn như sau:
Nhóm 1: các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc
phòng, chính sách đối ngoại -
Chính trị: điều chỉnh các mqh nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất liên
qua tới quốc gia, lãnh thổ, quyền lực nhà nước và tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước. Khi điều chỉnh các mqh nền tảng, ngành LHP đồng thời thiết lập nền tảng
của chế độ chính trị. -
Kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng
và chính sách đối ngoại: điều chỉnh những QHXH nền tảng liên quan tới định
hướng phát triển lớn của từng lĩnh vực. Qua đó ngành LHP hình thành các chính
sách cơ bản nhất, quan trọng nhất định hướng hoạt động của các cơ quan nhà nước trong từng lĩnh vực.
Nhóm 2: các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực
quan hệ giữa nhà nước và người dân, hay có thể gọi là các QHXH xác định quyền
và nghĩa vụ cơ bản của người dân: -
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân là những quyền và nghĩa vụ nền
tảng,cơ bản và quan trọng nhất của từng lĩnh vực. Những quyền cơ bản này là nền
tảng hình thành các quyền cụ thể của người dân trong từng lĩnh vực. -
Tập hợp các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân tạo thành địa vị pháp
lícơ bản của người dân đối với nhà nước.
Nhóm 3: các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong lĩnh vực tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là các QHXH liên quan tới việc xác
định các nguyên tắc tổng thể của bộ máy nhà nước Việt Nam, các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động lOMoAR cPSD| 45740413
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương. Đây là
nhóm đối tượng điều chỉnh lớn nhất của ngành LHP. -
Thứ nhất: đối tượng điều chỉnh của ngành LHP hiện diện ở hầu khắp các
lĩnh vực của đời sống xã hội. -
Thứ hai: trải rộng trên nhiều lĩnh vực song đối tượng điều chỉnh của ngành
LHP chỉ bao gồm các QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong từng lĩnh
vực. Thuộc tính này mang tính trừu tượng cao, song vẫn có nhưng tiêu chí để xác định -
Thứ ba: đối tượng điều chỉnh của ngành LHP có thể được liệt kê thành các
nhóm QHXH nền tảng, cơ bản và quan trọng nhất trong từng lĩnh vực song điều
này không mang tính tuyệt đối. Thuộc tính này là yếu tố xác định phạm vi các
QHXH là đối tượng điều chỉnh và việc xác định QHXH nào có thuộc tính này ít
nhiều mang tính chủ quan. Vậy nên, phạm vi đối tượng điều chỉnh của ngành LHP
có thể thay đổi trong từng thời kì, một QHXH lúc này có thể coi là nền tảng song
lúc khác lại không phải như vậy, và ngược lại. Điều này phụ thuộc và nhận thức
của những người nghiên cứu khoa học pháp lí và các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Câu 2: Vị trí ngành luật Hiến pháp trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hệ thống pháp luật Việt Nam được tạo thành bởi nhiều ngành luật khác
nhau, mỗi ngành luật lại có vị trí độc lập tương đối do được hình thành trên cơ sở
nhóm đối tượng điều chỉnh riêng mà chúng điều chỉnh. Trong đó, ngành LHP
không chỉ là một ngành luật độc lập mà còn có vị trí là ngành luật chủ đạo của
toàn hệ thống. Vị trí chủ đạo có nghĩa là ngành LHP thiết lập “con đường”, bảo
đảm “hướng đi” cho sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nói cách khác, bằng nội dung của các QPPL và các chế định của mình, ngành
LHP vừa đóng vai trò tạo lập nền tảng, vừa dẫn dắt sự phát triển của hệ thống
pháp luật Việt Nam cũng như các ngành luật khác trong hệ thống.
Vị trí chủ đạo của ngành LHP được thể hiện qua ba khía cạnh: lOMoAR cPSD| 45740413 -
Thứ nhất: các QPPL của ngành LHP làm nền tảng hình thành các luật
kháctrong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đôi khi, sự ra đời hay thay đổi của một
số quy định của ngành LHP cũng góp phần ra đời cả một ngành luật. -
Thứ hai: do ngành LHP làm nền tảng hình thành các ngành luật khác nên
nhiềungành luật thể chế hóa các tư tưởng chứa đựng trong các QPPL của ngành
LHP. Vậy nên trong nhiều trường hợp, nếu các QPPL của các ngành luật đã nỗi
thời và không còn phù hợp với tư tưởng của các QPPL tương ứng của ngành LHP
thì các QPPL của các ngành luật cụ thể đó sẽ bị vô hiệu. -
Thứ ba: mỗi khi nội dung các QPPL của ngành LHP thay đổi thì nội dung
củacác QPPL và các chế định của các ngành luật khác cũng phải thay đổi cho phù
hợp. Nội dung của các QPPL của ngành LHP tạo thành chính sách pháp luật cơ
bản định hướng việc xây dựng các ngành luật cụ thể.
