



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61256830
2.3. Một số câu hỏi ôn tập đặc biệt quan tâm
1. Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng
hoá. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
1/ Điều kiện ra đời:
Thực tế nền kinh tế thế giới cho thấy không nước nào mà nền kinh tế hàng
hoá hay kinh tế thị trường lại vận động hoàn toàn dưới sự điều khiển “vô
hình” của các quy luật kinh tế khách quan. Mà chúng đều vận động theo cơ
chế thị trường có sự điều tiết của các doanh nghiệp và nhà nước và với
mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc điều kiện lịch sử của mỗi nước.
Kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế
được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn
liền với hai điều kiện.
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Sản xuất
tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là
nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hoá
là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc
mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”,
xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng
cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây -
Thứ nhất, phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự
phát thành các ngành, nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo ra sự
chuyên môn hoá lao động, do đó dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất. Do
phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất sẽ làm một công việc
cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định.
Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác
nhau. Để thoả mãn nhu cầu, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào
nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
Là có sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động XH vào các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân chia lao động XH sẽ làm cho việc trao
đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất
một hay một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản
phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự phân công lOMoAR cPSD| 61256830
lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư
ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.. Đây là tiền đề,
cơ sở cho sản xuất hàng hoá
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng
hoá. Mác chỉ rõ: “Sự phân công lao động xã hội này là điều kiện tồn tại
của nền sản xuất hàng hoá, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hoá không phải
là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội”. Phân công lao động
xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hoá càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
- Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Sự
tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi
thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu
tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.
C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và
không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá".
Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho
những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong
hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong
điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của
người khác phải thông qua sự mua trao đổi dưới những hình thái hàng hoá. bán hàng hoá, tức là phải
Là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất
định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối.
Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy
định còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai
điều kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá. Từ sự phân tích trên, sản
xuất hàng hoá chì ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu
một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao
động không mang hình thái hàng hoá.
2/ Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó trong
quá trình lịch sử lâu dài. lOMoAR cPSD| 61256830
Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá là sản xuất giản
đơn chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hoá giản đơn
đã tạo khả năng phát triển lực lượng sản xuất thiết lập các mối liên hệ kinh
tế giữa các đơn vị kinh tế trước đó vốn tách biệt nhau.
Quan hệ hàng hoá phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến tan
rã và góp phần thúc đẩy quá trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hoá là
sản xuất hàng hoá TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hoá thâm nhập vào
mọi lĩnh vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hoá trở thành
tế bào của nền sản xuất xã hội . Nó mang đặc điểm: Dựa trên sự tách rời
tư liệu sản xuất với sức lao động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới
hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của
sản xuất hàng hoá XHCN là nó không dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột
người và nó nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi
thành viên xã hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh.
* Tính ưu việt của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm
của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế,
và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc:
Nó làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất
lao động xã hội .Nó thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh tróng
làm cho sự phân công chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác
hoá chặt chẽ hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau
của những người sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới.
Nó thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để
thúc đẩy quá trình dân chủ hoá, bình đẳng và tiến bộ xã hội
Do sản xuất hàng hoá dựa trên sự phân công lao động XH, chuyên môn
hoá sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật
của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng
thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động
XH, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành,
các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn lOMoAR cPSD| 61256830
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà
nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực XH. Từ đó, tạo
điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu KH - KT vào sản xuất, thúc
đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất
phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất
lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Sự phát triển sản xuất, mở
rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ
làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng
cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Do người đặt câu hỏi bình chọn nền sản xuất hàng hóa ở nước ta thời gian
qua là một nền sản xuất vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều chỉnh
của chính phủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. đứng trước vận hội mới
của đất nước, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta có những thuận lợi nhất
định và những khó khăn không nhỏ về thuận lợi: là một nền kinh tế đang
lên với tốc độ phát triển cao, tạo được niềm tin với các nhà đầu tư và bạn
bè quốc tế. Việt Nam có giá nhân công rẻ, trình độ dân chí khá cao, thị
trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và một quyết
tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ, về tài nguyên, về vị trí địa lý... về
khó khăn: phải khẳng định là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn và thách thức lớn. đi lên từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền
kinh tế ta có đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp,
sức cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ sản xuất, quản lý, cơ sở hạ tầng còn
nhiều yếu kém. chất lượng lao động được đào tạo chưa đáp ứng được nhu
cầu ngày một khắt khe của nền kinh tế, người dân nước ta chưa có được
cách nghĩ năng động, chính sách dù được cải thiện còn nhiều bất cập... bên
cạnh đó, các nền kinh tế khác và đặc biệt là, Trung Quôc, khu vực Đông
Nam Á đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt với Việt Nam...
Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu của
bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu
cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của
thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. -
Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải
năng động trong sản xuất - kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, lOMoAR cPSD| 61256830
hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều
hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. -
Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ
hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương
trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
3/ Ý nghĩa của việc nghiên cứu: liên hệ thực tiển nước ta hiện nay:
Kinh tế hàng hoá thúc đẩy quan hệ hợp tác, liên kết và cạnh tranh giữa các
đơn vị kinh tế trong khuôn khổ pháp luật buộc người sản xuất phải tuân
theo sự lựa chọn của người tiêu dùng thay cho sự điều chỉnh bằng mệnh
lệnh hành chính. Ở nước ta cần xác định nền kinh tế theo định hướng XHCN
là nền kinh tế hàng hoá, điều đó do chính bản thân sự vận động của nền kinh tế nước ta quy định.
+ Muốn phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế, tất yếu phải phát
triển sản xuất hàng hoá để phát huy những ưu thế của nền kinh tế . + Các
điều kiện chung cho sự tồn tại và phát tiển của nền kinh tế hàng hoá đã
tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta đó là phân công lao động xã hội
ngày càng phát triển, mở rộng trong nền kinh tế.
+ Phát triển kinh tế hàng hoá là con đường dân chủ đời sống kinh tế, phải
giải phóng tiềm năng phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Phát triển công nghiệp theo hướng tập trung đầu tư khai thác có hiệu quả
tiềm năng về thuỷ điện; khai thác lợi thế về nguồn nguyên liệu để đẩy mạnh
phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản như công nghiệp chế biến
cao su, điều, cà phê, bông vải và các loại nông sản khác, chế biến sản phẩm
chăn nuôi, hàng mộc cao cấp xuất khẩu, vật liệu xây dựng, các ngành hàng tiểu
thủ công nghiệp truyền thống...
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đây là yếu tố nền tảng, tạo
tiền đề cho quá trình phát triển, là trọng điểm xuyên suốt trong quy hoạch
phát triển 10 - 15 năm tới. Ưu tiên đầu tư hoàn thiện mạng lưới giao thông
và hệ thống thuỷ lợi. Tiếp tục xây dựng các mạng lưới điện, cấp nước, bưu
chính viễn thông. Đầu tư cơ sở hạ tầng vùng biên giới; mở cửa khẩu Đăk
Ruê. Phát triển và mở rộng hệ thống đô thị, xây dựng thành phố Buôn Ma
Thuột trở thành đô thị hạt nhân và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá,
giáo dục đào tạo, khoa học kỹ thuật, y tế, dịch vụ, du lịch, thể dục thể thao
của tỉnh Đăk Lăk và vùng Tây Nguyên. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, lOMoAR cPSD| 61256830
ngành Trung ương trong việc tham gia tích cực vào quá trình phát triển cùng
với các địa phương, lãnh thổ trong Tam giác Việt Nam - Lào - Cămpuchia.
Tạo bước chuyển biến vượt bậc trong du lịch, dịch vụ với mức tăng trưởng
cao. Tập trung đầu tư các cụm du lịch trọng điểm Buôn Ma Thuột, Buôn
Đôn, hồ Lăk v.v... Nâng cao năng lực và chất lượng, tăng sức cạnh tranh
của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Tăng cường liên doanh liên kết với
các vùng lân cận và cả nước, đặc biệt là với TP. Hồ Chí Minh, vùng Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và Duyên Hải miền Trung trong phát triển du lịch,
dịch vụ, xuất khẩu, trao đổi hàng hóa. Phát triển nông, lâm, nghiệp và kinh
tế nông thôn theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá, đầu tư chiều sâu,
tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm. Hình thành các vùng trọng điểm, sản xuất tập trung cây trồng,
vật nuôi chủ lực, mũi nhọn của tỉnh. Đẩy mạnh việc giao đất giao rừng, tổ
chức khuyến nông, khuyến lâm và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ
ổn định sản xuất, nâng cao đời sống. Phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; đào tạo tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản
lý, các doanh nhân, công nhân lành nghề; xây dựng tiềm lực khoa học công
nghệ và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống.