Lí do ngành LHP có vị trí chủ đạo và nền tảng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam là đối tượng điều chỉnh của nó là các quan hệ cơ bản nhất và quan trọng nhất
trong xã hội, là những quan hệ nền tảng mà chỉ khi nào xác định được hướng điều
chỉnh chúng thì mới xác định được hướng điều chỉnh các quan hệ cụ thể. Qua đó,
ngành LHP hình thành nên những QPPL nền tảng, cơ bản mà các QPPL của các
ngành luật khác phải căn cứ vào khi điều chỉnh các QHXH cụ thể của từng lĩnh vực.
Câu 3: Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946.
Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước sự trứng kiến của
hàng vạn đồng bào, Bác đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của chính phủ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của chính phủ, trong đó có
nhiệm vụ xây dựng hiến pháp. -
Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh thành lập Ban dự
thảoHiến pháp gồm 7 người do Hồ Chủ Tích đứng đầu. Đến tháng 11/1945, Ban
dự thảo hoàn thành công việc, Bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận
và được hàng triệu đồng bao hăng hái tham gia đóng góp ý kiến. lOMoAR cPSD| 45740413 -
Ngày 02/3/1946 Quốc hội (khóa 1, kì họp thứ nhất) thành lập Ban dự
thảoHiến pháp gồm 11 người do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với nhiệm vụ
tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân dân và xây dựng cuối cùng để đưa ra Quốc
hội xem xét và thông qua. -
Ngày 28/10/1946, kì họp thứ hai của Quốc hội khai mạc tại Nhà hát lớn HàNội. -
Ngày 09/11/1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta
sauhơn 10 ngày làm việc với 240 phiếu thuận và 2 phiếu chống. -
Do hoàn cảnh chiến tranh toàn quốc nên bản Hiến pháp không được chính
thứccông bố và cũng không tổ chức được tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân.
Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo của Bác và Ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ luôn
dựa và tinh thần và nội dung của bản Hiến pháp để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
Câu 4: Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946.
Bản Hiến pháp năm 1946 được dự thảo từ năm 1945 và được hoàn thiện
vào năm 1946, do hoàn cảnh đặc biệt của nước ta thời điểm đó nên bản Hiến pháp
này đã không được công bố rộng rãi. Tuy ra đời trong hoàn cảnh nước ta còn đang
ở trong thời chiến, thế nhưng bản Hiến pháp đã chứng minh được vai trò, tầm quan trọng của nó.
Hiến pháp 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều.
Trước hết, lời nói đầu của bản Hiến pháp xác định nhiệm vụ của dân tộc trong
thời gian này là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, giành lại sự độc lập hoàn toàn và
kiến thiết đất nước trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu cũng đã xác định rõ ba
nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây
dựng dựa trên 3 nguyên tắc đó và đây cũng chính là ba đặc trưng cơ bản của Hiến pháp: -
Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. lOMoAR cPSD| 45740413
Ngay trong Điều 1 của bản Hiến pháp đã quy định: “Nước Việt Nam là một nước
dân chủ cộng hòa. Tất cả quyềnh bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.” Nguyên
tắc này là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam. Lần
đầu tiên của nước ta cũng như khu vực Đông Nam Á, một Nhà nước dân chủ nhân
dân được thành lập. Đây cũng là lần đầu tiên mà hình thức chính thể của Việt Nam
là hình thức cộng hòa. Điều này không chỉ là bước ngoặt to lớn trong sự phát triển
của tư tưởng dân chủ ở Việt Nam mà nó còn đề cao tính dân tộc của Nhà nước ta. -
Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
Tuân thủ theo nguyên tắc này, nên bản Hiến pháp cũng rất chú trọng đến chế định
công dân, điều này thể hiện rõ ở chỗ Hiến pháp có riêng Chương 2 dành cho chế
định công dân. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được
đảm bảo các quyền tự do, dân chủ. Điều 10 Hiến pháp 1946 đã quy định: “Công
dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp,
tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, tự do đi lại trong nước và ra nước ngoài.” Hiến
pháp 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi, lần đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được ghi nhận (Điều 6
và Điều 7 Hiến pháp năm 1946), lần đầu tiên phụ nữ ngang quyền với nam giới
trong mọi phương diện. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã giúp công dân Việt
Nam được hưởng quyền bầu cử, nhân dân ta có quyền bãi miễn các đại biểu mình
bầu ra khi họ tỏ ra không xứng đáng với danh hiệu đó. -
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Dựa trên nguyên tắc này, hình thức nhà nước theo Hiến pháp 1946 có nhiều nét
độc đáo đáng chú ý. Hình thức chính thể của Nhà nước ta theo Hiến pháp 1946
có phần giống với hình thức cộng hòa tổng thống, tạo cho Nhà nước ta có một
hình thức chính thể là sự kết hợp giữa cộng hòa tổng thống và cộng hòa nghị viện.
Sự độc đáo của Nhà nước ta còn tạo nên sự khác biệt được thể hiện ở chỗ nó
không giống hoàn toàn hình thức chính thể của các nước có cùng hình thức pha
trộn khác như Pháp, Phần lan,... lOMoAR cPSD| 45740413
Qua đó thấy được rằng, bản Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước ta có được sự dân chủ, tiến bộ, hiện đại không hề thua kém bất kì một bản
hiến pháp nào khác trên thế giới. Ở mặt kỹ thuật lập pháp, bản Hiến pháp 1946 là
một bản Hiến pháp cô đọng, khúc triết, mạch lạc và dễ hiểu đối với tất cả mọi
người. Đây cũng là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều lĩnh vực.
Câu 5: Vì sao phải ban hành Hiến pháp 1959.
Đến năm 1959, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời và phát
triển triển được 14 năm. Trong khoảng thời gian này, đã có nhiều sự kiện chính trị
quan trọng làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của nước ta.
Ngay sau khi bản Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua, thực dân Pháp
lại gây ra chiến tranh hòng xâm lược nước ta thêm một lần nữa để rồi khiến nhân
dân tiếp tục bước vào cuộc chiến tranh trường kì đầy gian khổ. Sau chiến thăng
Điện Biên Phủ vang dội và Hội nghị Gieneve giành thắng lợi, miền Bắc nước ta
được giải phóng hoàn toàn nhưng đất nước tạm thời còn bị chia cắt thành hai miền.
Nhiệm vụ cách mạng lúc này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thống nhất đất nước. Miền Bắc tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương
chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, năm 1958 bắt đầu thực hiện kế hoạch kinh tế
3 năm nhằm phát triển và cải tạo nền quốc dân theo chủ nghĩa xã hội. Từ đó, kinh
tế và văn hóa đã có những tiến bộ lớn, theo đó là những sự thay đổi trong quan hệ
giai cấp xã hội ở miền Bắc. Giai cấp địa chủ phong kiến bị xóa bỏ, liên minh giai
cấp giữa công nhân và nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh.
Hiến pháp 1946 đã hoàn thành tốt sứ mệnh được đặt ra nhưng sự thay đổi của tình
hình đất nước lúc này, nó cần được bổ sung và thay đổi nhằm phù hợp với hoàn
cảnh mới của đất nước cũng như nhiệm vụ của cách mạng. Vậy nên trong kì họp
thứ 6 của Quốc hội khóa 1 đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946 và thành lập ra
Ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Sau khi Bản dự thảo đầu tiên được hoàn thành,
tháng 7 năm 1958 nó được đưa ra thảo luận trong các cán bộ trung và cao cấp
trong các cơ quan Quân, Dân, Đảng. Sau khi thảo luận, Bản dự thào được chỉnh
lí lại và được công bố đến toàn dân thảo luận, bổ sung, đóng góp ý kiến xây dựng
vào ngày 01/4/1959. Cuộc thảo luận này kéo dài trong 4 tháng với sự tham gia lOMoAR cPSD| 45740413
đóng góp đông đảo của các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội. Cuối cùng
đến ngày 31/12/1959, Bản Hiến pháp sửa đổi được Quốc hội nhất trí thông qua
và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp và ngày 01/01/1960.
Trong tình hình mới của đất nước, hai miền Bắc - Nam bị chia cắt và có
những mục tiêu khác nhau đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới phù hợp với
tình hình của đất nước, với mục tiêu của cuộc cách mạng để nhanh chóng đánh
bại thực dân xâm lực, giành độc lập toàn dân tộc, thống nhất hai miền đất nước để
non sông thu về một mối. Đó là lý do bản Hiến pháp 1959 nhanh chóng được ra
đời, đáp ứng sự cấp thiết của đất nước, của cách mạng.
Câu 6: Phân tích khái niệm quốc tịch.
“Quốc tịch là mối quan hệ pháp lí - chính trị có tính chất lâu dài, bền vững,
ổn định cao về mặt thời gian, không bị giới hạn về mặt không gian giữa cá nhân
cụ thể với chính quyền nhà nước nhất định.”
Quốc tịch là chế định cơ bản của LHP về địa vị pháp lý của công dân, là tiền đề
pháp lí bắt buộc để cá nhân có thể được hưởng các quyền và nghĩa vụ công dân của nhà nước.