2. Hàng hoá là gì? Phân tích hai thuộc tỉnh của hàng hoá. Ý nghĩa
của việc nghiên cứu. Khái niệm:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm...
hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ
của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ…
Để trở thành hàng hóa, các sản phẩm phải có đủ ba tiêu chí sau: –
Phải là sản phẩm của lao động, nếu sản phẩm không do lao động tạo
ra, mặc dù nó rất cần thiết cho con người như: nước trong tự nhiên, không
khí… cũng không phải là hàng hóa. –
Phải thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, một vật dù là sản phẩm
của lao động nhưng nếu không được tiêu dùng thì không phải là hàng hóa. –
Phải thông qua trao đổi, mua bán, nếu sản phẩm sản xuất ra để tự
tiêu dùng như người nông dân sản xuất thóc để ăn thì đó không phải là hàng hóa.
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Phân tích thuộc tính:
a) Giá trị sử dụng của hàng hóa lOMoAR cPSD| 61256830
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính
công dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ,
công dụng của gạo là để ăn, vậy giá trị sử dụng của gạo là để ăn...
Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên
(lý, hoá học) của thực thể hàng hóa đó quyết định nên giá trị sử dụng là
phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức
sản xuất. Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá
trình phát triển của khoa học - kỹ thuật và của lực lượng sản xuất nói
chung. Chẳng hạn, than đá ngày xưa chỉ được dùng làm chất đốt ( đun, sưởi
ấm), khi khoa học - kỹ thuật phát triển hơn nó còn được dùng làm nguyên
liệu cho một số ngành công nghệ hoá chất.
Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị
sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất
lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng
của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà
là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi
hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn quan tâm đến nhu cầu của xã
hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi.
b) Giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị
trao đổi trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị
sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Thí dụ: 1m vải = 5 kg thóc.
Tức là 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.
Vấn đề là, tại sao vải và thóc lại có thể trao đổi được với nhau, và hơn
nữa chúng lại trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1 : 5)?
Hai hàng hóa khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì
giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung đó không phải là
giá trị sử dụng của chúng, bởi vì, giá trị sử dụng của vải là để mặc, hoàn
toàn khác với giá trị sử dụng của thóc là để ăn. Cái chung đó là: cả vải và
thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ
có cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, lOMoAR cPSD| 61256830
người ta trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động của
mình ẩn giấu trong những hàng hóa ấy.
Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao
đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi mà chúng ta đề cập ở trên,
chẳng qua chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội
dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan
hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm
trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa. c) Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại
trong một hàng hóa, một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới là hàng
hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ không phải là hàng
hóa. Chẳng hạn, một vật có ích (tức có giá trị sử dụng), nhưng không do
lao động tạo ra ( tức không có kết tinh lao động) như không khí tự nhiên thì
sẽ không phải là hàng hóa.
Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất
về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về
chất, đều là "những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi", tức đều
là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá.
Thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa,
nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian và
thời gian: giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị
sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó nếu giá trị
của hàng hoá không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất.
Ý nghĩa của nghiên cứu:
Nc ta là 1 nc có nền kte thị trường định hướng XHCN, tức là nền Kte
nhiều tphan, sx đa dạng các loại HH nhằm đáp ứng nhu cầu trog nc và trao
đổi, mua bán trên thị trường TG. Do đó, sx HH ở nc ta phải đảm bảo 2 thuộc tính giá trị sd và gtri.
Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội. Ở nước ta,
những điều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn, nền kinh tế hàng hoá
tồn tại là một tất yếu khách quan. lOMoAR cPSD| 61256830
Ở nước ta, Đảng và nhà nước đã xác định phương hướng phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay nước ta còn thiếu
vốn, khoa học kĩ thuật chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng hàng
hoá chưa cao, giá thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về
thuế. Vì vậy hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư
nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế,
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở
rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ
vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản
phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta
có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nền kte nc ta khi bc vao thoi kỳ quá độ lên CNXH còn mang nặng tính
tự túc tự cấp, vì vậy sx HH phát triển sẽ phá vỡ dần nền kte tự nhiên
chuyển thành nền kte HH thúc đẩy sự XH hóa sx, kte HH tạo ra động lực
thúc đẩy llsx phát triển, do cạnh tranh giữa những ~ng sx HH buộc mỗi chủ
thể cải tiến kỹ thuật và đưa cộng nghệ mới vào sx để giảm chi phí sx đến
mức tối thiểu -> có thể cạnh tranh về giá cả trog cạnh trah, qtr đó thúc đẩy
llsx ptr, nâng cao nâng lực lđ XH. Trog nên kte HH, ng sx căn cứ vào ncau
của ng tiêu dung, thị trường để qđ sx sp gì, khối lượng bnh, chất lượng thế
nào, do đó kte HH kích thích năng động, stao của chủ thể kte kích thích sự
việc nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã cũng như tăng kluong HH và dvu.
Nói tóm lại, … đẩy mạnh phân công lđ để phát triển kte HH, đáp ứng ncau
đa dạng và phog phú của XH; phải coi trọng cả 2 thuộc tính của HH để k
ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành. trog nền kte
hnay, kte HH ko thể thiếu dc vì nó góp phần thúc đẩy kte và nếu ptr, nó góp
phần gq việc làm và sự phân công lđ trog XH.
3. Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá và mâu thuẫn cơ
bản của nền sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá: K.Marx phát hiện
ra rằng: Sở dĩ hàng hoá có 2 thuộc tính là do lao động của người sản xuất
hàng hoá có tính 2 mặt: Mặt cụ thể và mặt trừu tượng của lao động. + Lao động cụ thể:
Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. lOMoAR cPSD| 61256830
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương
pháp lao động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sử
dụng khác nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển, xã hội càng
nhiều ngành, nghề khác nhau, các hình thức lao động cụ thể càng phong
phú, đa dạng, càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
Phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hoá bởi việc sản
xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất.
+ Lao động trừu tượng:
Là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức
cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản
xuất hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Vì vậy, giá trị hàng hoá
là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Lao
động trừu tượng là cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau.
Phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá, bởi lao động
của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
Việc sản xuất và trao đổi phải được xem là một thể thống nhất trong nền kinh
tế hàng hoá. Lợi ích và trách nhiễm xã hội của người sản xuất phải thống
nhất với lợi ích và trách nhiệm xã hội của người tiêu dùng. Mâu thuẫn giữa
lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do những
người sản xuất hàng hoá riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã
hội, hoặc khi mức hao phải lao động cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã
hội có thể chấp nhận được. Khi đó, sẽ có một số hàng hoá không bán được.
Nghĩa là có một số hao phí lao động cá biệt không được xã hội thừa nhận.
Mâu thuẫn này tạo ra nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn.
Mâu thuẫn cơ bản:
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất
tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính chất tư
nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với
nhau, đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở
chỗ sản phẩm của người sản xuất hàng hóa riêng biệt có thể không ăn khớp
hoặc không phù hợp với nhu cầu của xã hội hoặc hao phí lao động cá biệt
của ngưòi sản xuất hàng hoá có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động
mà xã hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất lOMoAR cPSD| 61256830
hàng hoá vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
Ý nghĩa : Có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận. Nó cung cấp cho lý thuyết
lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự giúp ra giải thích được hiện
tượng phức tạp diễn ra trong thực tế:
+ Xác định được chất của giá trị là có lao động trừu tượng kết tinh, biểu
hiện quan hệ xã hội và là một phạm trù lịch sử, xác định được lượng của
giá trị là lượng lao động trung bình hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
+ Xác định được quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất
hàng hoá. Quy luật này đòi hỏi người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
đảm bảo thời gian lao động xã hội cần thiết.
+ Xác định được hình thái biểu hiện của giá trị: Hình thái phát triển từ
thấp đến cao; từ hình thái đơn giản đến hình thái mở rộng; hình thái chung và cuối
cùng là hình thái tiền 4. Phân tích mối quan hệ giữa hai thuộc tỉnh của hàng
hoá với tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu. a. Hai thuộc tính của hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người và đem trao đổi đem bán.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (Hay giá trị trao đổi).