Quốc tịch là tư cách công dân của nhà nước độc lập, có chủ quyền. Nội dung của
quốc tịch thể hiện mối quan hệ pháp lí - chính trị giữa cá nhân cụ thể với chính
quyền nhà nước nhất định, và trong mỗi chế độ nhà nước khác nhau thì nội dung
của quốc tịch cũng khác nhau. Nội dung của quốc tịch phụ thuộc và kiểu nhà nước
và cơ sở kinh tế - xã hội đã quyết định kiểu nhà nước đó. Mỗi môt hình thái kinh
tế - xã hội lại có một kiểu nhà nước, mỗi kiểu nhà nước lại có nội dung mối quan
hệ nhà nước - công dân tương ứng, thể hiện một trình độ khác nhau. Quốc tịch là
chế định pháp lí có tính chất tổng hợp, quy định mối quan hệ mọi mặt giữa cá nhân và nhà nước.
Quốc tịch thể hiện mối quan hệ có tính ổn định rất cao, bền vững về mặt thời gian
và không dễ dàng bị thay đổi, mà chỉ có thể thay đổi trong những trường hợp đặc
biệt, với những điều kiện hết sức khắt khe. Đối với những người nước ngoài đã lOMoAR cPSD| 45740413
xin nhập quốc tịch của một nhà nước thì mối quan hệ này tồn tại dài hay ngắn là
phụ thuộc vào thái độ của người đó đối với nhà nước mà họ mang quốc tịch (thái
độ tích cực hay không tích cực).
Về mặt không gian, mối quan hệ này hoàn toàn không bị giới hạn. Khi đã là công
dân của một nhà nước, người đó phải chịu sự chi phối và tác động ở mọi mặt bởi
chính quyền nhà nước, dù người đó ở bất kì nơi nào, trong hay ở ngoài nước. Mặt
khác, người đó cũng luôn được nhà nước đảm bảo để được hưởng các quyền lợi
hợp pháp và cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước. Tuy
nhiên, do một số điều kiện khách quan nên một sô quyền và nghĩa vụ của công
dân sẽ tạm thời không thể lĩnh hội và thực hiện ở một số phạm vi nhất định.
Câu 7: Các đặc trưng bản của quyền con người.
“Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lí toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.”
Các quyền con người đựợc thế giới thừa nhận, bảo vệ và được tuyên bố trong
nhiều văn kiện pháp lí quốc tế, đặc biệt là trong ba văn kiện: Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền năm 1948 (UDHR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa năm 1966 (ICESCR). Từ đó, có thể phân chia quyền con người thành 2
nhóm: Các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
Quyền con người có các đặc trưng cơ bản là tính phổ biến, tính không thể
chyển nhượng, tính không thể phân chia và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau:
- Tính phổ biến của quyền con người (universal rights)
Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ quyền con người là những quyền thiên bẩm,
vốn có của con người và được thừa nhận cho tất cả mọi người trên thế giới, không
phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch, địa vị xã hội.
- Tính không thể chuyển nhượng (inalienable rights)
Các quyền con người là các quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm
như quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Vậy nên các quyền lOMoAR cPSD| 45740413
này gắn liền với các cá nhân của mỗi người và không thể chuyển nhượng cho bất kì cá nhân nào khác.
- Tính không thể phân chia (indivisible rights)
Các quyền của con người gắn kết chặt chẽ với nhau, tương hỗ lẫn nhau nên việc
tách biệt, tước bỏ hay hạn chế bất kì quyền nào sẽ đều tác động tiêu cực đến giá
trị nhân phẩm và sự phát triển của con người.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated interdependent rights)Các
quyền con người dù là các quyền dân sự, chính trị hay các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa cũng đều có những mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Quyền này có
thể là tiền để thực hiện các quyền khác.
Câu 8: Phân tính khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. “Công
dân là Cá nhân, con người cụ thể có năng lực pháp lý và năng lực hành vi, có các
quyền và nghĩa vụ theo các quy định pháp luật của một quốc gia. Căn cứ pháp lý
để xác định công dân của một quốc gia nhất định là quốc tịch của người đó.” Từ
khái niệm về công dân, ta có thể thấy mỗi công dân của một quốc gia đều có
quyền và nghĩa vụ được quy định tại pháp luật của nước đó.
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là các quyền và nghĩa vụ được
xác định trong Hiến pháp trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn
hóa, là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân và cơ
sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lí của công dân.”
Ở mỗi nhà nước, địa vị pháp lí của công dân được hình thành bởi tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa một bên là xã hội, nhà nước với một
bên khác là công dân. Nội dung những quy phạm pháp luật tạo nên địa vị pháp lí
của công dân ở những nước khác nhau thì có những nét khác nhau vì địa vị pháp
lí của công dân phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nhà
nước. Tuy nhiên, địa vị pháp lí của công dân các nhà nước trên thế giới cũng có nhiều nét giống nhau:
- Địa vị pháp lí của công dân cơ bản được quy định trong hiến pháp - luật cơ
bảncủa nhà nước, văn bản pháp lí có hiệu lực cao nhất của nhà nước. lOMoAR cPSD| 45740413
- Địa vị pháp lí của công dân được quy định chủ yếu là các quyền, tự do vànghĩa vụ của công dân.
- Ở các nhà nước thật sự dân chủ, các quyền và nghĩa vụ được quy định gắn liềnvới
các biện pháp đảm bảo thực hiện. Vì pháp luật là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng do điều kiện kinh tế - xã hội quyết định nên địa vị pháp lí của công
dân mỗi nước bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội của nhà nước. Nếu một
nước lạc hậu, cơ sở kinh tế nghèo nàn, nhân dân không đủ cơm ăn, áo mặc thì
các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội không có điều kiện để thực hiện
đầy đủ và ngược lại.
Quy chế pháp lí của công dân bao gồm nhiều chế định khác nhau: quốc tịch, năng
lực pháp luật và năng lực hành vi của công dân, các nguyên tắc hiến pháp của quy
chế pháp lí của công dân, các quyền, tự do và nghĩa vụ pháp lí của công dân, các
biện pháp đảm bảo thực hiện quy chế công dân. Mỗi chế định điều chỉnh một mặt
trong địa vị pháp lí của công dân. Tất cả các chế định đó hợp thành quy chế pháp lí của công dân.
Quyền và nghĩa vụ của công dan không những được quy định trong hiến
pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước mà còn được cụ thể hóa trong các văn bản
pháp luật khác. Tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ
của công dân tạo nên quy chế pháp lí của công dân. Tuy nhiên trong việc hình
thành quy chế pháp lí của công dân, những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân được quy định trong hiến pháp đóng vai trò quan trọng nhất.
Câu 9: Phân tích nguyên tắc quyền con người, quyền công dân không tách dời nghĩa vụ.
“Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lí toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.”
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là các quyền và nghĩa vụ được
xác định trong Hiến pháp trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn lOMoAR cPSD| 45740413
hóa, là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân và cơ
sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lí của công dân.”
Nhà nước ta khi quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của cơ
bản của công dân đã tuân theo những nguyên tắc từ ba văn kiện: Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế các quyền dân sự, chính trị năm
1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Hiến
pháp 2013 của nước ta quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân dựa trên những nguyên tắc cơ bản với tư tưởng chính trị pháp lí chủ
đạo, làm cơ sở nền tảng, phương hướng đúng đắn để xây dựng quy chế pháp lí
của con người và công dân. Trong đó bao gồm “Nguyên tắc quyền con người,
quyền công dân không tách dời nghĩa vụ” (khoản 1 Điều 15, Điều 43. Điều 47, Điều 48).
Quyền và nghĩa vụ là hai mặt của quyền con người và quyền công dân. Con người,
công dân muốn được đảm bảo các quyền thì phải thực hiện các nghĩa vụ. Gánh
vác, thực hiện nghĩa vụ là điều kiện đảm bảo cho các quyền con người và quyền
công dân được thực hiện. Sẽ không thể có một người trong xã hội chỉ thực hiện
việc hưởng các quyền của mình mà không thực hiện, gánh vác nghĩa vụ. Ngược
lại, cũng sẽ không có ai trong mọi tầng lớp xã hội sẽ luôn phải thực hiện nghĩa vụ
mà mất việc hưởng các quyền lợi. Quyền lợi và nghĩa vụ vì vậy luôn phải đi đôi
với nhau, không thể tách dời.
Nhà nước luôn đảm bảo cho con người và công dân những quyền lợi hợp pháp
nhưng cũng đòi hỏi tất cả mọi người, mọi công dân trong xã hội cần thực hiện
nghiêm chỉnh, đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Trong thực tế, có thể thấy rằng quyền của người này gắn liền với nghĩa vụ của
người khác và ngược lại, điều này cho thấy khi mỗi người thực hiện trọn vẹn nghĩa
vụ của mình chính là đảm bảo cho người khác được thực hiện quyền lợi. Trong
mối quan hệ Nhà nước với cá nhân cũng chính là như vậy, Nhà nước sẽ chỉ có thể
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các cá nhân khi các các cá nhân và tổ chức của
họ thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ đối với nhà nước. lOMoAR cPSD| 45740413
Câu 10: Nguyên tắc việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không
được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
“Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lí toàn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm
tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.”
“Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là các quyền và nghĩa vụ được
xác định trong Hiến pháp trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn
hóa, là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân và cơ
sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lí của công dân.”
Nhà nước ta khi quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của cơ
bản của công dân đã tuân theo những nguyên tắc từ ba văn kiện: Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế các quyền dân sự, chính trị năm
1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Hiến
pháp 2013 của nước ta quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân dựa trên những nguyên tắc cơ bản với tư tưởng chính trị pháp lí chủ
đạo, làm cơ sở nền tảng, phương hướng đúng đắn để xây dựng quy chế pháp lí
của con người và công dân. Nguyên tắc việc thực hiện quyền con người, quyền
công dân không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác (khoản 4 Điều 15) không chỉ có ở Nhà nước ta, nhiều
nhà nước trên thế giới cũng xác lập nguyên tắc tương tự. Ví dụ như Khoản 3 Điều
17 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 cũng quy định: “Việc thực hiện các quyền
và tự do của con người và công dân không được xâm phạm quyền và tự do của
người khác”. Tại khoản 1 Điều 2 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1949
đã quy định: “Mọi người có quyền phát triển nhân cách của mình tự do chừng
nào người ấy không vi phạm quyền của người khác hoặc vi phạm chống lại trật
tự Hiến pháp hoặc luân lí.”
Sự xác lập nguyên tắc trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân
không được xâm phạm tới lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích của người
khác là hợp lí, nguyên tắc này nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng các quyền con người lOMoAR cPSD| 45740413
và công dân làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc hoặc quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, công dân khác. Câu 11: Nguyên tắc bầu cử phổ thông là gì?
“Bầu cử là viêc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước
được thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể” Nguyên tắc
bầu cử có thể được hiểu là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt việc
tiến hành bầu cử trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Nhìn vào các nguyên
tắc bầu cử, có thể đánh giá được tính công bằng, dân chủ của của chế độ bầu cử
của một quốc gia. Hầu hết các nguyên tắc bầu cử của các quốc gia có điểm giống
nhau để đáp ứng yêu cầu công bằng và dân chủ. Ở Việt Nam áp dụng 4 nguyên
tắc phổ biến trên thế giới là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (khoản
1 Điều 7 Hiến pháp năm 2013).
“Nguyên tắc phổ thông: Cuộc bầu cử phải có phạm vi đông đảo nhất người dân
tham gia và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo điều đó.”
Nguyên tắc bầu cử phổ thông có tên gọi khác là nguyên tắc “phổ thông đầu phiếu”,
đây là nguyên tắc phổ biến nhất trên thế giới với nội dung là là các cuộc bầu cử
phải có một phạm vi đông đảo nhất người dân tham gia và nhà nước chính là chủ
thể có trách nhiệm đảm bảo tính phổ thông của cuộc bầu cử. Nhà nước phải đảm
bảo điều này trên cả hai phương diện là : pháp lí và thực tế.
Ở phương diện pháp lí, trước hết nhà nước phải ban hành luật sao cho có phạm vi
đông đảo nhất người dân tham gia bỏ phiếu, tức là điều kiện pháp lí để được hưởng
và thực hiện quyền bầu cử phải là tối thiểu. Và việc xác định điều kiện tối thiểu
như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, văn hóa của từng quốc gia. Như
tại Việt Nam thì quy định hai điều kiện là tư cách công dân Việt Nam và từ đủ 18
tuổi trở lên, tuy nhiên trong thực tế người dân có thể trở thành cử tri đi bầu cử hay
không còn phải đáp ứng một số điều kiện khác theo quy định của pháp luật. Khía
cạnh thứ hai của phương diện này là tính phổ thông trong quyền được ứng cử của
người dân. Trong khía cạnh này, tính phổ thông sẽ không được thể hiện rộng rãi
như như đối với quyền bầu cử. Việc hạn chế về mặt pháp lí khả năng trở thành
ứng cử là điều cần thiết và tất cả các quốc gia đều quy định những hạn chế này. lOMoAR cPSD| 45740413
Điều này nhằm đảm bảo cho việc lựa chọn được tập trung và đáp ứng đủ số đại
biều cần thiết được bầu ra. Tuy nhiên, những hạn chế này phải đảm bảo tính công
bằng và hợp lí, để không cá nhân có cơ hội trở thành ứng cử bị loại bỏ vô lí. Ngoài
hai điều kiện là quốc tịch Việt Nam và đủ 21 tuổi trở nên thì người dân muốn thực
hiện quyền ứng cử vẫn cần đáp ứng một số điều kiện khác theo pháp luật quy định.