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là công cụ của vật phẩm có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó cảu con ngươì nh lương thực để ăn, quần áo để mặc... Giá
trị sử dụng hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của nó quy định, nên nó là
phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng cho
người khác, cho xã hội chứ không phải cho người sản xuất ra nã. Trong kinh
tế hàng hóa giá trị sử dụng đã mang giá trị trao đổi.
+ Giá trị hàng hóa: Muốn hiểu giá trị phải thông qua giá trị trao đổi. Giá trị
trao đổi là biểu hiện quan hệ tỷ lệ về lượng trao đổi với nhau giữa các giá
trị sử dụng khác nhau. Chẳng hạn 1mét vải đối lấy 10kg thóc, hai hàng hóa
có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ
nhất định, vì chúng đều là sảnphẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao
phí lao động chung của con người.
Vậy giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuât hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao
đổ là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị của hàng hóa biểu hiện mối
quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa và là một phạm trù lịch
sử, nó chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa. lOMoAR cPSD| 61256830
b. Quan hệ của hai thuộc tính đối với tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa. Hàng hoá có hai thuộc tính là. Giá trị sử dụng và giá trị. Vì lao động
sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt là lao động cụ thể và lao động trìu tượng.
Lao động cụ thể là lao động có Ých dưới một hình thức cụ thể của những
nghề chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, phương
pháp hoạt động riêng. Ví dụ: thợ méc dùng đục, cưa, bào ... để làm ra đồ
dùng bằng gỗ nh bàn, ghế... Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao đồng trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa, không
kể đến hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể có điểm chung
giống nhau là sự hao phí sức óc, thần kinh và bắp thịt sau một quá trình
lao động. Đó là lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hóa.
Trong nền sản xuất hàng hóa đơn giản, tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tự nhiên và lao
động xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Đó là mâu thuẫn cơ bản
của sản xuất hàng hóa giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động
cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng hóa.
Mác là người đầu tiên phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xúât
hàng hóa Mác gọi tình chất hai mặt đó là “điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học”.
5. So sánh công thức chung của tư bản và công thức lưu thông hàng hóa giản đơn ?
Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu. So sánh:
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là hình
thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới
hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền lại không phải là tư
bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng
được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.
Sự vận động của tiền thông thường và tiền với tư cách là tư bản có sự
khác nhau hết sức cơ bản. Trong lưu thông hàng hóa giản đơn thì tiền với
tư cách là tiền thông thường, vận động theo công thức: H - T - H’ (hàng -
tiền - hàng), nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hóa thành tiền, rồi tiền lại
chuyển hóa thành hàng hóa. Ở đây, tiền tệ không phải là tư bản mà chỉ là
tiền tệ thông thường với đúng nghĩa của nó. Người sản xuất hàng hóa bán
hàng hóa của mình lấy tiền tệ, rồi lại dùng tiền tệ đó để mua một hàng hóa
khác phục vụ cho những nhu cầu tiêu dùng nhất định của mình. Ở đây, tiền lOMoAR cPSD| 61256830
tệ chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông. Hình
thức lưu thông hàng hóa này thích hợp với nền sản xuất nhỏ của những
người thợ thủ công và nông dân. Còn tiền với tư cách là tư bản, thì vận
động theo công thức: T - H - T’ (tiền - hàng - tiền), tức là sự chuyển hoá
của tiền thành hàng hoá, rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền
và mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá
trị, nói đúng hơn là giá trị tăng them hya còn gọi là giá trị thặng dư.
So sánh giữa hai công thức H-T-H’ với công thức T-H-T’ :
- Điểm giống nhau : cả hai sự vận động, đều do hai giai đoạn đối lập nhau
là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật chất
đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. - Điểm khác nhau:
Công thức T - H - T' được gọi là công thức chung của tư bản, vì sự vận
động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó,
dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.
Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận động
của tư bản công nghiệp (tức là người trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm),
tư bảnthương nghiệp (là các thương lái, người bán buôn) nhưng cũng không
thể tránh khỏi những giai đoạn T - H và H - T'. Còn sự vận động của tư
bản cho vay (tứclà người khác cho vay tiền sinh lợi tức) chẳng qua chỉ là công
thức trên được rútngắn lại thành T - T'.
Đó chỉ là những điểm khác nhau về hình thức. Giữa hai công thức đó còn
có những điểm khác nhau:
- Khác nhau về biểu hiện bên ngoài: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu
bằngviệc bán (H - T) và kết thúc bằng việc mua (T – H’). Điểm xuất phát
và điểmkết thúc của quá trình đều là hàng hóa, còn tiền chỉ đóng vai trò
trung gian.Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đẩu bằng việc mua (T - H)
và kết thúc bằngviệc bán (H-T’). Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm
kết thúc của quá trình,còn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian; tiền ở đây
không phải là chi ra dứtkhoát mà chỉ là ứng ra rồi thu về. - Khác nhau
về bản chất bên trong: Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơnlà giá
trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu, nên các hàng hóa trao đổi phải có giá
trịsử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ hai, khi
nhữngngười trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn
mục đích củalưu thông tư bản không phái là giá trị sử dụng mà là giá trị,
nói đúng hơn là giátrị tăng thêm. Vì vậy, sự vận động của tư bản là không lOMoAR cPSD| 61256830
có giới hạn bởi sự lớn lêncủa giá trị là không có giới hạn.Và nếu số tiền
thu về bằng số tiền ứng ra, thìquá trình vận động của tư bản trở nên vô
nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớnhơn số tiền ứng ra, nên công thức
vận động đầy đủ của tư bản là T - H - T’,trong đó T’ = T + t (t>0). Số
tiền thu về phải trội hơn so với số tiền đã ứng ra(T), số tiền trội hơn (T’)
được C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra banđầu đã chuyển hóa
thành tiền với tư cách là tư bản. Vậy vai trò của tiền với tư cách là tiền
thông thường chỉ là phương tiện để lưuthông (chức năng thứ 3 của tiền tệ)
còn vai trò của tiền với tư cách là biểu hiệnđầu tiên của tư bản là nhằm
tạo ra giá trị tăng thêm hay gọi là giá trị thặng dư.Và cũng chính vì vai
trò khác nhau mà công thức lưu thông hàng hóa giản đơn khác công thức chung của tư bản.
Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản :
Hàng hóa sức lao động là sự tổng hợp về thể lực và trí lực của con
người cóthể sử dụng trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất.
Giá trị sử dụngsức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức
lao đông, tức là quátrình lao động để sản xuất ra 1 loại hàng hóa hay 1
dịch vụ nào đó. Trong quátrình lao động, sức lao động tạo ra 1 lượng giá
trị mới lớn hơn giá trị của bảnthân nó, phần giá trị mới dư ra so với giá
trị sức lao động là giá trị thặng dư.
=> Đó là điểm khác biệt với hàng hóa thông thường vì sau quá trình tiêu
dùnghay sử dụng thì cả giá trị hay giá trị sử dụng đều biến mất theo thời gian.
=> Việc tìm ra lý luận về hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết
mâuthuẫn cho công thức của tư bản. Có thể nói đơn giản là: sức lao động
đã làm chomâu thuẫn của công thức chung mất đi tính thần bí, khó hiểu.
6. Sức lao động là gì ? Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa ?
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động ? Tại sao nói hàng hóa
sức lao động là hàng hóa đặc biệt ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Khái niệm :
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người,
nó được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất. Theo Wikipedia, sức lao
động là một khái niệm trọng yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Mác định
nghĩa sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần
tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó
đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao
động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi
quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. lOMoAR cPSD| 61256830
Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu
dùng sức lao động trong hiện thực.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá :
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của
quá trình lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng
là hàng hoá. Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau:
Một là người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi
phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với
tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán.
Muốn vậy, người có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình.
Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu
nô và chế độ phong kiến.
Hai là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến
hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc
phải bán sức lao động của mình, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
6.1. Giá trị hàng hoá sức lao động
Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác được quy
định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất ra sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của
con người. Để sản xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân
phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Như vậy, thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy thành thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy,
hay nói một cách khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng
số lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người có
sức lao động ở trạng thái bình thường. Khác với hàng hoá thông thường, giá
trị hàng hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu cầu của công nhân không chỉ có nhu cầu về
vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học hành,…).