Phương diện thứ hai của nguyên tắc bầu cử phổ thông là phương diện thực tế, điều
này đòi hỏi nhà nước phải tạo mọi điều kiện vật chất cần thiết để người dân có thể
đi thực hiện quyền bầu cử hoặc ứng cử của mình theo quy định của pháp luật. Có
nghĩa là trong thực tế sẽ không có ai không được thực hiện hoặc không thực hiện
được quyền bầu cử của mình vì những lí do kỹ thuật.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông là sự dảm bảo trực tiếp cho tính dân chủ và tính
chính thống của một cuộc bầu cử, Thông thường càng nhiều người dân tự nguyện
tham gia bầu cử càng thể hiện sự quan tâm lớn của người dân trong tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước, thể hiện nhà nước thật sự là của nhân dân. Cơ hội được
tham gia ứng cử là công bằng với tất cả mọi người dân đáp ứng đủ điều kiện của
nhà nước cũng góp phần tạo nên niềm tin của người dân vào sự lựa chọn của mình,
từ đó gia tăng thêm tính chính thống cho bộ máy nhà nước mà người dân đã bầu chọn ra
Câu 12: Thế nào là nguyên tắc bầu cử trực tiếp?
“Bầu cử là viêc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được
thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể”
Nguyên tắc bầu cử có thể được hiểu là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt việc tiến hành bầu cử trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Nhìn vào các
nguyên tắc bầu cử, có thể đánh giá được tính công bằng, dân chủ của của chế độ
bầu cử của một quốc gia. Hầu hết các nguyên tắc bầu cử của các quốc gia có điểm
giống nhau để đáp ứng yêu cầu công bằng và dân chủ. Ở Việt Nam áp dụng 4
nguyên tắc phổ biến trên thế giới là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín (khoản 1 Điều 7 Hiến pháp năm 2013). lOMoAR cPSD| 45740413
“Nguyên tắc bầu cử trực tiếp là cử tri chọn ai thì bỏ phiếu thẳng cho người đó;
đây là sự trực tiếp về mặt ý chí.”
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp được hiểu là cử tri đồng ý bầu trọn ứng cử viên nào
thì sẽ bỏ phiếu thẳng cho người đó và sự lựa chọn của người dân sẽ được tính trực
tiếp vào kết quả bầu chọn đối với ứng cử viên. Đối lập với nguyên tắc này có
nguyên tắc bầu cử gián tiếp được áp dụng để bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ. Mặt
lí luận, nguyên tắc này có nội dung cốt lõi là sự trực tiếp về nội dung, tức là ý chí
lựa chọn của cử tri chứ không phải hình thức truyền tải sự lựa chọn. Nguyên tắc
bầu cử trực tiếp không yêu cầu một hình thức bỏ phiếu cụ thể nào mà việc bầu cử
hoàn toàn có thể tiến hành dưới hình thức bỏ phiếu phi truyền thống như qua thư
tín hay điện tử nếu nó đảm bảo thể hiện được chính xác ý chí sự lựa chọn của cử tri.
Triết lí của nguyên tắc tương đối đơn giản, khi quyền lực đươc trao trực tiếp từ
người dân thì người được giao quyền lực cũng phải được người dân lựa chọn trực
tiếp. Nếu thể hiện sự lựa chọn qua trung gian thì người trung gian có thể sẽ không
thể hiện đúng ý chí của người dân. Vậy nên nguyên tắc này là nhân tố quan trọng
bảo đảm tính dân chủ của cuộc bầu cử, tức là người dân thực sự làm chủ quá trình
lựa chọn người nắm giữ quyền lực.
Trong pháp luật hiện hành của nước ta, nguyên tắc bầu cử trực tiếp được quy định
cụ thể tại Điều 69 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp như quy định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam
không chỉ chú trọng đến sự trực tiếp về ý chí mà còn hết sức chú trọng đến sự trực
tiếp về mặt hình thức. Cử tri không những phải đến địa điểm bầu cử, trực tiếp viết
vào phiếu bầu mà còn phải trực tiếp bỏ phiếu của mình vào hòm phiếu. Quy định
này hợp lí với trình độ phát triển như của nước ta hiện nay nhưng lại gián tiếp hạn
chế quyền bầu cử của người dân khi đang ở nước ngoài vào thời điểm bầu cử.
Câu 13: Nguyên tắc bỏ phiếu kín là gì?
“Bầu cử là viêc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được
thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể” lOMoAR cPSD| 45740413
Nguyên tắc bầu cử có thể được hiểu là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt việc tiến hành bầu cử trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Nhìn vào các
nguyên tắc bầu cử, có thể đánh giá được tính công bằng, dân chủ của của chế độ
bầu cử của một quốc gia. Hầu hết các nguyên tắc bầu cử của các quốc gia có điểm
giống nhau để đáp ứng yêu cầu công bằng và dân chủ. Ở Việt Nam áp dụng 4
nguyên tắc phổ biến trên thế giới là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín (khoản 1 Điều 7 Hiến pháp năm 2013).
“Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Không ai được biết nội dung phiếu bầu của cử tri”
Nguyên tắc này có nội dung là: trong cuộc bầu cử, đặc biệt là công đoạn viết phiếu
và bỏ phiếu phải được tổ chức sao cho không một ai biết được nội dung của lá
phiếu cũng như sự lựa chọn của cử tri ngoài chính bản thân cử tri. Nguyên tắc này
đòi hỏi trước tiên bầu cử phải được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu chứ không
phải giơ tay biểu quyết. Sau đó, từ công đoạn chuẩn bị phiếu bầu cử, phát phiếu
bầu cử, cử tri viết phiếu bầu đến khi cử tri thực hiện bỏ phiếu bầu vào hòm phiếu
phải đảm bảo bí mật. Ngay cả việc thực hiện nguyên tắc bầu cử trực tiếp cũng
giúp bảo đảm nguyên tắc bỏ phiếu kín vì chỉ khi cử tri bỏ phiếu trực tiếp thì mới
bảo đảm chỉ có cử tri biết về sự lựa chọn của mình. Để cụ thể hóa nguyên tắc này,
pháp luật hiện hành của nước ta cũng có quy định tại Điều 69 Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
Việc tiến hành nguyên tắc bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo tính khách quan của cuộc
bầu cử, bởi việc bầu trọn người nắm giữ quyền lực nhà nước là một vấn đề tế nhị
và người được bầu chọn để nắm chính quyền có thể sẽ có những tác động không
nhỏ đến đời sống của cử tri. Vì vậy, việc giữ bí mật phiếu bầu là nhân tố đảm bảo
cử tri có thể tiến hành lựa chọn ứng cử viên một cách tự do mà không cần e ngại
bất cứ hậu quả bất lợi nào đối với mình, từ đó đảm bảo được tính khách quan cho cuộc bầu cử.
Câu 14: Nguyên tắc bầu cử bình đẳng được hiểu như thế nào?
“Bầu cử là viêc lựa chọn người nắm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước được
thực hiện bởi người dân thông qua con đường bỏ phiếu tập thể” lOMoAR cPSD| 45740413
Nguyên tắc bầu cử có thể được hiểu là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên
suốt việc tiến hành bầu cử trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Nhìn vào các
nguyên tắc bầu cử, có thể đánh giá được tính công bằng, dân chủ của của chế độ
bầu cử của một quốc gia. Hầu hết các nguyên tắc bầu cử của các quốc gia có điểm
giống nhau để đáp ứng yêu cầu công bằng và dân chủ. Ở Việt Nam áp dụng 4
nguyên tắc phổ biến trên thế giới là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín (khoản 1 Điều 7 Hiến pháp năm 2013).
“Nguyên tắc bình đẳng: Sự bình đẳng giữa các cử tri và sự bình đẳng giữa các
ứng cử viên trong mốt cuộc bầu cử.”
Theo pháp luật Việt Nam nguyên tắc bầu cử bình đẳng có hai nội dung: sự bình
đẳng giữa các cử tri và sự bình đẳng giữa các ứng cử viên. Khi đi bầu cử, mỗi cử
tri có một lá phiếu và giá trị của mỗi lá phiếu là như nhau đối với việc xác định
kết quả cuối cùng của cuộc bầu cử. Nội dung thứ hai của nguyên tắc bình đẳng là
sự bình đẳng giữa các ứng cử viên. Sự bình đẳng này thể hiện ở chỗ khi đã được
giới thiệu trong danh sách ứng cử viên thì các ứng cử viên dù thuộc thành phần
nào cũng đều được cư xử như nhau, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Trong danh
sách ứng cử viên công bố tới cử tri, thứ tự tên của các ứng cử viên được xếp theo
bảng chữ cái chứ không theo chức vụ hay thành phần hay tiêu chí nào khác. Pháp
luật Việt Nam cũng loại trử khả năng ứng cử viên tận dụng lợi thế riêng về vật
chất hoặc chức vụ để tạo lợi thế về mình trước các ứng cử viên, điều này được
quy định tại Điều 62 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân năm 2015.
Với hai nội dung trên đây, nguyên tắc bình đẳng là nhân tố quan trọng nhất đảm
bảo sự công bằng trong mỗi cuộc bầu cử. Ngay cả việc quy định vận động tranh
cử do ngân sách nhà nước đài thọ tuy có thể gây ra một sô bất cập nhưng cũng có
thể đem lại sự công bằng nhất định giữa các ứng cử viên.
Câu 15: Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được cấu thành như thế nào?