Nhu cầu đó, cả về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết
cho công nhân không phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau. Nó tùy thuộc
hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn
minh đã đạt được của mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc vào tập quán, vào lOMoAR cPSD| 61256830
điều kiện địa lý và khí hậu, vào điều kiện hình thành giai cấp công nhân.
Nhưng, đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy
mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng
nhất định. Do đó, có thể xác định do những bộ phận sau đây hợp thành:
một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của
bản thân người công nhân; hai là, phí tổn học việc của công nhân; ba là,
giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người công nhân. Như
vậy, giá trị sức lao động bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và
tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động cho người công nhân và
nuôi sống gia đình của anh ta. Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức
lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu sự tác động lẫn nhau
của hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt là sự tăng nhu cầu trung bình xã
hội về hàng hoá và dịch vụ, về học tập và trình độ lành nghề, do đó làm
tăng giá trị sức lao động. Mặt khác là sự tăng năng suất lao động xã hội,
do đó làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện tư bản hiện đại, dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và những điều kiện khác
, sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, về sự phức tạp của lao
động và mức độ sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên. Tất
cả những điều kiện đó không thể không ảnh hưởng đến các giá trị sức lao
động. Không thể không dẫn đến sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực
của nền kinh tế bị che lấp đằng sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.
6.2. Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác
chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình người
công nhân tiến hành lao động sản xuất. Nhưng tính chất đặc biệt của hàng
hoá sức lao động được thể hiện đó là:
Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so
với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác là ở chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá
sức lao động, nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức
lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức
lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản
nhất của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với các hàng hoá
khác. Nó là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư
bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hoá.
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì vậy, việc cung
ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội lOMoAR cPSD| 61256830
của người lao động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc
vào con người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao
động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung.
Tại sao nói hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt:
Hàng hóa sức lao động - một phần quan trọng của cuộc sống và phát triển
xã hội, được xem là hàng hóa đặc biệt vì nhiều yếu tố quan trọng liên quan
đến tính chất và vai trò của nó trong nền kinh tế và xã hội.
Sự kết hợp giữa sức lao động và con người: Hàng hóa sức lao động không
thể tách rời khỏi con người. Đây không chỉ là một loại sản phẩm được tạo
ra từ việc lao động mà còn phản ánh khả năng, năng lực, và sự đóng góp duy
nhất của từng người lao động. Tính độc đáo này tạo nên sự liên kết mật thiết
giữa người lao động và quá trình sản xuất, khiến cho hàng hóa sức lao động
trở thành một biểu tượng cho sự khả thi và sáng tạo con người.
Tầm quan trọng trong sự phát triển kinh tế: Hàng hóa sức lao động đóng
vai trò quyết định trong quá trình sản xuất và phát triển kinh tế. Sức lao
động của con người là nguồn gốc của giá trị và sản phẩm.
Giá trị của hàng hóa sức lao động phản ánh mức độ cần thiết của lao động
để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Điều này thể hiện sự ảnh hưởng của hàng
hóa sức lao động đến môi trường kinh tế và xã hội.
Khả năng tạo giá trị và sự đóng góp xã hội: Hàng hóa sức lao động không
chỉ có giá trị vật chất mà còn là nguồn tài nguyên tạo ra giá trị thực sự
cho xã hội. Sự tương tác giữa sức lao động và quá trình sản xuất tạo nên khả
năng sáng tạo và chất lượng sản phẩm. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường và xã hội, đồng
thời tạo nên sự đa dạng và phong phú trong cuộc sống hàng ngày.
Sự đóng góp và tầm quan trọng xã hội: Hàng hóa sức lao động đóng góp
một phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của xã hội. Khả năng tạo
ra giá trị, sự đóng góp xã hội, và tính độc đáo của hàng hóa sức lao động
làm cho nó trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình thúc đẩy tiến bộ
và phát triển của con người và xã hội.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Nghiên cứu hàng hóa sức lao động có ý nghĩa quan trọng đối với nướcta hiện nay vì:
1/ Quản lý nguồn nhân lực: Nghiên cứu hàng hóa sức lao động giúp hiểu
rõ hơn về nhu cầu, kỹ năng và sự phát triển của nguồn nhân lực.Điều này
giúp các doanh nghiệp và tổ chức có thể tạo ra kế hoạch và chính sách quản lý
nguồn nhân lực hiệu quả hơn. lOMoAR cPSD| 61256830
2/ Nâng cao năng suất lao động: Hiểu rõ về hàng hóa sức lao động giúp
phân loại nguồn nhân lực và sử dụng phù hợp với công việc. Điều này giúp
nâng cao năng suất lao động và đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn.
3/ Phát triển nguồn nhân lực: Nghiên cứu hàng hóa sức lao động cung cấp
thông tin về nguồn nhân lực hiện có, từ đó định hướng đào tạo và phát
triển nhân lực trong các lĩnh vực quan trọng của đất nước.Vì vậy, nghiên
cứu hàng hóa sức lao động có ý nghĩa lớn đối với nước tabởi nó giúp cải
thiện quản lý nguồn nhân lực, nâng cao năng suất và phát triển nguồn nhân
lực, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.
7. Giá trị thặng dư là gì ? Tại sao nói việc nghiên cứu giá trị thặng dư
được sản xuất như thế nào đã vạch rõ bản chất bóc lột của nhà tư bản ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Giá trị thặng dư là:
Giá trị thặng dư là mức độ trội ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhântạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, là nguồn gốc hình thành nên thu
nhập củacác nhà tư bản và các giai cấp bóc lột trong tư bản chủ nghĩa. Qua
giá trị thặngdư, bản chất của tư bản chủ nghĩa là bóc lột sức người lao động
làm thuê để tạora nhiều giá trị thặng dư hơn cho mình. Việc họ bóc lột
công nhân càng nhiều thìgiá trị thặng dư được thu được càng cao
Tại sao nói việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất như thế nào
đã vạch rõ bản chất bóc lột của nhà tư bản
+ Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối
quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc
lột lao dộng làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân
tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.
+ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng
mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị
thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà
tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất
ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản
muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
+ Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các
nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc lột công
nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng
năng suất lao động và mở rộng sản xuất. lOMoAR cPSD| 61256830
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa
tư bản. Thực chất của quy luật này là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng
dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê. Quy
luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Quy luật này quyết định toàn bộ sự vận động của chủ nghĩa
tư bản, một mặt nó là động lực thúc đẩy sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển nhanh chóng, mặt khác lại làm tăng mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu :
Giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích bản chất của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ chế sinh sản và phát triển của tư
bản, cũng như nguồn gốc và biểu hiện của các mâu thuẫn xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Giá trị thặng dư cũng là cơ sở để xây dựng lý luận về giai cấp, chính sách,
chiến lược và mục tiêu của phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa.
Giá trị thặng dư được đề cập và nghiên cứu trong học thuyết kinh tế của
C.Mác đã phơi trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong những thời
kỳ trước đây. Giúp khơi nguồn cho phong trào đấu tranh giữa giai cấp vô sản
chống lại chủ nghĩa tư bản.
Giá trị thặng dư không chỉ giúp tồn tại xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị
thặng dư còn có thể giúp kinh tế, xã hội phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội.
Giá trị thặng dư cấu thành động lực để giúp kinh tế tăng trưởng và phát
triển. Từ đó, các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra những kế hoạch,
chiến lược sản xuất để có thể tạo ra nhiều giá trị thặng dư, giúp thu lại lợi nhuận và doanh thu nhiều hơn.
Bên cạnh đó vẫn đảm bảo về quyền lợi, và chế độ đãi ngộ tốt với công nhân, người lao động.
Giá trị thặng dư thúc đẩy doanh nghiệp áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất. Điều này giúp quá trình sản xuất được tối ưu, năng
suất và hiệu suất được nâng cao, giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm, hàng hóa
và thu về được nhiều giá trị thặng dư.
8. Trình bày bản chất của tư bản ? Sự giống và khác nhau giữa tư bản bất
biến và tư bản khả biến ? Phân tích vai trò khác nhau của các bộ phận tư
bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư?. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Bản chất của tư bản: lOMoAR cPSD| 61256830
Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư
liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải
là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào.
Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà
tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá
bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa.
Như vậy, tư bản không phải là một vật, mà là một quan hệ sản xuất xã hội
nhất định giữa người với người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.
- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động
không công của công nhân làm thuê. Như vậy, bản chất của tư bản là thể
hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị
thặng dư do giai cấp công nhàn sáng tạo ra.
Sự giống và khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến